Tác giả:
Thể loại: Tùy Bút
Nguyên tác: Hồi Ký Chiến Trường
Số chương: 1
Phí download: 1 gạo
Nhóm đọc/download: 0 / 1
Số lần đọc/download: 0 / 15
Cập nhật: 2024-11-23 23:17:12 +0700
Download: epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Xem thông tin ebook
ỒI KÝ CHIẾN TRƯỜNG
(E 207 – QK 8)
VŨ TRUNG KIÊN CCB
Lời tựa: Đúng vào lúc. Sau 38 năm chúng tôi tìm được nơi 291 cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn 207 hi sinh tại Rạch Đá Biên. Thì trang WEB của đơn vị ra đời. Bởi nôn nóng muốn cho đồng đội và bạn bè biết được những chiến công oanh liệt và sự hi sinh mất mát của Trung đoàn. Tôi liền thức sáng đêm ra ngay một bản “Tổng kết” mà mình tự cho là “hồi ký”.
Nhưng nhờ biết “khôn” và dè dặt tôi đã gửi trước cho bạn bè tham khảo. Được cháu Hiền Lương tư vấn, chỉ dẫn và lại còn khích lệ “Cố gắng lên chú Tư nhé! Để lại cho con cháu mai sau biết về quá khứ của ông cha, của các chú…”
Cũng phải mất một thời gian so đi, tính lại. Tôi bắt đầu viết và phải làm lại từ đầu.
“Hồi ký” phác thảo trong đầu 100% sự thật tôi chứng kiến của cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 207. Trung đoàn của tôi đã có trên 2000 cán bộ, chiến sĩ ngã xuống nơi chiến trường khốc liệt trong thời gian trực tiếp chiến đấu với:
-Quân Mỹ
-Quân ngụy Lon non
-Quân ngụy Sài gòn
-Quân Pôn pốt
Với 3 tên gọi:
-Trước khi mang tên Trung đoàn 207.
-Lúc mang tên Trung đoàn 207.
-Sau khi đổi tên Trung đoàn 207.
Vậy mong đồng đội và bạn bè tham khảo đóng góp.
PHẦN I: TIỀN THÂN CỦA TRUNG ĐOÀN VÀ TRẬN ĐÁNH ĐẦU TIÊN
17 giờ ngày mồng 5 tháng 8 năm 1969, đoàn tàu quân sự khởi hành từ ga Thường Tín, từ từ lăn bánh. 8 toa tàu chứa khoảng trên 500 cán bộ, chiến sĩ của đoàn “Đi B” mang số hiệu 1125 (là 1 Tiểu đoàn hoàn chỉnh được tổ chức biên chế Từ A đến D) còn vài toa sau chở hàng quân sự. Trên nóc mỗi toa đều cắm cờ nửa đỏ, nửa xanh phần phật tung bay. Đoàn tàu ra khỏi ga vẫn còn chạy chầm chậm cặp quốc lộ 1, bên trái đường nhân dân đã ra đứng đông nghẹt vừa hò hét vừa vẫy tay tiễn đưa những người con ưu tú vào chiến trường chiến đấu.
Chúng tôi thì chen nhau chui đầu qua các cửa sổ toa tàu, miệng cười tươi như hoa. “Các bố, các mẹ ở lại mạnh khỏe nhé, chúng con đi đây, hết giặc là chúng con về, các em ở nhà chờ các anh nhé, đừng có vội lấy chồng đấy”… Rất nhiều những khuôn mặt của những thiếu nữ xinh đẹp, thoáng buồn và nuối tiếc. Vậy là thêm một đoàn quân toàn những thanh niên trai tráng ra trận và không biết bao giờ mới trở lại.
Sau hơn 6 tháng ròng rã lúc đi tàu, lúc đi xe tải quân sự, lúc bằng xà lan, và phần nhiều bằng đi bộ, lại còn lòng vòng nghi binh nữa chứ. Đến tháng 2/1970 đoàn đi B đã đến khẩu 7 (K7).
Khác với những lần trước, cán bộ khung được quay ra Bắc tiếp tục nhận quân vào, lần này chỉ có cán bộ cấp D trở ra còn lại C + B được ở lại bổ sung cho các đơn vị chiến đấu. Đoàn chúng tôi được bàn giao ngay cho Trung đoàn 141 Sư đoàn 7 và tôi được bổ sung về Tiểu đoàn 2 (Sau này là tiểu đoàn nòng cốt thành lập Trung đoàn 207). Tôi và gần 30 chiến sĩ mới được điều về Đại đội 6, và chính thức nhận nhiệm vụ chính trị viên phó Đại đội.
Ban chỉ huy Đại đội lúc này gồm 6 người.
-Anh Lộc đại đội trưởng.
-Anh Đỉnh chính trị viên.
-Anh Ưng Đại đội phó.
-Anh Nhưng Đại đội phó.
-Anh Thiệp chính trị viên phó.
Và tôi chính trị viên phó, cả 5 anh đều đã lớn tuổi hơn tôi và đã trải qua nhiều trận chiến đấu, riêng tôi thì mới toanh.
Đơn vị tôi đóng quân trong rừng cây rậm rạp nằm khu vực K7 (khẩu 7). Cách sông Băng khoảng 10km, cách đường giao liên khoảng 30 km về hướng đông, nhìn trên bản đồ tôi xác định toạ độ chúng tôi rất gần Lộc Ninh- An Lộc có trận địa pháo của địch Cà Tum mà bộ đội ta thường gọi là “Dàn nhạc Tân Tây Lan”. Gồm 24 khẩu pháo từ 155 đến 203. Đụng chuyện là nó vãi đạn nổ như bắp rang “Pháo Mĩ mà”, đủ các loại đạn khoan, đạn nổ, đạn chụp. Tôi được bố trí ngủ chung hầm với anh Lộc và 04 đồng chí chiến sĩ. Một cái hầm tránh B52 nắp dày tới gần 1 mét, có 2 cửa lên xuống 2 đầu. Bên dưới được cắm 6 cọc đều và thẳng tắp để cho 6 người chúng tôi giăng võng làm 2 tầng, võng người trên gần sát bụng người nằm dưới. Trên nắp hầm là một nhà lợp bằng lá trung quân, giữa có cái bàn tre và ghế ngồi cũng bằng tre để lâu lâu chui lên “dạo” cho đỡ ngột ngạt.
Khẩu phần ăn đầu tiên của C Bộ (Đại đội Bộ) hơn chục người là 1 thau đậu xanh luộc có thêm chút muối và cứ vậy liên tiếp 7 ngày liền, chẳng có hột cơm nào vào bụng. Cấp trên trả lời kho gạo bị B52 nó nện cháy hết nên cấp tạm đậu xanh để ăn thay cơm vậy. Xuống các hầm lán Trung đội, Tiểu đội nhìn cảnh anh em ráng nuốt đậu và thèm cơm muốn không chịu nổi mới thấy thương làm sao! Vừa nơm nớp sợ B52 nó giã, pháo khoan nó thục vì 1 ngày đêm cả chục loạt B52 ném rất gần, có khi chỉ cách 1 vài km. Bộ đội ta lai phải thay phiên nhau chốt canh gác đêm ngày, đề phòng biệt kích, thám báo nó “phệt”.
Ăn uống đã vậy còn cái nạn thiếu nước. Vì đang giữa mùa khô nên các khe suối đều cạn nước. Cả Tiểu đoàn chỉ có 1 giếng sâu chừng 30 mét. Vì giếng nhỏ, rất ít nước nên phải phân phối đều cho các Đại đội. 1 ngày hơn trăm con người được chia 5 tăng nước (tăng ở đây là loại cao su mủ dày để che mưa, được cột vào một cái cây giống như võng và đổ nước vào cho 2 người khiêng). Chỉ đủ cho ăn, uống còn tắm giặt thì miễn bàn. Bộ đội cứ thay phiên nhau 5 ngày mới tới lượt ra tận sông Băng tắm giặt khi về quảy được 1 ít nước đem cho những đồng chí ở nhà.
Ngày 18/3/1970 Bọn Lon non đảo chính Hoàng Thân Xi Ha núc và ngay sau đó quân Mỹ - Quân ngụy Sài gòn + Ngụy Lon non phối hợp mở trận càn Đông Dương. Đến thời gian này 3 nước Đông Dương: Việt Nam, Lào, Campuchia đều có chung kẻ thù.
Ngày 25/3/1970, Trung đoàn được lệnh đánh chiếm Mi Mốt và ngày 29/3/1970 đánh chiếm Xin Nun bức hàng 4 Tiểu đoàn quân ngụy Lon non ở 2 vị trí này để mở rộng hành lang biên giới. 2 trận đánh này tôi chỉ được ở phía sau phụ trách hậu cần vì các anh cho mình là “lính mới”.
Cuộc càn Đông Dương ngày càng khốc liệt cả 3 sư đoàn 5 + 7 + 9 của ta ở Miền đông vừa đánh vừa rút để bảo toàn lực lượng.
Đến cuối tháng 5/1970, đơn vị chúng tôi đang dừng trú tại rừng cao su (gần đó có nhà máy đường). Sát chúng tôi là một cánh đồng mía rộng khoảng 5km, lúc này đã thu hoạch mía nên cánh đồng trống. Bên kia cánh đồng là một rừng le liên hoàn tới Biên giới, (Le là loại ở Miền Đông, giống như trúc nhưng nó lại thấp lè tè chỉ độ 2- 3 mét, măng của nó ăn rất ngon).
8 giờ sáng ngày 23 tháng 4, quân Mỹ dùng 21 chuyến máy bay vận tải Quân sự (loại sâu đo có 2 chong chóng), cẩu 21 xe tăng thả ngay xuống rừng le bên kia trảng trống ý định của chúng kẹp đơn vị tôi vào giữa. Vì dưới mặt đất đang có một mũi “càn” gồm cả xe tăng Mỹ kết hợp cùng bộ binh đã cách chúng tôi khoảng 10 km. Nhưng ngày hôm đó bị đơn vị bạn phục kích chặn đánh. Do vậy chúng chưa thể thực hiện được ý đồ. Bộ đội được lệnh sẵn sàng chiến đấu nhưng đến chiều chúng vẫn nằm êm trong cánh rừng le, để chờ cánh quân mặt đất tới. 16 giờ, đồng chí Lộc và tôi đích danh được mời lên Tiểu đoàn nhận nhiệm vụ.
Trung đoàn chỉ lệnh “Đêm nay Tiểu đoàn 2 tập kích cụm xe tăng Mỹ. 1/3 Ban chỉ huy các cấp, 1/3 quân số đơn vị thật tinh binh”. Vậy là Trung đội trinh sát được tung đi ngay để bám địch.
17 giờ đơn vị họp chi bộ khẩn cấp ra nghị quyết trận đánh, sau đó họp Hội đồng quân nhân. Quân số tham chiến và sử dụng hoả lực cũng được phổ biến ngay trong cuộc họp này. Đối với anh Loc thì tỉnh bơ vì đã dày dạn quá nhiều trong chiến đấu, riêng tôi thì vừa lo, vừa sợ. Đọc được suy tư của tôi nên anh Thiệp quyết định đi thay, nhưng điện lên Tiểu đoàn không được chấp thuận. Anh kéo tôi ra riêng một chỗ vắng người và vỗ về an ủi tôi như một đứa em: “Kiên cứ bình tĩnh, đừng sợ, đừng lo…. đã có anh Lộc… rồi em sẽ quen ngay thôi mà”.
19 giờ cơm nước no nê bộ đội được tạm nghỉ chờ lệnh xuất kích.
Tôi và anh Lộc giăng võng cạnh nhau ở mấy gốc cây cao su. Mới nằm một chút anh Lộc đã ngáy khò khò… Riêng tôi thì không sao chợp mắt. Trong đầu lúc này cứ quay cuồng… Hình dung và tưởng tượng cho trận đánh sắp tới: “Trận đánh đầu tiên trong đời”. Nó diễn biến như thế nào? Rồi kết cục sẽ ra sao? Mình còn sống hay chết? Bỗng nhớ nhà, nhớ quê hương một cách khủng khiếp.
Tôi sanh ra ở Nam Định nhưng mẹ lại quê Thái Bình và bố ở Hà Nội. Hồi còn nhỏ ở nhà thỉnh thoảng vẫn được bố đưa về thăm quê nội, và được mẹ đưa về thăm quê ngoại. Cả ba mỗi nơi một vẻ: xôn xao và lộng gió, ồn ào và tấp nập, rộng rãi và bình yên… Rồi thiếp đi từ lúc nào.
Bỗng 2 võng chúng tôi bị giật tung lên. Mở mắt ra thì là anh Đỉnh.
- “Dậy đi 2 cha, đến giờ rồi.”
Tôi nhìn đồng hồ (chiếc Pôn Giốt do Liên Xô chế tạo) lúc này là 24 giờ. Tiểu đoàn thông báo: “Trinh sát đã bám được địch, bộ đội xuất kích”.
Hơn 20 khẩu B40 + B41, mỗi khẩu có 1 AK đi kèm. Tôi và anh Lộc, 2 người có 2 súng ngắn và 2 liên lạc.
Đội hình hành quân ra khỏi rừng cao su đến bìa trảng trống thì dừng lại. Cuộc họp khẩn cấp lại được triệu tập ngay bìa rừng. Trên tấm bản đồ tác chiến mới phác thảo do đồng chí Tiêu, quyền tiểu đoàn trưởng, vạch rõ.
Đại đội 5 hướng đông.
Đại đội 6 hướng tây.
Đại đội 7 hướng bắc.
Đại đội 8 gồm 2 DKZ57 + 2 DKZ75 (do trung đoàn tăng cường) hướng nam.
Chúng tôi lần lượt vượt qua trảng trống như 4 mũi tên ngoằn ngèo, luồn lách áp sát trận địa địch.
Ở hướng đại đội 6, chúng tôi được 2 trinh sát dẫn đường. Anh Lộc đi đầu đoàn quân và thứ tự: trung đội 1, trung đội 2, trung đội 3, tôi đi cuối đoàn quân. Chúng tôi bí mật chiếm lĩnh trận địa, lúc đi thẳng, lúc đi khom. Tới 4h sáng thì dừng lại (tổ trinh sát dẫn đường đã gặp tổ trinh sát bám địch). Trinh sát bám địch cho biết lúc này ta đã ở rất gần địch còn cách độ 300m. Trận địa địch được bố trí phòng thủ hình bầu dục. Hỏa lực tỏa ra 4 hướng và ở giữa là tốp xe tăng chỉ huy. Mỗi xe bố trí cách nhau khoảng 30m, bộ binh địch đào công sự trước xe từ 15 – 20m. Anh Lộc phổ biến nhiệm vụ cho 3 trung đội trưởng. Bộ đội được triển khai đội hình vòng cung, tạo thành hình thế bao vây từ hướng tây và nằm im chờ lệnh. Tôi và anh Lộc nằm ngay sau lưng trung đội 1, bên trái là trung đội 2, bên phải là trung đội 3.
Thời gian lúc này như đi chậm hơn bao giờ… Vẫn chưa được nổ súng vì còn đợi các đơn vị bạn và cũng chưa nhìn thấy xe tăng địch. Bò tới bò lui thế nào tôi vớ ngay được một ụ mối có đường kính độ 1m và nằm núp ngay sau. Tôi thầm an tâm: “Bố đạn nhọn của xe tăng cũng không xuyên nổi cái ụ đất này” nhưng con tim cứ nhảy thon thót… May mà được khoác cái tên: “Cán bộ C”… Nên cũng phải ráng… nếu không đã có thể “tè” ra quần rồi.
Giây phút chờ đợi cũng đã đến.
Khoảng 5h30 sáng, từ hướng nam trận địa, DKZ khai hỏa. Hàng chục quả đạn nã vào trận địa địch và chỉ lát sau các khẩu pháo tự hành, 12 ly 7 trên xe tăng địch đã quay ngoắt nòng sang hướng nam nhả đạn. Anh Lộc ra lệnh cho các trung đội tiếp tục phát triển về phía trước. Khoảng 10 phút sau, trước mặt trung đội 1 chiếc xe tăng đã lù lù xuất hiện. Đồng chí An trung đội trưởng trung đội 1 chớp ngay khẩu B40 của lính phụt một quả “Ùng…” cột khói trắng khỏa ngay trước mặt tôi và nghe xa xa…“Oàng”. Vậy là 7,8 chiếc xe tăng ở gần đó dồn hết hỏa lực trên xe về hướng trung đội 1, đạn nhọn của xe tăng và lính bộ binh xạt xạt trên đầu. Đạn M79 nổ inh tai nhức óc. Đồng chí An bị một mảnh đạn ghim ngay đầu máu chảy linh láng.
Bên trái và bên phải hướng trung đội 2 và 3 phát hiện được xe tăng cũng bắt đầu khai hỏa rồi tiếp đến hướng đại đội 5, 7 cũng đã nổ súng. Hỏa lực địch cũng phân tán dần dần.
Anh Lộc truyền lệnh đ/c Hùng trung đội phó trung đội 1 lên thay thế đ/c An. 3 chiếc xe tăng trước mặt của trung đội 1 vẫn toang toác bắn như vãi đạn, cộng với lĩnh bộ binh nằm dưới công sự bắn ra như mưa. Khẩu B41 của đ/c Toản trung đội 1 đã phụt hết 3 quả. Đ/c Hùng bò tới giằng lấy khẩu B41 trên tay đ/c Toàn đưa lên lấy đường ngắm bóp cò. Chiếc xe tăng cách độ 70m gục nòng ngùn ngùn bốc cháy. Chỉ lát sau hướng trung đội 2 và 3 xơi ngay 2 xe nữa…
Trận đánh vẫn tiếp tục tiếp diễn, hỏa lực của 2 bên mỗi lúc mỗi thưa trung đội 1 đã có 6 đ/c hi sinh trong đó có đ/c An trung đội trưởng. Trung đội 2 có 4 đ/c hi sinh và trung đội 3 có 5 đ/c hi sinh và nhiều đ/c bị thương.
Đến 7h sáng, trước mặt trận địa của đại đội 5, đại đội 7 đã có hơn 10 xe tăng địch bị diệt. Trước mặt đại đội 6, có 5 xe tăng địch đang bốc cháy. Và chỉ ít phút sau, hơn 10 máy bay phản lực chúi đầu ném bom. Gần 20 trực thăng vũ trang lồng lộn phóng rocket. Trận địa 2 bên mịt mù khói lửa: “Địch đã cho ném bom hủy diệt trận địa”.
Chúng tôi được lệnh nhanh chóng rút ra ngoài, chỉ đem được thương binh còn tử sĩ phải bỏ lại.
Cả ngày hôm đó trực thăng địch liên tục quần đảo và bắn phá tứ tung. Chúng tôi phải cắt vòng đường không thể vượt qua trảng trống. Ngay đêm đó rừng cao su trú quân bị 9 loạt bom B52 trãi thảm, nhiều căn hầm của bộ đội ta bị trúng bom.
Ngày hôm sau, chúng tôi được lệnh dời vị trí đóng quân cách đó độ chừng 5km và mãi tới ngày thứ 3 mới có dịp tổng kết điểm quân:
Trận tập kích, tiểu đoàn đã bắn cháy 16 xe tăng địch. Diệt gần 100 tên Mỹ. Ta hi sinh 63 đ/c, bị thương gần 30 đ/c. Riêng đại đội 6 của tôi hi sinh 24 đ/c bị thương 9 đ/c.
Vậy là quân số được bổ sung đợt trước, mới sau 1 trận đánh coi như đã hết sạch, nhưng chúng tôi không lo: “Sẽ có tân binh mới vào bổ sung thay thế.” Vì tôi đã tận mắt chứng kiến trên đường Trường Sơn: “Điệp điệp trùng trùng” những đoàn quân cứ nối tiếp nhau ra trận. Rồi nhớ ngay 2 câu thơ được các đ/c binh trạm đường Trường Sơn căng ngang đường hành quân:
“Quân đi rung lá ngụy trang,
Xôn xao như sóng Trường Giang trùng trùng”.
Lúc leo dốc Nguyễn Chí Thanh, 2 khẩu hiệu to tướng lại đập ngay vào mắt như tiếp thêm sức mạnh cho bộ đội ta vững bước vượt Trường Sơn.
“Ý chí ta cao hơn núi Hạ Lào
Thù giặt Mỹ sâu thẳm hơn đáy sông Xê Pôn”.
Qua trận đánh đầu tiên, tôi đã trút bỏ được cái lo âu, nhút nhát của mình. Nhớ tới đồng đội hi sinh, nhớ tới quân Mỹ bị tiêu diệt. Trong lòng tôi đã trở nên phấn chấn. Muốn được tham gia ngay những trận đánh tiếp theo.
Trận tập kích cụm xe tăng Mỹ ở rừng Le của tiểu đoàn 2 (và sau này là tiểu đoàn nòng cốt thành lập trung đoàn 207). Cụm xe tăng Mỹ bị đánh bất ngờ. Thiệt hại của chúng gần như xóa sổ, bẻ gãy ý định “hai gọng kìm” nhằm tiêu diệt quân chủ lực của ta đang đóng ở tọa độ mà chúng biết rất rõ.
Bộ chỉ huy chiến dịch của chúng tức tối, điên cuồng đến cực độ.
Ngay lập tức chúng cho hủy diệt trận địa bằng bom + rocket. Lúc đầu chỉ là 10 máy bay phản lực và 20 trực thăng. Sau đó đã tăng lên gần 40 chiếc trực thăng võ trang, liên tục quần đảo, bắn phá xung quanh trận địa bán kính tới 2 đến 3km. Bộ đội ta được lệnh rời bỏ trận địa rút ra ngoài để tránh làn hỏa lực điên cuồng của địch.
Đại đội 6 chúng tôi nhanh chóng thu gom quân số còn lại. Liệt sĩ đã lên tới gần ½. Vậy là mỗi đồng chí phải mang từ 2 đến 3 khẩu súng. Tôi và anh Lộc mỗi người cũng thêm 1 khẩu AK của chiến sĩ hi sinh. 3 đồng chí thương binh nặng không đi được phải cõng, những thương binh nhẹ thì tự lực, số liệt sĩ tạm gửi lại.
Đội hình lại như một mũi tên “đã bị tà” và ngắn đi rất nhiều rời khỏi trận địa. Biết không thể trở về bằng đường cũ qua trảng trống nên chúng tôi phải cắt đường vòng.
Anh Lộc lại dẫn đầu đoàn quân, kế đến là 3 thương binh được các đồng chí còn khỏe thay nhau dìu cõng. Rồi tiếp đến trung đội 1, trung đội 2, trung đội 3. Tôi và đ/c Bịch (liên lạc) đi sau chót đoàn quân.
Mới rời khỏi trận địa chừng 500m thì mấy loạt rocket của tụi máy bay lên thẳng phóng xuống gần sát đội hình.
Một tiếng “Ầm…” như là một phản ứng “có điều kiện” tôi ngã nhào chúi đầu về phía trước. Sau lưng gần 3m đ/c Bịch cũng ngã sấp theo. Một quả rocket phát quang một đám rừng le cách tôi không đầy 10m. Bị đất tung lên mù mịt, mảnh đạn bay vèo vèo cắt ngang những thân cây le chỉ bằng ngón tay đổ nghiêng ngã trên mình 2 chúng tôi.
Tôi nghe từ phía trước tiếng anh Lộc thét: “Tất cả đội hình nhanh chóng vượt qua tọa độ!”, vậy là phía trước bộ đội chẳng còn hàng ngũ gì cả thoát khỏi vùng “tọa độ chết” của những chiếc trực thăng quái ác.
Tôi cũng chồm dậy vượt lên. Đi được khoảng 200m thì quay đầu lại không thấy đ/c Bịch bám theo. Linh tính cho tôi biết… Tôi liền quay trở lại chỗ vừa rồi. Trên đầu 5 chiếc trực thăng “cá lẹp” cứ thay nhau chúc đầu phóng rocket nổ tứ tung. Kết hợp những loạt đạn đại liên phầm phập cắm xuống. Phải vất vả lắm mới tìm được đ/c Bịch đang nằm thiêm thiếp khẩu AK+ B40 đè nặng trên người, máu chảy đầm đìa lênh láng.
Một mảnh đạn làm gãy xương đùi.
Một mảnh phạt mất một phần mông bên trái.
Tôi vội vã mở hộp thuốc cá nhân đem theo bên mình được trang bị từ lúc đi B. (khi đi B vào chiến trường mỗi người đều được trang bị hộp thuốc này. Loại hộp vuông bằng vải bạt dày, có quai để đeo vào dây lưng, bên trong gồm có:
- 2 cuốn băng cá nhân
- 4 miếng gạc
- Một lọ thuốc viên lọc nước
- Một vỉ thuốc tăng lực
- Một lọ thuốc vitamin tổng hợp
- 2 ống ete để phòng độc
Nhờ có ít kiến thức “cấp cứu cá nhân” tôi đặt gạc vào vết thương và băng lại rất kỹ. Vết thương đùi chỉ còn ri rỉ máu. Khi tới vết thương mông mới khổ sở làm sao! Còn một cuốn băng cá nhân thì vừa bé, vừa ngắn. Cái mông lại to đùng. Tôi bèn tháo ngay chiếc khăn dù hoa quấn ngang mông đ/c Bịch sau khi đã đặt gac. Vết thương bằng cái miệng cốc.
Băng bó xong rồi tôi loay hoay chưa biết tính sao! Đ/c Bịch đã tỉnh nhìn tôi với đôi mắt lim dim, giọng nói thều thào: “Anh Kiên ơi…đừng bỏ em…em còn bố mẹ già ở quê…” Nước mắt tôi nhòa đi. Tôi nói như một lời thề: “Anh không bao giờ bỏ em đâu… nếu chết thì 2 anh em mình cùng chết…” Lúc này không tài nào thông tin được cho anh Lộc (vì lúc đó đâu có điện thoại di động như bây giờ). Hơn nữa, đội hình phía trước đã rời xa, còn bị lũ máy bay đang truy đuổi bắn phá, chắc chắn sẽ có thiệt hại.
Một mình, một đồng đội bị thương nặng, cộng thêm 4 khẩu súng không biết xoay sở thế nào. Tôi quyết định tháo 2 khẩu súng trên người đ/c Bịch và khẩu AK tôi đang mang của đồng đội, nhét đại vào một cụm le rồi cố ý làm dấu trong trí nhớ, để có dịp quay trở lại, chỉ giữ khẩu K54 phòng thân rồi xốc đ/c Bịch lên lưng.
Tôi cõng đ/c Bịch theo hướng đơn vị rút quân hồi nãy. Sau hơn một tiếng đồng hồ lặn lội trong rừng le, tôi gặp ngay bìa trảng trống mà chúng tôi vượt hồi đêm: “Chết mẹ! lạc đường theo đơn vị rồi”.
Ba bốn chục máy bay trực thăng vẫn cứ quần đảo trên không và phóng đạn bất cứ chỗ nào mà chúng nghi là có bộ đội ta.
Không thể vượt qua trảng trống vào lúc này, tôi bèn kiếm một cụm le rậm đặt đ/c Bịch xuống nằm nghỉ. Nhìn đồng hồ đã 10h trưa, bụng đã đói cồn cào. Tháo bi đong nước còn rất ít và thỏi lương khô đem theo bên mình. Tôi lấy lương khô bẻ vụn từng miếng nhỏ cho vào nắp bi đong rồi đổ nước. Chờ cho đã mềm như bột cháo cậy miệng đổ cho đ/c Bịch. Nhưng cũng chỉ được 3,4 nắp là đ/c Bịch cứ cắn chặt miệng lại không chịu nuốt nữa. Tôi nhai đỡ vài miếng, uống vài ngụm nước cho đỡ mệt, còn nửa thỏi lương khô và nước để giành.
Thời gian lại lặng lẽ trôi qua. Tôi mong sao cho trời mau tối để đua đ/c Bịch vượt trảng. Nếu cắt đường vòng sẽ xa gấp 3 lần mà sức thì lúc này đã đuối, 2 chân đã mỏi rã rời.
Chỉ còn cách chờ đến tối vậy. Tôi bèn tháo dây lưng để bên nằm cạnh đ/c Bịch. Hai vết thương của đ/c Bịch ngày càng cương lên, vì không đào đâu ra kháng sinh và thuốc giảm đau vào lúc này. Lâu lâu đ/c Bịch lại rên rỉ, khuôn mặt giờ đây đã tái xanh và hốc hác vì mất nhiều máu:
“Đau quá anh Kiên ơi…!”.
Ruột gan tôi như muốn đứt ra từng khúc, con tim quặn thắt. Có cách nào đổi được cái đau cho em mình thì tôi cũng sẽ làm.
Tôi nhỏ nhẹ: “Ráng đi em! Về đến trạm cấp cứu là có thuốc, sẽ hết đau ngay!” Nước mắt tôi lại chảy dài theo những lời nói lúc này cảm thấy thật vô nghĩa. Tôi ngước mắt lên căm giận lũ quạ sắt trên đầu cứ “phèn phẹt” của những cái cánh quạt trực thăng.
Bỗng nghe xa xa âm thanh vọng lại: “Kiên ơi…Anh Kiên ơi…”.
Chắc chắn là tiếng anh Lộc và đồng đội rồi. Mừng quýnh. Tôi vội đứng dậy đưa 2 tay lên miệng làm loa hướng về nơi âm thanh vừa mới phát ra: “Tôi đây…” Lại nghe tiếng… càng lúc càng gần… Tôi lại rống cổ lên hét…
Khoảng 12h thì anh Lộc và 2 chiến sĩ đã tìm được chúng tôi. Đ/c Thái liên lạc đi với anh Lộc líu lưỡi thao thao: “Rút ra được khoảng 2km thì anh Lộc cho dừng lại điểm quân. Thấy thiếu 2 người nên anh nghi đã có chuyện xảy ra khi đội hình bị loạt rocket của máy bay địch. Vậy là anh quyết định giao cho đ/c Hoạt trung đội trưởng trung đội 2, đ/c Phỏng trung đội trưởng trung đội 3, đ/c Hùng quyền trung đội trưởng trung đội 1 chỉ huy đơn vị tiếp tục cắt đường về. Còn anh và em kéo thêm một chiến sĩ của trung đội 3 quay đầu trở lại. Cũng phải mất một thời gian khá lâu mới tìm đúng chỗ. Thấy vũng máu và 3 khẩu súng nhét cạnh đó là anh quả quyết ngay “Chúng nó bị thương”. Ba người lại thêm 3 khẩu súng và anh nói với tụi em: “Bằng bất cứ giá nào cũng phải tìm được 2 thằng nó””.
Tôi xúc động và lại tuôn trào nước mắt. Anh Thiệp chiều qua nói với tôi chẳng sai chút nào “Kiên cứ an tâm… đã có anh Lộc”. Tôi đã thực sự coi các anh như những người anh ruột của mình.
Anh Lộc ghé xuống lăng xăng kiểm tra lại vết trên người đ/c Bịch và gật đầu tỏ vẻ hài lòng: “Băng bó như vầy tạm được”. Rồi đưa khẩu B40 “chiến lợi phẩm” cho tôi. Xốc đ/c Bịch lên lưng và ra lệnh: “Tất cả theo anh!”. Đ/c Thái và đ/c Hải nhào vào giành cõng nhưng anh Lộc đã nghiêm nghị: “Lát nữa tao mệt sẽ đến tụi bây”. Ba chúng tôi riu ríu chấp hành. Mặc cho lũ quạ sắt lồng lộn trên đầu. Anh cứ cập rừng le, gần bìa trảng guồng bước. Vậy là bốn chúng tôi cứ thay phiên nhau cõng Bịch cắt theo đường vòng.
Khoảng 17h chúng tôi về được tới don vị. Anh Đỉnh, anh Ưng, anh Nhưng, anh Thiệp vội vã ra đón. Đ/c Bịch được chuyển ngay lên cáng thương có y tá đi kèm hối hả chuyển đến trạm cấp cứu trung đoàn.
Tôi thật bất ngờ, dưới tàn cây của rừng cao su gần hầm ban chỉ huy đại đội, ba hàng quân cuốc xẻng, súng đạn đã chỉnh tề, mỗi hàng độ 20 người. Các anh ở nhà đã tổ chức sẵn và huy động quân số “không được tham chiến”. Được 3 trung đội phó mới dắt quân về cách đó ít giờ “làm lính dẫn đường” do anh Đỉnh và anh Ưng chỉ huy.
Giọng nói của đ/c chính trị viên phổ biến trước đoàn quân êm dịu nhưng như đinh đóng cột: “Bằng mọi giá chúng ta phải gom hết số liệt sĩ đem về hậu cứ mai táng.”
Vậy là đoàn quân lại như một mũi tên vượt rừng cao su hướng ra bìa trảng. Đ/c chính trị viên phó tiểu đoàn, trợ lý chính trị, trợ lý chính sách và bộ phận phía sau cua 3 đại đội 5, 7, 8 cũng đã có mặt để chờ trời tối hẳn tiếp tục vượt trảng trống hướng về trận địa sáng nay.
Tôi chỉ kịp trút bộ đồ đang mặc trên người (đã rách bươm) và hôi tanh vì thấm đầy máu đ/c Bịch lúc này đã khô đét. Lau sơ mình bằng mấy bi đong nước, mặc bộ quần áo anh Thiệp đưa cho, Nhai ngấu nghiến vài bát cơm đã nguội anh nuôi nấu từ tận chiều, rồi chui ngay xuống hầm nằm thiếp đi. Anh Lộc đã vội vã xuống các trung đội kiểm tra quân số về tới đơn vị và thăm hỏi anh em, rồi cung anh Nhưng, anh Thiệp bàn công việc giải quyết tiếp những hậu quả của đơn vị.
Tôi thầm kính phục anh: “Một con người đúng là bằng gang, bằng thép”.
Rồi chỉ ít giờ sau, căn hầm của chúng tôi rung lên bởi những loạt B52 ném rất gần. Đại đội 7 một số hầm bị trúng bom địch, bộ đội thương vong!
5h sáng bộ phận đi làm tử sĩ đã chôn cất anh em ven rừng cao su trở về tới đơn vị. Đại đội 6 chỉ tìm được 15 còn 9 đ/c coi như mất tích.
Bài viết này tôi mong tìm được tung tích đ/c Bịch. Vì sau khi lên trạm cấp cứu trung đoàn. Các bác sĩ cho biết: “Chỉ chậm ít tiếng đồng hồ nữa là đ/c Bịch đã có thể mất mạng”. Được truyền máu, truyền nước biển sau đó bác sĩ phẫu thuật cưa ngang đùi. Thời gian sau được chuyển ra bắc (không trở lại đơn vị nữa).
Đ/c Bịch đã thực hiện được nguyện vọng… “về săn sóc bố mẹ già…” đó chính là nhờ anh Lộc và đồng đội đã không quản tính mạng lao và nơi nguy hiểm để tìm kiếm chúng tôi kịp thời gian…
Ôi! Ước vọng của những người con hiếu thảo… Chỉ đạt được tỷ lệ mấy phần trăm: 1/24/63 và đến tận bây giờ hài cốt của đồng đội tôi đang nằm nơi đâu? Chắc chắn là đám rừng le và rừng cao su bạt ngàn gần biên giới. Nơi đơn vị đã có những chiến công tuyệt vời làm cho quân Mỹ phải kinh hoàng khiếp sợ. Và để có được những chiến công đó, xương máu của biết bao đồng đội tôi đã phải gửi gắm lại nơi này…
Sau trận đánh tập kích xe tăng ở rừng le, đơn vị không đứng chân nơi nào lâu, bởi nếu ở cùng toạ độ, thời gian dài sẽ làm mồi cho bọn B52. Hơn nữa nhiều mũi càn của Mỹ nguỵ cứ chia dọc tuyến biên giới, tìm diệt cơ quan đầu não của ta (Trung ương cục). Các đơn vị chủ lực của ta vừa phải kiên quyết bảo vệ Trung ương, vừa đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch, vừa phải bảo toàn lực lượng (Chuẩn bị cho trận đánh quyết định). Do vậy ta phải chuyển sang chiến thuật phân tán nhỏ lẻ.
Đầu tháng 6/1970 Tiểu đoàn 2 chúng tôi (mà sau này là nòng cốt thành lập Trung đoàn 207) đứng chân trong một khu rừng nguyên sinh rậm rạp, cách đường lộ đỏ khoảng 7km.
Ngày 2/6/1970 tôi được ban chỉ huy phân công phụ trách một bộ phận về tuyến sau lấy gạo và thực phẩm. Mỗi Trung đội được cử 6 người và C bộ 3 người. Đi thồ gạo nên mỗi đồng chí phải bỏ lại quần áo và những vật dụng khác, nhưng súng đạn vẫn đầy đủ để có thể tác chiến dọc đường. Bộ phận C bộ theo tôi gồm 2 đồng chí là Dũng quản lý và Thành y tá.
5 giờ sáng xuất phát hành quân. Đồng chí Thành láu táu giành đi trước va đầu ngay phải cành cây rừng to bằng cườm tay, vắt ngang trước mặt. Chắc bị đau nên không kềm nổi cơn tức giận. Thành giơ tay “thẳng cẳng” đấm một phát ngay cành cây đầu mới đụng “Để trả thù”. Bàn tay lại “xưng vếu”. Tức quá! Còn tay chưa bị đau, trở báng súng AK dộng mấy phát vào cành cây cho “hả dạ”. Cả tốp lính đi sau cười rộ mé. Tôi cũng vừa đi tới. Biết được tính khí của đồng chí này nên nắm vai Thành lôi đi và dịu giọng: “Em tha cho nó đi, chờ lấy gạo quay về sẽ tính sổ với nó”.
Cả Đại đội ai mà chả biết Thành. Người dân tộc quê tận Lai Châu. Ở nhà thường uống cao Hổ cốt, mật Gấu nên “Nóng tính như lửa”: Được cái công việc nặng nhọc thường dành hết về mình và rất tốt với mọi người.
