Trở Về Vườn Cũ
Vườn Bùi (1) chốn cũ,
Bốn mươi năm lụ khụ lại về đây.
Trông ngoài sân đua nở mấy chồi cây,
Thú khâu hác lâm tuyền (2) âu cũng thế.
Bành Trạch (3) cầm xoang ngâm trước ghế,
Ôn công (4) rượu nhạt chuốc chiều xuân.
Ngọn gió đông ngảnh lại lệ đầm khăn
Tính thương hải tang điền qua mấy lớp?
Ngươi chớ giận Lỗ Hầu (5) chẳng gặp.
Như lơ phơ tóc trắng lại làm chi
Muốn về sao chẳng về đi?
Chú thích:
(Tác giả tự dịch bài Bùi viên cựu trạch ca)
(1) Vườn Bùi: Thôn Vị Hạ, xã Yên Đổ, nay là xã Trung Lương, huyện Bình Lục (Nam Hà) quê hương Nguyễn Khuyến.
(2) Khâu hác: gò và khe; Lâm tuyền: rừng và suối.
(3) Bành Trạch: tên một huyện cũ thuộc tỉnh Giang Tây (Trung Quốc).
(4) Ôn công: tức Tư Mã Quang, khi cáo quan về ở ẩn chỉ uống rượu tiêu sầu.
(5) Lỗ Hầu: tức Lỗ Bình Công.