Chúng tôi nhập vào đội hình của Tiểu đoàn theo đường mòn rồi tới đường xe thồ. Khoảng 10 giờ thì tới nơi nhận gạo. Một kho gạo dã chiến do những đoàn xe đạp thồ tấp nập từ nhiều hướng đem về. Sau khi mỗi người đã ních đầy ba lô, đoàn lấy gạo lại ngược đường cũ trở về đơn vị.
11 giờ bộ đội được lệnh tạm nghỉ ven rừng để nấu cơm ăn. Vì từ sáng đến giờ chưa có cái gì vào bụng. Mấy chiếc xoong cá nhân do các Trung đội chủ động mang theo, được nấu trên bếp dã chiến gần ven đường. Trong lúc chờ cơm chín tôi liền nảy ra “sáng kiến”: Mỗi Trung đội cử một người theo tôi vác súng vào rừng tìm thức ăn. Đi được độ 300m. Thấy đám cây trước mặt rung rinh. Một đàn dọc (giống như khỉ ở rừng Miền Đông) đang chuyền cành tới. Tôi lấy khẩu AK của đồng chí chiến sĩ giương lên lấy đường ngắm…Một tiếng “đoành”… từ trên ngọn cây con dọc độ 7- 8 kg rớt đánh “phạch”. Cả 3 đồng chí đi theo mừng quá la toáng lên: “Trúng rồi”, bầy dọc làm cái “ ào” chút xíu mất dạng.
Bất ngờ 3 cô gái đều mặc quần áo bà ba, cổ quấn khăn rằn, đầu đội mũ tai bèo vai mang súng AK xuất hiện và nhăn mặt.
“Các anh săn bắn kiểu gì”!!!.
Thấy cung cách và kiểu ăn mặc chúng tôi tạm an tâm. Hỏi ra mới biết các cô thuộc Tiểu đoàn vận tải 72 cục hậu cần, đóng quân gần đó cũng đi: “cải thiện đời sống”. Một cô trông chững chạc khiến chúng tôi phải gọi bằng “chị” nói như ra lệnh: “Các anh theo tôi”. Giọng rặt Sài gòn Gia định nghe mới truyền cảm và thuyết phục làm sao. Vậy là 7 người chúng tôi riu ríu đi theo. Một chiến sĩ của tôi vẫn cố “ tha” theo con dọc mới hạ được.
Dò dẫm… im lìm… (Y hệt như khi tiến nhập trận địa). Một mùi thơm, dầu con sóc, từ thân hình các cô, các chị cứ phảng phất làm chúng tôi nhiều lúc cũng thấy “ngất ngây”. Từ khi vào chiến trường lần đầu tiên mới cảm nhận được hương vị của những người thiếu nữ tuổi xuân xanh phơi phới, nên cả đám chúng tôi, từ chỉ huy đến chiến sĩ còn rất trẻ đều bối rối, ngượng ngùng…xao xuyến…
Một ý nghỉ vội thoáng qua: “Mong chiến tranh mau kết thúc…”.
Bổng cô gái khoát tay cho chúng tôi ngồi thụp cả xuống. Phía trước mấy ngọn cây động đậy, đung đưa và một bầy dọc đang chuyền cành tiến dần về hướng chúng tôi. Khẩu súng AK của cô “chị” lấy thân cây làm bệ tỳ giương lên. Để chắc ăn “chị” quay đầu dặn chúng tôi” “Các anh không được hô hoán gì đấy, và cứ ngồi im nghen”
Một tiếng “đoành”, con dọc từ trên cành cây rớt đánh “phạch”. Chúng tôi khoái quá định la lên nhưng chợt nhớ đến lời “chị” dặn nên chàng nào chàng nấy ngồi im re. Một lát sau cũng một tiếng “đoành” lại một tiếng rớt đánh “phạch” ngay chổ đó, và không đầy 30 phút hơn chục chú dọc đã nằm xếp lớp ngay gần gốc cây.
Nhắm đã đủ thịt cho cả tốp người. Cô gái hạ súng xuống, khoá chốt an toàn rồi bảo chúng tôi đến lấy xác dọc. Nghe tiếng người, bầy dọc lại “ào ào” và một chút xíu lại mất dạng. 14 con dọc cả thảy. “chị” bảo “các anh lấy 8 con đi, để lại tụi em 6 con thôi”. Chúng tôi ái ngại từ chối: “Các cô đem về đi, chúng tôi săn đám khác được mà”. “chị” xuống nước năn nỉ: “Không được đâu! Lũ này khôn lắm, nó bị 2 lần là đám khác tạt hết, các anh tính ngủ lại đêm sao!?”. 3 cô gái đi cùng cũng van vỉ chêm theo: “làm ơn, các anh lấy đi cho tụi em vui” Tôi đọc được trong ánh mắt các cô, ánh nhìn dịu dàng, thương cảm của những người chị, người em, người đồng đội…
Một ý nghĩ lại vụt lên trong tôi: “Giá như không có chiến tranh các chị, các em giờ này cũng đang là những sinh viên của các trường Đại học Sài gòn. Một thành phố nguy nga, tráng lệ. Chứ đâu phải lặn lội, khổ cực chẳng kém gì cánh nam giới tụi này. Thương các chị, các em tự nhiên nước mắt tôi cứ muốn chảy.
Cuối cùng chúng tôi cũng chỉ nhận đúng một nửa (7 con) vì chúng tôi đã có riêng một con rồi mà. Một người khệ nệ 2 con. Chúng tôi vội vã trở về chỗ nấu cơm. Cơm đã gần chín. Tôi quyết định vặt lông và nướng một con đãi đoàn lấy gạo. Còn lại mỗi Trung đội 2 con, C bộ 1 con, rồi tất tả dẫn đoàn quân trở về đơn vị. Tối hôm đó cả Đại đội được một bửa thịt rừng “phả phê”. Anh Đỉnh khen tôi là “giỏi”. Tôi thuật lại chuyện gặp các cô gái anh mới giải thích. Các cô ấy có kinh nghiệm đấy. Săn dọc là phải thật êm. Nghe tiếng súng nó chẳng hiểu gì, con trước bị rơi. Êm một lúc con khác lại nhảy đến dòm xuống. Súng nổ lại rơi, và cứ như thế nếu kiên nhẫn có thể hạ cả đàn dọc hàng trăm con. Còn để nó biết có người là cả đàn bỏ chạy…
“À ra là như thế…”
Thực hiện chỉ lệnh của trên. Tiểu đoàn quyết định mỗi ngày một Đại đội cử một Trung đội ra tận lộ đó phục kích đánh xe tăng địch. Đại đội 5 + 7 hướng rừng cao su. Đại đội 6 hướng rừng già. Ban chỉ huy chúng tôi họp phân công mỗi ngày một Trung đội, có cán bộ đại đội đi kèm. Cũng tuỳ “hên xui”. 2 ngày đầu đi rồi lại về không (vì địch cũng rất thất thường, có ngày chúng hành quân có ngày thì im bặt).
Ngày 6/6/1970 đến lượt Trung đội 3 và tôi được phân công cùng đi (Lúc này cũng mới được bổ sung quân số và vũ khí) nên gom hết hoả lực toàn Trung đội 9 khẩu (6 B40 + 3 B41). 18 tay súng của Trung đội cộng thêm tôi và 1 liên lạc. Cả thảy 20 người lặng lẽ rời đơn vị cắt đường rừng ra hướng lộ.
7 giờ sáng chúng tôi ra tới ven lộ. Phải mò mẩm để chọn địa hình thuận lợi nhất, bất ngờ nhất. Tôi và đồng chí Phỏng quyết định chọn một khoảng rừng tương đối thưa cây có tầm nhìn độ 70 mét thẳng ra ngoài lộ. Điều này có lợi cho ta khi khai hoả không bị vướng cây rừng. Cho chắc ăn Tôi và đồng chí Phỏng Trung đội trưởng Trung đội 3 đến từng chỗ bố trí hoả lực lấy đường ngắm thử ra tận mặt đường. Mỗi khẩu súng đem theo 2 quả đạn, một lắp trong súng và một quả dự phòng. Để đảm bảo an toàn tuyệt đối cho bộ đội tôi quyết định: Mỗi khẩu chỉ bắn một quả rồi rút ngay. Ý tưởng của tôi: “ Nếu 9 quả đạn xuyên thép, đạt hiệu xuất 50% thì đã thịt được 4 đến 5 xe rồi”.
9 giờ mũi càn hành quân của địch đã cách chúng tôi chừng 2km. Trên trời là máy bay trực thăng và lũ phản lực quần đảo. Dưới đất là Trung đoàn thiết giáp 111 của Mỹ, gần trăm xe tăng ầm ĩ tiến trên mặt đường về hướng trận địa chúng tôi. Tiếng động cơ xe tăng và tiếng xích sắt càng lúc càng rõ.
Khoảng 9 giờ 30, đoàn xe tăng địch đã lọt vào trận địa phục kích và lần lượt lướt qua trước mặt từ trái qua phải. Chúng tôi nhìn rõ những chiếc M48 có tháp pháo nghền nghễn và khẩu trọng liên 12ly 7. Xung quanh tháp pháo là cả chục lính Mỹ, và ngụy Sài gòn “chễm chệ”, súng lăm lăm trên tay.
Đoàn xe cứ lần lượt lướt qua. Tiếng xích sắt nghiến “ken két” nghe đến rợn óc.
Chiếc xe đi đầu đã đến đúng tầm bắn của khẩu B41 do đồng chí Phỏng (Tranh của lính) trực tiếp làm xạ thủ chặn đầu.
Một tiếng “ùng” phát ra từ khẩu B41. và “oàng” ngay ngang thân chiếc M48. và lần lượt 8 khẩu hoả lực từ 8 vị trí đều phóng đạn bay ra mặt đường. Lập tức lũ bộ binh nhảy khỏi xe nằm rạp xuống. Những khẩu pháo tự hành, trọng liên 12 ly 7 quay nòng sang hướng chúng tôi nhả đạn. Đạn nhọn 12 ly 7, AR15, cứ phầm phập cắm vào những thân cây quanh chúng tôi. Đạn M79 nổ chát chúa. Bộ đội ta nhanh chóng rút quân. Nhờ có ý thức từ trước nên độ 7 phút sau chúng tôi đã rời trận địa cách vài trăm mét. Bom địch từ những chiếc phản lực, rốc két từ lũ máy bay lên thẳng, pháo tự hành từ những chiếc xe tăng bắn tan nát cả khu rừng mà cách đó chỉ ít phút còn lặng lẽ, im lìm. “Một sự hủy diệt thật ghê gớm”.
Chúng tôi về tới hậu cứ an toàn chỉ có 2 đồng chí bị thương nhẹ do vấp phải cây rừng.
Rồi cứ liên tiếp đến chiều mũi càn của địch thêm 2 lần phải ném bom, bắn pháo vì vấp phải trận địa phục kích của Đại đội 5 + 7.
Chiều tối hôm đó tiểu đoàn thông báo đoàn xe tăng địch bị bắn cháy gần chục chiếc trên các trận địa của tiểu đoàn 2 đã “thưởng” cho chúng (Tiểu đoàn mà sau này là nòng cốt thành lập Trung đoàn 207).
Vậy là ngày hôm đó Tiểu đoàn chỉ mất chưa đầy 50 quả đạn mà đã diệt được 7 xe tăng địch, mấy chục tên Mỹ ngụy. Đổi lại địch tiêu hao không biết bao nhiêu là đạn nhọn, M79, đạn pháo tự hành của xe tăng, rốc két, bom.
Ta hi sinh 5 đồng chí (Ở Đại đội 5+7).
Thất bại trong trận đánh càng làm cho Bộ chỉ huy chiến dịch cuộc “càn móc câu”, hay còn gọi là trận “càn Đông dương” của bọn Mỹ ngụy tức tối như “bò đá”. Gợi nhớ lại 2 câu thơ được nhân dân Miền Nam trìu mến tặng cho bộ đội quân giải phóng.
“Đạn của Mỹ vãi ra như cát.
Đạn Bác Hồ mỗi phát mỗi khiêng”.
Những trận đánh nhỏ lẻ “xuất quỷ, nhập thần” của ta vừa tiêu hao sinh lực địch, vừa làm thất vọng ý đồ “đánh nhanh, thắng nhanh” của chúng. Bộ chỉ huy chiến dịch của địch tức tối, huy động tối đa cường độ B52. Chúng ném bom bất cứ khu vực nào mà chúng nghi là có bộ đội ta thường trú, sâu vào tận hậu cứ phía sau của mặt trận giải phóng.
Đêm mùng 9/6/1970, đại đội tôi được lệnh điều 40 chiến sĩ cơ động giúp đơn vị bạn giải quyết hậu quả. Sau khi tính toán ban chỉ huy quyết định điều gần hết số chiến sĩ của C bộ lên đường, quân số còn lại chia đều cho các trung đội.
Anh Nhưng và tôi được phân công chỉ huy. Cũng chỉ mang theo ít súng đạn gọn nhẹ còn lại là cuốc xẻng. Được một trinh sát tiểu đoàn dẫn theo đường mòn, đi được một đoạn khá xa thì ra đường xe thồ (lúc này ở miền Đông ta có mấy đơn vị vận tải hầu hết là nữ, sử dụng loại xe đạp tự chế và xe phượng hoàng vừa làm phương tiện vận tải hàng, vừa làm cáng để tải thương (cáng thương binh thì phải 2 xe, 1 trước 1 sau, có cọc nâng độ cao ngay chỗ yên xe để võng đừng chạm đất).
Xuất phát từ lúc 8h tối vừa đi vừa chạy đến 10h tối chúng tôi đã đến vị trí. Trước mắt chúng tôi là một bệnh viện dã chiến của ta bị B52 địch quần nát. Các lán trại vẫn còn nghi ngút khói, cây cối đổ ngổn ngang, bông băng vương vãi trắng xóa trên những cành cây. Cảnh tượng thật đau lòng!
Nhiệm vụ của chúng tôi lúc này là đào bới những hầm lán bị bom B52, hy vọng tìm kiếm những thương binh còn sống sót. Được cán bộ bệnh viện hướng dẫn, chúng tôi tìm được 4 chiếc hầm bị sập hoàn toàn và nhanh chóng phân công 10 đồng chí tìm kiếm một hầm. Bộ đội ta bỏ súng đạn qua một bên, nhiều đồng chí cởi cả áo quần dài chỉ còn mặc 1 chiếc quần đùi. Những leng đất được hối hả hất lên và chiếc hố cứ mỗi lúc sâu dần. Bốn hầm cùng ở gần nhau và thẳng tắp (một vệt bom tọa độ gần 300m vẹt thẳng một góc bệnh viện). Cũng may chỉ có 4 hầm bị sập. Còn nếu như bom nó có mắt thì thiệt hại sẽ là không lường. Tôi và anh Nhưng mỗi người 2 hầm chạy qua chạy lại. Anh Nhưng thì cứ la toáng “nhanh lên các đ/c… Cẩn thận lỡ đâm xẻng vào đầu anh em…”, càng đào xuống sâu, bộ đội ta càng phải thận trọng vì đã bắt đầu gặp thân thể đồng đội. Từng thi thể của các thương binh cứ được liên tiếp đem lên mặt đất. Đến 4h sáng thì 16 người đã được tìm đủ và chẳng còn một ai sống sót. Đồng chí y vụ của bệnh viện đến từng người để xác định danh tính liệt sĩ, làm thủ tục ghi nhớ.
Bộ đội được tạm nghỉ, tôi lướt qua từng hầm. Cứ 4 Liệt sỹ được xếp một hàng ngay ngắn. Nhiều đồng chí đầu cổ vẫn còn quấn băng, nhiều đồng chí bị cụt tay, chân của các trận đánh trước đang nằm điều trị. Tưởng về được đến đây là đã an toàn: “Cuộc chiến khốc liệt không thể định trước được điều gì!”. Nhìn 16 thi thể đồng đội nằm xếp hàng ngang, mặt mũi nhem nhuốc do bùn đất tim tôi lại quặn đau. Căm giận lũ B52, căm giận bè lũ cướp nước và bán nước. Tôi ước sao cho đường Trường Sơn mau mở rộng để những đoàn “sam” biệt danh tên lửa đất đối không của ta xuất hiện trên chiến trường, quật rụng những thằng B52 cho chúng hết đời làm mưa, làm gió…
Công việc giúp đơn vị bạn coi như đã xong. Đồng chí bệnh viện phó đến bắt tay tôi và đồng chí Nhưng: “Cảm ơn, nếu không được các đ/c giúp thì bệnh viện chúng tôi chẳng biết phải làm sao. Số y sĩ, bác sĩ, y tá qua trận bom cũng nhiều đ/c bị thương nên giờ phải chuyển tiếp sang bệnh viện khác”. Nhìn gương mặt khắc khổ của người Bác sĩ, thấy thương sao những người lính Quân y ngày đêm lặng lẻ âm thầm hi sinh vì tiền tuyến! 5h sáng chúng tôi lặng lẽ rời khỏi bệnh viện mà lòng nặng trĩu…
Trở về bằng đường cũ nên chẳng cần ai dẫn đường. Qua một đêm thấm mệt và mất ngủ nên hàng ngũ cứ lung ta lung tung Chúng tôi được thoải mái khoảng 2km, trên con đường xe thồ rộng rãi, sau đó rẽ vào đường mòn trở về đơn vị.
Đến ngã 3 anh Nhưng cho dừng lại kiểm quân số. Đếm đi đếm lại các trung đội thì đủ quân, riêng C bộ thiếu mất 1. Tôi nói với anh Nhưng: “Anh cùng bộ đội dừng nghỉ chờ”. Tôi quay lại, đoạn đường từ bệnh viện đến đây vẫn có những cáng thương. Thương binh nhẹ thì tự lực đi bộ. Quay lại được độ 500m thì gặp một cáng có 2 đồng chí nữ đang đứng mếu máo. Tôi quan tâm hỏi 2 cô liền kể:
“Có anh thương binh nặng không đi nổi, chúng em gặp dọc đường. Đến chỗ này anh biểu dừng lại cho anh xuống… Chờ mãi không thấy quay ra, chúng em sục xạo, tìm kỹ cũng không gặp, không biết anh có bị thú dữ bắt không? Tôi nghi ngờ và thầm nghĩ “ 2 người cố tình đi kiếm… một người cố tình trốn, xung quanh toàn là rừng rậm thì có mà thánh cũng không kiếm nổi…!!!”. Tôi an ủi 2 đ/c cáng thương quay xe về bệnh viện để đ/c” thương binh “tôi sẽ kiếm dùm”. 2 đ/c tải thương đi đã thấy xa xa tôi mới bụm tay làm loa kêu tướng “… ơi!” (xin lỗi cho tôi giấu tên đ/c văn thư, “con cưng” của đơn vị này). Cũng phải 3, 4 lần “cậu ta”… mới lồm cồm từ trong rừng chui ra, mặt mũi tái mét. Hiểu được tâm trạng lo sợ của “cậu ấy” tôi liền lấy giọng thân thiện vỗ về: “Đừng ngại, thế nào cậu kể đi…Tớ hứa chỉ mình tớ biết thôi”. Thế là “cậu ta” tin tưởng thuật lại:
“Em quá đuối nên không theo kịp đơn vị. Thấy mấy cáng thương quay lại bệnh viện em bèn “sáng kiến” tháo ngay cuộn băng cá nhân đem theo, rồi kéo quần tới tận đầu gối băng kín chân và vờ khập khễnh lết ven đường. Một cáng thương dừng lại và em được leo lên. Đi được một quãng khoảng độ hơn 100m, thấy mấy cô tải thương “liễu yếu đào tơ” vất vả nặng nhọc khiêng cáng cho mình nằm “êm ru”, em thấy mình quá “tầm bậy” nên vội đòi xuống để đi… và trốn luôn”. Tôi ráng nhịn cười nói: vậy là chú mày “giác ngộ” sớm đấy tớ không “mét” anh Đỉnh đâu. Đ/c văn thư năn nỉ: “Anh đừng nói với ai từ nay trở đi em xin chừa…”.
Như đã hứa với “cậu ta”, đuổi kịp bộ phận anh Nhưng, tôi chỉ vờ khỏa lấp. Đồng chí…tụt lại phía sau để đi ỉa… Vậy là đoàn quân do anh Nhưng dẫn đầu rẽ đường mòn trở về đơn vị. Trên đường đi tôi cứ suy nghĩ mênh mang. Vừa quạo, vừa buồn cười cho cái đồng chí văn thư “lếu láo và thông minh tới cỡ đó là cùng”. Rồi cảm thấy thương thương 2 người đồng đội, 2 cô gái chân yếu tay mềm, đáng lẽ họ đâu phải làm những công việc nặng nhọc như vậy. Đúng là dòng dõi của những Bà Trưng, Bà Triệu. Nghĩ tới đây nước mắt tôi cứ muốn tuôn trào.
Thời gian tiếp theo, các mũi càn của địch ở dưới mặt đất cứ bị chặn đánh mà chẳng thấy “Việt cộng” xuất hiện, chúng liền đổi chiến thuật, càn rừng thọc vào hậu cứ của ta. Nhiều tốp xe tăng cùng bộ binh như những răng lược xỉa vào nơi trú quân của chúng tôi. Quân địch dạo này “khôn” hơn. Cho bộ binh dò dẫm đi trước 1 vài trăm m theo sau là lũ xe tăng. Ban chỉ huy tiểu đoàn 2 (Mà sau này là tiểu đoàn nòng cốt thành lập trung đoàn 207) họp khẩn cấp để bàn phương án tác chiến mới. Nếu để chúng tiếp tục tiến sâu thì chẳng những nơi đóng quân của đơn vị mà các bộ phận phía sau của trung ương cục sẽ bị đe dọa. Các mũi trinh sát được tung đi và liên tục báo tin tức về ban chỉ huy tiểu đoàn.
3 mũi càn của địch từ lộ đỏ, chúng đang tiến dần về hướng trú quân của Tiểu đoàn trên diện rộng khoảng 3 km, mỗi mũi ước chừng gần 30 xe tăng kết hợp với bộ binh. Chúng dựa vào các đường mòn vận chuyển của ta làm đường chính cho xe tăng hành tiến. Cặp 2 bên là lũ bộ binh. Chúng tiến rất thận trọng. Ban đêm co cụm lại tại chỗ và thường được mấy trận địa pháo dã chiến do trực thăng mới cẩu xuống nằm sau lưng luôn bắn phá dọn đường.
Đại đội 6 có nhiệm vụ chặn mũi cánh trái, C5 + C7 chặn 2 mũi còn lại. Địch đã vào sâu khỏi lộ đỏ hơn 1km.
Đêm 13/06/1970, tôi được phân công đi cùng với trung đội 1 để chặn đánh địch. Bộ đội xuất kích có các trinh sát bám địch dẫn đường. 12h khuya đã áp sát trận địa địch tại đường mòn mũi càn thứ nhất. Chúng tôi bí mật chôn những quả mìn chống tăng trên đường mòn mà đoán chắc xe tăng địch sẽ đi qua. Hai bên đường sâu vào độ 100m là trận địa phòng ngự. Ngay đêm đó bộ đội được đào công sự cá nhân và trước mặt là những quả mìn DH10, mìn Claymo quay hướng nổ về phía địch. Tôi và đ/c Hùng trung đội trưởng nằm ngay giữa tiểu đội 2. Bên trái là tiểu đội 1, bên phải là tiểu đội 3.
8h sáng, xe tăng địch đã rồ máy. Vì chỉ cách độ 400m nên tiếng xe nghe rất rõ. Biết cánh bộ binh đã đến gần nên đ/c Hùng lệnh cho bộ đội sẵn sàng chiến đấu. Y như phán đoán, lính bộ binh càn đường 2 bên trước lũ xe tăng khá xa.
Khoảng 10h, trước mặt trận địa phòng ngự của chúng tôi đã lố nhố những tốp lính bộ binh địch. Khi bọn lính đi đầu đến gần quả DH10 thì đ/c Hùng cho chập điện điểm hỏa.
Một tiếng nổ long trời phạt sạch những bụi cây con trước mặt. Cả tốp lính địch không còn tên nào nhúc nhích. Địch ở phía sau nổ súng bắn loạn xạ. Các loại đan của địch cứ thoải mái găm vào những thân cây rừng, những ụ công sự. Đạn m79 nổ chát chúa phủ lên trận địa. Thỉnh thoảng ở các công sự, dưới các gốc cây hỏa lực bộ đội ta mới khạc lửa và nghe bên kia tiếng địch rên la. Xe tăng địch ở phía sau cũng bắn pháo chi viện nhưng chúng tôi chẳng sợ vì vướng phải cây rừng.
Trận đánh cứ giằng co, quân địch chẳng tiến thêm được một bước nào. Đại đội 5, đại đội 7 cũng đã nổ súng lâu rồi.
Thấy lũ bộ binh nằm tại chỗ chịu trận, nên đám xe tăng ở sau lưng “hùng hổ ra oai”. Chúng gầm rú, lồng lộn, vừa tiến, vừa chúc họng khẩu trọng liên 12 ly 7 bắn như vãi đạn. Nhưng chỉ lát sau cách trận địa chúng tôi khoảng hơn trăm mét. Chiếc xe tăng đi đầu trúng mìn, đứt xích nằm ẹp vậy là những chiếc sau lưng thun đầu sựng lại. Trận địa bên địch đủ các cỡ súng diên cuồng vãi đạn nhưng cứ tiến thêm được vài bước lại nhiều tên nhào xuống rên la…
12h trưa tiếng súng thưa và im dần. Lũ xe tăng cũng nồ máy nghe mỗi lúc một xa.
Biết địch đã lui đồng chí Hùng cho bộ đội thoát khỏi công sự lên kiểm tra trận địa. Trước mặt quả DH10 khai hỏa 6 tên giặc nằm chết chỏng queo, ta thu 6 súng. Xa xa nhiều vết máu lênh láng quanh các cây rừng. Địch đã lôi xác đồng bọn rút đi. Bộ đội ta nhanh chóng lui quân và chỉ 10 phút sau, lũ phản lực lao đến ầm ầm dội bom, lũ trực thăng sà xuống phóng rocket. Trận địa ban nãy của chúng tôi banh chành, cây cối đổ ngổn ngang. Rồi tiếp đó đại đội 5, đại đội 7 cũng hứng chịu nhiều trận bom và rocket địch.
Tối hôm đó tiểu đoàn thông báo nguồn tin trinh sát kỹ thuật: Trận đánh hợp đồng, phân tán (của tiểu đoàn) ta diệt 5 xe tăng và gần 50 tên địch, ta thương vong hơn 20 đ/c mà thiệt hại nặng nhất là đại đội 5 bởi chậm chân nên đa số anh em hi sinh đều bị bom và rocket địch. Đại đội 6 chúng tôi có 4 đ/c hi sinh. Ngay buổi tối cả đại đội làm lễ truy điệu. Hơn trăm con người nước mắt ai cũng rưng rưng.
Đêm hôm đó trung đội 2 lại được lệnh xuất kích. Anh Đỉnh dẫn quân đi. Đại đội 5 và đại đội 7 chắc cũng làm như thế để kiên quyết chặn đứng các mũi càn của địch vào hậu cứ của ta. Tôi và anh Lộc, anh Ưng, anh Nhưng, anh Thiệp ở nhà mà cứ ngay ngáy lo xa: “Cầu mong cho anh Đỉnh và trung đội 2 tối mai trở về sẽ an toàn” đừng có cảnh cả trăm người cùng rơi nước mắt như mới rồi…
5h sáng ngày 14/06/1970, ban chỉ huy của đơn vị còn lại đã thức hết. Chúng tôi phân công nhau tranh thủ xuống các hầm lán trại (bộ đội vẫn còn ngủ trừ bộ phận nuôi quân đang vùi đầu vào bếp) thấu hiểu được nỗi mệt nhọc và mất ngủ suốt mấy ngày qua của anh em.
Trở về C bộ chúng tôi nuốt vội vài bát cơm mà anh nuôi đã thức nấu từ 4h sáng. Rồi cả 5 anh em trong ban chỉ huy quây quần tại lán hầm anh Lộc, uống nước trà. Lúc này hậu cần lâu lâu phân phối cho gói trà, to bằng bắp chân. Chỉ việc nấu nước sôi đổ vào bình tông và bỏ trà vào cái ca inox Mỹ (đồ chiến lợi phẩm) chụp ngược bình tông nước sôi lên chiếc ca, là đã có được ấm trà tuyệt hảo. Sau khi rót một loạt ra bát (lúc này chẳng có ly cốc gì) nếu thấy cạn chỉ nhắc nhẹ bình tông lên là nước lại ùng ục tuôn xuống ca, tiếp tục hòa tan trà cho những lần rót tiếp sau. Nhấp ngụm trà nóng, hưởng phút giây thanh bình hiếm hoi giữa chiến trường, tôi không thể ngờ rằng đây là lần cuối cùng tôi được ngồi cùng anh Lộc trong căn hầm này…
12h trưa tiếng súng thưa và im dần. Lũ xe tăng cũng nồ máy nghe mỗi lúc một xa.
Biết địch đã lui đồng chí Hùng cho bộ đội thoát khỏi công sự lên kiểm tra trận địa. Trước mặt quả DH10 khai hỏa 6 tên giặc nằm chết chỏng queo, ta thu 6 súng. Xa xa nhiều vết máu lênh láng quanh các cây rừng. Địch đã lôi xác đồng bọn rút đi. Bộ đội ta nhanh chóng lui quân và chỉ 10 phút sau, lũ phản lực lao đến ầm ầm dội bom, lũ trực thăng sà xuống phóng rocket. Trận địa ban nãy của chúng tôi banh chành, cây cối đổ ngổn ngang. Rồi tiếp đó đại đội 5, đại đội 7 cũng hứng chịu nhiều trận bom và rocket địch.
Tối hôm đó tiểu đoàn thông báo nguồn tin trinh sát kỹ thuật: Trận đánh hợp đồng, phân tán (của tiểu đoàn) ta diệt 5 xe tăng và gần 50 tên địch, ta thương vong hơn 20 đ/c mà thiệt hại nặng nhất là đại đội 5 bởi chậm chân nên đa số anh em hi sinh đều bị bom và rocket địch. Đại đội 6 chúng tôi có 4 đ/c hi sinh. Ngay buổi tối cả đại đội làm lễ truy điệu. Hơn trăm con người nước mắt ai cũng rưng rưng.
Đêm hôm đó trung đội 2 lại được lệnh xuất kích. Anh Đỉnh dẫn quân đi. Đại đội 5 và đại đội 7 chắc cũng làm như thế để kiên quyết chặn đứng các mũi càn của địch vào hậu cứ của ta. Tôi và anh Lộc, anh Ưng, anh Nhưng, anh Thiệp ở nhà mà cứ ngay ngáy lo xa: “Cầu mong cho anh Đỉnh và trung đội 2 tối mai trở về sẽ an toàn” đừng có cảnh cả trăm người cùng rơi nước mắt như mới rồi…
5h sáng ngày 14/06/1970, ban chỉ huy của đơn vị còn lại đã thức hết. Chúng tôi phân công nhau tranh thủ xuống các hầm lán trại (bộ đội vẫn còn ngủ trừ bộ phận nuôi quân đang vùi đầu vào bếp) thấu hiểu được nỗi mệt nhọc và mất ngủ suốt mấy ngày qua của anh em.
Trở về C bộ chúng tôi nuốt vội vài bát cơm mà anh nuôi đã thức nấu từ 4h sáng. Rồi cả 5 anh em trong ban chỉ huy quây quần tại lán hầm anh Lộc, uống nước trà. Lúc này hậu cần lâu lâu phân phối cho gói trà, to bằng bắp chân. Chỉ việc nấu nước sôi đổ vào bình tông và bỏ trà vào cái ca inox Mỹ (đồ chiến lợi phẩm) chụp ngược bình tông nước sôi lên chiếc ca, là đã có được ấm trà tuyệt hảo. Sau khi rót một loạt ra bát (lúc này chẳng có ly cốc gì) nếu thấy cạn chỉ nhắc nhẹ bình tông lên là nước lại ùng ục tuôn xuống ca, tiếp tục hòa tan trà cho những lần rót tiếp sau. Nhấp ngụm trà nóng, hưởng phút giây thanh bình hiếm hoi giữa chiến trường, tôi không thể ngờ rằng đây là lần cuối cùng tôi được ngồi cùng anh Lộc trong căn hầm này…
Khoảng 7h sáng, bỗng nghe tiếng “Ùng” từ hướng một con suối cách vị trí đóng quân độ 200m. Thời kỳ này đã bước sang đầu mùa mưa nên các dòng suối đã nhiều nước bộ đội ta thường ra đây tắm giặt. Chúng tôi nhìn nhau lo lắng. Không hiểu có chuyện gì xảy ra…
“Lại mấy chú nhóc nhà mình đi ném cá đây”: anh Lộc buột miệng. Tôi quơ đại khẩu súng ngắn choàng vào lưng: “Các anh ở nhà, tôi ra đó xem sao”.
Tôi nhắm hướng tiếng bộc phá mới nổ chạy thật lực, tới nơi thì một cảnh tượng bi hài hiếm có khiến tôi sửng sốt. Trên bờ suối, đ/c Toản trung đội 1 không một mảnh vải che thân đang đứng chống nạnh, miệng không ngừng văng ra những câu tục tĩu… Trong bụi cây gần đó đ/c Tuých trung đội 3 cũng như “nhộng” ngồi co rúm như một con mèo bị đánh…
Thấy tôi xuất hiện, đ/c Tuých như vớ được “vị cứu tinh”, ngay lập tức trong bụi phóng ra và tỏ rỏ vẻ “anh hùng”, nhào đến đ/c Toản gây gổ, chân tay vung loạn xạ… Hai chú nhóc chẳng để ý gì đến “ trang thiết bị” đang “phơi” giữa thanh thiên bạch nhật, cứ lòng thà lòng thòng…
Tôi vừa buồn cười, vừa quạo, vội thét toáng lên “ra dáng người chỉ huy”:
- “Hai đồng chí có thôi ngay đi không! Mặc quần áo vào”.
Cảm nhận được âm thanh “rất uy lực”. Toản và Tuých lầm lì di tìm quần áo mặc. Tôi khoát tay 2 đ/c đến gần kéo ngồi xuống cạnh:
- “Sao? Có chuyện gì xảy ra?”
Đ/c Tuých xỉa xỉa: “Nó chọi bộc phá suýt nữa em chết”.
Đ/c Toản rống lại: “Em và nó đang tắm. Gặp mấy con cá to quẫy gần. Em lên bờ, lấy quả bộc phá đem theo. Bảo nó lên để em chọi cá. Nó đã không lên, còn hụp xuống, chổng đít lên mặt nước, bảo em ăn cái… của nó… Tức quá, em cho nó luôn một quả. Nhưng em thừa biết quả này chỉ có 200gr lại xa 4 - 5m làm sao nó chết được”.
Vừa tức vừa buồn cười, vừa mừng vì hai “thằng” không làm sao, tôi ân cần khuyên giải rồi dẫn 2 đ/c trở về đơn vị.
Đ/c Toản xạ thủ B41 trung đội 1
Đ/c Tuých xạ thủ B41 trung đội 3
Cả hai đều là người dân tộc, bổ sung đợt với đ/c Thành và tính khí giống hệt nhau. Bình thường đ/c Tuých ở trung đội 3, ỷ mình có sức khỏe chẳng biết sợ ai. Hôm nay gặp người “cao tay ấn” nên chịu “cụp vòi”. Các cụ xưa thường có câu: “Lấy độc trị độc” mà.
Các anh trong ban chỉ huy thống nhất chỉ mời 2 đ/c trung đội trưởng lên nhắc nhở, để có điều kiện giúp đỡ, kềm cặp Toản và Tuých (là 2 hạt nhân thực sự của 2 trung đội đấy).
11h, chuông điện thoại hữu tuyến của hầm ban chỉ huy reo vang. Anh Lộc vội đến nhấc máy. Tiểu đoàn thông báo: “Trận địa anh Đỉnh đang bị bao vây. Các mũi khác cũng đang nổ súng”.
Anh Lộc lệnh cho các trung đội gom hết quân số còn lại và dẫn đầu đoàn quân, theo sau là anh Thiệp. Anh dặn 3 người chúng tôi ở lại. Anh Ưng, anh Nhưng cứ quyết đi theo.
Vậy là đoàn quân súng đạn đầy đủ, hộc tốc ra hướng trận địa, súng đang nổ đì đùng.
Tôi ở nhà với bộ phận phía sau mà ruột gan cứ rối bời. Bước ra, bước vô… chui lên, chui xuống… tiếng súng xa xa nơi trận địa cứ rền vang lúc trầm… lúc bổng… lúc liên tục… lúc lại thưa thớt… Con tim tôi cứ thổn thức, nhịp nhàng cũng lên… cũng xuống như tiếng súng ngoài trận địa Những người anh, người em, người đồng đội không biết lúc này ra sao?
Phải đến tận 6h tối mới có một vài cáng thương và liệt sĩ về tới đơn vị. Tôi vội ra đón và tiếng đồng hồ sau đã có hơn chục cáng. Người đầu tiên trong ban chỉ huy tôi gặp được là anh Ưng. Tôi vội hỏi dồn: “Các anh có sao không?”
Mắt tôi bỗng nhạt nhòa, đầu tôi choáng váng…: “Anh Lộc hi sinh rồi, anh Đỉnh bị thương nặng.”… Thêm 15 phút nữa, cáng 2 anh về tới. Tôi vội vàng sắp xếp cho cáng anh Đỉnh và 4 thương binh chuyển ngay lên trạm cấp cứu trung đoàn. Mấy đ/c bị thương nhẹ được y tá băng bó, uống thuốc và ở lại đơn vị.
11 liệt sỹ chúng tôi sắp xếp và lại mang ra vị trí tối qua. “Đào đất, hạ huyệt”... Đ/c văn thư còn cẩn thận lấy từng lọ thuốc Peniciline viết trích ngang từng người bỏ theo từng mộ. Để sau này có dịp khai quật khỏi bị nhầm lẫn.
Cả đại đội làm lễ truy điệu cho 11đ/c hi sinh trong đó có anh Lộc. Người mà tôi đã coi như người anh ruột. Lúc hạ anh xuống huyệt để đồng đội thảy những leng đất lấp dần anh. Tim tôi quặn đau như muốn xé toang lồng ngực, nước mắt tôi thấm đẫm nơi anh nằm. Vừa thương anh, vừa cảm thấy mình giống như bị “côi cút, bơ vơ”. Cả đoàn quân cứ vây quanh mộ anh và những đồng đội vừa hi sinh khóc thương như không có gì đau đớn hơn thế, nước mắt của chúng tôi rơi như mưa xuống từng nấm đất nhỏ vừa chôn cất đồng đội. Lòng chúng tôi nghẹn ngào thầm hứa trả thù cho đồng đội.
Hình ảnh giống như trong bài thơ Viếng bạn của nhà thơ Hoàng Lộc:
“ Hôm qua còn theo anh.
Đi ra đường quốc lộ.
Hôm nay đã chặt cành.
Đắp cho người dưới mộ.
Đứa nào bắn anh đó.
Súng nào nhằm trúng anh.
Khôn thiêng xin chỉ mặt.
Gọi tên nó ra anh…
…..
Mai mốt bên cửa rừng.
Anh có nghe súng nổ.
Là chúng tôi đang cố.
Tiêu diệt kẻ thù chung.”
Đ/c Hoạt trung đội trưởng trung đội 2 nghẹn ngào kể lại:
- “Nếu không có đại đội trưởng Lộc dẫn quân đến kịp thời thì trung đội em và cả anh Đỉnh chắc đã nghẻo hết… 8h sáng, xe tăng địch mới nổ máy đi càn. Em và anh Đỉnh chỉ tập trung chú ý cho bộ đội phòng thủ hướng trước mặt. Lúc 9h, lực lượng 2 bên gặp nhau. Lần này tụi nó khôn lắm. Cứ ở cách xa vài trăm mét mà bắn lai rai. Tụi em chưa nổ súng vì chỉ tốn đạn. Mấy quả mìn định hướng và mìn Claymo cũng chưa được phát huy hiệu lực. Địch đã phát hiện được bãi mìn chống tăng của ta nên xe tăng chúng cứ thập thò ở xa. Bất ngờ, ở hướng cánh trái và hướng sau lưng trận địa chúng em quân địch xuất hiện. Anh Đỉnh nói với em giọng rất bình tĩnh: “Chúng ta bị địch bao vây rồi”. Thì ra trong lúc làm cho chúng em chú ý về phía trước, địch đã dùng một mũi cắt sâu về bên cánh trái, vòng lại quặp vào sau lưng đội hình phòng ngự của ta. Anh bèn giao cho em chỉ huy bộ đội phòng thủ phía trước. Và truyền lệnh ½ quân số quay lại, chiến đấu bảo vệ phía sau.
Bộ đội ta cơ động khỏi công sự do anh chỉ huy vượt lên chiếm lĩnh các gốc cây, ụ mối. Khi chỉ còn cách địch 30 – 40m là hàng loạt lựu đạn được tung lên vào đội hình địch cộng với những loạt AK đanh gọn diệt ngay những tốp lính đi đầu.
Bọn địch lùi lại và nằm ẹp xuống các gốc cây rừng, thi nhau xả đạn.
Hướng trận địa phía trước bọn địch hưng phấn và hí hửng vì đã kẹp được ta vào giữa. Lũ bộ binh “lóc nhóc” xông lên thực hiện chiến thuật: “Trước đánh vào, sau đánh tới”.
2 tiếng “Ầm ầm” mấy tốp lính dính mìn DH10 và Claymo banh xác. Chúng hoảng loạn không dám liều lĩnh rồi lùi lại từ xa vãi đạn. cả 2 mặt trận trước sau địch cũng không tiến thêm được một bước nào. Chúng thừa hiểu nếu tiến lên bằng bộ binh trong rừng cây thì chỉ làm mồi cho quân giải phóng. Bởi ưu thế của chúng là hỏa lực dày đặc, binh lực đông nhưng bị cây rừng che chắn thì làm sao chúng phát huy được. Bộ đội ta lại chiến đấu rất “lỳ”, đã nổ súng là xác giặc lăn nhào.
Địch quyết định dùng xe tăng đột kích để yểm trợ cho lũ bộ binh. Ngược lại bọn bộ binh cứ phải tiến trước để “vô hiệu” tầm đạn xuyên thép của những khẩu súng chống tăng của ta... Lũ bộ binh địch vừa tiến trước vừa dò mìn để cho lũ xe tăng bò theo. Bộ đội ta lại thi nhau bắn tỉa hạ những tên địch liều mạng đem máy dò mìn, làm cho lũ xe tăng sợ vấp mìn cũng nằm ỳ tại chỗ.
Ở mặt trận phía sau địch đã tổ chức tấn công nhiều đợt nhưng vẫn chưa thể phá vỡ được trận địa. Lúc này anh Đỉnh sử dụng khẩu AK của đồng đội đã hi sinh bình tĩnh nhả từng loạt đạn vào tốp địch đang trườn tới. Nhiều tên địch rống lên rồi nằm im.
Một mảnh lựu đạn của địch làm gãy ống chân bên trái, anh mở cuốn băng cá nhân cột lại cầm máu và tiếp tục vừa nổ súng, vừa chỉ huy bộ đội tiêu diệt những tốp lính đang liều mạng xông đến
Lúc 13h, bỗng ở phía sau hàng loạt đạn bất ngờ găm vào lưng địch (đoàn quân chi viện do anh Lộc chỉ huy đã kịp đến) bọn địch hoảng hốt quay lại chống đỡ. Trận địa mịt mù khói lửa giữa ta và địch cứ đan xen. Biết không chịu nổi, địch phải mở đường máu cánh trái tháo chạy. Trong lúc điên cuồng, chúng tung đủ các loại đạn về hướng anh Lộc. Một viên đạn A R15 trúng đầu, anh Lộc ngã xuống.
Bọn địch ở phía sau liều chết thoát thân để lại nhiều xác chết và vũ khí cá nhân. Trận địa ta 2 bên gặp nhau như tiếp thêm sức mạnh hơn bất cứ lúc nào. Hướng trước mặt lũ bộ binh và xe tăng địch nhắm không kham nổi nên tiếng súng và tiếng xe tăng địch cũng xa dần: Địch đã rút lui”.
Ở trận địa C5 và C7, địch cũng chẳng tiến thêm được một bước rồi cũng lại lặng lẽ lui quân. Trận đánh phục kích ngày hôm đó, tiểu đoàn 2 (mà sau này là nòng cốt thành lập trung đoàn 207) đã chặn đứng 3 mũi tiến quân của địch. Tiêu diệt hon 40 tên địch, phía ta hi sinh trên 20 đ/c và gần 10 đ/c bị thương…
Đêm hôm đó, cả ban chỉ huy còn lại hầu như không ngủ. Nhớ lại hồi tối, sau khi mai táng anh Lộc và các chiến sĩ xong. Tôi như người “mất hồn”. Anh Thiệp cứ phải luôn miệng nhắc: “Kiên ơi! cái này… rồi Kiên ơi! Cái kia…” thau cơm của C Bộ bữa đó, như mọi lần thì sạch sẽ, bữa nay hầu như nguyên vẹn. Tôi chỉ nuốt được mấy miếng mà cảm thấy vị mặn chát của những giọt nước mắt chan chứa trong cơm.
Hình ảnh của anh Lộc và 10 chiến sĩ cứ hiện rõ trong tâm trí tôi. Cũng bằng giờ này đêm qua anh còn hăng hái xuống tận các lán trại trung đội, kiểm tra đôn đốc bộ đội để anh Đỉnh xuất kích. Rồi mới sáng nay còn cùng chúng tôi uống trà. Tôi còn nhớ như in câu nói của anh: “Chắc lại mấy chú nhóc đi chọi cá đây”. Vậy mà giờ đây thân xác anh đã vùi sâu trong lòng đất. Căn hầm mà từ trước đến giờ tôi vẫn được ngủ cạnh anh từ nay vĩnh viễn vắng anh rồi…! Người anh thân thiết ân cần luôn chia sẻ khó khăn trong lửa đạn, người chỉ huy dũng cảm tài ba… “Cả trung đoàn cũng chỉ đếm được trên đầu ngón tay”. Nước mắt tôi lại chảy dài! Và lòng căm thù trào sôi!
“ …Khóc anh không nước mắt.
Mà lòng đau như cắt.
Gọi anh chửa thành lời.
Mà hàm răng nghiến chặt…” (Viếng bạn-Hoàng Lộc)
Thấy tôi cứ ngơ ngơ ngác ngác, hiểu rõ được tâm trạng của tôi, anh Thiệp lại đến bên vỗ về an ủi: “Thôi Kiên đừng quá đau lòng, em cứ khóc hoài làm sao anh Lộc và những đồng đội mình được yên lòng nơi chin suối”….
Tôi gạt nước mắt vội nắm lấy tay anh: “Hay là trận phục kích ngày mai mình đề nghị sử dụng hết binh hỏa lực của cả tiểu đoàn, của cả trung đoàn, của cả sư đoàn nện cho chúng một trận nghe anh. Em mà làm sư đoàn trưởng thì cái cụm xe tăng và mấy cụm pháo hướng lộ đỏ ngoài kia em đã cho “ thịt” tụi nó lâu rồi. Chứ đâu cứ để bộ đội mình chịu cái cảnh: Đánh nhỏ đánh lẻ, phục kích nhỏ lẻ. Tụi nó mới có cơ hội bao vây anh Đỉnh dẫn đến anh Lộc và 10 đ/c chiến sĩ hi sinh!”.
Anh Thiệp mỉm cười: “Trước sau gì cái chức đó sẽ là của em và còn có thể cao hơn nữa. Nhưng bây giờ em còn quá trẻ. Ở vị trí cái tuổi của em bây giờ toàn trung đoàn cũng chỉ có vài ba người thôi đấy”.... Bỗng chuông điện thoại nổ giòn. Đ/c thông tin hữu tuyến của tiểu đoàn tăng cường đến truyền đạt lệnh: “Tiểu đoàn mời đích danh anh Ưng, anh Thiệp lên họp gấp”.
Lúc này là 10h tối. Bộ phân nuôi quân cũng đang chuẩn bị những vắt cơm để cho cánh đêm nay đến phiên đi phục kích đánh địch ngày mai. Anh Ưng và anh Thiệp đi rồi, tôi chui xuống hầm và phán đoán: “Họp khẩn cấp” chắc là được đánh lớn đây… rồi thiếp đi…
1h sáng (phiên trực của đồng chí gác đêm) xuống hầm đánh thức tôi dậy. Anh Ưng và anh Thiệp đi họp cũng vừa về tới. Mắt vẫn còn cay xè vì mới thiếp đi được một chút. Tôi vội vã bật dậy, tháo võng, nai nịt gọn gàng.
Cái đèn dầu le lói được anh Ưng thắp lên ngay trên nắp hầm của tôi và anh Lộc. (Lúc đó bộ đội ta thường cưa quả đạn M79 lép. Rồi lấy vỏ ống bút bi bằng nhôm dẫn tim đèn để thắp làm việc ban đêm trong hậu cứ). Anh Ưng thông báo họp ban chỉ huy và các trung đội trưởng khẩn cấp.
Tôi khoái quá. Vậy là được đánh lớn rồi: “Cứ như là tiên đoán”, phen này có dịp trả thù cho anh Lộc và đồng đội đây…
Khoảng 10 phút sau, 3 đ/c trung đội trưởng đã có mặt. Tôi và anh Nhưng cũng được mời tới. Lúc đầu là giọng nói của anh Thiệp rất nhỏ nhẹ và đầy vẻ khiêm tốn:
- “Đ/c Ưng được chỉ định thay thế đ/c Lộc làm đại đội trưởng. Tôi (anh Thiệp) được chỉ định làm chính trị viên thay đ/c Đỉnh. Đề nghị các đ/c giúp đỡ chúng tôi hoàn thành nhiệm vụ”.
Lẹt đẹt ít tiếng vỗ tay. Cũng chỉ có mấy người làm sao “rôm rả” như hội nghị bây giờ được? Và cũng chỉ là quyết định truyền miệng từ trung đoàn, tiểu đoàn, còn giấy tờ thì để sau. Trong chiến đấu thường là như vậy. Có khi bổ nhiệm chức vụ ngay chỉ trong tích tắc. Chủ yếu cho đơn vị có người chỉ huy không bị như “rắn mất đầu” và những đ/c được nhận phong chức thêm trách nhiệm nặng nề. Còn cuộc sống vẫn thế, vẫn là “đồng cam cộng khổ” cùng nhau, với những trận đánh ác liệt.
Xin giải thích thêm là: Lúc còn ngoài miền Bắc, chúng tôi được ăn đều chi 700gr gạo/ngày, bằng 21kg/tháng. Phụ cấp của chiến sĩ, hạ sỹ quan, lương sỹ quan cũng khác nhau. (Càng có cấp bậc, chức vụ cao hơn lương cũng càng cao). Chỉ mới tính lương chính:
• Chuẩn úy = 54 đồng (một chỉ vàng là 40 đồng)
• Thiếu úy = 65 đồng
• Trung úy = 75 đồng
• Thượng úy = 86 đồng
• Đại úy = 100 đồng v.v…
Vậy mà khi làm lễ “hạ sao” (nghĩa là chuyển từ Quân đội nhân dân Việt Nam thành Quân giải phóng miền Nam Việt Nam) thì chế độ cũng chuyển sang “cào bằng”. Tất cả bộ đội cùng no đói bên nhau.
Ở chiến trường, lương thực, quân trang đều chẳng có quy luật gì cả. Nhiều lúc đến kho gạo: “Tự giác” bộ đội ta được thoải mái lấy. Nhưng sức người có hạn, cõng làm sao được nhiều? Thời gian lại dài, vậy là bộ đội ta đâu dám ăn no, phải để dành cho những ngày sau chứ! Quân trang, quần áo cũng vậy, quân nhu lo được thì cấp, không có thì thôi. Cũng chẳng ai đòi hỏi thắc mắc. VÌ vậy qua những trận đánh, nhiều cán bộ, chiến sĩ quần áo rách nát tả tơi…lòi cả đít, cả đùi, cả chân, cả bụng… Ôi! Nhìn thấy thật thương mà chẳng biết làm sao! Riêng “tiền lương” thì chỉ có 2 bậc duy nhất:
• Hạ sĩ quan và chiến sĩ là 300 đồng (tiền Sài Gòn) tương đương với 30 ria (tiền Campuchia)
• Sỹ quan là 500 đồng tương đương với 50 ria.
Với số tiền nêu trên chỉ mua được vài gói kẹo, gói trà, cục xà bông, cây kem đánh răng. Vậy mà tiền vẫn “xài không hết” vì chỉ có rừng và núi nên biết mua hàng ở đâu?...
Sau khi anh Thiệp nói xong tới anh Ưng có vẻ nghiêm nghị hơn:
“Đêm nay đơn vị dừng đi phục kích. Sáng mai cơm nước sớm và mỗi người có một vắt cơm. Đem theo tất cả mọi thứ. Đúng 5h30 hành quân di chuyển”.
Tôi liền “toáng lên”: Vậy là thế nào anh Ưng! Không được đánh nữa hả? Mấy bố cấp trên sao mà “nhát thế”. Cả 3 – 4 sư đoàn trong tay vậy mà nửa tháng nay cứ bắt đánh nhỏ, đánh lẻ. Phục kích nhỏ, lẻ. Bây giờ có dịp không nện cho tụi nó một trận, lại còn bắt hành quân dời vị trí. Bỏ anh Lộc và đồng đội nằm heo hút nơi này sao??? Cả anh Nhưng và 3 đ/c trung đội trưởng cũng “hậm hực” ủng hộ ý kiến tôi.
Anh Thiệp phải nghiêm nghị giải thích: “Tôi và đ/c Ưng cũng như các đ/c thôi. Ở cuộc họp tiểu đoàn mới nãy, không những chúng tôi và các đại đội 5 – 7 – 8 cũng đều lên tiếng. Nhưng cũng phải “chịu thua”. Đ/c chính trị viên tiểu đoàn giải thích rất cặn kẽ: Đây là ý định của quân ủy trung ương của bộ chỉ huy chiến dịch, chúng ta không được nôn nóng. Chúng ta phải tuyệt đối chấp hành mệnh lệnh…”.
Mãi sau này chúng tôi mới hiểu được ý định tác chiến của trên. Lúc đầu mở trận càn, địch còn đang sung sức, vì có quân Mỹ trực tiếp tham chiến nên hỏa lực của chúng thật là hùng hậu. Nếu ta quyết định đối đầu ngay với chúng sẽ lọt đúng ý đồ chi viện hỏa lực tối đa, “đánh nhanh, thắng nhanh” của địch. Ta cố ý cho các đơn vị chủ lực luồn lách, để kéo chúng rời xa biên giới, làm cho việc vận chuyển hậu cần của chúng gặp khó khăn, tinh thần của chúng uể oải. Chọn đúng địa điểm và thời cơ thích hợp, mà sau này chính là: “Chiến dịch tổng phản công” từ 20 – 30/06/1970 của cả 3 sư đoàn 5 + 7 + 9 và đoàn pháo 75 giáng cho chúng trận đòn thất điên bát đảo. Đập tan trận càn Đông Dương mà cả bọn quan thầy chúng hí hửng. Tạo thế và lực cho cuộc kháng chiến của nhân dân 2 nước Việt Nam – Campuchia. Tiến tới giành thắng lợi hoàn toàn sau này…
THÀNH LẬP TRUNG ĐOÀN 207 VÀ TRẬN ĐÁNH MỞ MÀN
Tiểu đoàn 2 được lệnh hành quân rời vị trí. Sau 3 ngày chúng tôi đến điểm tập kết tại một khu rừng (gần Sa Lông – Cần Ché CPC). Mới dừng chân được ít tiếng đồng hồ, anh Ưng, anh Thiệp đã có lệnh đi họp. Lúc 2 anh trở về đơn vị, tôi “lấm lét” thăm dò. Thấy khuôn mặt 2 anh không buồn mà cũng không vui, “chịu” chẳng biết đường nào mà đoán cả.
Rồi vào cuộc họp chi ủy, chi bộ tụi tôi mới vỡ lẽ: cấp trên quyết định dùng tiểu đoàn 2 làm nòng cốt thành lập trung đoàn mới để làm nhiệm vụ đặc biệt (Đã có một tiểu đoàn của đơn vị bạn vào thế chân trong đội hình trung đoàn 141).
“Làm nhiệm vụ đặc biệt” thì cảm thấy vinh dự. Còn phải tách ra khỏi đơn vị, nơi đã có biết bao kỷ niệm gắn bó, thân thương thì làm sao vui được. Dẫu biết rằng đâu cũng là nhiệm vụ, đâu cũng là người lính, người chiến sĩ Giải phóng quân... Vậy rồi, một QUYẾT ĐỊNH từ quân ủy trung ương thành lâp trung đoàn chính quy mới “độc lập” đã được công bố. Công tác tổ chức cũng được nhanh chóng thông báo.
Đ/c Ba Trắc trung đoàn trưởng
Đ/c Phạm Dốc chính ủy
Đ/c Nông Ngọc Cận trung đoàn phó
Đ/c Tư Sen phó chính ủy.
Cùng 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cũng được hình thành.
Tiểu đoàn 2 điều một số cán bộ cấp D, C, B tăng cường cho 3 cơ quan, và các đơn vị trực thuộc. Anh Bảy Việt được điều về làm chính trị viên tiểu đoàn 1. Anh Lợi chính trị viên đại đội 7 được điều về làm trợ lý cán bộ trung đoàn. Anh Đương đại đội 5 được điều về làm trợ lý tổ chức trung đoàn. Anh Trực được điều về làm trợ lý địch vận trung đoàn… Nhờ nguồn cán bộ tương đối dồi dào vì lúc này cán bộ cấp C + D ở các sư đoàn chủ lực thường là bộ 6 có khi 7.
Đại đội 6 ban chỉ huy giữ nguyên (vì vừa mới khuyết 2 người: anh Lộc, anh Đỉnh) chỉ điều 2 trung đội trưởng 2 + 3 làm cán bộ đại đội cho các đơn vị trực thuộc trung đoàn
Sau khi đã hình thành cái xương sống (tất nhiên là phải có sự chi viện tối đa của cấp trên) quân số, trang bị vũ khí được bổ sung ngay. Ngày 2/7/1970, trung đoàn chính thức ra mắt và được mang tên TRUNG ĐOÀN 207
Lúc đầu là 3 cơ quan, 2 tiểu đoàn bộ binh 1 +2 và 9 đại đội trực thuộc sau một thời gian tiếp tục thành lập tiểu đoàn 3
Bộ đội được học tập, chỉnh huấn xác định rõ nhiệm vụ và kẻ thù của nhân dân 3 nước Đông Dương. Quân Mỹ vẫn là “trùm sỏ” đang trực tiếp điều khiển quân Ngụy Sài Gòn + quân Ngụy Lon Non hòng dập tắt cuộc cách mạng của nhân dân 2 nước Việt Nam – Căm Pu Chia
Chính phủ đoàn kết dân tộc Căm Pu Chia, mặt trận thống nhất Căm Pu Chia và quân giải phóng Căm Pu Chia đã được thành lập nhưng còn rất non trẻ. Để đối đầu với quân Mỹ, quân Ngụy Sài Gòn, quân Ngụy Lon Non lúc này chủ yếu vẫn là Quân giải phóng miền Nam Việt Nam.
Do yêu cầu của bạn, Bộ chính trị và quân ủy trung ương thành lập quân khu C40 để giúp nhân dân CPC tiêu diệt kẻ thù chung, mở rộng vùng giải phóng làm bàn đạp cho quân đội và nhân dân 2 nước tiếp tục cuộc cách mạng giải phóng dân tộc. Trung đoàn 207 được bàn giao trực thuộc quân khu C40 (Cũng phải nói thêm là: kể từ cuộc kháng chiến chống Mỹ về sau này, chúng ta đã có 2 lần đưa quân tình nguyện Việt Nam sang giúp nước bạn. Đánh quân Ngụy Lon Non từ 1970 – 1975. Đánh quân Pôn Pốt từ 1979-1989).
Ngày 15/08/1970, chúng tôi được lệnh hành quân tiến sâu vào đất bạn. Đội hình hành quân cấp trung đoàn nhưng mỗi tiểu đoàn cách nhau một giờ và mỗi đại đội cách nhau 20 phút.
Tới ngày 18/08/1970, khoảng 9h sáng chúng tôi phải vượt qua một con suối rộng độ 30m nhưng rất sâu (chỉ có 1 chiếc xuồng nhỏ ưu tiên chở súng lớn và gạo) nên bộ đội ta phải tự lực. Tới ven suối anh Ưng ra lệnh dừng lại để chuẩn bị. Vậy là những kiến thức trong huấn luyện lúc này được đem ra áp dụng. Bộ đội ta trải tấm nylon che mưa xuống đất rồi cởi hết quần áo (chừa quần đùi) gói cùng ba lô (tất tần tật) chừa lại khẩu súng. Vậy là được chiếc phao, chỉ cần hạ xuống nước, đặt khẩu súng lên đẩy là qua sông, suối một cách dễ dàng (mà đồ đạc không bị ướt). Mấy chục chú lính tân binh mới bổ sung, mặt búng ra sữa, sợ mặc quần đùi ướt hành quân dễ bị “hắc lào” đùi có sẹo, xấu, sau này trở về khó kiếm vợ… bèn tuột hết cả quần áo gói vào bọc nylon. Bởi ở đây toàn “đực rựa” các “tướng” chả thấy “nhằm nhò gì”, mặt cứ tỉnh bơ.
Thật không may cho mấy tướng nhà ta. Còn đang “tồng ngà tồng ngồng” chưa kịp xuống nước… thì bất ngờ có một tốp nữ (chắc là của bộ phận hậu cần quân khu) cũng hành quân cùng chiều ở phía sau lướt tới. Mấy chục chú lính “hoảng hồn” phóng ào xuống nước. Chú nào chú nấy tìm cách thoát thân… Nhìn cái cảnh mấy chàng bộ đội “ bì bà bì bõm” giành nhau vượt suối, nước suối trong vắt khó bề che dấu, các cô gái đều ôm mặt cười. Các chú lính trẻ bị một phen “nhớ đời”…
Sau 5 ngày đêm băng rừng lội suối, chúng tôi đã tới một phum (sóc) gần quốc lộ số 6, tất cả được lệnh dừng chân.
Thị xã KomPông Thơm nằm ngay trên quốc lộ số 6. Đường số 6 Bắt nguồn từ Xi Kun chạy qua Tăng Cốc, Ba Khom, Ba Rài, Kom Pông Thơ Mo, Tăng Cà Xăng. Qua Kom Pông Thơm, chạy gần như song song với đường số 5 đến Xiêm Riệp, vào Bắc Tam Băng và gặp đường số 5 gần biên giới Thái Lan.
Đường số 5 chạy từ Phnom Pênh qua U Đông, Kom Pông Chi Năng, qua Pua Sát tới Bắc Tam Băng rồi gặp đường số 6 (con đường số 5 này khi đánh tụi Pôn Pốt lúc đã về sư đoàn 339 tôi và đ/c Thi cứ đi lại như cơm bữa nên cũng rất rành các ngóc ngách của con đường này).
Từ chỗ dừng chân ra đường số 6 rồi về thị xã Kom Pông Thơm. Hai bên đường dân cư đông đúc và những phum sóc thành cụm làng mạc mọc xen giữa cánh đồng lúa mênh mông bát ngát. Nhân dân Căm Pu Chia bao nhiêu năm được sống hòa bình dưới sự trị vì của quốc trưởng Nô rô dom Xi Ha Núc nền kinh tế tương đối phát đạt. Nhà cửa khang trang rộng rãi, vật dụng sinh hoạt chẳng thiếu thứ gì. Dân nông thôn đã có xe Honda 90. Nhiều gia đình ở thị xã có cả xe hơi bốn bánh. Con sông Kom Pông Thơ Mo chạy vắt ngang quốc lộ số 6. Là phân giới ngăn cách giữa vùng thành thị và nông thôn. Dưới sông cá nhiều vô kể. Cặp ven sông là những chiếc vó bè. Mỗi mẻ cất lên là vài ba ký cá đủ các cỡ.
Địch co cụm tới 8 tiểu đoàn quân Ngụy Lon Non ở các vùng lân cận dồn về. Dựa vào một mặt là sông 3 mặt là cánh đồng nước mệnh mông (lúc này là mùa mưa) thị xã Kom Pông Thơm chẳng khác gì một ốc đảo.
Sau mấy ngày trinh sát điều nghiên rất kỹ càng, quân khu sử dụng trung đoàn 207 và 2 tiểu đoàn đặc công tiến hành chiến thuật vây ép.
Tiểu đoàn 1 hướng Đông.
Tiểu đoàn 2 chính diện hướng Bắc
Một tiểu đoàn đặc công hướng Tây
Tiểu đoàn đặc công cơ giới hướng Nam (thời kỳ này quân khu mới được tăng cường tiểu đoàn đặc công, các chiến sĩ đều biết lái tất cả các loại xe tăng, và xe thiết giáp của địch để khi có chiến lợi phẩm là sử dụng được ngay).
Đêm 25/08/1970, từ các mũi, hướng bộ đội ta bí mật áp sát trận địa địch (lúc này nhân dân đã rời khỏi thị xã cách xa 4-5km) địch lợi dụng những khoảng trống làm công sự phòng thủ. Chúng coi hướng tiểu đoàn 2 có cầu vượt sông là hướng chính nên bố trí hỏa lực ở đây rất dày đặc. Đội hình tiểu đoàn 2 gồm có:
Đại đội 5 cánh trái
Đại đội 6 cánh phải
Đại đội 7 dự bị.
Đại đội 8 (hỏa lực)nằm phía sau chi viện.
Đại đội 6 chúng tôi đã sử dụng hết binh hỏa lực với hơn trăm tay súng và 2 khẩu cối 61.
Trung đội 1 ở giữa
Trung đội 2 cánh trái
Trung đội 3 cánh phải
12h khuya chúng tôi đã áp sát bờ sông tiến hành đào công sự. Con sông chỉ rộng độ 150m nên nghe rất rõ những âm thanh và hoạt động của bọn lính gác đêm ở bên kia.
4h sáng, pháo cầu vồng của ta bắt đầu nhả đạn. Đầu tiên là cối 120 ly của quân khu tăng cường chỉ nghe tiếng ồng ộc đề pa từ phía sau, qua đầu là những tiếng hu hú và ầm ầm ngay trận địa đầu cầu bên kia của địch. Rồi tiếp tới cối 82 của trung đoàn, tiểu đoàn. 2 khẩu cối 61 của A hỏa lực C6 tụi tôi cũng “công cốc” đề pa. Trận địa phía đầu cầu bên kia của địch mịt mù khói lửa.
4h30 địch bắt đầu phản pháo, cối 106.7 và cối 81 gần trung tâm thị xã bắn ra. Đạn của địch nổ tứ tung xung quanh trận địa ta, quả gần quả xa, chập chà chập chõm. Xác định được trận địa pháo địch. Pháo của ta tăng tầm chuyển làn. Khoảng 30 phút sau tiếng pháo địch dần dần thưa bớt.
5h30 trận địa DKZ57, DKZ75 và 12 ly 8 bắt đầu khai hỏa, xác định được những lô cốt và ụ súng của địch bên kia sông, DKZ thổi tung nhiều lô cốt và ụ súng địch. B41 của đại đội 5, đại đội 6 cũng bắt đầu phát huy hiệu lực. Từ bên kia sông, khẩu 12 ly 7 của địch “cùng cùng” nhả đạn. Đ/c Toản xạ thủ B41 phụt ngay một quả trúng đích, ụ súng của địch bên kia sông bung lên một ánh chớp, khẩu 12 ly 7 của địch im bặt. Anh Ưng lệnh cho các trung đội: lúc này B40, RBD, AK chưa được nổ súng để bảo tồn vũ khí (ở tầm xa chỉ gãi ngứa cho địch).
8h sáng các loại cối của ta và địch hầu như im hẳn. Chỉ còn lại 2 trận địa cách nhau một con sông. Thỉnh thoảng lại nghe tiếng ùng oàng của các khẩu DKZ, B41 khi phát hiện được ụ súng địch.
Cả ngày hôm đó 26/08/1970, toàn bộ trận địa bên này sông của tiểu đoàn 2 và trận địa bên kia sông của địch vẫn chỉ nổ súng ở những hỏa lực tầm xa. Bên hướng tiểu đoàn 1 và hướng đặc công cũng vậy. Và cứ như thế liên tiếp qua đêm 26, ngày 27, qua đêm 27, ngày 28, hai bên vẫn cố gắng bảo toàn lực lượng. Ta rải quân vòng ngoài, địch cố thủ bên trong.
16h ngày 28/8/1970 ban chỉ huy tiểu đoàn được mời về sở chỉ huy trung đoàn họp khẩn cấp. 18h anh Thiệp, anh Ưng được gọi về ban chỉ huy tiểu đoàn. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định “Thắt chặt vòng vây”.
Hướng tiểu đoàn 2 được trên tăng cường 6 khẩu DKZ75, 6 khẩu 12 ly 8, 6 khẩu cối 82.
Hướng tiểu đoàn một 4 khẩu DKB.
12h khuya, cối 120, cối 82 bắt đầu nả đạn vào trận địa địch (không cấp tập như ngày đầu nổ súng mà như kiểu bắn “cầm canh”). Lúc đầu địch còn phản ứng bằng cối 106.7 + cối 81 ly đến 2h sáng thì chúng im bặt. DKZ75 + DK57 + 12 ly 8 được điều lên tiền duyên trận địa.
2h30 sáng, đại đội 5 và 6 được lệnh vượt sông cách vị trí cầu khoảng 1km.Đại đội 6 Chúng tôi được một A trinh sát của tiểu đoàn bám địch ở đoạn sông này. Sau khi A trinh sát bí mật vượt sông trước bảo vệ bến bãi an toàn 6 chiếc thuyền bằng cây thốt nốt được nhân dân CPC giúp đỡ. Mỗi thuyền chở được khoảng 3 – 4 người. Chúng tôi tổ chức từng trung đội bí mật vượt sông. Đến 4h30 sáng, cả 2 đại đội 5 + 6 đã ém dọc bờ sông bên kia mà bọn địch vẫn chưa hay biết. 5h sáng, cối 120, cối 82, cối 61 dồn dập bắn phá trận địa địch bên kia đầu cầu. Đại đội 7 dự bị được lệnh chuẩn bị xung phong. 6 chiếc xe nồi đồng (lốp cao su) có gắn trọng liên 12 ly 8 do quân khu tăng cường được điều lên trước trận địa. Với những tiếng gầm rú của động cơ xe kết hợp hỏa lực trên xe vậy là các loại súng ở bên kia của dich thi nhau vãi đạn lên mặt cầu. Phát hiện được những ụ súng của địch các loại hỏa lực bắn thẳng của ta thỏa sức khóa mõm và dập tắt ngay những hỏa điểm địch.
2 mũi của đại đội 5 + 6 từ mé sông chọc lên ngay sườn quân địch. Bị bất ngờ toàn bộ quân địch ở đầu cầu tháo chạy thục mạng về phía sau. Đại đội 7 dũng mãnh vượt qua cầu….
Bị mất trận địa đầu cầu địch lùi sâu khoảng 500m lập trận địa cố thủ. Tiểu đoàn 2 tiếp tục truy bám địch và lập thành tuyến vây ép số 2. Hướng tiểu đoàn 1 cũng băng qua cánh đồng trong đêm chiếm lĩnh và đẩy lùi địch co vào gần 700m. Hướng của đặc công bộ đội cũng chiếm được trận địa phòng tuyến bên ngoài. Như vậy trận tập kích bất ngờ rạng sáng 29/081970 ta đã chiếm được phòng tuyến thứ nhất của địch. Toàn trung đoàn hi sinh trên 30đ/c mà thiệt hại nặng nhất là tiểu đoàn 1 vì lúc vượt qua đồng trống bị lộ, hỏa lực lại mỏng.
Chiến thuật vây ép của ta làm cho địch mỏi mệt và mất ăn mất ngủ. Cối 82 và 61 lâu lâu lại toong vào trận địa địch. 12 ly 8 thỉnh thoảng lại cùng cùng, toang toác. Đạn bắn tỉa lâu lâu lại bùm, chíu… Tạo nên một âm thanh rất “khủng bố” khiến quân địch mất ăn mất ngủ. Ban đêm địch sợ ta tập kích nên các loại súng của chúng cứ bắn loạn xạ chẳng có hiệu quả gì. Đêm 29 rồi cũng qua đi…
Tiếp ngày 30, qua ngày 1/9, lúc 10h sáng địch bắt đầu phản kích ra cả 4 hướng. Sau những loạt đạn và cối pháo là chúng la ó om sòm rồi xông ra như “ong vỡ tổ”. Địch bắn vào bất cứ chỗ nào, gầm nhà, góc phố, góc tường… Bộ đội ta cứ 2 người một công sự, phát hiện tốp địch thì tung lựu đạn diệt gọn, chúng phân tán thì bắn tỉa tiêu hao lính địch. Những loạt đạn AK của lính ta rất điệu nghệ, trăm phát trăm trúng, làm cho địch phải chùn bước không dám liều lĩnh. 16h chúng co đầu về vị trí phòng ngự chấm dứt một ngày phản kích điên cuồng.
20h ngày 1/9/1970, bộ đội ta được bổ sung đạn dược, đặc biệt được tăng cường nhiều lựu đạn mini (loại nhỏ dùng cho đặc công).
2h sáng ngày 2/9/1970 cả bốn hướng được lệnh tập kích tuyến phòng thủ số 2 của địch. Bộ đội ta lại bí mật áp sát trận địa địch. Hướng tiểu đoàn 2 bao gồm:
Đại đội 6 ở giữa chính diện, đại đội 5 cánh trái, đại đội 7 cánh phải.
Đại đội 8 hỏa lực + hỏa lực trung đoàn tăng cường nằm sau lưng bắn chi viện.
Đúng 4h sáng pháo các cỡ của ta lại ầm ầm nhả đạn. Những tiếng nổ long trời của cối 120ly, DKB, rồi đủ các cỡ từ 61 trở lên thi nhau khạc lửa. Trận địa “tưng bừng “ như đêm 30 Tết. Bọn địch dường như rất đỗi kinh hoàng.
Sau hơn 1h đồng hồ bọn địch thụt đầu dưới làn hỏa lực của ta.
5h30 sáng các mũi ào ạt xông lên. Phát hiện được xung lực của ta, 2 khẩu đại liên từ 2 góc nhà có bao cát làm công sự điên cuồng bắn ra. Cả đội hình đại đội 6 rạp xuống. 2 khẩu B40 của trung đội 1 đi đầu khai hỏa. 2 tiếng nổ đinh tai, 2 khẩu đại liên của địch câm họng. Anh Ưng dẫn trung đội 1 đánh thẳng vào trung tâm. Rồi tạt ra 2 bên. Nhiều hầm địch bị ăn lựu đạn, xác địch nằm co quắp trong hầm. Trung đội 2 và 3 cũng phát triển tiếp theo cùng tạt ra 2 hướng.
Hướng đại đội 5 + 7 cũng vượt qua tuyến phòng ngự đánh vào trung tâm.
Hướng tiểu đoàn 1 và các đơn vị đặc công cũng đánh chiếm xong vị trí phòng thủ số 2 của địch.
6h trời mờ sáng rất nhiều tốp địch từ trong nội ô kéo cờ trắng xin đầu hàng. Số ngoan cố lùi về tuyến phòng thủ số 3. Sáng hôm đó ngày 2/9/1970 hơn 1000 tù binh địch được đưa về tuyến sau. Anh Thiệp vặn chiếc đài chiến lợi phẩm thu được của địch. 8h sáng, giọng phát thanh viên vang lên hùng tráng: “Đây là tiếng nói Việt Nam, phát thanh từ Hà Nội, thủ đô nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa… mời các bạn nghe tin chiến thắng trên khắp chiến trường chào mừng ngày mùng 2/9 ngày khai sinh ra nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa”... Trong lòng chúng tôi dâng lên niềm tự hào và lâng lâng một niềm vui khó tả tự nhủ rằng “Ngày thiêng liêng của tổ quốc TRUNG ĐOÀN 207 đã có một chiến công lừng lẫy nhưng lúc này chắc ngoài Hà Nội chưa nhận được tin”…
Địch tập trung co cụm về tuyến cuối cùng. Bán kính phòng thủ của chúng còn khoảng 1 km Ta được lệnh tiếp tục siết chặt vòng vây. Quân số của địch lớp chết, lớp bị thương, lớp đầu hàng đã gần phân nửa. Trung đoàn đã hi sinh hơn 70 (các đơn vị bạn thì không rõ).
Trận địa phòng tuyến cuối cùng giữa ta và địch rất gần nhau có chỗ chưa đầy 100m. Cứ 2 người một công sự (1 ngủ nghỉ, 1 thức canh chừng), có thời cơ là nổ súng. Bọn địch bị ta vây ép mất ăn mất ngủ làm cho tinh thần chúng ngày càng suy nhược…
14h ngày 2/9, máy bay vận tải quân sự địch thả dù tiếp tế. Chỉ 1/2 lọt vào trận địa địch, còn 1/2 rớt ra ngoài “tiếp viện cho ta”. Đủ những hàng đồ hộp Mỹ, đạn Mỹ. Chúng còn cho rất nhiều phi vụ máy bay ném bom xung quanh trận địa ta nhưng không gây thiệt hại vì 2 trận địa đã quá gần nhau.
18h tiểu đoàn 2 được lệnh rút đại đội 6 lui về phía sau “Nhận nhiệm vụ mới”. Đại đội 5 + 7 phải rải quân ra thế chỗ. Bộ chỉ huy chiến dịch thông báo: để cứu nguy cho thị xã Kom Pông Thơm địch đã mở cuộc hành quân nhằm khai thông đường số 6. Ta mở chiến dịch mang tên “ Chen La 1” nhằm chặn đứng cuộc hành quân của địch…
18h, ngày 2/9/1970, C6 chúng tôi được lệnh rời khỏi trận địa “vây ép” tại thị xã Kom Pong Thom. Anh Ưng nhận được mệnh lệnh và cho liên lạc thông báo xuống các trung đội. Cũng phải chờ một trung đội của C5 và một trung đội của C7 vào vị trí thay thế. Chúng tôi bí mật bàn giao công sự và những mục tiêu quan trọng cho đơn vị bạn xong, mới lặng lẽ cho bộ đội lui về phía sau.
Được về phía sau mà trong lòng chúng tôi “tức anh ách”.
“Mấy bố cấp trên chơi kiểu gì…”. Gần đến giờ toàn thắng lại “đuổi” cánh tụi tôi ra. “Vậy còn có công bằng không?”. Bọn địch ở Kom Pong Thom đang sống dở, chết dở. Nếu cứ để cho đơn vị tôi tham gia vây ép, chúng tôi chắc chắn chẳng bao lâu nữa quân địch sẽ phải đầu hàng. Mà tại sao không phải là C5, C7 hay D1 mà lại nhằm vào đúng C6 tụi tôi? Vừa hành quân lui về phía sau, vừa “hậm hực” nghĩ vơ nghĩ vẩn… Chẳng mấy chốc chúng tôi đã vượt qua cầu trở về đúng vị trí xuất phát ban đầu khi mở màn cho trận đánh vây ép Kom Pong Thom. Đồng chí Huy tiểu đoàn phó kiêm tham mưu trưởng tiểu đoàn và một lực lượng cối pháo, đã chờ sẵn. Một cuộc hội ý chớp nhoáng ngay bên vệ đường do đ/c Huy tiểu đoàn phó kiêm tham mưu trưởng tiểu đoàn truyền đạt: “Đại đội 6 và hỏa lực tiểu đoàn, trung đoàn, tăng cường hành quân khẩn cấp…”1 máy thông tin vô tuyến của trung đoàn được phái xuống để nhận các chỉ thị mệnh lênh trực tiếp từ trung đoàn.
Hơn 30 chiếc xe honda 90 kéo thùng, do hậu cần trung đoàn thỏa thuận với nhân dân CPC được điều đến và bộ đội thứ tự sắp xếp lên xe. Cứ bình quân 6 người 1 xe (cả ba lô, súng đạn) riêng bộ phận hỏa lực thì chỉ 4 người (còn phải chừa trọng tải cho súng). Hai xe đi đầu là trinh sát tiểu đoàn. Kế đến là trung đội 1, trung đội 2, trung đội 3, rồi bộ phận hỏa lực. Đoàn quân “dũng mãnh” ngược đường số 6 về hướng thị trấn Kom Pong Tho Mo.
Lần đầu tiên hành quân bằng “cơ giới thô sơ”, lại ngồi bệt trên chiếc thùng gỗ (chiếc thùng này là phương tiện của nhân dân CPC để chất chở hàng hóa, có thùng còn hôi cả mùi phân heo, phân bò) bây giờ được vận dụng chở lính ta, thế mới “oách” chứ, đậm chất “chiến tranh nhân dân”… Đoàn xe cứ vùn vụt lao đi, ánh đèn pha loang loáng của xe sau nhìn rõ xe trước. Những hình ảnh lính ta nhiều lúc nghiêng bên này…ngã bên kia…chúi đầu về trước…ngửa người về sau…trông thật ngộ nghĩnh và gợi nhớ da diết những ngày thơ ấu theo xe Trâu ra đồng.
Nhưng tóm lại là “ vẫn sướng và nhanh hơn nhiều so với hành quân bộ”.
Khoảng 12h đêm chúng tôi đã đến vị trí tập kết. Được trinh sát quân khu và trung đoàn đã nằm sẵn ở đây từ bao giờ bàn giao trận địa. Bộ đội ta được lệnh triển khai đào công sự. Lúc này từ cán bộ đến chiến sĩ đã được phổ biến quán triệt nhiệm vụ của mình nên không còn băn khoăn gì nữa. Chúng tôi có nhiệm vụ chốt chặn phòng ngự đầu cầu bên này. Không cho địch vượt qua cầu, nhằm chặn đứng cuộc hành quân “khai thông đường số 6” của bọn Lon Non và quân Ngụy Sài Gòn. Trên thông báo lực lượng chúng tôi chỉ là tạm thời, sẽ có bộ phận khác tăng cường, chi viện trong thời gian ngắn nhất.
Cuộc hành quân của địch bắt đầu từ Xicun, sau 4 ngày chúng đã chiếm được 4 thị trấn trên đường số 6 là Tăng Cốc, Ba Khom, Ba Rài và một nửa thị trấn Kom Pong Tho Mo mà chúng chưa hề gặp phải sức kháng cự nào của ta. Chắc chắn ngày thứ năm sẽ xua quân vượt cầu tiến về thị trấn Tăng Cà Xăng.
Thị trấn Kom Pong Tho mo nằm 2 bên bờ sông. Con sông Kom Pong Tho Mo chảy vắt ngang từ thượng nguồn xuống tận hạ lưu. Nó rộng khoảng 300m nhưng rất sâu và nước chảy siết. Cầu Kom Pong Tho Mo là huyết mạch nối liền đường số 6 chạy về Tăng Cà Xăng rồi đến thị xã Kom Pong Thom. Thời gian đầu lực lượng của ta còn mỏng nên cấp trên quyết định chọn đầu cầu bên này làm trận địa phòng thủ chặn bước tiến quân của địch (đã có phương án dùng thuốc nổ đánh sập cầu nhưng cấp trên không đồng ý). Giữ cầu sau này cho ta và bạn vận chuyển hàng hóa nữa chứ.
Được trinh sát bám địch và bảo vệ, bộ đội ta trong đêm đã nhanh chóng đào công sự. Lợi dụng địa hình, địa vật ven sông, các công sự, các ụ súng của ta được hình thành và ngụy trang rất kỹ.
Trung đội 1 chính diện
Trung đội 2 cánh trái
Trung đội 3 cánh phải
Phía sau là trận địa cối 82, cối 61. Hai khẩu ĐKZ 75 + hai 12 ly 8 + 2 ĐKZ57 cũng được bố trí ngay trước tiền duyên trận địa. Hầm của ban chỉ huy có anh Huy tiểu đoàn phó gần ngay trận địa cối. Bộ phận nuôi quân nằm ở phía sau.
4h30 sáng, anh Huy, anh Ưng đã xuống trận địa của các trung đội, các điểm bố trí hỏa lực để kiểm tra. Mỗi người chúng tôi được 2 vắt cơm và một bình tông nước do bộ phận nuôi quân cung cấp.
5h30 bộ đội ta đã “cơm nước xong xuôi” (chừa lại một vắt cơm để trưa và chiều). Các họng súng của các chiến sĩ ta từ các công sự đã sẵn sàng nhả đạn.
6h trời đã sáng rõ.
7h sáng trôi qua.
Đúng 8h địch bắt đầu tấn công vượt cầu. Lính Lon Non đi trước, lính Sài Gòn theo sau. Mỗi thằng lính Lon Non đều đeo một chiếc bùa trên ngực. Chúng tin rằng, đeo bùa này thì đạn bắn không trúng mà trúng cũng không chết (Cam phơ lơn banh ót ngóp). Vì vậy chúng rất chủ quan và liều lĩnh. Tưởng dễ ăn như 4 ngày đã qua, chiếm được 4 vị trí như tiến quân vào chỗ không người (vì bộ đội ta chưa về kịp mà). Lúc này cũng thế, sau hồi kèn tây vang lên là chúng xông ào lên mặt cầu đông như kiến cỏ. Qua ống kính thu gần (ống nhòm) từ đài quan sát, những tên lính Lon Non đen thùi thũi, súng lăm lăm trên tay, vừa đi vừa la, vừa thét, mặt mũi đằng đằng sát khí.
Bộ đội ta được lệnh để chúng đến thật gần mới được nổ súng.
Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua, những tốp địch đi đầu đã tới giữa cầu rồi tới 2/3 cầu. Địch chỉ còn cách trận địa ta hơn 100m.
Bất ngờ, các loại hỏa lực bắn thẳng của ta đồng loạt “gầm lên”. Đạn 12 ly 8, trung liên đan xéo mặt cầu, B40, B41 thi nhau bắn hạ những tốp lính dồn cục. AK điểm từng loạt vào những tên cố sống cố chết vượt cầu. Cối 61, cối 82 nã đạn vào đội hình phía sau bên kia đầu cầu. Chiếc cầu dài khoảng 300m mịt mù khói đạn.
Sau hơn nửa giờ đồng hồ, địch vẫn không thể vượt qua cầu, số chết nằm ngổn ngang mặt cầu, số rơi xuống sông, số sống sót quay đầu tháo lui và trận địa tạm ngưng tiếng súng. Nhưng chỉ khoảng 20 phút sau, trận địa của chúng tôi bị hàng trăm quả đạn pháo 105 ly bắn phá. Các công sự của bộ đội ta tung mù khói bụi. Tường của nhà dân xung quanh bị bắn vỡ tan từng mảng, đá gạch dội xuống ào ào.
Sau đợt bắn phá dữ dội của pháo binh địch. Tiếng pháo vừa dứt ở phía đầu cầu bên kia, tiếng kèn tây lại vang lên và quân địch lại liều lĩnh ồ ạt xông lên mặt cầu. Các loại súng của ta ở các công sự lại thi nhau nhả đạn và xác địch lại chất lớp thêm trên mặt cầu.
Ngày hôm đó bộ đội ta đã anh dũng chiến đấu đẩy lùi 2 trận tiến công của địch mặc dù chúng tổ chức rất quy mô và có lực lượng đông hơn hẳn.
Màn đêm buông xuống, trận địa 2 bên đã im hẳn tiếng súng. Bộ phận trinh sát tiểu đoàn bí mật bám lên mặt cầu. Ở đầu cầu bên này hơn chục xác địch nằm chết chỏng queo. Ta thu 17 súng các loại. Ở gần giữa cầu và phía bên kia, rất nhiều vũng máu của địch, lênh láng trên mặt cầu. Địch đã lôi xác đồng bọn rút về phía bên kia đầu cầu cố thủ.
10h sáng ngày hôm sau, pháo binh địch bắt đầu bắn phá. Hàng trăm quả đạn 105, 155 phủ trùm xuống trận địa ta. Mảnh đạn bay vèo vèo, gạch đá bắn tung tóe. Bên kia đầu cầu 4 khẩu DKZ của địch cũng bắt đầu khai hỏa, 5 - 6 khẩu 12ly7 của địch đã “cùng cùng” vãi đạn. Thì ra địch đã điều hỏa lực bắn thẳng lên trước trận địa để chi viện cho lũ bộ binh.
Tiếng pháo địch vừa dứt, lũ bộ binh bắt đầu tấn công vượt cầu. Hôm nay bọn địch thận trọng hơn và không dám liều lĩnh (bởi những chiếc bùa đeo trên ngực chúng đã không có linh nghiệm). Bọn địch vừa đi lom khom, vừa bò từng tốp nhỏ sát rạt trên mặt cầu. Phía sau, 2 bên mé đầu cầu, trận địa DKZ và 12ly7 của chúng vẫn ầm ầm nhả đạn bắn chi viện. Nhiều thành công sự của ta bị DK địch thổi bay. Đạn 12 ly 7 vẫn “bốp chát, phầm phập” quanh các công sự, ụ súng của ta. Phát hiện được hỏa điểm của địch bên kia đầu cầu. DKZ75+ DKZ57 và B41 của ta bắt đầu khai hỏa. Nhiều cụm khói bung lên ở phía đầu cầu bên kia. Tiếng DKZ và 12ly7 của địch dần dần im bặt. Địch đã tiến gần phân nửa cầu, bên phía trận địa ta súng bộ binh vẫn còn nằm êm chờ cho quân địch đến gần hơn nữa.
Khoảng 11h trưa địch đã đến rất gần. Bất ngờ 12ly8 và trung liên của ta hạ nòng rà sát mặt cầu. Cối 61 + cối 82 được lệnh nhả đạn. Các xạ thủ AK điêu luyện hợp đồng hạ những tên địch vào đúng tầm đạn. Hơn 12h trưa, bọn địch sống sót trên mặt cầu lôi xác đồng bọn rút lui. Chấm dứt đợt tấn công mà chúng cho rằng: “Đã tinh khôn” hơn.
Ngay đêm đó bộ đội ta tiếp tục củng cố công sự và được hậu cần trung đoàn chi viện, bổ sung đạn dược. Đ/C chính ủy và trung đoàn trưởng gửi công điện khẩn cấp cho anh Huy và chúng tôi. Cấp trên chỉ thị: “ Cán bộ chiến sĩ trung đoàn 207 tiếp tục chốt giữ cầu” quân chi viện vẫn chưa về kịp. Vậy là những ngày tới sẽ rất gay go đối với 207 chúng tôi!
9h sáng ngày thứ 3, trận địa ta lại phải chịu những đợt bắn phá rất dữ dội của pháo binh địch.
9h45 vừa ngớt tiếng pháo thì đã nghe rất rõ tiếng động cơ và tiếng xích sắt của xe thiết giáp và xe tăng địch. Qua ống kính thu gần của đài quan sát. Một đoàn xe thiết giáp và xe tăng đã lấp ló bên kia đầu cầu. Địch quyết định dùng thiết giáp đột kích vượt cầu (cầu vừa nhỏ, trọng tải lại yếu) nên lũ xe tăng không dám bò qua.
Gần 10 chiếc M113 được vượt lên trước, theo sau là lũ bộ binh. Mỗi xe cách nhau độ 50m. Chiếc đi đầu mới tới giữa cầu thì đã ăn gọn mấy quả DKZ75+ DKZ57 và B41. Chiếc xe ngùn ngụt bốc cháy rồi tiếp theo chiếc xe thứ 2 cũng chung số phận. Các loại đạn nhọn bắn thẳng của ta cứ đan xéo ràn rạt trên mặt cầu. Lũ bộ binh hoảng hồn quay đầu tháo lui để lại 2 chiếc M113 trên cầu nghi ngút khói. Đoàn xe phía sau quay đầu tháo chạy và pháo cối địch sau lưng lại cấp tập bắn vào trận địa ta.
Ngày hôm đó địch cố thủ bên kia đầu cầu. Màn đêm lại buông xuống. Trinh sát bám lên 2 chiếc xe bị cháy (chỉ còn 2 khối thép nằm chình ình, bên trong xe đều đã ra tro). Đêm hôm đó bộ đội ta vẫn phải căng mắt canh phòng cả trên mặt cầu và dưới sông (đề phòng địch vượt sông ban đêm) nhưng điều đó đã không xảy ra vì bọn địch rất nhát về đêm.
8h sáng ngày thứ tư, hai chiếc máy bay phản lực cánh bằng A37 bất ngờ nhào tới ném bom vào trận địa chúng tôi, trận địa bên này đầu cầu mịt mù khói lửa, nhiều nhà dân gần đó bị sập đổ, nhiều công sự của bộ đội ta trúng bom địch. Ngay sau khi dứt tiêng bom, bạn chỉ huy đã ra lệnh cho bộ đội sửa sang ngay lại hầm hố và tiếp tục chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo.
Đài quan sát của ta báo về địch vẫn còn “thụt ló” bên kia đầu cầu để chuẩn bị cho các đợt tấn công vượt cầu. Anh Huy và chúng tôi chưa thể xác định được kế hoạch mới của địch, chỉ ra lệnh cho các ụ súng của ta sẵn sàng nhả đạn và yêu cầu đài quan sát theo dõi thật kỹ những diễn biến của địch bên kia đầu cầu. Mãi tới 2h chiều, bộ phận nuôi quân (bỏ cả xoong nồi) hớt hải chạy đến hầm chỉ huy báo cáo: “Bọn địch bất ngờ xuất hiện sau lưng ta chỉ còn cách độ 500m”. Chúng tôi mới hiểu ý đồ của địch. Thì ra trong lúc nghi binh để ta chú ý về phía cầu, chúng đã dùng một mũi bí mật vượt sông cách dưới hạ lưu khoảng 3km quặp vào sau lưng trận địa ta (vì có nhà dân đan xen nên ta không phát hiện được).
Ban chỉ huy ra lệnh bộ đội nhanh chóng rút quân theo hướng thượng nguồn. Đi đầu là bộ phận cối pháo, tiếp đến là trung đội 3, trung đội 1, rồi trung đội 2, bộ phận trinh sát tiểu đoàn rút sau cùng, và chỉ không đầy 10 phút toàn đơn vị đã thoát ra khỏi vòng vây chưa kịp khép kín của địch. Chúng tôi chỉ đem theo được súng đạn và thương binh. Còn lại ba lô, xoong nồi, gạo, thực phẩm, toàn bộ liệt sĩ hi sinh trong trận bom hồi sáng cũng đành phải để lại.
Vậy là sau 4 ngày phòng ngự chốt giữ cầu, chúng tôi những cán bộ chiến sĩ trung đoàn 207 đã phải chiến đấu với lực lượng địch đồng gấp nhiều lần, có máy bay, thiết giáp và pháo binh yểm trợ. Tiêu diệt và làm bị thương ước tính trên 200 tên địch. Ta hi sinh 13, bị thương 19 giữ được trận địa 4 ngày, vượt chỉ tiêu 2 ngày. Được quân khu và mặt trận khen ngợi. Nhiều cá nhân được đề nghị tặng thưởng huân chương chiến công…
Chiến dịch “Chen La 1” do ta khởi xướng từ tháng 9 / 1970 đến tháng 12/1970. Trong thời gian này, trung đoàn 207 và các đơn vị trong quân khu đã giải phóng hoàn toàn thị xã Kom Pông Thơm và thị trấn Kom Pong Thơ Mo, đập tan ý đồ nhằm khai thông đường số 6 của địch buộc chúng phải co về chốt giữ tại thị trấn Ba Rài, như vậy trên đường số 6 địch còn lại 3 vị trí là Ba Rài, Ba Khom, Tăng Cốc.
Cuối năm 1970 trung đoàn bộ (207) về đóng quân tại rừng chuối Sam Sa để ngăn chặn quân địch không cho chúng lấn thêm ra những vùng ta đã giải phóng. Ngoài ra trung đoàn còn có nhiệm vụ tuyển thanh niên Cam Pu Chia để huấn luyện giúp quân đội nước bạn. Ý định của cấp trên muốn cho quân đội giải phóng CPC nhanh chóng trưởng thành để có thể tự lực bảo vệ và giải phóng đất nước. Vậy là mỗi tiểu đoàn đều thêm 1 đến 2 đại đội toàn thanh niên CPC. Cán bộ khung ABC người của ta được bố trí đóng quân ở rừng cao su, giáp với rừng chuối. Mỗi đại đội quân số lên tới hơn trăm người có khi gần tới 200.
Tiểu đoàn 1 do anh 7 Việt làm chính trị viên (sau này anh 7 Việt về làm chủ nhiệm chính trị, phó chính ủy trung đoàn rồi chính ủy sư đoàn 8) đóng quân gần Bốt Khơ No có nhiệm vụ chặn quân địch từ hướng Prây Tưng, đồng thời chịu trách nhiệm tuyển quân, huấn luyện 2 đại đội cho quân giải phóng CPC.
Tiểu đoàn 2 do anh Ngô Văn Thi làm tiểu đoàn trưởng, anh Cư làm chính trị viên (sau này anh Cư được điều về làm chủ nhiệm chính trị trung đoàn) đóng quân gần Ba Rài có nhiệm vụ chặn đánh địch từ hướng Ba Rài, đồng thời chịu trách nhiệm tuyển quân và huấn luyện 2 đại đội cho quân giải phóng CPC.
Ngày 6/1/1971, tôi được điều về ban chính trị trung đoàn. Anh Phạm Dốc chính ủy trực tiếp xuống trao quyết định sau khi đã làm việc với ban chỉ huy tiểu đoàn 2. Tôi hoàn toàn bất ngờ và bị “sốc”. Cầm quyết định trong tay mà chỉ muốn khóc.
Vậy là từ nay phải xa đơn vị nơi mà mình đã có biết bao kỷ niệm thân thương. Bao nhiêu đồng đội đã ngã xuống và bao nhiêu thế hệ cứ lần lượt nối tiếp nhau chiến đấu và đổ máu, theo năm tháng, qua từng trận đánh. Hơn trăm con người cũ có, mới có mà bây giờ chúng tôi đã coi như là một nhà “Chẳng khác gì anh em ruột thịt”, những khuôn mặt của các anh trong ban chỉ huy, của cán bộ trung đội, tiểu đội như đã in trong tâm trí tôi. Họ đều là những người chỉ huy, những tay súng quả cảm… Rồi cả trăm chiến sĩ nhiều khuôn mặt còn “non choẹt” sao mà thân thương thế!... Sao mà yêu quý thế!... “Bây giờ anh phải xa các em thật rồi”. Nước mắt tôi cứ muốn tuôn rơi…. Hiểu được tâm trạng tôi, anh Phạm Dốc chẳng nói gì, riêng anh Thiệp thì ghé tai an ủi:
“Thủ trưởng Dốc đã để ý em từ lâu rồi đấy. Chúc em may mắn nhé. Về được chỗ đó là đã “ấm” được cái gáo rồi. Nhiều người nằm mơ cũng không được. Mà người có tài mới được về chỗ đó đấy”. Tôi thầm suy nghĩ: “Tài”, tài cái gì? Mình chỉ có cái nước “ba hoa” là giỏi chứ tài đâu chẳng thấy. Thực sự mà nói tôi vẫn thích ở lại đơn vị hơn, được chiến đấu, được cùng đồng đội vui đùa, “Sướng cực chẳng thành vấn đề”. Còn về cơ quan chẳng khác nào đi “giữ chùa”. “Sĩ quan không quân” mà. Tôi đã hình dung được những gì đang ở phía trước…
Vậy rồi cũng chẳng dám “cãi lệnh”, bởi “ quân lệnh như sơn”. Sau bữa cơm cũng tương đối thịnh soạn vừa để liên hoan chia tay cho tôi, vừa để chiêu đãi thủ trưởng Dốc, có anh Cư chính trị viên tiểu đoàn tham dự, tôi bùi ngùi chia tay mọi người. Đúng 1h chiều ngày hôm đó, tôi được lên chiếc xe Honda 90 do đồng chí Sinh liên lạc của anh Phạm Dốc lái “tống 3” từ tiểu đoàn 2 về trung đoàn bộ.
Anh Hoàng Đăng Dĩ quyền chủ nhiệm chính trị, anh sáu Truyền trợ lý 1 tuyên huấn đến đón tôi về ban chính trị và bổ sung cho cơ quan tuyên huấn (cấp trung đoàn thì cơ quan tuyên huấn không gọi bằng “ban” nếu có gọi chỉ để cho “oai” thôi, thực ra nó chỉ có vài trợ lý và vài người giúp việc. “Ban” dùng để gọi cho ban chính trị.
Ban chính trị lúc này mới có mình anh Hoàng Đăng Dĩ quyền chủ nhiệm chính trị. 1 liên lạc, 1 y tá, 1 quản lý, 1 anh nuôi.
Cơ quan cán bộ có anh Lợi, đồng chí Long (thường gọi là Lợi rỗ và Long bạch vì đầu tóc trắng gần hết). Anh Nghị sau này mới chuyển về
Cơ quan tổ chức có anh Đương, đ/c Luyện (thường gọi là Đương chói vì có mấy cái răng vàng).
Cơ quan bảo vệ có anh Sâm, anh Xi.
Cơ quan địch vận có anh Trực, đ/c Quân (thường gọi là Trực xồm vì có râu quai nón, đ/c Quân quê ở Trà Vinh, nói và viết tiếng CPC rất giỏi).
Cơ quan dân vận có đ/c Vớ (thường gọi là Vớ lùn, người tròn như hột mít, trắng như cục bột).
Cơ quan tuyên huấn có anh 6 Truyền (anh 6 Truyền lớn hơn tôi 15 tuổi, quê ở Tây Ninh, đi tập kết, qua học viện chính trị quân sự Trung Quốc rồi được điều trở lại chiến trường. Nói chuyện tiếu lâm thì vô địch).
Tôi được bổ sung về làm trợ lý 2 (nói cho oai thì là phó ban). Có 2 đ/c giúp việc là đ/c Nguyện đánh máy, và đ/c Hùng là họa sỹ
Thế đấy! Đường đường chính chính đang có hơn trăm con người, súng đạn thì đủ các cỡ: Súng chống tăng (B41 + B40), pháo cầu vồng (cối 61), trung liên, tiểu liên đầy nhóc. Bỗng nhiên bây giờ được 4 “thằng”. 2 súng ngắn K54 + 1 AK do đ/c Hùng giữ. Còn đ/c Nguyện phải cõng cái máy đánh chữ “to tổ bố”, lại còn thêm giấy polya, giấy than, tài liệu thì làm sao quẩy nổi súng. Vậy là từ nay trở đi “đánh giặc thế chó gì được”, có mà chỉ đánh giặc “mồm” hoặc trên “giấy tờ”… Bất giác thấy ngao ngán và buồn nẫu ruột! Nhớ đơn vị cũ quá chừng!
Cơ quan trung đoàn bộ đóng tại rừng chuối Sam Sa chắc phải rộng hơn nghìn hecta đất. Trồng toàn chuối xen lẫn mít, đu đủ, chôm chôm, dâu đất hay còn gọi là bòn bon. Lúc này có chiến tranh nên dân đã bỏ không khai thác “lính ta ăn chuối mệt nghỉ”. Đi đâu cũng gặp chuối, chuối chín đầy cây, rớt đầy đường đi. Ăn không hết, chúng tôi ép phơi khô để có dịp đi công tác mang tặng cho các tiểu đoàn. Hoặc anh em lên họp thì gửi biếu đem về cho bộ đội.
Cứ mỗi bộ phận làm một cái lán, trên căng bằng tăng nilon để che mưa và có chỗ giăng võng cho 3,4 người. Dưới là hầm trú ẩn tránh bom hoặc pháo. Ngay sát rừng chuối của ban chính trị là một khoảng vườn của dân rộng vài hecta trồng toàn khóm (dứa) và xen lẫn là sầu riêng. Người dân đã bỏ đi từ lúc nào nên chẳng có ai trông coi. Khóm chín vàng khắp cả vườn. Sầu riêng thì thơm phức, nứt toác trên những cành cây: “Bỏ phí của trời sao”. Vậy là bộ đội ta lại được thỏa sức thưởng thức. Có bữa “láo ăn” rát cả lưỡi, sưng cả miệng. Thời gian này thực phẩm cũng dồi dào, quản lý vào tận phum sóc mua được cả thịt heo tươi sống, nhiều bộ phận còn tự túc nuôi được cả gà vịt. Riêng thịt chó thì vô kể (nhân dân cứ đem đến biếu tặng, chẳng lấy tiền gì cả). Đúng như lời anh Thiệp đã nói “nhiều người mơ cũng không được” chỉ mới hơn tháng tôi đã lên được mấy ký, da dẻ trắng bóc. Lấy gương ngắm nghía thấy mình cũng “tàm tạm”…!
Rồi những ngày yên ả cũng qua nhanh.
Tháng 3/1971, tôi và đ/c Quân được anh Dốc và anh Dĩ phân công xuống làm phái viên tại tiểu đoàn 2, sở chỉ huy tiền phương có anh Cận trung đoàn phó, anh Sen phó chính ủy, cùng đi có đại đội 16,(cối 82), đại đội 17 (DKZ 75}, đại đội 18 (12 ly 8 } và rút đại đội 2 ở tiểu đoàn 1 tăng cường cho hướng phòng ngự d2 ở gần Ba Rài (vì nắm được thông tin trinh sát kỹ thuật địch ở Ba Rài đang chuẩn bị hành quân lấn chiếm). Ngay đêm mùng 4/3, chúng tôi đã có mặt ở ban chỉ huy tiểu đoàn 2. (Anh Cận và anh Sen cũng ở chung hầm với BCH tiểu đoàn) Các bộ phận mới đến được bố trí xen lẫn củng cố cho trận địa phòng ngự. Tôi và đ/c Quân xuống nằm chung với tổ chính trị tiểu đoàn lúc này là đ/c Vân trợ lý chính trị và đ/c Tiến trợ lý bảo vệ. 4 ngày đầu trôi qua địch vẫn chưa có động tĩnh gì.
Ngày mùng 9/3/1971, mới 7h sáng địch từ hướng Ba Rài đã mở cuộc hành quân. Trên trục lộ đường số 6 là mũi xe tăng và xe bọc thép. Hai bên cặp đường lộ sâu vào 500m là 2 mũi bộ binh…
8h30 điện thoại hữu tuyến từ các đơn vị phía trước báo về, địch đã cách trận địa ta khoảng 700m, Anh Cận trung đoàn phó trực tiếp ra lệnh chuẩn bị sẵn sàng chiến đấu. Các trận địa hỏa lực của trung đoàn cũng sẵn sàng bắn chi viện. Địch vừa tiến vừa dò dẫm khoảng 9h địch còn cách trận địa phòng ngự của ta khoảng 400m. Lệnh từ sở chỉ huy vẫn chưa được nổ súng. Tôi và đ/c Vân leo lên mặt hầm phóng tầm mắt quan sát về phía trước mà chẳng nhìn thấy gì chỉ nghe thấy tiếng động cơ xe tăng, xe bọc thép ầm ì mỗi lúc một rõ.
9h30 tiếng súng ở trận địa phía trước đã vang lên, sau những tiếng ùng oàng của loạt súng chống tăng B40, B41, DKZ57, DKZ75 ba bốn cột khói đen ngay trên mặt đường lộ lừng lững bốc lên (đã có 3,4 xe tăng và xe bọc thép địch trúng đạn). Rồi tiếng lựu đạn, các loại đạn nhọn của cả 2 bên nổ như bắp rang…
10h30, tiếng súng thưa dần. Các đơn vị phía trước báo về địch đã lùi ra cách trận địa khoảng gần 1km, bộ đội ta đã có 5,6 đ/c hi sinh và một số bị thương. Lệnh từ sở chỉ huy tiền phương cho bộ đội củng cố lại công sự, thương binh nặng chuyển về phía sau, thương binh nhẹ tiếp tục chiến đấu, liệt sỹ gom lại tạm để tại trận địa.
11h, pháo địch ở Ba Rài, Ba Khom bắn như đổ đạn vào trận địa ta trên diện rộng gần 2km. Sau hơn 30 phút bị pháo địch dồn dập bắn phá. Tiếng pháo vừa dứt, bốn chiếc phản lực cánh bằng bất ngờ lao tới cắm đầu trút bom. Từ trận địa 12 ly 8 được lệnh vươn nòng bắn máy bay địch. Những đường đạn căng như những sợi chỉ từ mặt đất lao lên, chiếc A37 chúi đầu chưa kịp cắt bom đã rùng mình bốc cháy đâm đầu rơi xuống cách trận địa ta không đầy 1km. Ba chiếc còn lại hoảng hồn vọt tít lên cao. Chúng cắt vội những quả bom còn lại rồi nhanh chóng tẩu thoát. Vậy mà trận địa của C2 cũng bị 3 hầm trúng bom địch, 6 đ/c hi sinh tại chỗ.
12h địch bắt đầu tổ chức tấn công. Mũi xe tăng trên đường lộ 6 đã tản ra 2 bên đường (vì lúc này là mùa khô). Gần 40 xe tăng và xe thiết giáp như những con cua khổng lồ lóc ngóc bò lên, theo sau là lũ bộ binh địch. Pháo tự hành, trọng liên 12 ly 7 bắn vào trận địa ta không hề tiếc đạn.
12h30, từ các trận địa báo về, xe tăng địch chỉ cách trận địa ta khoảng 300m. Sở chỉ huy ra lệnh cho phép DKZ và B41 khai hỏa lại thấy nhiều cụm khói đen ở hướng trận địa bốc lên. Đài quan sát báo về, lại thêm 4 xe tăng và xe thiết giáp địch bốc cháy.
Thấy dàn hàng ngang tấn công chỉ làm mồi cho hỏa lực chống tăng của ta địch đã thay đổi chiến thuật tập trung hỏa lực và xung lực đột kích vào hướng C2 sườn cánh trái trận địa.
13h30, ở trận địa C2 báo về, một số hầm phòng ngự của bộ đội đã bị xe tăng địch cán sập. Nguy cơ trận địa C2 bị chọc thủng. Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn và tiểu đoàn, toàn bộ DKZ 57 và 75 được hướng nòng bắn chi viện C2, 6 khẩu cối 82 nằm ở gần sở chỉ huy được lệnh nhả đạn. Nhờ có trinh sát pháo binh chỉnh tầm chỉ sau mấy loạt đạn, pháo cầu vồng của ta đã nện trúng đội hình địch. Vậy là hàng trăm quả đạn của cối 82, DKZ 75, DK57 kết hợp B40, B41 trong chốc lát đã diệt hàng chục xe tăng và xe bọc thép địch. Nhiều tốp bộ binh địch trúng đạn, xác địch văng lên tứ tung. Mũi tấn công đột kích của địch bằng xe tăng, xe thiết giáp và bộ binh vào trận địa C2 đã bị thiệt hại nặng nề, địch hoảng hốt quay đầu tháo lui. Ở các hướng khác địch chỉ nằm xa vãi đạn không dám liều lĩnh tiến thêm.
Lũ xe tăng và thiết giáp + bộ binh sống sót cứ từ từ lui khỏi trận địa ta mỗi lúc xa dần. Khoảng 4h chiều thì trân địa đã im hẳn tiếng súng. Địch đã co về vị trí Ba Rài. 6h chiều, tôi và đ/c Quân cùng với bên bộ phận tác chiến theo anh Cận, anh Thi xuống thăm trân địa C2, 2 chiếc M41 vẫn còn nằm chình ình trước mặt trận địa cách không đầy 100m, mấy tên giặc trong xe cháy đen thui, gần chục chiếc M113 nằm rải rác trên khắp cánh đồng. Khi tới hầm ban chỉ huy đại đội 2, một cảnh tượng đập vào mắt chúng tôi thật đau lòng, hơn 20 chiến sĩ đã được gom lại nằm thành một hàng ngang. Anh em hi sinh nhìn đủ các dạng: bể đầu, vỡ mặt, mất chân, cụt tay máu me đầy mình, đầy mặt. Nhiều đ/c nhìn chẳng biết là ai. Bộ phận vận tải của tiểu đoàn và trung đoàn đang trên đường xuống để mang thi thể anh em về phía sau.
Để phục vụ cho công tác mới của mình, ngay đêm hôm đó tôi cùng đ/c Vân trợ lý chính trị tiểu đoàn đi xuống hết các đại đội của tiểu đoàn 2, C2 tiểu đoàn 1 rồi cùng đ/c Quân đến từng đại đội hỏa lực trung đoàn nắm những thông tin thật chính xác để chuẩn bị cho những bản tổng kết, những bài viết thành tích làm tài liệu lưu trữ cho đơn vị. “Một nhiệm vụ thật mới mẻ của tôi bắt đầu…”
Trận đánh phòng ngự ngày hôm đó trung đoàn 207 đã chặn đứng cuộc hành quân lấn chiếm của 4 tiểu đoàn quân nguy Lon non có xe tăng, xe bọc thép, pháo binh và máy bay yểm trợ buộc chúng phải co cụm về cố thủ Ba Rài. Bắn cháy 1 máy bay, 5 xe tăng hơn 10 xe bọc thép M 113.tiêu diệt và làm bị thương ước tính gần 200 tên dịch ta hi sinh hơn 30 đ/c và gần 2 chục bị thương. Bọn địch ở đây đã thật sự hoảng sợ, từ bỏ ý định lấn chiếm vùng giải phóng của ta và bạn…
Sau trận đánh phòng ngự chặn đứng 4 tiểu đoàn của quân ngụy Lon Non có xe tăng, xe bọc thép, pháo binh và máy bay yểm trợ. Địch đã “biết thân” không dám bung ra ở hướng này. Chúng trở về co cụm ở Ba Rài và củng cố các vị trí Ba Khom, Tăng Cốc. Bộ đội ta được thay nhau vừa chốt chặn, vừa lùi về phía sau nghỉ ngơi, học tập, huấn luyện. Lúc này quân ủy trung ương cho phép được tuyển quân tại chỗ để giảm bớt áp lực cho ngoài miền Bắc (phải chi viện một lúc cả 4 chiến trường A, B, C, K).
Vậy là rất nhiều thanh niên nam nữ người Việt sống trên đất CPC ra nhập quân giải phóng. Thanh niên Việt kiều thì hòa nhập dễ (cùng gốc gác, cùng tiếng nói và chữ viết). Đặc biệt lúc này cũng rất nhiều thanh niên CPC tình nguyện nhập quân giải phóng miền Nam Việt Nam. Ta cũng có dụng ý thu nhận họ để cùng sát cánh, cùng chiến đấu (cho bộ đội CPC quen dần), khi nào trở về chiến trường miền Nam sẽ giao địa bàn lại cho quân đội bạn tiếp quản. Do đó, từ lúc này trở đi trung đoàn 207chúng tôi có đủ các thành phần (bộ đội miền Nam đi tập kết được điều quay trở lại, bộ đội miền Bắc bổ sung vào, tân binh người Việt sống trên đất CPC, tân binh người CPC tình nguyện). Không khí học tập rèn luyện trong trung đoàn rất phong phú và sôi động khẩn trương. Bộ đội ta thì cứ thi nhau học tiếng CPC. Anh em người CPC cũng học tiếng Việt để tiện giao tiếp, anh em Việt kiều thì ở giữa làm phiên dịch. Đến một đơn vị cứ “ríu ra ríu rít” những âm thanh “ tập nói” như một lớp “vỡ lòng” ở trường làng miền Bắc. Bởi tiếng Việt có 6 thanh điệu tạo nên ngữ nghĩa của từ, nói sai thanh điệu là sai nghĩa, nhiều đồng chí người CPC học tiếng Việt nói “ ngọng líu ngọng lô” bữa cơm hôm đó anh nuôi sơ suất nên cơm bị sống (chưa chín) anh em Việt Nam không nói gì, ”ráng ăn”. Anh em CPC thì lên tiếng “bữa nay anh nuôi cho ăn cứt khô quá” (bữa nay anh nuôi cho ăn cực khổ quá) khiến chúng tôi ôm bụng cười lăn lộn, cười đến chảy nước mắt.
Sau trận đánh ở gần Ba Rài 1 tuần (tức ngày 16/03/1971), anh Phạm Dốc, anh Dĩ và tôi được mời về cục chính trị quân khu để báo cáo thành tích cho đơn vị. Vậy là đêm 15/03 cả cơ quan tuyên huấn hầu như thức sáng đêm. Trên cái bàn tre của lán tuyên huấn, đ/c Nguyện ngồi bên chiếc máy chữ: “lộc cộc”. Đ/c Hùng bên cạnh đọc cho đ/c Nguyện đánh máy cho nhanh. Tôi phải sang nhờ lán anh Lợi cặm cụi trên những trang giấy. Anh 6 Truyền thì cứ chạy qua chạy lại. Tôi viết được tờ nào thì chuyển ngay cho bộ phận đánh máy. “Bố sướng thế” đã không phải đi chiến dịch lại không phải viết… mà viết làm sao được, nếu bắt anh Sáu viết thì hóa ra để anh “nói phét” à… Phải làm việc ban đêm, muỗi cắn, lại bên chiếc đèn dầu: “tù mà tù mù”, chữ tôi lại chẳng thua kém gì chữ “bác sĩ” (viết để cho nhanh mà). Chốc chốc anh sáu Truyền lại chạy tới hỏi: “Kiên ơi chữ này là chữ gì…?” Tôi viết thì tôi biết ngay, chẳng đọc được tôi cũng đoán ra… Anh Lợi và đ/c Long giăng võng nằm cạnh buồn cười chọc 2 chúng tôi:
“Thôi ông Sáu viết đi… Để thằng Kiên nó viết ông cứ phải chạy đi chạy lại. Chắc đến sáng thì cặp giò ông rã rồi…”. Tôi đồng ý liền nhưng anh Sáu đâu có chịu nghe…
Gần 1h sáng tay đã mỏi rã rời, mắt đã cay xè như cứ muốn “híp” lại. Cũng chỉ còn độ vài trang giấy nữa là xong bản báo cáo thành tích trận đánh của trung đoàn mà sao giờ này thấy nó “thăm thẳm” thế. Bụng đã đói cồn cào, định nghỉ tay lấy ít chuối khô nhai cho ấm bụng thì bất ngờ đ/c Viễn quản lý của ban chính trị và đ/c liên lạc của anh Dĩ (đ/c liên lạc người Việt kiều lâu quá tôi không nhớ tên) lệ khệ bưng nồi cháo gà đến lán tuyên huấn. Mùi lá chanh của nồi cháo bốc lên thơm phức (chanh ở vườn khóm gần đó thiếu gì). Lúc này anh Lợi và đ/c Long đã ngủ (nằm im re). Tôi đánh thức anh Lợi và đ/c Long đã không dậy, còn lên tiếng: “Tụi mày ăn đi để còn viết, tao có công gì đâu mà ăn…”. Tôi phải thọc ét (cù nách) “hai tên” mới chịu ngồi dậy. 8 chúng tôi (có cả 2 đ/c anh Dĩ phái xuống) quây quần bên chiếc bàn làm việc của đ/c Nguyện, máy móc, giấy tờ tạm cho nó ra một bên. Húp cháo và nhai thịt gà lúc này sao mà nó “sướng” thế… Tôi thầm cảm ơn anh Dĩ, người thủ trưởng quê ở Hà Bắc, đối với anh em cán bộ cấp dưới lúc nào cũng chu toàn tuyệt đối.
6h sáng hôm sau (16/03/1971), chúng tôi được 3 xe Honda 90 đưa về quân khu. Len lỏi qua rừng chuối, rừng cao su, qua nhiều phum sóc và tới một rừng già. Cũng phải mất hơn 4h mới đến được cục chính trị quân khu. Cũng hầm, cũng lán chẳng khác gì khi chúng tôi còn ở miền Đông. Anh sáu Thượng chủ nhiệm cục chính trị và một số đồng chí trong bộ tư lệnh quân khu, các phòng ban của cục chính trị đã chờ sẵn. Tất nhiên là báo cáo thành tích tôi viết nhưng anh Dĩ đọc báo cáo, anh Phạm Dốc đóng góp bổ sung. Và với thắng lợi trong trận đánh phục kích gần cứ điểm Ba Rài, quân khu đã chấp nhận đề nghị bộ quốc phòng và chính phủ tặng thưởng huân chương quân công hạng nhất cho trung đoàn 207.
Sau 3 ngày làm việc và nghỉ ngơi tại cục chính trị quân khu. Chiều ngày 19/03/1971, chúng tôi đã trở về trung đoàn bộ. Anh sáu Truyền cứ tíu ta tíu tít hỏi thăm chuyến đi của tôi mà đáng ra phải là của anh mới đúng. Tôi tường thuật và báo cáo lại kết quả với anh. Anh vui mừng ra mặt: “Vậy là công lao của cả bộ phận tuyên huấn, thức sáng đêm cách đây mấy ngày đã không uổng”. Anh quyết định thịt ngay 3 con gà để ăn mừng “ thắng lợi” (lúc đó bộ phận tuyên huấn nuôi được cả chục con gà đều đã đến tuổi “trưởng thành”). Vậy là đ/c Hùng và đ/c Nguyện nhanh chóng “ra tay”.
8h tối, 3 mâm (lót bằng lá chuối) được bày lên 3 chiếc bàn tre (tụi tôi 1 cái, mượn bên anh Lợi 1 cái, anh Đương 1 cái). Gần 20 cán bộ, chiến sĩ của ban chính trị đều quây quần bên nhau (bát đũa của ai người đó tự mang, nếu không thì ăn bốc ráng chịu). Anh Xi có bình tông rượu ngâm với mật ong (tính để bồi dưỡng sức khỏe), thấy anh em vui quá bèn đem biếu luôn. Vậy là tối hôm đó (19/03/1971), nhà lán của bộ phận tuyên huấn” rôm rả” chẳng khác gì ngày tết…
9h30 xong tiệc, ai về nhà nấy. 4 đ/c lớn tuổi (anh Dĩ, anh sáu Truyền, anh Lợi, anh Sâm) rủ nhau ở lại đánh tú lơ khơ ăn quẹt lọ. Đ/c Hùng, đ/c Nguyện “oải” quá mò sang nhà cán bộ giăng võng ngủ trước. Tôi ở lại “chầu rìa”, làm trọng tài và làm chân “điếu đóm”.
Một cái xoong “đen thùi lùi” được tôi xuống tận nhà bếp “điệu” về. Lật úp ngay cạnh. Mới chưa đầy 1 tiếng đồng hồ mà mặt mũi của 4 anh chẳng khác gì mặt của mấy thằng hề trong rạp xiếc. Mà buồn cười nhất là mặt anh Lợi. Chỉ thua có 2 ván mà khuôn mặt anh đã đầy kín nhọ. Anh tức quá cự lại anh sáu Truyền: “ông làm ăn gian bỏ mẹ. Ông thua, tôi chỉ quẹt có 1 ngón tay. Tới phiên tôi thua, ông chơi cả bàn tay. Bố thằng nào chịu nổi”. Anh Sâm lại còn chêm vào: “Ước gì mặt thằng Lợi to được bằng cái mâm để cho sáu Truyền nó quẹt”. Anh Dĩ chỉ tủm tỉm cười, tôi cũng phải cười theo…
Tôi dám “cá” ai nhìn thấy cái cảnh của 4 “cha” mà nhịn cười được thì tôi gọi bằng “ông trời” đấy…
Đang căng thẳng để nghiên cứu từ những lá bài trên tay, anh 6 Truyền bỗng hoảng hốt: “Lợi! Con muỗi nó cắn má mày, mọng đầy máu…”
Anh Lợi phản ứng rất mau lẹ, gom hết bài dồn vào tay trái, tay phải dang ra phát thật mạnh đánh “đét” và má mình. “Tưởng đã tiêu diệt được kẻ thù nguy hiểm…”. Xòe bàn tay trước mặt, chẳng thấy máu dính tay mà cũng chẳng thấy muỗi đâu, anh Lợi tức quá: “Sáu Truyền, mày cứ gạt tao để tao phân tâm, thua bài là tại mày đấy”.
Anh sáu Truyền tỉnh bơ: “Mày đập mạnh quá, con muỗi nó chui tọt vào lỗ rồi, làm sao nó chết được”. Tụi tôi phá lên cười, anh Lợi thì lần này không mắc bẫy nổi cáu nữa, mà tưng tửng nói: “Mày chọc tao, chắc sau này con mày “Rỗ” là cái chắc, ghét của nào trời trao của đó em ạ!”…
Đến cuối tháng 3/1971, một đơn vị cấp tiểu đoàn trực thuộc quân khu làm công tác xây dựng chính quyền cho bạn đã hoàn thành nhiệm vụ, được điều về bổ sung cho trung đoàn 207. Vậy là công tác tiếp nhận đơn vị mới được nhanh chóng tiến hành. Trung đoàn thành lập ngay một đoàn công tác do anh Phạm Dốc và anh Nông Ngọc Cận phụ trách, đại diện của 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Ban chính trị có anh Lợi, anh Đương và tôi.
Tại một phum sóc (không nhớ tên) thuộc tỉnh Kom Pong Chàm đoàn công tác của trung đoàn xuống làm việc trực tiếp với Đảng ủy và ban chỉ huy tiểu đoàn, sau đó phân công nhau đến từng bộ phận để khảo sát, nắm thực lực. Tôi, anh Lợi, anh Đương làm việc với tổ chính trị tiểu đoàn do đ/c Thái trợ lý chính trị phụ trách cung cấp thông tin, số liệu (đ/c Thái sau này về làm chính trị viên tiểu đoàn 1).
Sau 5 ngày, đoàn công tác của trung đoàn vừa tham dự các cuộc họp cần thiết, vừa chỉ đạo điều chỉnh, bổ sung những trang thiết bị, vũ khí. Đặc biệt là thành lập thêm một đại đội hỏa lực trực thuộc tiểu đoàn, các trung đội như thông tin, trinh sát, vận tải… Tiểu đoàn 3 với hơn 400 người (đủ sức là một tiểu đoàn chính quy) do anh Cao Tông làm tiểu đoàn trưởng chính thức hình thành trực thuộc trung đoàn 207.
Như vậy đến thời điểm này trung đoàn 207 đã “đủ lông đủ cánh” là một trung đoàn chủ lực mạnh trực thuộc quân khu C40 đang làm nhiệm vụ trên đất nước bạn.
Sau 2 tháng học tập, huấn luyện bổ sung. Tiểu đoàn 3 được lệnh hành quân vượt đường số 7 và đóng quân ở phía nam lộ. Trung đoàn trở thành đội hình phòng ngự tam giác (3 kiềng), trung đoàn bộ ở giữa, ba góc 3 tiểu đoàn 1, 2, 3.
Ngày 09/06/1971, cán bộ của ban chính trị được chia làm 2: một bộ phận đi với anh Nông Ngọc Cận vượt lộ 7 qua hướng tiểu đoàn 3, còn lại theo sở chỉ huy tiền phương trung đoàn do anh Ba Trắc, anh Dốc chỉ huy hành quân (anh sáu Truyền đi với hướng anh Nông Ngọc Cận).
Đúng 17h, bộ phận chúng tôi xuất phát hành quân. Ba lô, vẫn để lại đơn vị, tôi chỉ đem theo khẩu súng ngắn, cái túi đựng mìn Clemo được vận dụng để đựng sổ sách, giấy tờ và dụng cụ cần thiết. Các mũi hành quân của ta bí mật ép sát lộ 7, đến 3h sáng bộ đội ta đã vào hết vị trí tập kết.
Sở chỉ huy trung đoàn đặt tại phum Xoxen cách lộ 7 khoảng 5km. Trước mặt là tiểu đoàn 2 được bố trí trận địa ém quân dàn hàng ngang có diện rộng khoảng 2km cách lộ 7 khoảng 1km. Bên kia là tiểu đoàn 3 do anh Ba Cao Tông và anh Cận trực tiếp chỉ huy, cũng bố trí trận địa ém quân dàn hàng ngang cách lộ 7 khoảng 1km. Phía sau tiểu đoàn 2 là trân địa hỏa lực của tiểu đoàn, 12 ly 8 và DKZ75 của trung đoàn cũng được điều lên trước mặt trận địa. Trận địa cối 82 của trung đoàn nằm ngay sau lưng tiểu đoàn 2. Trận địa cối 120 do quân khu tăng cường nằm xéo cánh trái về phía trước của sở chỉ huy trung đoàn: “Trận địa phục kích đã được hình thành”…. Một nguồn tin tình báo quân sự cung cấp: “địch mở cuộc hành quân bảo vệ chuyến hàng quân sự đặc biệt chi viện cho thị xã Kom Pong Chàm”.
Chúng xuất phát từ Phnom Pênh qua Xi Kun qua Pray Tưng đến thị xã Kom Pong Chàm. Trung đoàn 207 được lệnh chặn đánh địch trên quốc lộ 7 đoạn từ Xi Kun đến Pray Tưng: “Phải tuyệt đối bí mật” nếu không sẽ mất thời cơ. Cuộc hành quân có quân ngụy Sài Gòn tiếp ứng, không quân Mỹ chi viện.
7h sáng ngày 10/06/1971, quân khu thông báo: địch bắt đầu hành quân. Xuất phát từ Phnom Pênh đến vị trí Xi Kun. Vì không có đơn vị nào của ta chặn đánh nên chúng hành tiến rất nhanh. 10h sáng chúng đã có mặt tại Xi Kun
10h30 hai chiếc trực thăng trinh sát rà sát 2 bên quốc lộ 7. Nhiều tốp Honda của bon Lonnon cải trang dân thường chạy đi chạy lại trên mặt lộ, để dọn đường cho mũi hành quân của địch.
Từ phum Xoxen ra quốc lộ số 7 là một con đường đất, 2 bên là cánh đồng lúa có xen lẫn phum sóc lưa thưa và những gò đất trồng toàn cây thốt nốt. Bộ đội ta lợi dụng những gò đất đào công sự trên ngụy trang bằng cành cây tươi và cỏ nằm im chờ địch. 2 chiếc trực thăng trinh sát và bọn công lộ quần đi quần lại nhiều lần không phát hiện được gì, chúng an tâm cho cuộc hành quân tiếp tục.
12h từ đài quan sát báo về, khoảng gần 100 xe đủ các loại đi đầu là tốp xe bọc thép, xe vận tải chở quân, xe tải chở hàng quân sự chúng cứ đan xen chạy từ hướng Xi Kun về Pray Tưng để đi Kom Pong Chàm.
Từ sở chỉ huy trung đoàn lệnh trực tiếp bằng máy vô tuyến, anh ba Trắc ra lệnh bộ đội thoát khỏi vị trí ém quân bám lên mặt lộ. 2 cánh quân của ta, phía nam là tiểu đoàn 3, phía bắc là tiểu đoàn 2 chỉ sau độ 10 phút đã áp sát gần đoàn xe địch.
12h15’, cối 120+cối 82 được lệnh nhả đạn, chỉ nghe thấy những tiếng ồng ộc của 2 trận địa pháo trước mặt sở chỉ huy, xa xa là những âm thanh ì ầm trên hướng quốc lộ số 7. Đài quan sát báo về, pháo của ta đã bắn trúng đội hình địch, vậy là lệnh từ sở chỉ huy cho pháo ta cấp tập. Trận địa DKZ cũng được lệnh khai hỏa. Đài quan sát báo về, nhiều xe địch bị trúng đạn đang bốc cháy. Pháo cầu vồng ta vừa dứt, 2 cánh quân từ 2 bên được lệnh đánh chiếm đoàn xe địch. Tôi và anh Dĩ đến ngay hầm của anh Dốc và anh ba Trắc để tốc ký tình hình chiến sự. 4 máy vô tuyến liên tục nhận những tin tức ngoài trận địa và truyền đi những mệnh lệnh của sở chỉ huy trung đoàn.
1h chiều, từ ngoài trận địa báo về hướng tiểu đoàn 3 đã nổ súng và chỉ ít phút sau hướng tiểu đoàn 2 các loại đạn nhọn, B40, B41 của bộ binh ta cũng bắt đầu rền vang. Lũ xe bọc thép và bọn bộ binh địch đã tản ra 2 bên đường chống cự quyết liệt. Trận địa pháo 155 ly và 105 ly ở Xi Kun bắn như vãi đạn phủ xuống trận địa của ta (đoạn đường này chỉ cách Xi Kun chừng 9km)
Ngoài trận địa vẫn rền vang tiếng súng, lúc này là các loại hỏa lực B41, B40, trung liên, AK và lựu đạn của bộ binh ta phát huy tác dụng.
Trận địa cánh nam báo về đã bắn cháy 4 xe bọc thép và nhiều xe chở quân, xe vận tải quân sự.
Trận địa cánh bắc báo về đã diệt hơn chục xe bọc thép, xe chở quân, xe vận tải quân sự.
Đài quan sát báo về trận địa trải dài trên 2km trên quốc lộ 7 mịt mù khói lửa.
2 bên vẫn nổ súng tiếp tục giằng co. Ta và địch lúc này chẳng bên nào có công sự. Địch ưu thế có nhiều lô cốt bằng chính những vỏ thép dày của những chiếc xe bọc thép. Ta có ưu thế dày đặc của các loại hỏa lực chống tăng DKZ, B41, B40 và ở trạng thái bao vây địch, xung lực phân tán nhưng hỏa lực lại tập trung.
Khoảng 2h chiều, 4 chiếc trực thăng võ trang và nhiều tốp phản lực F4 xuất hiện, chúng quần đảo nhiều vòng trên không. Sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho bộ đội ta rút quân. Chúng tôi cũng nhanh chóng dời về hậu cứ. Những phum sóc và những hàng dừa rợp bóng ở gần lộ 7 bị máy bay Mỹ ném bom, nhiều nhà dân bốc cháy ngút trời, 2 chiếc máy bay C130 cũng đã quần quần trên đầu, tò tò phóng đạn.
5h30 chiều ngày hôm đó, phum Xoxen bị 4 phi vụ máy bay địch ném bom nhiều công sự, hầm chỉ huy trúng bom địch nhưng chúng tôi may mắn là đã dời đi.
Đến ngày 13/06/1971 bộ phận anh Cận và ban chỉ huy tiểu đoàn 3 được lệnh vượt đường số 7 trở về trung đoàn bộ dự họp tổng kết trận đánh.
“Trận phục kích vận động” của trung đoàn 207 (trừ D1 không tham chiến) trên quốc lộ số 7 đã bắn cháy 45 xe trên tổng số gần 100 xe các loại của địch phá hủy rất nhiều phương tiện chiến tranh, tiêu diệt và làm bị thương ước tính hơn 100 tên địch, phía bộ đội ta hi sinh trên 20 đ/c và hơn 10 đ/c bị thương…
Sau trận đánh ở quốc lộ 7, tên tuổi của 207 đã “lừng danh” ở khu vực này. Chỉ có một trung đoàn mà được giao nhiệm vụ đảm nhiệm một địa bàn rộng lớn vừa kềm chân quân địch, vừa đánh tiêu hao tiêu diệt sinh lực địch, vừa xây dựng quân đội cho bạn…
Một tiểu đoàn toàn người CPC do ta huấn luyện đã được hình thành (D4K). Quân số của tiểu đoàn này lên tới gần 600 quân và được đưa vào thay thế phòng ngự ở hướng Ba Rài. Tiểu đoàn 2 được điều về đóng quân ở Ô Tà Thóc. Vừa tổ chức học tập huấn luyện, vừa là lực lượng dự bị cơ động của trung đoàn. Ta lại tiếp tục tuyển thanh niên CPC huấn luyện và đào tạo tiếp cho bạn. Thế là các thế hệ của quân đội CPC cứ nối tiếp ra đời…
Đầu tháng 7/1971, trung đoàn được quân khu cho phép tổ chức mừng công để kỷ niệm một năm ngày thành lập trung đoàn nên trước đó cả tuần 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đều bận tíu tít. Hậu cần thì chuẩn bị cơ sở vật chất, tham mưu thì chuẩn bị nội dung, chính trị thì lo khánh tiết (thành lập một ban tổ chức hẳn hoi). Do áp lực công việc tôi bàn với anh sáu Truyền quyết định tuyển thêm người và được anh Dĩ đồng ý. Nhờ mấy lần xuống công tác tại tiểu đoàn 1, tôi biết được đ/c Hiền văn thư tiểu đoàn có nhiều năng khiếu: vẽ đẹp, cắt chữ đẹp, đánh máy giỏi, giọng ca hay, 10 ngón tay dạo trên phím đàn ghi ta chẳng khác gì nhạc công chuyện nghiệp... Tôi bèn “quân sư quạt mo” cho các anh xin cậu ta về cơ quan chính trị. Thủ tục điều động đ/c Hiền từ D1 về E bộ nếu là cán bộ sĩ quan thì lại quá dễ. Chỉ cần báo cho anh Lợi ra quyết định, anh Dốc ký thì cỡ chính trị viên tiểu đoàn hoặc tiểu đoàn trưởng cũng chỉ trong “tích tắc”. Đằng này Hiền còn là hạ sỹ quan nên phải qua bộ phận quân lực. Cuối cùng 2 ngày sau đ/c Hiền cũng đã có mặt tại bộ phận tuyên huấn để nhận nhiệm vụ. Đ/c Hùng và đ/c Nguyện mừng ra mặt, vậy là từ nay đã có thêm người gánh vác bớt công việc. “ Sự kiện” này về sau bị “lộ”, có lẽ là do mấy đ/c quân lực “bép xép” nên mỗi lần gặp anh bảy Việt anh cứ “trách” tôi: “Kiên ơi, mày hại anh… Anh có thằng Hiền mày rút nó đi, bây giờ lôi một thằng ở C2 lên thay nó, nó cứ lóng nga lóng ngóng…”.Tôi chỉ cười nói vui: “Không chừng mai mốt cũng đến lượt anh…”. Mà lời nói của tôi sau này “linh nghiệm” thật, anh được điều về làm chủ nhiệm chính trị trung đoàn rồi phó chính ủy trung đoàn và sau này là chính ủy sư đoàn 8, gắn bó sâu sắc với “nghiệp” chính trị!
Mọi việc chuẩn bị cho ngày mừng công kỷ niệm 1 năm ngày thành lập trung đoàn cũng đã hoàn tất. Trước 2 ngày, nhiều cơ quan quân khu đã được viện xuống để giúp đỡ trung đoàn. Hai đ/c nữ phóng viên (lâu quá tôi không nhớ tên) của phòng tuyên huấn quân khu cũng được phái xuống. Là khách “ruột” nên dĩ nhiên chúng tôi phải đi “sơ tán” để nhường nhà lán tuyên huấn cho 2 đ/c phóng viên “tạm trú”.
Tôi và anh sáu Truyền phải sang ở nhờ lán anh Lợi. Đ/c Nguyện + Hùng + Hiền sang ở chung với cánh anh Đương, nhưng cơm nước thì tôi và anh sáu vẫn phải trở về lán tuyên huấn để “phục vụ” hai đồng chí “khách quý”.
Bữa cơm trưa hôm đó, trên chiếc bàn tre nhà tuyên huấn chỉ có 4 người (Nguyện, Hiền, Hùng ăn chung với bộ phận tổ chức). Anh Dĩ rất chu đáo, đặc biệt là đối với khách. Mâm cơm của nhà tuyên huấn được ưu tiên “đặc biệt”. Thịt gà luộc, heo xào mặn, còn có cả xương heo hầm đu đủ… Tôi thầm mong “nhà tuyên huấn tụi tôi lúc nào cũng có khách đến thăm”…
Bốn anh em ngồi đối diện nhau trên chiếc bàn tre hình chữ nhật, 2 đ/c nữ phóng viên chỉ cỡ tuổi tôi nên cách xa anh Truyền độ 15 tuổi. Hôm nay sao tôi thấy “kỳ lạ” trong người. Chân tay cứ quờ quạng, nói năng thì rụt rè, chỉ sợ sơ suất làm phật lòng khách. Anh 6 Truyền thì ra dáng “kẻ cả” nên cứ tỉnh bơ. Hai vị khách thì cũng “ỏn à ỏn ẻn”…
Cơm được xúc ra bát cho cả 4 người. Hai vị khách ăn chậm như mèo, tôi cũng chẳng dám ăn nhanh, mâm cơm im như thể “thóc ngâm”… Bỗng một mùi “thum thủm” xông lên, tôi thầm đoán trong ba vị đã có một vị nào vô ý “tương” ra… Chắc đã lọt vào mũi anh sáu Truyền, anh vội đặt bát cơm xuống cái bàn tre, nét mặt rất “hình sự”, dùng 2 bàn tay sát lại đậy kín bát cơm.
“Lù mợ… Cái lỗ mũi nó nhỏ xíu… Nó còn chui vào được… huống chi cái miệng bát tổ chảng thế này…”
Hai vị khách đỏ mặt, buông bát đũa chạy ra ngoài. Tôi lo quýnh, cũng bỏ bữa cơm rượt theo vừa gọi: “Hai đ/c chạy đi đâu đấy? Ở lại ăn cơm cho xong đã…”. Hai cô gái chạy trước, tôi chạy theo sau, phải cỡ hơn trăm mét, đến cái giếng nước gần nhà bếp hai vị khách mới chịu dừng lại. Tôi cũng vừa tới kịp.
Một vị khách vừa thở hổn hển vừa xua tay nói: “Không phải em”. Vị khách kia cũng quơ tay lia lịa chối: “Cũng không phải em...”.
Tôi nghĩ bụng, không phải một trong 2 người thì còn ai vào đây nữa. Tôi thì chắc chắn không phải rồi, lẽ nào lại là anh Sáu? Mà nếu là anh Sáu thật thì anh đâu có làm thế, của mình thì mình nhận chứ ai lại đổ thừa cho tụi em út…
Gặp phải chỗ khác thì tôi đã chối bay rồi. Đằng này trước mặt 2 phụ nữ xinh đẹp… Vậy là tôi phải cam tâm nhận tội: “Anh xin lỗi, tại anh sơ suất…”. Nét mặt 2 đ/c nữ dần dần vui lên, nhưng nhất định không trở lại ăn cơm. “Đổ thừa” chúng em ăn no cả rồi. Hai đ/c còn nói: “Anh trở lại ăn cơm với anh Sáu đi, chúng em dạo chơi một lúc, chút nữa quay về…”.
Thuyết phục mãi không được tôi đành trở lại mâm cơm, anh Sáu cũng đã buông bát đũa ngồi lặng im như trời trồng… Thau cơm và đồ ăn còn gần như nguyên vẹn, mới chỉ hết độ 1/4. Thấy 2 vị khách bỏ cơm, anh Sáu mới hối hận.
“Tao tính chỉ chọc cho vui… Ai ngờ tụi nó mắc cỡ… Giận thiệt…Thôi để có dịp tao xin lỗi 2 đứa nó…”
Rồi tất cả mọi chuyện cũng đã qua đi. Lát sau, 2 đ/c phóng viên về cùng chúng tôi uống nước. Anh sáu mở ngay gói đường, bỏ vào cốc nước mấy viên thuốc bổ Polyvitamin để đãi 2 vị khách. Tôi cũng được hưởng sái và cái chuyện ban nãy… lờ đi…như không có chuyện gì xảy ra. Biết ba chúng tôi còn đói bụng, anh lại mở luôn cả bọc chuối khô. Chờ cho anh sáu qua lán anh Lợi nghỉ trưa, ba chúng tôi phải ăn chuối trừ cơm.
Bữa cơm tiếp chiều hôm đó, cũng chỉ có 4 người, anh Sáu tỏ ra hối hận, nên tay chân trở nên quờ quạng, lóng ngóng, chẳng khác gì tôi hồi ban sáng. Thời gian cứ lặng lẽ trôi qua đũa ai nấy cầm, bát ai nấy bưng. Tôi đã bạo dạn hơn lia lịa gắp thức ăn tấn đầy bát 2 vị khách. Bỗng anh sáu Truyền “khẩn khoản” lên tiếng:
“Anh xin lỗi các em… Cái mà hồi ban sáng… Chính là của anh…”. Ba chúng tôi không nhịn được… Phì cười… Phun cơm tung tóe…
Bây giờ nhớ lại thấy thương anh sáu quá!
Đúng 8h sáng ngày 2/7/1971, hội nghị khai mạc mừng công, mừng chiến thắng và kỷ niệm 1 năm ngày thành lập trung đoàn, đại diện bộ tư lệnh quân khu, cục chính trị, cục tham mưu đều xuống tham dự. Tặng và gắn huân chương quân công hạng nhất trên lá cờ truyền thống của trung đoàn 207 và lá cờ này được giao cho bộ phận tuyên huấn cất giữ để lưu trữ.(Đặc biệt trong hội nghị mừng công lần này, cơ quan tuyên huấn chúng tôi cho ra mắt tập tranh do đ/c Hùng là tác giả, ai cũng thích và khen ngợi.trong đó có 6 bức tranh của các khẩu đội 12ly8 bắn rơi máy bay địch trong trận đánh phục kích ở gần Ba Rài. Rất ấn tượng)
Thời gian tiếp theo nhiệm vụ của trung đoàn vẫn phòng ngự chốt chặn những nơi xung yếu, có điều kiện thì tập kích hoặc phục kích nhỏ lẻ, đánh tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch ở xung quanh khu vực này, tạo điều kiện cho nhân dân CPC ở vùng giải phóng an tâm sản xuất, thực hiện phương châm xây dựng lực lượng hậu cần tại chỗ, đồng thời tiếp tục tuyển thanh niên CPC huấn luyện bổ sung cho quân đội bạn.
Tháng 8/1971, lại một tiểu đoàn quân giải phóng CPC được thành lập (D5K), và được điều ra thế chân cho tiểu đoàn 1. Tiểu đoàn 1 được lui gần về trung đoàn bộ đóng quân, huấn luyện.
Đầu tháng 9/1971, ta quyết định mở chiến dịch Chen La 2.
Ngày 10/9/1971, hội nghị quân chính trung đoàn khai mạc tại trung đoàn bộ gồm các đ/c tiểu đoàn trưởng, chính trị viên tiểu đoàn, các đ/c chính trị viên và đại đội trưởng trực thuộc, trợ lý của 3 cơ quan, có một số trợ lý của quân khu xuống tham dự và một nhiệm vụ cấp bách mới được phổ biến quán triệt.
“Trung đoàn 207 có nhiệm vụ tiêu diệt cứ điểm Ba Rài. Căn cứ tiền tiêu của địch trên đường số 6”.
Tiểu đoàn 1 hướng Đông.
Tiểu đoàn 2 hướng Tây (đại đội 12 ly 8 tăng cường cho hướng tiểu đoàn 2).
Tiểu đoàn D4K, đảm nhiệm hướng Bắc
Hướng nam là công trường 9 (sư đoàn 9) làm nhiệm vụ chặn viện Ba Khom, Tăng Cốc không cho chúng chi viện và ứng cứu Ba Rài. Đêm 13/09/1971, từ các hướng, mũi được phân công, bộ đội ta bí mật áp sát Ba Rài, đào công sự.
Trận địa DKZ75 và cối 82 của trung đoàn nằm ngay sau lưng tiểu đoàn 1. Sở chỉ huy trung đoàn vẫn ở tại rừng chuối Sam Sa.
D3 vẫn phòng ngự hướng nam lộ.
5h ngày 14/9/1971, hỏa lực của quân khu tăng cường gồm cối 120 ly + DKB được lệnh bắn phá cứ điểm ba rài, căn cứ Ba Rài chìm ngập trong khói đạn của pháo binh ta. Khoảng 30 phút sau, hai trận địa pháo ở Ba Khom, Tăng Cốc phản pháo đạn 155, 105, cối 106.7 nổ tung tóe quanh trận địa, ngay lập tức các trận địa pháo của sư đoàn 9 ầm ầm trút đạn, hai trận địa pháo địch chỉ còn phản ứng một cách thưa thớt rồi câm miệng.
Từ các hướng của D1, D2 và D4K cũng đã bắt đầu nổ súng, DKZ, B41, B40 khai hỏa khóa mõm ngay những hỏa điểm địch xuất hiện. Các xạ thủ bắn tỉa CKC, RBK có lắp kính quang học không cho địch lú đầu lên khỏi mặt đất, cả ngày hôm đó địch co đầu nằm dưới công sự và các ổ đề kháng.
Sáng 15/09, trận địa 2 bên vẫn đối chiến nhau. Các loại hỏa lực của địch lâu lâu lại phun ra những luồng đạn và chỉ ít phút sau chúng lại “được” xơi ngay những quả DKZ hoặc B41, B40 quân ta “thưởng” cho chúng. Các trận địa pháo địch gần đó vẫn nằm im chịu trận, vì chỉ cần” sủa” lên ít tiếng là bị pháo sư đoàn 9 dập phủ đầu ngay.
Sang ngày thứ tư (tức 17/09) cả ba hướng đều có công điện báo về sở chỉ huy trung đoàn. Tiểu đoàn 1 bộ đội ta có 3 đ/c hi sinh, Tiểu đoàn 2 có 5 đ/c, D4K có 6 đ/c. Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn xuống các trận địa tiếp tục vây ép và cố gắng bảo toàn lực lượng.
Ngày hôm đó, pháo binh (cối 82) của trung đoàn vẫn bền bỉ nã đạn vào căn cứ Ba Rài.
4h sáng ngày 18/09/1971, một công điện từ quân khu khẩn cấp chuyển xuống sở chỉ huy trung đoàn… Anh Ba Trắc ra lệnh cho hướng tiểu đoàn 2 chuẩn bị “đón lõng”. Địch có khả năng mở đường máu tháo chạy.
9h sáng 18/09/1971, y như dự đoán bọn địch thoát ra hướng D2 đông như kiến, 6 khẩu 12 ly 8 của trung đoàn thỏa sức khạc đạn vào đội hình quân địch, xác địch nằm ngổn ngang trên khắp cánh đồng.
12h Ba cánh quân của ta được lệnh rút ra để nhường chỗ cho những phi đội máy bay F4 ném bom và bắn phá xung quanh vị trí Ba Rài. 2h giờ chiều, đại đội trinh sát báo về, vị trí Ba Rài không còn một bóng địch, chúng đã bỏ chạy để lại nhiều xác chết, vũ khí, đạn dược và lương thực. Đại đội vận tải của ta được lệnh vào thu dọn chiến trường. Ngay đêm đó, mấy chục xe bò của dân được huy động để vận chuyển hàng chiến lợi phẩm. Cơ quan tuyên huấn cử ngay đ/c Nguyện, đ/c Hùng theo đơn vị vận tải vào thu chiến lợi phẩm, ” đúng là làm nghề nào thì vào giành của đấy.”
C23 quân y lúc này do đ/c Bài (bác sỹ) phụ trách, cử 4-5 người lệ khệ mang toàn thuốc tây, ống chích, có cả bông băng, để phục vụ cấp cứu thương binh và chữa bệnh.
Quân giới thì lo thu gom vũ khí, đạn dược, mìn và các chất nổ,
Hậu cần thì vận chuyển lương thực.
Đ/C Hùng, Nguyện quẩy về 2 ba lô đầy nhóc giấy polya và giấy than. Lúc đó toàn đánh máy “cơ” chứ đâu có vi tính như bây giờ (Trong số chiến lợi phẩm này có mấy cuốn sổ giấy trắng rất đẹp. Tôi dùng 1 cuốn để ghi chép và giữ làm kỷ niệm đến tận bây giờ.).
Vậy là sau 5 ngày đêm thực hiện chiến thuật vây ép, được sự hỗ trợ chi viện hỏa lực, xung lực của sư đoàn 9, của quân khu, trung đoàn 207 đã “nhổ” được cứ điểm Ba Rài, tiêu diệt hàng trăm tên địch, thu rất nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng, giải phóng thêm một vùng đất trên đường số 6, làm cho quân đội 2 nước và nhân dân CPC nức lòng (trận đánh của trung đoàn lần đầu tiên có quân đội bạn CPC tham gia phối hợp). Quân giải phóng CPC ngày càng trưởng thành…
Sau khi Ba Rài được hoàn toàn giải phóng, chính quyền của bạn tổ chức đưa nhân dân trở về làm ăn sinh sống. Tiểu đoàn 4K quân đội bạn được giao nhiệm vụ chốt chặn gần vị trí Ba Khom và tiểu đoàn 2 vẫn đứng chân ở Ô Tà Thóc sẵn sàng chi viện giúp bạn.
Tiểu đoàn 5K lại được thành lập và được giao nhiệm vụ phòng thủ gần Pray Tưng thế chân tiểu đoàn 1 rút quân về đóng tại rừng cao su (Bút Khơ No) cũng để sẵn sàng chi viện giúp đơn vị bạn. Một khung huấn luyện cho bạn lại tiếp tục tuyển quân, huấn luyện.
Khoảng đầu 11/1971, tôi và đ/c Vinh bên bộ phận tham mưu được cùng đi với anh ba Trắc và anh Phạm Dốc xuống đơn vị huấn luyện cho đơn vị bạn tại một rừng cao su cách trung đoàn bộ khoảng 7km. Hai chiếc xe Honda 90 chở ba từ trung đoàn bộ len lỏi trong đường mòn rừng chuối rồi đến rừng cao su. Bộ đội CPC đang được huấn luyện, cũng võng, cũng tăng che mưa, cũng bếp Hoàng Cầm chẳng khác gì khi chúng tôi hành quân ở Trường Sơn. Chỉ có điều là ở đây khu rừng này rất bằng phẳng. Các bếp ăn đại đội còn nuôi được cả heo để cải thiện đời sống. Vì thức ăn cho heo ở đây dễ kiếm: chuối, mít, đu đủ ở gần đó rất nhiều chỉ cần thêm một ít cơm thừa canh cặn là mấy con heo lớn nhanh như “thổi”. Xa nơi đóng quân khoảng 500m là bãi thao trường cũng lô cốt, giao thông hào, ụ đề kháng và hàng rào “kẽm gai” đơn, kép, cũi lợn, mái nhà nhưng có điều không phải bằng kẽm gai thật mà căng toàn bằng dây chuối khô “giả tưởng” để cho bộ đội CPC luyện tập.
Anh ba Trắc và anh Phạm Dốc quyết định xuống đơn vị huấn luyện vừa để thăm bộ đội, vừa để kiểm tra chất lượng huấn luyện (vì bộ đội của bạn cũng giống như ta phải có chất lượng để khi ra chiến trường mới hoàn thành nhiệm vụ). Mỗi đại đội đều có khẩu hiệu bằng chữ CPC dịch ra tiếng Việt là: “Thao trường đổ mồ hôi, chiến trường đỡ đổ máu”. Đơn vị nào cũng có 4 – 5 phiên dịch người Việt Kiều để giúp cho “chuyên viên” của ta truyền đạt kiến thức cho bạn. Hai chiếc xe Honda được dừng lại gần khu nhà bếp, hai chiến sĩ lái xe (là 2 liên lạc của anh Phạm Dốc và anh Ba Trắc) ở lại, tôi và đ/c Vinh cuốc bộ theo anh Ba Trắc và anh Dốc xuống thao trường. Cũng một tiếng “Nghiêm” của vị chỉ huy huấn luyện, đ/c Nhưng bước đều ngay tới trước mặt anh ba Trắc và anh Dốc nhưng chẳng nhìn vào ai mà nhắm ngay khoảng giữa của 2 anh đứng, cũng giơ tay lên vành mũ báo cáo. Làm anh ba Trắc và anh Phạm Dốc vô cùng bối rối chẳng biết đ/c Nhưng chào ai và báo cáo ai. Tôi và đ/c Vinh đứng sau không nhịn được cười, đành phải ôm mặt quay đi chỗ khác. Anh ba Trắc và anh Dốc cũng tủm tỉm cười rồi anh Ba Trắc tiến tới vỗ nhẹ vào vai đ/c Nhưng trấn an tinh thần “Đ/c tiếp tục cho bộ đội huấn luyện đi”.
Lại cùng đơn vị huấn luyện khoảng 1 tiếng đồng hồ, chúng tôi quay lại chỗ 2 chiếc xe đang đợi. Anh Dốc, anh Ba Trắc và đ/c Vinh đi rồi tôi nán lại với anh Nhưng. Người anh mà tôi rất quý mến đã cùng tôi xông pha bao nhiêu trận mạc. Tôi bắt tay và nhắc khéo anh: “Hồi nãy anh báo cáo theo điều lệnh quân đội của nước nào thế? Một là báo cáo trung đoàn trưởng, hai là báo cáo chính ủy đằng này anh lại báo cáo cái “khoảng trống”, chắc anh báo cáo mấy cây cao su à…”. Anh toét miệng cười: “Nếu báo cáo ông này thì ông kia buồn… vậy là một lúc tao báo cáo cả 2…”.(Anh này ngó chân thật vậy mà “sáng tạo” láu cá quá trời…)
Ngày 7/12/1971, Đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn quyết định mở hội nghị quân chính để chuẩn bi cho trận đánh mới. Vậy là chính trị viên + tiểu đoàn trưởng cùng chính trị viên, đại đội trưởng các C trực thuộc. Trợ lý của 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần. Kể cả số cán bộ của quân khu xuống dự quân số hội nghị lên tới 70 – 80 người.
“Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định giải phóng Ba Khom, Tăng Cốc” là hai vị trí còn sót lại trên đường số 6, mở rộng vùng giải phóng cho bạn, tạo điều kiện thuận lợi cho ta tiếp tục vận chuyển vũ khí, đạn dược áp sát xuống chiến trường miền Nam. Sau một ngày làm việc, hội nghị kết thúc vào lúc 4h chiều cùng ngày. Trung đoàn tổ chức một bữa cơm tương đối thịnh soạn, để chiêu đãi cán bộ trong thời gian qua đã lập nhiều chiến công, tô thắm thêm trang sử vàng của đơn vị. Vì có ý định từ trước nên ban chính trị ủng hộ 1 con heo cũng phải gần 100 ký (lúc này bộ phận nhà bếp nuôi được 4 – 5 con heo). Chỉ có 1 con heo thì có thấm tháp gì, ngoài cán bộ dự hội nghị, còn chiến sĩ phục vụ của 3 cơ quan, các chiến sĩ bảo vệ, riêng tiểu đoàn 3 để đưa đ/c tiểu đoàn trưởng và chính trị viên đi họp đã phải diều động hơn chục chiến sĩ trinh sát súng đạn đầy đủ, vừa bám đường, vừa bảo vệ khi vượt lộ 7 mà thường phải vượt vào lúc trời tối. Vì vậy ban tham mưu cũng góp phần đóng góp thực phẩm, còn lại ban hậu cần được “vinh dự” lãnh hết.
Anh sáu Truyền (nhờ có năng khiếu) nên được chỉ định vào ban tổ chức (đón tiếp khách). Ra dáng một nhân vật quan trọng, anh đứng ngay ngoài cửa (khu đãi tiệc) dưới bóng cây rậm rạp gần nhà ban chỉ huy trung đoàn, một “nhà ăn” dã chiến bàn toàn bằng tre, ghế cũng bằng tre được vệ binh chuẩn bị từ trước. Cứ 4 người một bàn được lần lượt sắp xếp để chuẩn bị vào tiệc “Chẳng thua kém gì tổ chức tiệc cưới bây giờ”. Tôi thấy anh sáu Truyền cứ lăng xăng ngoài cửa, bắt tay mọi người, miệng cười tươi, đôi mắt thì him híp: “Mời đ/c vào chỗ này… mời anh vào bàn kia…”….trông rất “oách”… Tất nhiên là mọi người phải chấp hành “mệnh lệnh” của anh rồi. Và sau đó không lâu đã đến giờ khai tiệc.
Món ăn cũng tươm tất và đầy đủ: thịt heo, gà, chó… mỗi bàn còn có một bình tông nước thốt nốt chua để thay cho rượu (loại nước này uống rất ngon nếu uống nhiều cũng say đứ đừ chứ chẳng chơi).
Bữa tiệc đã được độ ½ thời gian bỗng anh sáu Truyền bỏ bàn tiệc lên vị trí “khán đài” vỗ tay và giọng nói cứ oang oang (lúc đó đâu có loa và âm ly như bây giờ).Anh lại có khiếu làm MC nên tất cả các bàn tiệc mọi người đều hướng về anh.
- Thưa các đ/c, bữa tiệc của chúng ta hôm nay có cái “đặc biệt” nhưng chắc chưa ai nhận ra. Thay mặt ban tổ chức tôi xin trình bày và giới thiệu:
Bàn số 1 là bàn “rổ” (gồm anh Lợi, anh sáu Hiền…)
Bàn số 2 là bàn “xồm” (anh Trực, anh Bảo…)
Bàn số 3 là bàn “hói” (anh Sáu, anh Cận, anh ba Cao Tông…)
Bàn thứ 4 là bàn “đốm” (anh Dĩ, anh Sâm, anh 2 Tường và đ/c Long).
Nhìn theo tay anh chỉ chúng tôi mới nhận ra mỗi bàn đủ 4 người y như lời anh giới thiệu: 4 mặt rổ, 4 râu quai nón, 4 trán trợt, 4 đầu bạc hoa râm. Thì ra anh “cậy” mình có chức danh trong ban tổ chức, có “chủ mưu” từ trước nên mới sắp xếp “chu đáo” như vậy. Cả “nhà ăn” bỗng ồn ào và tưng bừng hẳn lên. Nhiều anh em khoái chí với màn đạo diễn hết sức tinh quái của anh Sáu, rót rượu thốt nốt lia lịa. Vậy rồi ai cũng xách ly đến chúc mừng 4 bàn “đặc biệt”. Ba bàn kia thấy các anh tỉnh bơ còn hùa theo như là chấp nhận nữa chứ. Riêng cái bàn “rổ” thấy mấy anh quạu ra mặt. Anh sáu Hiền than với anh Lợi: “Ông trời không công bằng chút nào, để mặt tao với mày giống như là tổ ong, cho thằng sáu Truyền nó cứ quậy hoài”. Cũng nhờ vậy mà chúng tôi ai cũng nhớ mãi: “Bữa tiệc có 1 không hai” này.
Ngày 11/12/1971, sở chỉ huy tiền phương trung đoàn được dời về Ô Tà Thóc (nơi đóng quân của tiểu đoàn 2). Cả 3 cơ quan cũng gọn nhẹ để theo gót ban chỉ huy trung đoàn. Ban chính trị chỉ chừa lại số chiến sĩ phục vụ, còn hầu hết các trợ lý đều xuất quân. Từ Sam Sa đến Ô Tà Thóc đường đi bộ mất khoảng 2h đồng hồ, lại nằm trong hậu cứ nên chúng tôi chẳng cần ai dẫn đường cũng chẳng cần phải hợp đồng với cơ quan nào, cứ thế thẳng tiến. Anh ba Trắc và anh Phạm Dốc có xe Honda nên đã vọt trước, vậy là chỉ còn toàn “phe nhà”. Hơn chục sỹ quan, có một liên lạc và 1 y tá cũng thành một hàng dọc hành quân (do anh Dĩ chỉ huy).
4h chiều chúng tôi đã đến vị trí qui định. Ban chỉ huy trung đoàn, cơ quan tham mưu, cơ quan hậu cần cũng đã có mặt đầy đủ. Được cơ quan tham mưu chuẩn bị từ trước nên hầm của chúng tôi chỉ cách hầm anh ba Trắc, anh Dốc độ 30m, gần đó là bộ phận thông tin, máy 2 oát, 15 oát và cơ yếu. Vòng bên ngoài là lực lượng vệ binh. Tiểu đoàn 1, tiểu đoàn 2 cũng được lệnh xuất kích từ lúc nào. 12h khuya bộ đội đã vào hết vị trí tập kết chỉ cách trận địa địch khoảng 150m bí mật đào công sự ém quân.
Tiểu đoàn 1 hướng tây Ba Khom.
Tiểu đoàn 2 từ hướng đông Ba Khom
Hỏa lực 12 ly 8 và DK75 được tăng cường cho 2 tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy. Sau lưng tiểu đoàn 2 là trận địa cối 82 của trung đoàn, trận địa cối 120 ly và DKB của quân khu tăng cường.
Cứ điểm Tăng Cốc được giao cho 1 đơn vị của sư đoàn 9 đảm nhiệm, các đơn vị còn lại của sư đoàn 9 có nhiệm vụ phòng ngự, chặn viện từ Xi Kun – Pà Ao không cho địch về ứng cứu Ba Khom và Tăng Cốc. Đây là trận đánh hợp đồng tác chiến của nhiều đơn vị nên thời gian hành động đòi hỏi rất nghiêm ngặt, độ chính xác gần như tuyệt đối.
Đúng giờ G (ám chỉ cho giờ hợp đồng nổ súng) tức 4h sáng ngày 12/12/1971, từ sở chỉ huy trung đoàn phát lệnh khai hỏa.
Vậy là vòng quanh căn cứ Ba Khom là những ánh chớp của các trận địa pháo cầu vồng, pháo bắn thẳng của ta nhả đạn. Cứ điểm Ba Khom trải dài khoảng 1km cặp 2 bên quốc lộ số 6, nhì nhằng ánh lửa và những âm thanh ì ầm không ngớt. Pháo của sư đoàn 9 cũng đã nhả đạn vào Tăng Cốc, Xi Cun, Pà Ao.
5h30, từ 2 hướng tiểu đoàn 1 và 2 được lệnh đánh chiếm trận địa địch. Các hỏa điểm của địch phun đạn về hướng bộ đội ta chẳng khác gì vãi trấu. Đạn M79, lựu đạn của địch nổ tứ tung vào đội hình xung phong của bộ đội nhiều chiến sĩ ta đi đầu vướng mìn, hi sinh ngay tại hàng rào.
6h30, từ ngoài trận địa báo về, tiểu đoàn 1 vẫn còn ngoài hàng rào, bộ đội ta đã có 1 số hi sinh và bị thương.
Hướng tiểu đoàn 2, bộ đội ta vẫn còn nằm tại chỗ chịu trận vì vấp phải bãi mìn và hỏa lực dày đặc của địch, rất nhiều đ/c đã hi sinh và bị thương.
Tôi nhận rõ nỗi lo âu trên khuôn mặt của 2 vị chỉ huy (anh ba Trắc và anh Phạm Dốc) đôi mắt đã thâm quầng vì suốt đêm không ngủ, những nét nhăn hằn sâu hơn trên vầng trán và 2 khóe mắt. Anh Dốc cứ chau mày, đưa bàn tay phải vỗ vỗ trên vầng trán như đang muốn “nặn” ra một điều gì… Anh ba Trắc vẻ mặt suy tư chấp tay sau lưng đi đi lại lại quanh căn hầm bé nhỏ. Bọn tôi gồm có anh Dĩ, cả đ/c tham mưu trưởng, đ/c trợ lý tác chiến, mặt cũng đầy “tâm sự” chẳng thua kém gì các anh.
Bất ngờ, anh ba Trắc nói với anh Phạm Dốc: “Nếu cứ để cho bộ đội ta xung phong giữa ban ngày thì thương vong sẽ vô cùng khủng khiếp. Phải dùng cách khác thôi”. Anh Phạm Dốc trả lời: “Tôi cũng đang suy nghĩ điều đó”. Vậy là chỉ sau ít phút hội ý, mệnh lệnh của anh ba Trắc đã được các đ/c thông tin chuyển xuống các ban chỉ huy tiểu đoàn: “Cho bộ đội ém quân tại các công sự, dùng hỏa lực DKZ, 12 ly 8, B41, B40 tiêu diệt các hỏa điểm địch, đạn nhọn chuyển sang bắn tỉa. Cối 82 và 61 tiếp tục bắn phá trận địa địch (lúc giải phóng cứ điểm Ba Rài, ta lấy được rất nhiều đạn 81 và 60 của địch nên pháo của ta cứ thỏa sức gầm thét).
9h sáng, sở chỉ huy trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 2 dùng chiến thuật “đầu nhọn, đuôi dài”(Chiến thuật hình con rắn., đột kích trên phạm vi hẹp, thẳng vào vị trí trung tâm) từ hướng đông nam Ba Khom. Vậy là cối 120 ly, DKB, cối 82, cối 61, DKZ75, DKZ 57, 12 ly 8 được dồn sang hướng này. Trận địa trước mặt C7- D2 mịt mù khói lửa, nhiều đoạn rào dây thép gai của địch bị pháo ta bầm nát. Sau 15 phút bắn phá, pháo binh ta được lệnh chuyển làn, đại đội 7 như một mũi mác xuyên thẳng vào “tim” địch. Tiểu đoàn 1 và các đại đội còn lại của tiểu đoàn 2 được lệnh tiếp tục tấn công …
Bị cú đánh bất ngờ vào giữa trung tâm, toàn bộ quân địch lớp đầu hàng, lớp bỏ chạy thục mạng. Đến 11h trưa ta hoàn toàn làm chủ trận địa. Bộ đội ta được lệnh rút ra ngoài, tiểu đoàn D4K vào thu dọn chiến trường và tiếp tục chốt giữ vùng ta mới vừa giải phóng. Tiểu đoàn 1 được lệnh phát triển về hướng Tăng Cốc để chi viện cho đơn vị bạn. Sư đoàn 9 đang đánh chiếm cứ điểm Tăng Cốc, chặn viện từ hướng Xi Kun và Pà Ao.
17h cùng ngày, căn cứ Tăng Cốc cũng buông vũ khí đầu hàng, các cánh quân tiếp viện của địch bị sư đoàn 9 của ta chặn đánh tan tành phải co đầu về Xi Kun và Pà Ao phòng thủ.
Vậy là đến giữa tháng 12/1971, chiến dịch Chen La 2 do ta khởi xướng đã giành được thắng lợi hoàn toàn. Tiêu diệt các cứ điểm của địch trên đường số 6, giải phóng một vùng đất đai cho nhân dân CPC, tạo ra một hành lang rộng lớn làm thay đổi thế và lực giữa ta và địch, tạo nhiều thuận lợi cho cuộc cách mạng của nhân dân 2 nước.Trong trận đánh này trung đoàn 207 cùng các đơn vị trong quân khu phối hợp với sư đoàn 9 đã giải phóng thị trấn Ba Khom và cứ điểm Tăng Cốc tiêu diệt nhiều sinh lực địch. Đặc biệt trong trận đánh này có đ/c Trau (người dân tộc thiểu số) xạ thủ B40 của đại đội 7 tiểu đoàn 2 đã bắn 6 quả đạn. Diệt 6 hỏa điểm địch tạo điều kiện cho đơn vị thọc sâu giành thắng lợi. Đ/c Trau được đề nghị tặng thưởng huân chương chiến công giải phóng hạng nhất. Được cơ quan tuyên huấn triển khai cho đ/c Hùng (họa sỹ) phác họa bộ tranh “XẠ THỦ B40 KIỆT XUẤT”…
Ngày 25/12/1971, tôi được anh Hoàng Đăng Dỹ (chủ nhiệm chính trị trung đoàn) phân công theo sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn do anh Nông Ngọc Cận và anh Tư Sen chỉ huy (có nhiệm vụ đưa các đơn vị trực thuộc của trung đoàn chi viện cho D3 tiêu diệt căn cứ địch là Pim chi koon)
Đội hình hành quân gồm một trung đội trinh sát đi đầu, tới đại đội 19 (công binh) rồi 16 (cối 82), 17 (DKZ 75), 18 (12 ly 8), 22 (vận tải), 23 (phẫu trung đoàn) rồi tới sở chỉ huy trung đoàn và 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần (bên chính trị có tôi, đ/c Trực, đ/c Quân).
10h tối chúng tôi đã có mặt tại một phum (không nhớ tên) cách đường số 7 khoảng 2 km. Nhân dân CPC đã đi sơ tán gần hết chỉ còn lác đác ít người độ tuổi trung niên ở lại bám giữ nhà. Gần ¼ số nhà dân phum này bị bom của máy bay địch thiêu rụi. Một cảnh tượng đổ nát hoang tàn thật đau lòng.
Sau khi bộ phận trinh sát bám địch và đã chốt giữ 2 bên đầu đường đảm bảo an toàn tuyệt đối cho đội hình hành quân vượt đường, 12h đêm, đoàn quân như một con trăn khổng lồ lặng lẽ trườn từ hướng Bắc vượt lộ 7 qua hướng Nam. Đêm chiến trường trên đất bạn bỗng yên tĩnh lạ thường. Lại chạnh lòng nhớ về Đất Mẹ Việt Nam lúc này cũng đang gồng mình gánh chịu bao đau thương tang tóc.
Tới 4h sáng, chúng tôi được lệnh dừng chân tại một phum sát bờ sông Cửu Long thuộc tỉnh Kom Pông Chàm (phum này trước đây dân Việt kiều ở rất nhiều nhưng khi bọn Lon Non đảo chính Xi ha núc chúng đã sát hại dân Việt, nhiều người bị chết, số sống sót đã bỏ chạy về Việt Nam chỉ còn lại vài chục gia đình liều chết bám trụ.
Nhìn trên bản đồ chúng tôi xác định được vị trí đóng quân cách cứ điểm Pim Chi Koon khoảng 10km và cách Pray Tưng khoảng 15km.
Căn cứ Pim Chi Koon là điểm phòng thủ bên ngoài bảo vệ cho Pray Tưng từ hướng Nam vừa để ngăn chặn đường vận chuyển hậu cần của ta bằng đường thủy. Lệnh của bộ chỉ huy chiến dịch giao cho trung đoàn 207 phải xóa bằng được căn cứ này.
Trung đoàn đã sử dụng tiểu đoàn 3 đánh đồn và toàn bộ hỏa lực của trung đoàn chi viện. Có thêm một tiểu đoàn của bạn phối thuộc làm nhiệm vụ chặn viện quân địch từ hướng Pray Tưng.
9h tối ngày 26/12/1971, bộ phận trinh sát điều nghiên (điều tra – nghiên cứu) đã được tập trung tại một vị trí chỉ còn cách cứ điểm Pim Chi Koon khoảng 4km (nơi này được dự kiến đặt sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn). Lập tức lực lượng vệ binh triển khai chuẩn bị hầm cho sở chỉ huy. Anh Cận cùng đ/c tham mưu phó trung đoàn dẫn cán bộ đơn vị hỏa lực áp sát cứ điểm Pim Chi Koon để chuẩn bị các vị trí đặt hỏa lực cối pháo. Lực lượng trinh sát của trung đoàn, tiểu đoàn cùng với cán bộ tiểu đoàn 3 ngay trong đêm đã tiếp cận sát hàng rào bên ngoài của cứ điểm, xác định địa hình, dự kiến cho từng mũi đột kích cứ điểm.
Từ vị trí dự kiến đặt sở chỉ huy của trung đoàn, tôi và đ/c Trực theo sát bộ phận anh Cận cùng với cánh tham mưu đến cách cứ điểm Pim Chi Koon độ 1 km thì dừng lại. Lúc này là đầu mùa khô nên cánh đồng đã khô hạn. Phóng tầm mắt chỉ thấy đồn địch mờ mờ ảo ảo trong đêm, điểm một vài ánh đèn le lói.
Gần 2h sáng, các hướng trinh sát điều nghiên đã nắm được địa hình và chuẩn bị xong trận địa. Vậy là anh Cận lệnh cho các mũi lui về phía sau. Cũng chẳng cần chờ đầy đủ. mỗi bộ phận đều có cán bộ trực tiếp chỉ huy tự lui về vị trí xuất phát. Bộ phận đi với anh Cận còn khoảng hơn chục người, có 2 trinh sát dẫn đường và 6 vệ binh bảo vệ. Gần 4h sáng, chúng tôi vẫn còn “lang thang” trên cánh đồng. Lúc này đã khát khô cổ. Mấy bình tông nước của vệ binh đem theo đã cạn sạch hồi nào. Đến một cái gò có 4 – 5 cây thốt nốt mọc gần nhau anh Cận cho dừng nghỉ để lấy lại sức chuẩn bị vượt một đoạn trống nữa thì vào phum. Hơn chục người ngồi dưới gốc cây thốt nốt. Nhìn những ống nước đung đưa trên đọt cây mà chẳng biết làm sao. Thường ở những cây thốt nốt cao dân CPC buộc một cây tre có ngạch dọc theo thân cây để leo cho dễ. Nhưng những cây này vừa tầm nên trần trụi. Khát khô cả họng mà lính ta chẳng ai dám trèo. Thấy người này cứ nhìn người kia để ráng chịu đựng cho qua cơn khát…
Lúc còn nhỏ ở nhà tôi vẫn leo cau để bắt những con quang quãng về mùa hè. Nào là quãng cơm, quãng đồng, quãng trâu. Quãng đồng đẹp lắm nó giống như con cánh cam. Lấy dây chỉ cột vào cổ nó, cầm sợi dây đầu kia nó bay xoay tít phát ra một âm thanh giống như động cơ máy bay trinh sát đầm già. Cánh trẻ con chúng tôi thích lắm.
Vậy thì ngày xưa leo cây được, bây giờ chắc cũng thế thôi, lúc này mà gặp được chủ nhân của mấy cây này thì lại quá dễ. Chắc chắn nhân dân CPC sẽ không để cho chúng tôi chịu cái cảnh “ đói khát” như thế này, vì họ biết chúng tôi đang chiến đấu giải phóng quê hương cho họ. Nhưng bây giờ tìm đâu ra 1 bóng người dân cơ chứ, chẳng lẽ chịu khát sao… Nghĩ tới đây, tôi quyết định làm người hùng giải cứu cơn khát, tuột dây lưng gửi lại cho anh Trực, oai phong tiến tới cây thốt nốt và chẳng mấy chốc đã chót vót trên ngọn cây cao độ 8-9 mét.
Sau khi đã chễm chệ trên cái tàu bẹ thốt nốt cứng như bẹ dừa, tôi với ngay một ống nước thốt nốt ngọt lịm nốc căng một bụng. ”Cơn khát biến mất ngay”. Mấy đ/c ở dưới gốc cây cứ réo lên, nhất là anh Trực: “Kiên ơi mày uống mình mày à… Lẹ lẹ xuống chứ, chúng tao khát khô cả cổ rồi nè…”. Anh Cận thì “nhẫn nại” hơn ra dáng người thủ trưởng: “Tụi mày từ từ… cứ toáng lên… nó ghét nó cứ ngồi ì trên cây… cho cả đám chết khát”….
Lời nói của anh Cận làm tôi “tỉnh ngộ”, vậy là phải nghiên cứu ngay cách đưa nước xuống để cứu khát cho đồng đội… Cứ bốn người một ống là vừa thì phải chuyển 4 ống xuống. Mà đem xuống bằng cách nào đây? Ném từng ống xuống thì như “công dã tràng”. Ống nước rớt xuống đất sẽ bị bể, nước đổ hết. Lấy dây thòng xuống nhưng kiếm đâu ra? Xách bằng tay thì lấy tay nào để bám vào thân cây? Chỉ còn cách buộc 2 ống nước vào một chân rồi từ từ tuột xuống “cách này là khoa học nhất”.
Bốn ống nước, mỗi ống nặng chừng 3kg được tôi buộc chặt vào 2 chân rồi lách qua mấy bẹ lá, ôm vào thân cây từ từ nhích xuống. Được độ phân nửa cây thì 2 tay đã mỏi tê, hai chân rã rời, bốn ống nước lúc này chẳng khác gì bốn cục đá cứ “trì” xuống, chỉ muốn lôi toàn thân tôi thoát khỏi thân cây. Hai tay như muốn hết đeo nổi cái thân vừa nặng với cái bụng căng phình…không có lẽ chịu buông tay để cái thân này và 4 ống nước rơi tự do giống như những người nhảy dù sao? “Mất mạng chứ chẳng chơi”. Tôi gồng mình, ráng dùng hết sức lực còn lại, hai tay ôm chặt vào thân cây và để- cho- nó- tự- do- tuột- xuống…
Chân vừa chạm đất thì chẳng còn chút sức lực nào, tôi buông tay ngã ngửa trên mặt đất. Cũng may có mấy anh ở dưới “cứu viện” nên mấy ống nước vẫn còn nguyên vẹn… Nút quần, nút áo đứt gần hết, 2 bên tay áo rách tả tơi vì bị mài vào thân cây nhám hơn da cóc. Đùi, bụng, tay chỗ nào cũng rơm rớm máu… Ấy vậy mà mấy đồng đội thân yêu của tôi thì hớn hở ra mặt, túm mấy ống nước như vớ được vàng, mặt mũi tươi tỉnh vừa uống nước vừa nhìn “thằng Kiên” nằm thẳng cẳng dưới đất mặt cắt không còn hột máu …(cơ bản là mọi người đã kịp liếc nhìn thấy tôi vẫn còn nguyên vẹn). Kỷ niệm ấy suốt đời không quên được, bây giờ nhớ lại vẫn còn thấy “lạnh cả xương sống”…
Ngày 27+28 bộ đội ta được nghỉ ngơi và chuẩn bị. 8h tối ngày 28/12/1971 được lệnh xuất kích.
10h khuya, chúng tôi theo anh Cận và anh Tư Sen đã có mặt tại sở chỉ huy tiền phương. Cách đó khoảng 200m là trạm phẫu thuật dã chiến của trung đoàn do bác sĩ Bài phụ trách. Các đơn vị hỏa lực của trung đoàn gồm cối 82 ly, DKZ 75, 12 ly 8 đã vào vị trí theo dự kiến. Đại đội 19 công binh được bổ sung hỗ trợ tiểu đoàn bạn (CPC) chặn địch từ hướng Pray Tưng không cho chúng ứng cứu Pim Chi Koon.
2h sáng ban chỉ huy tiểu đoàn 3 báo về sở chỉ huy tiền phương “bộ đội đã chiếm lĩnh hết vào các vị trí đã định”.
Hướng bắc đại đội 9
Hướng đông đại đội 10
Hướng tây đại đội 11
Trận địa hỏa lực (đai đội 12) nằm gần ban chỉ huy tiểu đoàn
2h30 được lệnh nổ súng.
Cối 82 của trung đoàn và tiểu đoàn cộng với cối 61 của các đại đội bộ binh cấp tập nã vào đồn địch. Sau đó 30 phút địch phản pháo và đạn nhọn từ trong đồn bắn ra vung vãi. Hỏa lực 12 ly 7, đại liên từ các lỗ châu mai, lô cốt khạc đạn chớp lòe từng chặp.
DK57, B41, B40 của ta bắt đầu phát huy hiệu lực. Nhờ có những ánh chớp lòe trong đêm tối xác định được ụ súng địch, hỏa lực bắn thẳng của ta đã dập tắt nhiều “ánh lửa” trong đồn địch...
Đúng 3h30 từ cả 3 hướng Đông, Tây, Bắc bộc phá và những quả mìn ĐH10 nổ tung công phá nhiều đoạn dây thép gai quanh đồn địch. Cửa đã mở. 3 mũi từ 3 hướng, bộ đội ta dũng mãnh xông lên
Khoảng 4 giờ. ban chỉ huy tiểu đoàn 3 báo cáo về: hướng Bắc và hướng Đông bộ đội đã đánh chiếm xong vị trí cửa mở.Ở hướng Tây bộ đội ta vẫn nằm ngoài hàng rào vì bị hỏa lực dày đặc của địch chặn lại.Đại đội 11 đã có gần 10 đ/c hi sinh (trong đó có đ/c chính trị viên).đ/c đại đội trưởng bị thương nặng.Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn “Chi viện hỏa lực tối đa cho hướng đại đội 11”. Vậy là ĐKZ 75 của trung đoàn dồn dập bắn phá trận địa địch ở hướng Tây.6 khẩu 12 ly 8 của trung đoàn cũng được lệnh áp sát trận địa địch “cùng cùng” nhả đạn.
5h30,cả 3 hướng bộ đội ta lại được lệnh đồng loạt tấn công. Bọn địch chống cự mỗi lúc một yếu ớt,. Các xạ thủ B40 + B41 sẵn sàng dập tắt ngay khi hỏa điểm địch xuất hiện. Các chiến sĩ bộ binh áp sát các hầm cố thủ của giặc, thả lựu đạn “lọt tót” vào trong hầm và tiêu diệt những ổ đề kháng của địch.
6h30 từ ngoài trận địa báo về ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa, địch chỉ còn hơn trăm tên kịp xuống thuyền thoát qua sông chạy về hướng nam.
8h ngày 29/12/1971, một tiểu đoàn địch từ hướng Pray Tưng chi viện phản kích hòng chiếm lại Pim Chi Koon nhưng đã bị đơn vị bạn (CPC) và đại đội 19 công binh chặn đánh, địch phải co về cố thủ tại Pray Tưng.
Như vậy trận tập kích cứ điểm Pim Chi Koon của trung đoàn 207 đã san bằng cứ điểm này tiêu diệt nhiều sinh lực địch, thu nhiều vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng… Lại thêm một vùng đất của nhân dân CPC được hoàn toàn giải phóng.
“Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta...” (Nguyễn Khoa Điềm)
Sau khi giải phóng cứ điểm Pim Chi Koon chúng tôi lại vượt quốc lộ 7 trở về hậu cứ. Tiểu đoàn 3 vẫn đóng quân phía nam lộ 7 để giúp nhân dân CPC bảo vệ và giữ vững vùng ta mới giải phóng. Quân giải phóng CPC vẫn không ngừng lớn mạnh kể cả về quân số lẫn trang bị vũ khí.
Tháng 3/1972 một trung đoàn chính quy của bạn được thành lập tại khu vực này và chốt giữ những vị trí chiến lược mà trước đây do ta đảm nhiệm.
Anh sáu Truyền được điều về phòng tuyên huấn quân khu và anh Sang được quân khu đưa về thay thế. (Vì E207 là trung đoàn độc lập nên mọi việc đều được quân khu trực tiếp chỉ đạo và điều động).
Bữa cơm của ban chính trị tổ chức để chia tay anh Sáu có cả bốn anh trong ban chỉ huy trung đoàn đến dự, ai cũng cảm thấy lưu luyến, riêng tôi thì “buồn” ra mặt. Suốt bữa tiệc chia tay anh tôi chẳng nói câu nào. Đồng đội ai gắp cho thì ăn, không thì thôi chẳng hề “đụng đũa”. Thấy vậy anh Lợi liền chọc: “Coi bộ mặt thằng Kiên kìa…nó nghệt ra…chẳng khác gì khi đưa đám”.
Vui làm sao được? Khi tôi đã coi anh giống như ruột thịt của mình. Vui buồn, gian khổ lúc nào cũng có anh luôn ở bên cạnh và anh sẵn sàng gánh vác trọng trách về mình. Dẫu biết rằng được về nơi đó thì “ngon” rồi đấy. Nhưng tâm trạng anh cũng chẳng muốn rời xa đơn vị mà tôi thì chẳng muốn rời anh. Người anh vui tính, dí dỏm và tế nhị. Hơn một năm trời ở cùng anh chưa bao giờ anh nói nặng với tôi một tiếng. Có anh, cơ quan tuyên huấn và cả ban chính trị lúc nào cũng đầy ắp tiếng cười (nhiều trận cười nghiêng cười ngả chảy cả nước mắt…giữa chiến trường đạn bom khốc liệt, đâu phải người chỉ huy nào cũng làm được như vậy…). Giờ đây, chia tay anh sau bao ngày gắn bó, lửa đạn bời bời, liệu có còn gặp lại…
Đầu tháng 4/1972, tôi và đ/c Quân, đ/c Vớ được phân công theo đoàn công tác do anh tư Sen phó chính ủy trung đoàn làm trưởng đoàn đến giao lưu với một đơn vị bạn (CPC). Đoàn đi hơn chục sĩ quan của ba ban tham mưu, chính trị, hậu cần và một tiểu đội vệ binh bảo vệ cũng thành một hàng dọc hành quân.
Để đến được với đơn vị bạn, chúng tôi phải qua nhiều phum sóc, dân cư đông đúc. Thời gian này nhân dân CPC đang chuẩn bị đón năm mới (Chô xi năm thơ mây) nên chúng tôi bắt gặp rất nhiều trò chơi dân gian diễn ra suốt dọc đường đi.
Tại một con đường đất rộng, 2 bên nhà dân san sát và cặp 2 bên đường là những hàng dừa thẳng tắp xòa bóng mát. Phong cảnh rất thanh bình. Đoàn chúng tôi gặp một tốp độ 20 người thanh niên cả nam lẫn nữ chia làm 2 phe, đang chơi “Chọi hột thốt nốt”. Bên nam mười người bên nữ cũng vậy thành 2 hàng đối diện nhau ở giữa đặt 3 hột thốt nốt chồng lên thành một hình tam giác. Tại một vị trí cách xa độ 10m hai bên nam và nữ cử người thay nhau ra chọi nếu bên nào chọi trúng coi như thắng cuộc. Người của bên đó được cầm 2 hột thốt nốt đã phơi khô đến gõ vào đầu gối của phe bên kia nghe đánh “cốp”.
Vì rất mến các chàng trai bộ đội Việt Nam nên khi thấy đoàn quân chúng tôi đi qua các thiếu nữ CPC ra chặn lại mời dừng chân tham gia cuộc vui. Được anh tư Sen đồng ý, cả đoàn chúng tôi dừng lại sáp vô đứng vào thế chỗ những thanh niên CPC (các chàng trai CPC vui vẻ nhường chỗ). Mới chưa đầy 10 phút mà cánh tụi tôi đã thua 3 lần, các thiếu nữ CPC thì chọi “bách phát bách trúng” (bởi họ chơi thường xuyên đâm quen, các cụ nhà ta thường nói “ trăm hay không bằng tay quen” mà.), chúng tôi chỉ bắn súng là điêu luyện thôi, còn cái “của nợ” này thì cứ lóng nga lóng ngóng chọi trật lất.
Vậy là đầu gối của cánh tụi tôi đã bị các cô gái CPC dùng hạt thốt nốt gõ tới 3 lần nghe đánh “cốp”. Ớn quá… nhưng chẳng thấy đau gì cả…”thằng” nào cũng tưởng bở là vì được con gái gõ nên… không đau…
Lần thứ tư may sao đ/c Việt vệ binh chọi trúng vậy là bên tụi tôi thắng rồi. Mười người bên phía chúng tôi cũng lấy hạt thốt nốt đến gõ vào đầu gối của các thiếu nữ CPC, chẳng nghe thấy tiếng “cốp” nào mà mấy cô gái đều nhăn mặt than: “sư ná” (đau quá), chúng tôi chả hiểu ất giáp gì.
Mãi sau mấy người thanh niên CPC đứng ngoài phát hiện mới đứng ra phân giải: “Kiểu chơi này chỉ để cho vui thôi. Chứ không làm cho mọi người bị đau. Khi gõ đầu gối của bạn phải dùng 2 hột thốt nốt đụng vào đầu gối tuy nhẹ nhưng hai hạt thốt nốt đã khô dập vào nhau phát ra âm thanh “cốp cốp”… nhưng không đau. Đằng này các anh bộ đội Việt Nam chỉ “xài” có một hột gõ thẳng vào xương đầu gối các cô gái, họ chịu sao được…”.
À… hóa ra là như vậy. Vậy mà tụi này cứ tưởng mình chịu đau giỏi, còn mấy cô gái CPC nhõng nhẽo làm duyên…
Sau khoảng 30 phút dừng nghỉ tham gia cuộc vui chúng tôi chia tay tạm biệt. Tiếp tục hành quân đến đơn vị bạn.
Đường hành quân bất ngờ ngang qua một ngôi chùa. Gần chùa có một hồ nước rộng trồng toàn sen. Thấy có vài chục thanh niên CPC cả nam lẫn nữ, đứng sẵn ven hồ nước. Chẳng hiểu họ đang làm gì nên chúng tôi cứ tỉnh bơ đi ngang qua. Đoàn quân vừa mới giáp kín thì một trận “mưa” nước từ dưới hồ tung lên. Nam nữ thanh niên CPC dùng tay vợt nước hất lên mình chúng tôi. Chúng tôi chỉ kịp “co giò” tháo chạy vậy mà nhiều đ/c chậm chân cũng bị ướt như chuột lội. Các cô gái CPC thích thú cười vang. Sau này chúng tôi mới biết đây là trò chơi “té nước” cầu may của nhân dân CPC, thường tổ chức vào dịp lễ tết.
Đầu tháng 7/1972. Tình hình chiến sự có nhiều biến động. Lúc này trung đoàn đã chuyển về gần sát chiến trường miền Nam, Việt Nam. Vì sợ quân chủ lực của ta gây áp lực dọc tuyến biên giới Việt Nam – Campuchia nên địch đã chủ động lập phòng tuyến tại Phum Chàm. Vừa có thể bảo vệ sườn cho thị trấn Kom Pông Trà Bét vừa án ngữ cho các đồn Thông Bình, Cà Vàng.
Ngày mùng 2/7/1972, hai tiểu đoàn thuộc liên đoàn biệt động 41 quân ngụy Sài Gòn được máy bay trực thăng thả xuống Phum Chàm và chúng nống ra xung quanh đào công sự cố thủ. Hai trận địa pháo 105 ly của đồn Cà Vàng và Thông Bình sẵn sàng chi viện hỏa lực cho căn cứ mới này.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng trung đoàn 207 và một đơn vị của quân khu tiến hành chiến thuật vây ép căn cứ địch ở Phum Chàm. Các đơn vị còn lại của quân khu sẵn sàng đánh quân chi viện bằng máy bay lên thẳng hoặc từ biên giới tràn lên.
17h, ngày 04/07/1972, bộ đội ta được lệnh xuất kích. Ban chính trị tung hết các trợ lý theo sở chỉ huy tiền phương dừng chân gần một ngôi chùa (hình như là chùa Tám Cột).
Trung đoàn 207 đảm nhiệm hướng tây + nam.
Một đơn vi của quân khu đảm nhiệm hướng đông + bắc.
Ban chỉ huy trung đoàn 207 quyết định giao cho:
Tiểu đoàn 1 hướng nam.
Tiểu đoàn 3 hướng tây.
Tiểu đoàn 2 dự bị.
Đại đội ĐKZ 75, 12 ly 8 được tăng cường cho 2 tiểu đoàn 1 + 3 trực tiếp chỉ huy.
Trận địa cối 82 của trung đoàn, cối 120 ly, ĐKB, H12 của quân khu tăng cường nằm gần sở chỉ huy trung đoàn.
5h sáng ngày 5/7/1972, trận địa H12 được các chiến sĩ pháo binh chập điện khai hỏa. Hàng trăm quả đạn xé gió lao vào căn cứ địch trải rộng gần 1 km giữa cánh đồng nhì nhằng chớp lửa của đạn pháo ta.
5h30, pháo 105 ly từ đồn Cà Vàng, Thông Bình bắn như vãi đạn vào trận địa của các chiến sĩ. Cối 120 ly, DKB của quân khu đã nhanh chóng khai hỏa buộc chúng phải câm họng.
Thời gian này bắt đầu vào mùa mưa nên cánh đồng đã xâm xấp nước. Bộ đội ta ngay trong đêm đã hoàn thành các công sự nổi bằng đất trên các bờ ruộng tạo thành hình thế bao vây quanh căn cứ địch.
6h trời sáng rõ, trận địa giữa ta và địch cách nhau không đầy 200m. Địch ở trong căn cứ dùng đủ loại hỏa lực 12 ly 7, đại liên 60, M79, đạn nhọn bắn ra như vãi trấu về cả bốn phía. Trận địa ta bên ngoài lâu lâu mới nghe những tiếng ùng oàng của DKZ hoặc B41 khi phát hiện hỏa điểm địch. Các loại đạn nhọn chuyển sang bắn tỉa. Từng loạt đạn AK, RPK làm cho địch không dám ngóc đầu khỏi công sự.
Tối 5/7/1972 bộ đội ta được hậu cần bổ sung đạn dược. Cánh nuôi quân mang cơm nắm còn nóng tới tận từng hầm cho bộ đội đang tiến hành cuộc vây ép quân địch.
12h khuya ngày 5/7 cối 82 được lệnh bắn phá trận địa địch, Tưởng ta tập kích bọn địch ở trong căn cứ lại vãi đạn ra. Đủ các loại cối 81, cối 60, M79, 12 ly 7, đạn nhọn. Bộ đội ta được lệnh cố thủ trong công sự để tránh thương vong.
2h sáng tiếng súng địch thưa dần và nhiều nơi đã im bặt. Bộ đội ta được lệnh áp sát trận địa địch. 6h trời sáng rõ, các công sự của ta chỉ còn cách địch không đầy 100m.
Cả ngày 6/7/1972 trận địa 2 bên vẫn đối chiến bằng đủ các loại hỏa lực, địch ở bên trong căn cứ, ta rải quân bao vây bên ngoài. Khoảng 10h sáng ngày 6/7/1971, tám chiếc trực thăng của địch từ hướng biên giới phành phạch lao tới. Ngay lập tức, đạn pháo phòng không 14 ly 5 của cấp trên tăng cường vút lên vạch những đường nhọn sắc trên bầu trời. 2 chiếc trực thăng bốc cháy. 6 chiếc còn lại vội nâng độ cao quay đầu về hướng biên giới mất hút.
30 phút sau 2 chiếc phản lực F4 lao tới chúi đầu ném bom nhưng toàn rơi ra ngoài cánh đồng, bùn nước bắn tung tóe (vì 2 trận địa đã quá gần nhau).
16h chiếc 2 thân quần quần trên đầu tò tò phóng đạn 20 ly. Rồi tiếp đến C130 phun đạn sáng đêm.
Các chiến sĩ vận tải, hậu cần của ta bất chấp bom đan địch ngay trong đêm vẫn chi viện đầy đủ đạn dược, cơm ăn, nước uống cho bộ đội (còn bọn địch trong căn cứ bị ta vây ép không biết chúng ăn uống bằng cách nào?).
10h sáng ngày 7/7/1972, Hai chiếc trực thăng vận tải quân sự 2 cánh quạt (loại sâu đo) quần quần mấy vòng trên bầu trời xung quanh căn cứ địch.
Bất ngờ một chiếc từ từ hạ thấp độ cao. Đài quan sát báo về “máy bay địch chuẩn bị hạ cánh để tiếp tế cho căn cứ địch”. Lệnh từ sở chỉ huy, cối 120 ly, DKB, cối 82, DKZ ầm ầm nã đạn vào căn cứ địch. Cả một vùng đất mà chiếc trực thăng định đáp xuống mịt mù khói lửa và những âm thanh rền vang như sấm. Chiếc trực thăng “hoảng hốt” vội nhấc mình nâng độ cao rồi cùng chiếc kia cút thẳng về bên kia biên giới.
2h chiều ngày 7/7/1972, toàn bộ quân địch trong căn cứ kéo cờ trắng xin đầu hàng. Mấy trăm tù binh được các chiến sĩ của trung đoàn 207và đơn vị bạn đưa về phía sau.
Chiều ngày hôm đó, mùng 7/7/1972, sở chỉ huy trung đoàn nhộn nhịp và tưng bừng hẳn lên, những công điện thắng trận tới tấp từ ngoài trận địa báo về rồi điện từ bộ chỉ huy chiến dịch gửi xuống khen ngợi. Kỷ niệm 2 năm ngày thành lập (7/1970-7/1972), TRUNG ĐOÀN 207 LẠI LẬP MỘT CHIẾN CÔNG VANG DỘI.
5h chiều, anh Dốc chính ủy trung đoàn mời anh Dĩ chủ nhiệm chính trị, anh Sang trợ lý 1 tuyên huấn, đ/c Trực trợ lý địch vận và tôi đến giao nhiệm vụ:
“Số lượng tù binh địch tương đối đông, ban chính trị cần cử người xuống làm công tác tư tưởng để anh em tù binh an tâm.”
Anh Dĩ liền phân công cho anh Sang và đ/c Trực. Anh Sang gãi đầu nói với anh Dĩ “để thằng Kiên nó đi”… Anh Dĩ nhìn anh Sang rồi lại nhìn tôi. Tôi thầm nghĩ: “Cha! hôm nay anh Sang sao thế nhỉ? Lại dám từ chối nhiệm vụ để đùn cho tôi, trước đây anh có bao giờ làm như thế đâu?” Nhìn cái bộ dạng của anh Sang, tôi và anh Dĩ đoán ra ngay…
Anh Sang lớn hơn tôi gần hai mươi tuổi, bộ đội kháng chiến chống Pháp tái ngũ, ở nhà đã có 3 con nên trông già nhiều so với tuổi thật. Bởi vợ con đùm đề nên vào quân đội vẫn giữ được cái tính: “lôi thôi, lếch thếch” rất chi là nông dân... Quần áo luôn xộc xệch. Có “việc” là sắn quần tới tận háng, ống thấp ống cao. Đặc biệt là bộ răng đã đi đứt hai chiếc răng cửa. Những lúc nhìn anh cười thì “ôi thôi”… khỏi phải nói… ai cũng phải cười theo…
Giảng bài và nói chuyện với lính ta thì quá bình thường, dù hay hay dở, đồng đội sẽ thông cảm mà, đằng này lại nói chuyện với lính “ở phía bên kia”, có lẽ anh Sang hơi ngại, kể cũng buồn cười, bộ đội ta cầm súng chiến đấu thì dũng mãnh là vậy, mà với những công việc bình thường thì lại rụt rè đến lạ…
Hiểu ra được nỗi băn khoăn của anh nên anh Dĩ tủm tỉm cười: “Thôi Sang ở lại để thằng Kiên đi thay vậy.”. (Khi tôi đang viết những dòng này thì hay tin Anh Dĩ vừa qua đời ở tuổi 85, như một nhân duyên hiếm gặp trong đời, từ Miền Nam xa xôi, xin gửi những dòng chữ mang tên Anh như một nén nhang lòng sâu thẳm của người em, người đồng đội cùng chung chiến hào, về quê hương nơi Anh giã từ, xin vĩnh biệt Anh, con người cao quý đã hoàn thành những sứ mệnh thiêng liêng của một đời Người!)
Tôi và đ/c Trực trợ lý địch vận hộc tốc đến ngay ngôi chùa cách sở chỉ huy khoảng 700m. Lực lượng vệ binh đã gom hết số tù binh lại, cho lót lá chuối ngồi tạm, chẳng hàng ngũ gì hết.
Anh Trực phổ biến chính sách tù hàng binh của Đảng và nhà nước ta, chính sách đãi ngộ của quân đội đối với tù hàng binh và những quyền lợi được hưởng… Tôi tóm tắt tình hình chiến sự trên chiến trường… và cuối cùng khẳng định một câu “xanh rờn”: Nhất định quân Mỹ phải rút khỏi Việt Nam. Quân đội làm tay sai cho Mỹ nhất định sẽ bị thất bại… Đất nước Việt Nam nhất định sẽ được thống nhất!
Tiếng vỗ tay của mấy chục tù binh do các chiến sĩ trung đoàn 207 “mời” vang vang tán thưởng. Nhiều khuôn mặt anh em tù binh rạng rỡ hẳn lên. Buổi làm việc kết thúc không đầy 30 phút. Bộ phận hậu cần đã mang cơm đến để anh em chuẩn bị ăn rồi còn lui về phía sau.
Môt tốp tù binh khoảng hơn 10 người còn rất trẻ vây quanh tôi dáng bộ rất thân thiện, có mấy chú còn “bạo dạn” khen sĩ quan quân giải phóng nói chuyện “hay” nữa chứ.
Thấy anh em tù binh muốn gần gũi mình tôi bèn lên tiếng:
“Các em quê ở đâu”?
Mấy đứa nhanh nhảu trả lời:
“Dạ tụi em quê ở Bến Tre”
Tôi liền hỏi tiếp:
“Bến Tre là quê hương đồng khởi sao các em lại đi lính cho địch?”.
Mấy đứa khác giành nhau trả lời:
“Dạ bữa đó tụi em đi chăn bò ngoài đồng, một tốp máy bay trực thăng hạ cánh. Tụi lính nó lùa bọn em lên máy bay và đưa về quân trường Quang Trung. Chúng nó cho tụi em học quân sự mới được 5 ngày rồi nó đẩy ra đây”.
Tôi hỏi tiếp:
“Vậy nó cho giữ súng gì?”
“Dạ AR15 và được cấp 300 viên đạn”.
“Vậy khi gặp bộ đội giải phóng có bắn không?”
Vài đứa ngập ngừng trả lời:
“Dạ có ạ, khi gặp mấy ông giải phóng bò vào tụi em sợ quá, mặt chúi xuống đất, đưa súng lên bóp cò. Chắc đạn bay lên trời hết nên khi đã hết sạch đạn mà vẫn thấy mấy ông “Việt cộng” bò tới”.
Tôi ướm thử: “Vậy bây giờ bộ độ giải phóng cho về quê có biết đường về không?”
Rất nhiều đứa nhao nhao trả lời: “Các ông cho tụi em đi theo các ông. Làm cái gì cũng được. Bây giờ mà về quê tụi lính nó bắt nữa chết là cái chắc!”.
Qua cuộc chuyện trò với đám tù binh trong lòng tôi trở nên nhẹ nhõm. Thì ra bọn giặc đâu phải đứa nào cũng ngoan cố, ác ôn. Cùng máu đỏ, da vàng đa số họ đều bị bọn tay sai, quan thầy Mỹ bắt buộc, cưỡng ép đi lính làm bia đỡ đạn cho chúng.
Tất cả anh em tù binh đều được nhận chính sách khoan hồng, nhanh chóng cơm nước rồi theo cánh vệ binh lui về phía sau.
Sở chỉ huy trung đoàn cũng được lệnh khẩn trương “nhổ neo” trở về hậu cứ.
Ngay đêm đó gần khu chùa Tám Cột nơi đặt sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn đã bị 3 loạt B52 địch rải thảm. Nhưng chúng tôi đã may mắn rời xa…
“ Đất nước.
Bốn ngàn năm không nghỉ
Những đạo quân song song cùng lịch sử
Đi suốt thời gian, đi suốt không gian
Sừng sững dưới trời anh dũng hiên ngang.” – (Nam Hà)
Sau trận đánh tại Phum Chàm, trung đoàn bộ về đóng quân gần chùa 17 Tăng (chùa này trên đất nước CPC nhưng cách đó ít tháng quân đội Sài Gòn mở cuộc hành quân lấn chiếm đã bị một đơn vị của ta chặn đánh, 17 xe tăng của địch bị thiêu rụi tại khu vực chùa này, xác vẫn còn nằm ngổn ngang nên bộ đội ta mới đặt tên như vậy).
Thời gian này, một đợt học tập, chỉnh quân từ trung đoàn đến các tiểu đoàn và các đơn vị trực thuộc được triển khai để phục vụ cho yêu cầu nhiệm vụ mới.
Cùng lúc, nhân sự của Trung đoàn có nhiều thay đổi.
Anh Nông Ngọc Cận và anh tư Sen được điều sang đơn vị khác.
Anh Ba (hay còn có tên Ba cầu sập) được quân khu điều về làm phó chính ủy trung đoàn thay thế cho anh tư Sen.
Anh ba Lập được quân khu điều về chính thức giữ chức chủ nhiệm chính trị trung đoàn. Vậy là ban chính trị lúc này mới đủ cán bộ lãnh đạo của ban. Anh ba Lập có tuổi đời và tuổi quân thâm niên cao. Người cao to, tính tình vui vẻ nhưng trong công việc rất “nguyên tắc”. Chữ ký của anh thì thật “tuyệt vời”, không ai bắt chước được. Nó chẳng khác gì mớ hàng rào dây kẽm gai bùng nhùng. Nhưng cả trăm chữ đều giống hệt nhau.
Anh Đương được điều về cục chính trị quân khu.
Anh Si, đ/c Quân, đ/c Trực, đ/c Long cũng được điều về bổ sung cho các đơn vị chiến đấu (lúc này anh Nghị được điều về thay thế Đ/c Long và giữ chức trợ lý 2 cán bộ).
Tôi được điều về làm chính trị viên đại đội 19 (một đợt sắp xếp lại tổ chức chẳng khác gì công tác luân chuyển cán bộ bây giờ).
Khi đã cầm quyết định trong tay tôi ghé cơ quan tham mưu để thăm đ/c Nguyễn Hữu Quý phó ban quân lực trung đoàn. Đ/C Quý hiện nay là bí thư đảng ủy văn phòng cục hàng không dân dụng, phó ban liên lạc bạn chiến đấu E207 và phu nhân là Minh Ngọc trưởng ban công tác xây dựng Đảng báo Sài Gòn giải phóng. Minh Ngọc đã có nhiều bài viết về 207 đăng trên báo Sài Gòn giải phóng.Ngôi nhà mà anh Tịch đang ở chính là do Minh Ngọc vận dộng báo SGGP tài trợ xây dựng đấy.
Có lẽ ở trung đoàn tôi và đ/c Quý là 2 người sống bên nhau lâu nhất kể từ tháng 2/1968.Lúc đó tôi là cán bộ khung và may mắn được về quê hương Đ/C Quý ở huyện Nam sách, tỉnh Hải Dương nhận quân.Các xã Nam Trung, Nam Chính, Kho cuốn (kho lương thực) vẫn còn in đậm trong ký ức tôi. Rồi chúng tôi lại cùng nhau vượt trường sơn và về cùng 1 đơn vị.
Biết tôi được điều xuống đơn vị trực tiếp chiến đấu. Đ/c Quý ghé tai mách nhỏ “trong kho quân giới nhận về nhiều súng K54 hãy còn mới cảo” và có ngụ ý muốn đổi khẩu súng tôi đang mang bên mình đã cũ sì, cũ xịt. “Còn gì bằng” cho chắc ăn, khi giáp mặt với quân thù, bóp cò súng sẽ không bị lép. Tôi đồng ý ngay và khẩu súng K54 được đ/c Quý hoán đổi với bao da màu vàng cam rồi khẩu súng này đã theo tôi suốt cuộc đời binh nghiệp.
Đại đội 19 lúc này ban chỉ huy mới có 3 người. Tôi làm chính trị viên, anh Tấn làm đại đội trưởng (anh Tấn quê ở Cà Mau lớn hơn tôi gần 20 tuổi. Khuôn mặt dày dặn và hằn lên nhiều nếp nhăn, đôi môi vừa hồng vừa trắng giống như người bạch tạng), anh Thép làm đại đội phó, 3 trung đội trưởng là đ/c Mùa, đ/c Lân, đ/c Chanh (đ/c Mùa sau này về làm đại đội trưởng thuộc tiểu đoàn 1).
Đầu tháng 9/1972, ta mở chiến dịch So Ri.
Kom Pông Trà Bét là một thị trấn nằm trên quốc lộ 1 cách Néc Lương khoảng 25km, có sông Cà Tráp chảy về Việt Nam tạo nên một đường giao thông thủy vô cùng thuận lợi, do vậy việc chuyển quân và vũ khí xuống vùng đồng bằng sông Cửu Long và Tây Nam Bộ đều phải đi qua vùng này.
Ngày 3/9/1972, chiến dịch So Ri giải phóng thị trấn Kom Pông Trà Bét bắt đầu.
6h tối từ một phum nằm sâu trong hậu cứ chúng tôi được lệnh hành quân. Đại đội 19 có 2 trinh sát trung đoàn dẫn đường. Anh Tấn dẫn đầu đoàn quân, tôi đi giữa đội hình và anh Thép đi sau chót đoàn quân. Chúng tôi theo một con đường đất do xe bò đi lâu tạo thành băng ngang cánh đồng tiếp cận quốc lộ 1 (đoạn đường này chạy từ Kom Pông Trà Bét đi về Tây Ninh - Việt Nam).
Khoảng 8h tối chúng tôi đã có mặt trên mặt đường nhựa và hướng về thị trấn Kom Pông Trà Bét.
Để ngăn chặn các cuộc hành quân bằng cơ giới của quân Ngụy Sài Gòn và Ngụy Lon Non, chính quyền của bạn (CPC) đã cho phá con đường này. Rất nhiều những mô đất được đắp trên mặt đường nhựa. Xen lẫn là những đoạn hào rộng hơn 1 m sâu chừng 1m và cắt ngang mặt đường (chỉ chừa tim đường rộng độ 1 m cho người đi bộ hoặc xe 2 bánh). Trời rất tối nên chúng tôi hành quân thành một hàng dọc và bám thật sát nhau. Nếu sơ ý sảy chân là rớt xuống khe hào. Chiếc cầu sắt gần thị trấn Kom Pông Trà Bét cũng bị công binh dùng thuốc nổ đánh sập (do vậy khi tấn công thị trấn Kom Pông Trà Bét bộ chỉ huy chiến dịch chỉ sử dụng được loại xe tăng T34. Còn loại T54 cho nằm phía sau “ngồi chơi xơi nước”).
Thế đấy! Trong chiến tranh có nhiều chuyện thật là nghịch cảnh: “Gây khó dễ được cho đối phương, đến lượt mình cũng chịu chung số phận”.
Khoảng gần 2 tiếng hành quân trên đường quốc lộ, chúng tôi lúc nào cũng “nơm nớp”: chỉ sợ vấp ngã dập mặt vì những ụ đất oái ăm nhan nhản trên mặt đường, chằng chịt đan xen chẳng có hàng lối gì, bên cạnh đó là nỗi lo sảy chân rớt xuống khe hào (gãy giò chứ chẳng chơi).
Bất ngờ, 2 trinh sát đi đầu dẫn đoàn quân rẽ trái vượt cánh đồng về hướng sông Cà Tráp. Đoạn này chỉ còn cách Kom Pông Trà Bét khoảng 7km.
2h sáng đoàn quân chúng tôi được mấy chiếc ghe do hậu cần trung đoàn hợp đồng đã chờ sẵn giúp chúng tôi vượt sông. 2h30 bộ đội ta được lệnh dừng chân, đào công sự và ém quân tại khu vực này.
14h ngày 4/9/1972 tôi và anh Tấn được mời về sở chỉ huy trung đoàn để nhận nhiệm vụ. Theo tốc độ chiến dịch, Sở chỉ huy trung đoàn đã dời về cách chỗ chúng tôi ém quân khoảng 2 km nên hai anh em “hành quân” cũng thuận lợi.
Tại một gốc cây me nước có tàn lá rất rộng chiếc bản đồ quân sự được treo ngay dưới gốc cây.
Tôi và anh Tấn tập trung ghi nhớ nhiệm vụ được giao: “đại đội 19 có nhiệm vụ dùng thuốc nổ đánh sập chiếc cầu trên quốc lộ 1 cách Néc Lương khoảng 15km. Sau dó chốt chặn bảo vệ sườn trái cho tiểu đoàn 3”, và nắm chắc chiến thuật của trận đánh này:
Tiểu đoàn 3 chốt chặn hướng đông quốc lộ 1 chặn quân tiếp viện từ Néc Lương giải cứu Kom Pông Trà Bét.
Một đơn vị của quân khu nằm hướng Tây lộ song song với trận địa tiểu đoàn 3.
Hai tiểu đoàn còn lại 1 và 2 của trung đoàn 207 có nhiệm vụ đánh địch từ hướng Đông thị trấn Kom Pông Trà Bét.
Một đơn vị của quân khu phối hợp đánh địch từ hướng Tây của Kom Pông Trà Bét.
Lực lượng còn lại của quân khu sẵn sàng đánh quân địch đổ bộ bằng máy bay trực thăng hoặc từ biên giới tràn lên.
Ngoài những đơn vị pháo mặt đất và pháo phòng không, chúng tôi còn được tăng cường xe tăng T34 làm nhiệm vụ chi viện hỏa lực cho bộ binh đột kích.
Cuộc họp chỉ diễn ra chớp nhoáng không đầy 1 tiếng đồng hồ. Trên khuôn mặt của mọi người, từ cán bộ E đến C đều tươi tắn và rạng rỡ hẳn lên. Lần đầu tiên trong trận đánh có sự phối hợp, hợp đồng binh chủng của cả cơ giới, pháo binh và nhiều đơn vị bạn. Họp xong, 2 anh em vội vã ra về để kịp triển khai nhiệm vụ. Thời gian quá gấp gáp rồi.
18h bộ đội ta được lệnh xuất kích.
Đại đội 19 chúng tôi được chia làm 2 bộ phận. Trung đội 1 do đ/c Mùa làm trung đội trưởng, có anh Thép đại đội phó đi cùng và trực tiếp chỉ huy sử dụng 4 gói thuốc nổ TNT mỗi gói nặng 10kg bí mật tiếp cận chiếc cầu đúc bằng bê tông cốt thép. Lực lượng còn lại do tôi và anh Tấn chỉ huy lập thành tuyến phòng ngự bên trái trận địa của tiểu đoàn 3.
Tiểu đoàn 3 lập trận địa phòng ngự cách chiếc cầu khoảng 300m và trải dài trên diện rộng khoảng 1km.Đối diện bên kia đường là trận địa phòng ngự của đơn vị bạn.
2h khuya ngày 5/9/1972 chúng tôi đã vào hết vị trí tập kết và cho bộ đội tiến hành đào công sự. Anh Tấn và tôi cùng 2 liên lạc ở chung một hầm. Lúc này đang mùa mưa nên trên cánh đồng đều có nước. Được cái đồng ruộng CPC có đặc điểm riêng, mặt ruộng ngập là do nước mưa đọng lại nên chỉ xâm xấp (không ngập sâu như vùng đồng bằng sông Cửu Long), hơn nữa đất ở đây lại pha cát nên đi dưới mặt ruộng không bị lún sụt.
Một cái hầm lộ thiên do 2 đ/c liên lạc có chúng tôi tiếp sức được hình thành bề ngang chừng 1m, dài khoảng 2m đủ cho 4 người ngồi thoải mái. Xung quanh là lớp đất dày có ngụy trang bằng cỏ và cắm những cành cây tươi.
4h sáng một ánh chớp nhoáng lên kèm theo một tiếng nổ long trời của khối thuốc nổ 40kg. Chiếc cầu nằm cách trận địa chúng tôi khoảng gần 2km đã bị bộ phận anh Thép đánh sập. Tôi và anh Tấn đều vui mừng vì nhiệm vụ cơ bản của chúng tôi coi như đã hoàn thành.
5h sáng, xa xa, ở phía sau lưng chúng tôi, là cứ điểm Kom Pông Trà Bét nhì nhằng chớp lửa và những âm thanh ầm ì. Pháo binh của trung đoàn, quân khu bắt đầu nhả đạn. Và chắc chắn lúc này, tiểu đoàn 1, 2 và các đơn vị bạn đang ở tư thế chuẩn bị xung phong…
Cả ngày hôm đó 5/9/1972 tại trận địa D3, và bên kia đường là đơn vị bạn vẫn còn “rảnh rỗi”. Địch ở hướng Néc Lương vẫn chưa có động tĩnh gì. Hướng Kom Pông Trà Bét tiếng súng thưa hơn và nhiều lúc gần như im hẳn. Tiểu đoàn 1, 2 lúc xung phong đã gặp phải bãi mìn và hỏa lực dày đặc, bộ đội thương vong nhiều nên phải dừng lại.
Đêm hôm đó, 5/9/1972, trong màn đêm dày đặc, chúng tôi nhìn rất rõ đốm lửa của C130 “chớp nhá” phóng đạn quanh khu vực Kom Pông Trà Bét.
Bộ phận anh Thép sau khi hoàn thành nhiệm vụ được điều về bố trí nằm sát tại hầm của ban chỉ huy để tăng cường cho lực lượng trận địa phòng ngự.
8h sáng ngày 6/9/1972, nhiều phi vụ máy bay địch ném bom điên cuồng vào trận địa ta, xung quanh khu vực Kom Pông Trà Bét.
9h sáng từ hướng Néc Lương một đoàn xe tăng và xe thiết giáp khoảng 5 – 6 chục chiếc ầm ầm lăn xích trên quốc lộ 1 nhằm cứu nguy cho thị trấn Kom Pông Trà Bét.
Khoảng 10h, đoàn xe địch sựng lại và dồn cục bên chiếc cầu bị công binh chúng tôi đánh sập. Địch quyết định dùng xe bọc thép lội nước tạt ra 2 bên để vượt cầu. Những khối thép của đoàn xe lội nước M113 lổm ngổm như đàn cua chọc thẳng vào hướng trận địa tiểu đoàn 3.
10h30 địch chỉ còn cách trận địa D3 không đầy 300m. Chúng tôi nín thở chờ đợi. Bất ngờ DKZ57, B41 của D3 khai hỏa. Hàng chục quả đạn xé gió lao vào đoàn xe thiết giáp địch, 2 chiếc đi đầu trúng đạn ngùn ngụt bốc cháy, lính bộ binh trên xe nhảy xuống nằm rạp trên những bờ ruộng vãi đạn nhọn và M79 về hướng D3, những khẩu trọng liên gắn trên những khối thép chúc đầu phun đạn. Bên kia đường tiếng súng của đơn vị bạn hiệp đồng cũng đã rền vang. 11h30 đoàn xe địch và bộ binh lùi về phía sau cách trận địa D3 khoảng 1km và ngay sau đó đạn pháo 155 ly từ Néc Lương bắn vào trận địa D3 và đơn vị bạn, bùn nước văng lên tứ tung.
Sau loạt bắn phá dữ dội của pháo binh địch, địch lại tổ chức tấn công quyết liệt, 2 mũi thiết giáp dàn hàng ngang đánh cặp 2 bên đường lộ 1, chi viện cho lũ bộ binh. Trận địa trải rộng hơn 1km hướng trước mặt D3. Lũ bộ binh lóc ngóc bò lên đông như kiến, sau lưng là những khẩu trọng liên từ những khối thép ầm ầm vãi đạn, pháo tự hành của những chiếc xe tăng M48 trên đường cũng bắn chi viện, nhiều thành công sự của D3 bị đạn địch thổi bay.
12h30 lũ bộ binh địch đã vào rất gần, D3 đã phải dùng lựu đạn để chặn quân địch. Ban chỉ huy đại đội 19 hội ý chớp nhoáng và quyết định cho bộ đội đánh thẳng vào sườn trái quân địch để cứu nguy cho trận địa D3. Cả 3 mũi do 3 trung đội trưởng chỉ huy đồng loạt thoát li khỏi công sự, dàn hàng ngang tiến về phía địch. Khi còn cách khoảng 150m, bộ đội ta lợi dụng chướng ngại vật là các bờ ruộng, găm đạn vào sườn quân địch. Bị đánh bất ngờ vào ngang sườn, bọn địch quay sang chống đỡ và chỉ lát sau lũ bộ binh và xe bọc thép địch lùi dần.
1h30, cả 2 hướng D3 và bên kia đường do đơn vị bạn đảm nhiệm đều đã an toàn, địch đã lùi xa.
2h chiều ngày 6/9/1972. D1 và D2 được hơn chục xe tăng T34 phối hợp mở đợt tấn công vào thị trấn Kom Pông Trà Bét, bên kia đơn vị bạn cũng nổ súng phối hợp nhịp nhàng.
Đúng 4h chiều 6/9/1972, toàn bộ quân địch ở Kom Pông Trà Bét kéo cờ trắng đầu hàng
Như vậy chỉ qua có 2 đêm, 2 ngày. Trung đoàn 207 phối hợp với các đơn vị trong quân khu đã tiêu diệt 2 tiểu đoàn địch.đánh thiệt hại nặng 4 tiểu đoàn có xe tăng và xe bọc thép chi viện, giải phóng hoàn toàn thị trấn Kom Pông Trà Bét. Toàn trung đoàn bộ đội ta hi sinh gần 50 đ/c mà thiệt hại nặng nhất là tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2.
Sau khi Kom Pông Tra Bét bị thất thủ, bọn quan thầy Mỹ vô cùng tức tối và quân đội Sài gòn thì hoang mang lo sợ. Chỉ 5 ngày sau đó tức ngày 11/9/1972 chúng đã huy động tới 4 lữ đoàn quân ngụy Lon Lon (tương đương 20 tiểu đoàn) và 1 sư đoàn quân ngụy Sài Gòn có 2 chi đoàn xe tăng, xe bọc thép và máy bay yểm trợ hòng chiếm lại thị trấn Kom Pông Trà Bét (vì chúng biết rất rõ vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng này)
Trận chiến lần thứ 2 diễn ra vô cùng gay go ác liệt. Bộ chỉ huy chiến dịch đã sử dụng trung đoàn 207 làm nòng cốt ngoài ra còn có các đơn vị bạn trong quân khu và sư đoàn 5 tham gia phối hợp. Dưới làn đạn pháo đủ các cỡ và mưa bom của nhiều loại máy bay máy bay (C130, F4, A37, F111… Cán bộ, chiến sĩ trung đoàn 207 cùng các đơn vi bạn đã đánh lui nhiều đợt phản công của địch. Tiêu diệt và đánh thiệt hại nặng 20 tiểu đoàn quân ngụy Lon Non và 1 sư đoàn quân Ngụy Sài Gòn được không quân Mỹ yểm trợ. KOM PÔNG TRÀ BÉT “vĩnh viễn nằm trong vùng giải phóng của ta”. Tuy nhiên để giữ được Kom Pông trà Bét hơn 200 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn 207 lại tiếp tục ngã xuống nơi này (Mới đây Đ/C Phan Xuân Thi trưởng ban liên lạc bạn chiến đấu và ccb trung đoàn 207 đã cung cấp thông tin cho quân khu 9 dể tìm kiếm quy tập anh em về nước).
Bài này tôi viết vừa xong thì chỉ còn mấy ngày nữa là đến QUỐC GIỖ 27/7 KỶ NIỆM 65 NĂM NÀY THƯƠNG BINH LIỆT SỸ và ban liên lạc bạn chiến đấu trung đoàn 207 cùng chính quyền địa phương đang khẩn trương chuẩn bị cho ngày khánh thành giai đoạn 1 “khu tưởng niệm các liệt sỹ trung đoàn 207” tại Thạnh Hóa-Long An. Bài viết này thay cho lời tri ân tới những đồng đội đã chiến đấu và anh dũng hi sinh tại Kom Pông Trà Bét. Xin kính cẩn nghiêng mình trước vong linh của gần 300 liệt sỹ đã dũng cảm chiến đấu và hi sinh tai Rạch Đá Biên, cùng trên 2000 liệt sỹ của trung đoàn 207 đang nằm rải rác trên khắp các chiến trường.
Tuyến hành lang biên giới đã được mở toang, thông xuống chiến trường miền tây Nam Bộ… và từ nay trở đi trung đoàn 207 chính thức về hoạt động tại chiến trường Miền Nam với những trận đánh oai hùng “đầy máu và nước mắt” và lập nên những chiến công vô cùng hiển hách…
Sau khi giải phóng thị trấn Kom Pông Trà Bét trung đoàn về đóng quân tại gần chùa Prây Rầm Lông (CPC) để học tập, chỉnh huấn. Lúc này đất nước bạn đã được giải phóng tới gần 70% dân số và diện tích, bọn Lonnon chỉ còn chiếm giữ thành phố Phnom Pênh và một số thị xã. Toàn bộ nông thôn đã thuộc vùng giải phóng. Quân đội bạn đã vững mạnh lên nhiều.
Tình thế cách mạng cả trong và ngoài nước đã có những biến chuyển thuận lợi. Bộ chính trị và quân ủy trung ương quyết định giải thể quân khu C40. Trung đoàn 207 được trở về trực thuộc quân khu 8.
Hiệp định Pari được dự kiến ký kết vào ngày 31/10/1972.
Theo chỉ thị của bộ chính trị và quân ủy trung ương, tất cả các đơn vị chủ lực của ta phải thọc sâu xuống chiến trường miền Nam Việt Nam, tạo thành một hình thái “da beo”(có nghĩa là hình thức cài răng lược ta và địch đan xen nhau) gây sức ép với địch trước ngày ký kết hiệp định. Theo phương án ban đầu, trung đoàn 207 đánh chiếm cù lao Tây, trung đoàn 320 đánh chiếm cù lao Long Khánh, Long Thuận. Nhưng mãi đến giữa tháng 10/1972, trung đoàn 320 vẫn phải kềm chân sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn ở Tà Nu (làm nhiệm vụ căng kéo quân chủ lực địch và ngăn chặn quân ngụy Sài Gòn không cho chúng ứng cứu Soài Riêng) trước đó trung đoàn 207 đã đánh chiếm và giải phóng thị trấn congpong torobek, cắt đứt đường quốc lộ số 1 từ Soairieng đi hố lương, cô lập và bao vây thị xã Soairieng nên phương án được quân khu thay đổi. Vì vậy chỉ còn trung đoàn 207 thực hiện chiến dịch mới.
Rời đất bạn Căm Pu Chia với biết bao nghĩa tình và gửi lại nơi này bao đồng đội đã ngã xuống, Trung đoàn 207 tiến về đánh chiếm cù lao Long Khánh, Long Thuận, góp lửa cùng cả nước trong sự nghiệp giải phóng non sông.
Vùng đất Việt Nam sát biên giới CPC, nằm giữa sông Cửu Long và sông Sở Thượng, là một dải đất thuộc khu vực tứ Thường (Thường Lạc, Thường Phước, Thường Thới Tiền, Thường Thới Hậu). Cù lao Long Khánh nằm đối diện với Thường Thới Tiền, Thường Lạc, thị trấn Hồng Ngự và gần đó là cù lao Long Thuận. Ta chiếm được Long Khánh, Long Thuận coi như đã đứng chân sâu vào lòng địch uy hiếp thị trấn Hồng Ngự và thị xã Tân Châu là 2 vị trí chiến lược tiền tiêu thuộc tỉnh Kiến Phong nằm dọc biên giới Việt Nam – Căm Pu Chia.
Chiếm được cù lao này ta sẽ xây dựng một vị trí đứng chân mang tính chiến lược và cắt đứt Sông Tiền không cho quân ngụy sài gòn tiếp tế bằng đường thủy cho quân ngụy Lon non. Như vậy đường bộ, đường thủy đều bị quân ta bao vây chia cắt, quân lon non sẽ bị tiêu diệt.
Ngày 28/12/1972, từ biên giới CPC. Được hậu cần của quân khu giúp đỡ, trung đoàn và bộ đội địa phương quân Hồng Ngự đã sử dụng hàng trăm xuồng máy vượt sông Cửu Long đánh chiếm Long Khánh, Long Thuận.
Hướng Long Khánh do tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 3, C16, C17, C18, C25 và đội phẫu thuật do bác sĩ Bài đại đội trưởng đại đội 23 phụ trách.
Hướng Long Thuận do tiểu đoàn 1 cùng 3 đại đội địa phương quân Hồng Ngự phối thuộc. Đúng giờ G hàng trăm chiếc Tắc Ráng được Hậu cần Quân Khu và Huyện đội Hồng Ngự đợi sẵn toàn bộ lực lượng tham gia trận đánh đều đã tập kết theo đúng kế hoạch và bí mật, bất ngờ tiếp cận sát bờ bắc sông Tiền đều đồng loạt nổ máy nhắm hướng cù lao băng tới. Quân địch đồn trú tại thị trấn Hồng Ngự, thị trấn Trân châu nghe tiếng động cơ vang rền của hàng trăm chiếc máy chở quân ta đang vượt sông, chúng hoảng hốt không biết chuyện gì đang xảy ra nên vội vàng cúp điện. Quân ta nhanh chóng đổ bộ lên bờ và theo mục tiêu đả được phân công các đơn vị nhanh chóng tiếp cận, quân địch hoảng hốt đầu hàng, giao lại toàn bộ súng đạn quân cụ, đồn bốt trong khu vực cho các đơn vị của ta.
Ngay trong đêm 28 ta đã bức hàng trên 500 lính bảo an, dân vệ thu hàng trăm súng các loại. Đặc biệt trong chiến dịch này bộ đội ta chỉ chuẩn bị 1 cơ số đạn và 4 ngày gạo
Trận đánh ngày đầu bức hàng trên 500 địch ta chưa tốn một viên đạn. Ba ngày đầu yên ả trôi qua địch chưa có phản ứng gì.
Đến ngày 31/10, tại hội nghị Pari địch lật lọng phá bỏ hiệp định không chịu ký kết. Quân địch đơn phương phá bỏ hiệp ước.
Do một số đơn vị chủ lực của ta đã rút quân về vị trí ban đầu, bọn địch nhân cơ hội đã tổ chức tập trung quân về vây đánh trung đoàn. 207 đang kiên cường “đứng chân, bám đất” ở địa bàn Long khánh, Long Thuận. Một trận chiến không cân sức và vô cùng bi tráng của trung đoàn bắt đầu.
8h sáng ngày 2/11, địch đổ quân vào cù lao Long Thuận. Lính bộ binh của trung đoàn 14 sư đoàn 9 được không quân và trận địa pháo Tân Châu chi viện, chúng đã tổ chức tấn công nhiều đợt nhưng tiểu đoàn 1 cùng bộ đội địa phương quân Hồng Ngự đã anh dũng đánh lui, giữ vững trận địa. Ta đã có thương vong nhưng không đáng kể.
Ngày 3/11/1972, trung đoàn 10 sư đoàn 7 quân Ngụy Sài Gòn đã phái quân tăng viện cho sư đoàn 9, tiếp tục dùng nhiều mũi tấn công Long Thuận. Sau những loạt pháo của 2 trận địa Tân Châu và Hồng Ngự địch đã dùng tàu sắt mặt dựng và tàu đổ quân chia thành nhiều mũi cặp sông Cửu Long tràn lên hướng Tây.(Bên kia sông là xã Long Sơn thuộc địa phân Tân Châu)
Địch với ưu thế hơn hẳn về hỏa lực và xung lực. Sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho tiểu đoàn 1 và địa phương quân Hồng Ngự rút khỏi Long Thuận về tăng cường cho hướng phòng ngự tại cù lao Long Khánh.
Cù lao Long Khánh trở thành trận địa cố thủ của ta chỉ cách thị trấn Hồng ngự một con sông, đoạn sông này rộng hơn 1km.
Long Khánh là một cù lao nhỏ nằm trong khu vực mà người dân thường gọi là khu vực 3 cù (cù lao Tây, Long Thuận, Long Khánh). Phía trên thượng nguồn giáp với Thường Thới Tiền, Thường Lạc cách con sông Cửu Long, phía dưới hạ lưu giáp với thị trấn Hồng Ngự cũng cách sông Cửu Long.
Xung quanh cù lao Long Khánh là một con đường đất khép kín rộng khoảng hơn 2m chủ yếu cho xe 2 bánh và người đi bộ lưu thông. Cặp con đường này là tuyến dân cư có nhà dân san sát. Trận địa phòng ngự của ta được bố trí từng chốt liên hoàn. Mỗi chốt là 1 đại đội cách nhau từ 400 – 500m vừa đủ sức chiến đấu tại chỗ vừa có thể chi viện hỗ trợ cho nhau. Ba đại đội địa phương quân Hồng Ngự phối thuộc thành 3 chốt có ban chỉ huy huyện đội trực tiếp chỉ huy.
Tiểu đoàn 2 đảm nhiệm hướng chủ yếu sát nách Hồng Ngự
Tiểu đoàn 1 cạnh sườn phòng thủ hướng Tây
Tiểu đoàn 3 có C25 phối thuộc cũng được bố trí thành cụm chốt đảm nhiệm một hướng phòng ngự. Đại đội 16 (cối 82), đại đội 17 (DKZ75) và đại đội 18 (12 ly 8) được tăng cường cho 3 tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy lập thành trận địa bắn chi viện cho các chốt.
Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân tại ven 1 con rạch giáp ranh giữa xã Thường thới Hậu và xã Thường Thới Tiền có rất nhiều tre, trúc, cặp bên là những đìa cá và những vạt nghể (một loại cây đụng vào rất ngứa).
Đại đội 19 chúng tôi đóng quân gần sở chỉ huy tiền phương trung đoàn, bên cạnh là tiểu đoàn đặc công của quân khu do anh Tư Huệ làm tiểu đoàn trưởng.
9h sáng ngày 4/11 địch mở đợt tấn công quy mô vào cù lao Long Khánh. 3 mũi bộ binh từ 3 hướng có các giang đoàn trợ giúp đặc biệt là giang đoàn 16 xung phong sử dụng tàu sắt mặt dựng của Mỹ có hỏa lực mạnh chi viện cho lũ bộ binh và cơ động nhanh vượt sông đánh vào trận địa. Trên diện rộng trải dài gần 3km mịt mù khói lửa. Bộ đội ta trong các công sự phòng ngự được lệnh để địch đến thật gần mới nổ súng. Quân địch xông lên bất cứ ở hướng nào cũng bị ăn đạn. Tách ra thì dính đạn nhọn, cụm vào thì ăn B40, B41 hoặc lựu đạn.
Mỗi khi đụng phải trận địa của ta, quân địch lùi ra xa rồi gọi pháo binh và không quân bắn phá. Hai trận địa pháo Tân Châu và Hồng Ngự vãi đạn như mưa. Nhiều phi vụ máy bay ném bom, nhiều nhà dân bị bốc cháy.
4h chiều ngày 4/11, địch vẫn không thể chiếm được các chốt phòng ngự của ta nên chúng co về trên những chiếc tàu chở quân, có tàu sắt mặt dựng hộ tống gắn trọng liên 12 ly 7 và M79 bắn dây.
Một điều đáng nói là, quân địch từ căn cứ hải quân ở Chợ Mới và Long Xuyên đã huy động nhiều tàu chiến tuần tra quanh cù lao Long Khánh nhằm chặn đứng đường tiếp tế của ta. Số đạn mang theo qua 3 ngày chiến đấu đã bị hao hụt rất nhiều.
Công điện từ các trận địa báo về:
“Bộ đội ta thương vong chưa đáng kể. Chỉ yêu cầu bổ sung đạn, đặc biệt là đạn nhọn”. Chúng tôi đều hiểu rằng tình hình hết sức nguy cấp, bởi giữa chiến trường, không còn đạn nghĩa là không còn sống.
9h tối ngày 5/11, 2 chiếc ghe 2 đáy. Đáy trên là cá (một loại cá ở biển hồ), đáy dưới chứa đạn, được hậu cần quân khu hợp pháp hóa từ CPC xuôi xuống (có cơ hội là tấp vào Long Khánh) nhưng đã không qua được mắt quân địch. Chúng dùng tàu chiến chặn lại từ xa và lai dắt về thị trấn Hồng Ngự, vậy là mấy chục tấn đạn của ta đã không đến được tay bộ đội. Đêm hôm đó đại đội 19 công binh chúng tôi cử 6 đ/c biết bơi giỏi nhất cùng mấy chục chiến sĩ của tiểu đoàn đặc công quân khu, buộc những thùng đạn vào thùng phi cho nổi lập lờ trên mặt nước. Các chiến sĩ đặc công thủy ngậm ống mủ dìu đạn qua sông được một chuyến, nhưng cũng chẳng thấm tháp gì.
9h sáng ngày 5/11, địch đã dùng tàu hải quân chở bộ binh tấn công từ nhiều hướng trên sông (lúc này là mùa mưa nên cánh đồng Long Khánh chìm trong biển nước địch không thể dùng trực thăng đổ quân)
Khoảng 30 – 40 tàu chiến và tàu chở quân chia thành nhiều mũi, nhiều hướng từ dưới sông Cửu Long đổ quân tràn lên Long Khánh, trên trời lã lũ máy bay trực thăng quần đảo. Lúc này bọn địch đã có thêm cả trung đoàn 15 sư đoàn 9 chi viện, nên rất hung hăng.
Ỷ có quân số đông và hỏa lực áp đảo của cả pháo binh và máy bay lên thẳng, máy bay phản lực, địch tổ chức tấn công ồ ạt, tốp này lùi ra, tốp khác lại lao tới.
Trên toàn tuyến D1, D2, D3, đặc công và của bộ đội địa phương quân Hồng Ngự địch đã mở hàng chục đợt tấn công vào những trận địa chốt của ta, nhưng đều bị những tay súng ngoan cường, dũng cảm của bộ đội ta chống trả. Xác địch chết mỗi lúc một tăng tính bằng từng giờ, từng phút. 5h chiều, trận địa toàn tuyến của ta vẫn được giữ vững.
Từ trận địa báo về bộ đội ta đạn còn rất ít. Nguồn tin trinh sát kỹ thuật “bọn lính dù đang trên đường đến chi viện cho bọn địch ở đây”. Như vậy ngày hôm sau và những ngày sắp tới sẽ vô cùng khó khăn cho 207 nếu không được cung cấp lương thực và đạn dược kịp thời.
Trước tình thế khó khăn như vậy (Không thể tiếp tế được).Sở chỉ huy tiền phương ra lệnh cho bộ đội vượt vòng vây, qua sông cửu Long qua Thường Thới Tiền và Thường Lạc trở về hậu cứ.
Đêm 5/11/1972 quân ta bắt đầu rút lui khỏi Long Khánh.
Ưu tiên bộ đội địa phương sang sông trước. Nhờ có ưu thế là dân “thổ địa” lại chọn đúng địa điểm thời cơ, 11h khuya bộ đội địa phương quân Hồng Ngự đã lui quân an toàn.
12h khuya, 207 tiếp tục tổ chức vượt sông. Chỉ có mấy chục chiếc xuồng nhỏ nên được ưu tiên cho thương binh và những đ/c lớn tuổi. Còn lại tất cả đều phải tự bơi qua sông. Súng lớn được lệnh chôn giấu, chỉ đem theo súng bộ binh mà mỗi khẩu cũng chỉ còn từ 20 đến 30 viên đạn.
Vì phải tự lực nên bộ đội ta vận dụng chặt những cây chuối hoặc kiếm được can nhựa làm phao. Đoạn sông này rộng, gặp mùa nước nên chảy rất xiết. Bộ phận đi đầu mới qua được 3 phần sông thì bị tàu địch phát hiện. Hơn chục chiếc tàu sắt mặt dựng rọi pha đèn sáng trắng mặt sông. Đại liên và các loại súng trên tàu bắn xối xả vào đội hình vượt sông của ta. Rất nhiều cán bộ chiến sĩ trúng đạn bị thương và hi sinh chìm trong dòng nước. Một số cố sức vượt qua được đến bờ bên kia. Số mới ra được một phần sông phải quay trở lại.
Ngày hôm sau, 6/11/1972, địch tổ chức vây ráp, truy lùng, có thêm cả lính dù. Bộ đội ta không đủ đạn chiến đấu, phải chuyển sang “chém dè” (có nghĩa là tìm chỗ kín để giấu mình, khi địch phát hiện mới nổ súng). Suốt ngày hôm đó tiếng súng vẫn không ngừng rải rác khắp cù lao. Nhiều nhóm trú ẩn của ta bị địch phát hiện, không còn đạn, bộ đội ta đã xông lên đánh giáp lá cà. Nhiều đ/c chỉ còn một quả lựu đạn đã cho nổ tung trong vòng vây quân địch. Có những đ/c hết đạn đã đập đầu tự sát, anh dũng hi sinh không để cho địch bắt sống.
Đêm mùng 8/11/1972 và những đêm sau, lực lượng CK (công khai) của tỉnh Kiến Phong cùng nhân dân dùng xuồng rải đi tìm kiếm bộ đội. Một lực lượng còn mặc cả quần áo lính dù để che mắt quân địch. Rất nhiều bộ đội ta được lực lượng CK và nhân dân cứu được đưa về hậu cứ số bị thương nhân dân đem đến quân y Hồng Ngự, do bác sỹ Tám Giang phụ trách sơ cấp cứu rồi chuyển về bệnh viện quân khu J20 (bây giờ là bệnh viện K120).
Chiến dịch kéo dài 9 ngày, có 6 ngày chiến đấu liên tục. Trung đoàn 207 kết hợp với bộ đội địa phương quân Hồng Ngự đã phải chiến đấu với một lực lượng quân địch đông gấp nhiều lần trên một địa hình và tình thế khốc liêt, đẩy lùi hàng chục đợt tấn công của địch, tiêu diệt và làm bị thương gần 700 tên địch, bức hàng trên 500 lính bảo an dân vệ.
Đổi lại bộ đội ta hi sinh và mất tích gần 400 đ/c. Một thiệt hại lớn nhất từ khi thành lập trung đoàn đến nay. Riêng đội phẫu thuật của trung đoàn do bác sỹ Bài phụ trách. Các bác sỹ, y sỹ, y tá vừa cấp cứu, cứu chữa thương binh vừa phải chiến đấu bảo vệ thương binh (nhưng biên chế vũ khí cho đội phẫu thuật chỉ hơn chục tay súng). Đội phẫu thuật do bác sỹ Bài chỉ huy đã anh dũng chiến đấu đến viên đạn cuối cùng và đã rơi vào tay địch. Một số thương binh nặng của ta chưa kịp chuyển đi đã bị địch dã man sát hại và bắt đi bác sỹ Bài cùng một số y sỹ, y tá Biết được đ/c Bài là một bác sỹ ngoại khoa giỏi, địch đã tìm mọi biện pháp dụ dỗ, chiêu hồi để bác sỹ Bài cộng tác, phục vụ cho quân đội của chúng. Nhưng đ/c Bài đã kiên quyết khước từ. Không khuất phục được, địch đã dùng thuốc “hủy hoại thần kinh” chích vào thân thể bác sỹ Bài nhằm tiêu diệt ý chí cách mạng vô song của người bác sĩ, chiến sĩ Giải Phóng Quân.
Năm 1973 khi được trao trả tù binh tại Lộc Ninh, mọi người đau xót biết đ/c Bài đã bị bệnh tâm thần trong nhà tù Mỹ Ngụy. Rồi C25 đăc công Đ/C đại đội trưởng hết đạn đã đập đầu tự sát, anh em hi sinh gần hết chỉ còn 4, 5 đ/c bị thương được nhân dân cứu được đem về hậu cứ (trong đó có đ/c Hợp chính trị viên bị thương gãy xương tay. Đ/c Hợp sau khi điều trị lành vết thương trờ về làm trưởng ban tổ chức thuộc cơ quan chính trị và hiện đang sinh sống ở Kiên Giang).
Chiến dịch “31/10/1972”, tuy thiệt hại của trung đoàn là vô cùng to lớn, nhưng đã khẳng định được sức chiến đấu của bộ đội ta đã hơn hẳn quân Ngụy Sài Gòn (đủ sức 1 chọi 3 hoặc 1 chọi 5 và có thể hơn thế nữa), trên một địa hình hoàn toàn bất lợi cho ta.
Có lần ngồi nhậu chung với đ/c Huỳnh Thành Danh biết tôi là lính trung đoàn 207 đ/c Danh đã tâm sự “Tháng 10/1972 lúc đó em còn bé mới 8 tuổi thấy bộ đội chủ lực của ta chiến đấu tại Long Khánh. Bọn địch nó quá đông vây đánh các anh bọn em thấy thương các anh quá”…
Huỳnh Thành Danh sinh ra trong một gia đình vốn có truyền thống cách mạng quê gốc ở Hồng Ngự. Vì vậy ngay từ lúc còn bé Danh đã có được bản chất “tận tụy vì dân, vì nước và ý thức cách mạng”. Thời gian sau gia đình Danh chuyển về sinh sống tại Long Sơn và công tác tại huyện Phú Tân tỉnh An Giang.
Lúc đầu làm cán bộ, rồi trưởng ban tổ chức huyện ủy, phó chủ tịch UBND huyện và hiện nay đang giữ chức chủ tịch UBND huyện Phú Tân, tỉnh An Giang.
Mặc dù với cương vị là người đứng đầu nhà nước của huyện nhưng phong cách của Danh lúc nào cũng khiêm tốn, giản dị, gần gũi với mọi người, luôn quan tâm và yêu thương cán bộ cấp dưới. Trong công việc có óc sáng tạo và quyết đoán… Đ/C Huỳnh Thành Danh xứng đáng là HẠT GIỐNG ĐỎ (trong vùng thánh địa) được cán bộ và nhân dân huyện Phú Tân và các vùng lân cận tin tưởng và yêu mến…
Sự hi sinh anh dũng của cán bộ chiến sĩ trung đoàn 207 trong chiến dịch 31/10/1972 với chiến công rực rỡ “của trận đánh vô cùng khốc liệt” như là một dấu “son” chói ngời cảnh báo cho bọn quan thầy Mỹ và bọn tay sai bán nước: “Trước sau gì chúng cũng sẽ bị diệt vong”. Như chân lí trong lời hiệu triệu của Bác Hồ vĩ đại “Hễ còn một tên xâm lược trên đất nước ta, thì ta còn phải chiến đấu quét sạch chúng đi! ”…(Theo bài viết, trong trận này đồng đội hi sinh rất nhiều. Trận đánh diễn ra trong 12 ngày (từ 28/10/1972 - 08/11/1972). Một điều đáng tiếc là trong danh sách liệt sỹ của trung đoàn 207 còn lưu tại Phòng chính sách quân khu 9, không thấy có tên Liệt sỹ nào hi sinh trong những ngày từ 28/10- 08/11-1972. Chiến tranh khốc liệt quá, đồng đội tôi hi sinh, còn nằm đâu đó trong lòng đất mẹ tại vùng sông nước đồng bằng sông Cửu Long. Xin thắp một nén tâm nhang, viếng hương hồn các anh.
Các anh ơi! Ngày 22/10/2012 này, Khu tưởng niệm LS của trung đoàn 207 chúng mình sẽ hoàn thành, tại Ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước - huyện Thạnh hóa (trước đây là huyện Mộc hóa- tỉnh Kiến Tường) nay là tỉnh Long an, Thỉnh các anh về trong mái nhà chung)
“ Thế hệ chúng con đi như gió thổi
Quân phục xanh đồng sắc với chân trời
Chưa kịp yêu một người con gái
Lúc ngã vào lòng đất vẫn con trai.” – Trần Mạnh Hảo – Trường ca Đất nước hình tia chớp.
Sau trận đánh tại cù lao Long Khánh, Long Thuận, toàn bộ trung đoàn lui về hậu cứ(trên đất ban CPC) tiếp tục huấn luyện, chỉnh huấn, chỉnh quân. Rất nhiều tân binh mới được bổ sung vào thay thế quân số bị hao hụt Vũ khí cũng được trang bị lại, có nhiều loại vũ khí mới, hiện đại được tăng cường. Đ/c Ba Trắc và đ/c Phạm Dốc được điều về quân khu nhận nhiệm vụ mới.
Đ/c Bảy Thàng được quân khu điều về làm trung đoàn trưởng, đ/c Lê Chư về làm chính ủy.
Đ/c Xuân về làm trung đoàn phó, anh Tư Dẫu về làm phó chính ủy. Anh Vũ Nhụy (bác sĩ) về làm đại đội trưởng quân y (C23).
Đầu tháng 11/1972, tôi được điều về làm chính trị viên đại đội 20 (thông tin)
Ban chỉ huy đại đội lúc này gồm có 4 người:
Tôi làm chính trị viên.
Anh Năm Rạng đại đội trưởng (anh quê ở Mỏ Cày, Bến Tre đi tập kết rồi trở lại chiến trường. Tuổi quân của anh lớn hơn tuổi đời của tôi tới 4 tuổi. Anh có dáng người cao, nước da sạm, tóc đã hoa râm, rất hiền và vui tính).
Đ/c Cát làm chính trị viên phó.
Đ/c Nói làm đại đội phó (đ/c Nói hiện đang sinh sống tại Vĩnh Long).
Đại đội thông tin có 4 trung đội:
Trung đội truyền đạt do đ/c Chúc làm trung đội trưởng.
Trung đội hữu tuyến do đ/c Sáu làm trung đội trưởng (đ/c Sáu quê Thanh Hóa, sau này về làm quận đội trưởng quận 10 thành phố HCM, hiện nay đã nghỉ hưu).
Trung đội vô tuyến (2 w) gồm máy PRC25 + T139 do đ/c Ngô làm trung đội trưởng, đ/c Nghiệp làm trung đội phó.
Trung đội vô tuyến điện báo 15 w (T230), 7 w (Ấp Bắc) do đ/c Mậu làm trung đội trưởng.
Khoảng cuối tháng 12/1972, anh Năm Rạng lại được điều về ban thông tin trung đoàn Ban thông tin trung đoàn lúc này có 2 đ/c cơ công là đ/c Diệu và đ/c Lập. (Đ/c Diệu quê Ninh Bình, hiện đang sinh sống tại tỉnh Long An và có người con gái là cháu Loan đang giảng dạy tại trường đại học kiến trúc TPHCM). Đ/c Diệu được đào tạo cơ bản tại Miền Bắc (chuyên ngành sửa chữa điện tử thông tin loại máy các nước XHCN sản xuất) vậy mà khi vào chiến trường, trung đoàn phần nhiều lại sử dụng máy thông tin do Mỹ sản xuất (chiến lợi phẩm thu được sau trận đánh), lính miền Bắc vào chẳng hiểu “mô tê răng rứa” gì hết nên gặp rất nhiều khó khăn. Giữa chiến trường chẳng còn cách nào khác, đ/c Diệu đành cố gắng “mày mò” tự nghiên cứu, tự học. Với chiếc mỏ hàn đốt bằng đèn dầu, đ/c Diệu đã cho “hồi sinh” rất nhiều máy PRC25. Kịp thời trang bị cho bộ đội giữ vững “mạch máu thông tin”, giúp cho sở chỉ huy trung đoàn và các BCH tiểu đoàn ra những mệnh lệnh mang tính quyết định để dành thắng lợi cho từng trận đánh góp phần làm nên những chiến công lừng lẫy của trung đoàn… Thế mới biết bộ đội ta rất linh hoạt trong chiến đấu, đúng như các cụ xưa thường nói “cái khó ló cái khôn”. Khó khăn gian khổ, thiếu thốn, hiểm nguy, chưa bao giờ khuất phục được nhũng người chiến sĩ.
Sau khi anh Năm Rạng chuyển đi, anh Năm Thắng từ thông tin quân khu được bổ sung về làm đại đội trưởng thay thế anh Năm Rạng (anh Năm Thắng quê ở Long An lớn hơn tôi 8 tuổi, từng tham gia phong trào sinh viên, học sinh Sài Gòn, nước da trắng hồng, rất bảnh trai).
Thế đấy! “chiến tranh mà” cán bộ cứ thay đổi “xoành xoạch”. Nhất là ở các đại đội bộ binh. Cán bộ 1 năm có thể thay tới 4 lần (ngồi chưa ấm chỗ, ra trận đã hi sinh, lại phải thay người khác).
Cuối tháng 1/1973, trung đoàn 207 lại được lệnh hành tiến xuống chiến trường Miền Nam, tiếp tục sứ mệnh giải phóng vùng đất Hồng Ngự, nơi trận đánh trước gần 400 anh hùng liệt sĩ của Trung đoàn đã lấy máu xương mình mà giành giật từ tay kẻ thù xâm lược. Đoàn quân trở về đất Mẹ với lòng căm thù giặc cao độ và một ý chí mãnh liệt giải phóng đồng bào, trả thù cho đồng chí.
Từ hậu cứ trên đất bạn CPC, chúng tôi hành quân qua Hồng Sa tới chợ Cứt Bò (chẳng rõ lý do gì mà khu chợ có cái tên ngộ ngộ, thấy nhân dân gọi vậy), qua Tàu Chìm (là một địa danh có chiếc tàu địch bị ta bắn chìm nên có tên như vậy), rồi đến Cồn Cò.
Sông Sở Thượng là một nhánh của sông Cửu Long rẽ từ Trên CPC chạy cặp biên giới qua Hồng Sa, chợ Cứt Bò, Tàu Chìm, Cồn Cò, Cái Sách, Cầu Tiểu, Cầu Đại, Cầu Muống. Cách Hồng Ngự khoảng 9km là đồn Cầu Muống rồi tới đồn Cầu Đại, Cầu Tiểu, Cái Sách. Đây là hệ thống đồn bốt liên hoàn mỗi đồn cách nhau từ 2 – 3 km nhằm án ngữ cho thị trấn Hồng Ngự và một phần cho thị xã Tân châu.
Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định sử dụng trung đoàn 207 và bộ đội địa phương quân Hồng Ngự đánh đồn. Hậu thuẫn cho 207, nhiều đơn vị còn lại của quân khu, có cả lực lượng của sư đoàn 5, sư đoàn 9 phối thuộc sẵn sàng chặn đánh quân chủ lực ngụy Sài Gòn đến tiếp viện.
Ngày 20/01/1973, tất cả các đơn vị đã áp sát mục tiêu được định trước. Trung đoàn sử dụng hết binh hỏa lực cùng một lúc bao vây cả 4 đồn Cái Sách, Cầu Tiểu Cầu Đại, Cầu Muống (riêng đồn Cầu Muống có 2 đại đội địa phương quân Hồng Ngự do anh Năm Thành huyện đội trưởng chỉ huy tham gia phối thuộc).
Sở chỉ huy trung đoàn được đóng quân tại một phum trên đất CPC có đường chim bay đến đồn Cái Sách khoảng 5km. Phía trước là trận địa cối 82, trận địa DKB, cối 120, H12 (của tiểu đoàn pháo Z10 do quân khu tăng cường).
Trạm phẫu thuật và bệnh xá trung đoàn do anh Vũ Nhụy phụ trách ở gần Tàu Chìm.
Hệ thống đồn bốt của địch được bố trí kiên cố vì đây là khu vực tiền tiêu, giáp ranh với vùng giải phóng và Cái Sách là đồn quan trọng nhất được bố phòng rất vững chắc với hỏa lực mạnh.
Đồn Cái Sách có đường kính khoảng 400 – 500m gồm rất nhiều lô cốt cả bê tông cốt thép, xen lẫn lô cốt bằng bao cát. Những lô cốt “đầu cầu” địch bố trí trọng liên 12 ly 7 và đại liên 60, những lô cốt phụ do súng AR 15 và M79 xen kẽ dày đặc. Trung tâm đồn là trận địa cối 81 và cối 60, đồn còn được tăng cường cả DK 90 và M72 đề phòng ta tấn công bằng xe tăng hoặc xe bọc thép. Xung quanh đồn là mấy lớp hàng rào dây kẽm gai khép kín và bãi mìn. (Phía ngoài cùng là lớp hàng rào đơn, đến hàng rào kép, hàng rào mái nhà, hàng rào cũi lợn trong cùng là lớp hàng rào bùng nhùng).
Ngay trong đêm bộ đội ta bí mật đào công sự tạo thành 4 trận địa bao vây cả 4 đồn địch.
4h sáng, trận địa cối 82 và ĐKZ 75 của trung đoàn và 3 tiểu đoàn phối hợp với cối 61 của các đại đội bộ binh được lệnh khai hỏa. Cả 4 vị trí quân địch cặp sông Sở Thượng nhì nhằng chớp lửa xen lẫn những âm thanh ì ầm. Cối 120 ly của Z10 cũng đề pa chi viện. Đồn Cái Sách, Cầu Tiểu, Cầu Đại, Cầu Muống chìm trong khói đạn.
Sau 30 phút pháo binh ta dồn dập bắn phá, bộ đội ta được lệnh xung phong. Những quả bộc phá sào và mìn DH10 nổ tung nhiều đoạn dây kẽm gai của địch. Bộ đội ta nhất loạt xông lên theo hướng cửa mở. Phát hiện xung lực ta, hỏa lực của địch trong đồn bắn ra như vãi đạn. Bãi mìn quái ác có chiều rộng mấy chục mét bao quanh đồn địch dù đã được pháo binh giúp phá hủy phần nào, vẫn còn khá dày đặc, đã gây cho bộ đội ta nhiều thương vong, nhiều đ/c trúng mìn cụt cả 2 chân.
5h sáng cả 4 trận địa báo về bộ đội ta vẫn chưa đánh chiếm được cửa mở. Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn “chuyển sang chiến thuật vây ép”. 5h30, pháo 155 ly từ Hồng Ngự và Tân Châu bắn như đổ đạn xung quanh các trận địa ta (cứ như thể pháo binh của chúng đã can tọa độ sẵn từ trước nên chỉ ngay các loạt đạn đầu, pháo của địch đã nổ gần hàng rào dây kẽm gai sát các công sự, ụ súng của bộ đội). Từ 4 trận địa tiếp tục báo cáo về sở chỉ huy. “bộ đội lại thương vong do các loạt đạn pháo của địch với độ chính xác gần như tuyệt đối”.
Từ mấy trận địa DKB (hỏa tiễn tầm xa) của Z10 được lệnh khai hỏa. Hàng chục quả tên lửa xé gió lao đi (chắc các chiến sĩ pháo binh ta cũng đã can tọa độ sẵn từ trước) nên chỉ sau ít phút các trận địa báo về:” Pháo binh địch đã giảm cường độ bắn phá”.
Suốt ngày hôm đó 2 cụm pháo địch ở Tân Châu và Hồng Ngự hầu như “lặng tiếng” vì biết rất rõ sự bất lợi của chúng. Trận địa pháo địch là cố định. Trận địa của ta lại thường xuyên di chuyển rất linh hoạt nên khi 2 bên đấu pháo thì trận địa của chúng sẽ “lãnh đủ”.
Đêm 21/1/1973, bộ đội ta được hậu cần trung đoàn tiếp tục bổ sung đạn dược, số liệt sỹ ngoài mặt trận cũng được dân công hỏa tuyến huyện Hồng Ngự giúp đỡ đưa về phía sau.
Hình ảnh của chị Hai Kim Cúc huyện đội phó huyện Hồng Ngự mặc bộ quần áo bà ba đen, đội mũ tai bèo màu xanh da trời, ngang lưng đeo khẩu súng ngắn chỉ huy đoàn dân công hỏa tuyến, vừa vận chuyển đạn ra trận địa rồi lại tải liệt sỹ về mai táng gần kinh Ba Nguyên, tới bây giờ vẫn còn như in trong tâm trí tôi, với lòng cảm phục sâu sắc. Chị như một hình ảnh đại diện cho những vị nữ chỉ huy của đội quân bà Định, dòng dõi của những Bà Trưng, Bà Triệu, hiền hòa mà dũng mãnh…Trên chiến trường Miền Nam, các chị các em, rất xinh đẹp mà khí phách ngang trời, đã góp phần làm nên những chiến công hiển hách cùng Dân tộc.
“ Em đẹp lắm như mùa Xuân bừng dậy
Súng trên vai cũng đẹp như Em
Em ơi, sao tóc Em thơm vậy?
Hay Em đi qua vườn Sầu riêng…
…..
Em là du kích, Em là giao liên
Em chính là Quê hương ta đó
……..
Chỉ có trái tim chung thủy sắt son
Và khẩu súng trong tay cháy bỏng căm hờn.” – Lê Anh Xuân – 1965
Tại sở chỉ huy trung đoàn, không khí hết sức căng thẳng, anh Năm Thắng và anh Sáu Hiền chủ nhiệm thông tin theo sát 4 máy PRC25 luôn có những thông tin viên liên tục nhận những báo cáo từ trận địa, và truyền đi những mệnh lệnh khẩn cấp của chính ủy và trung đoàn trưởng. Tôi cũng không rời đài 15 w cùng các đ/c báo vụ tiếp nhận những bản mật mã: “Toàn những con số, ký hiệu” rồi chuyển ngay cho bộ phận cơ yếu do đ/c Sở phụ trách mở mật mã rồi báo cáo BCH trung đoàn. Chính từ nơi này, những mệnh lệnh cần thiết và kịp thời sẽ quyết định thành bại của trận đánh.
Để hạn chế đến mức thấp nhất thương vong của bộ đội. Quân khu chấp nhận cho trung đoàn vẫn tiếp tục dùng chiến thuật vây ép. Một đơn vị xe tăng T34 của ta được quân ủy Miền tăng cường cũng đã đến ở một vị trí rất gần. Cả trung đoàn bừng lên một khí thế “đánh giặc lập công”, quyết tâm trả thù cho những cán bộ chiến sĩ đã hi sinh trong trận đánh cù lao Long Khánh, Long Thuận.
Ngay đêm đó, bộ đội ta lại được lệnh áp sát hàng rào tiếp tục đào công sự và giao thông hào. Cả 4 đồn địch mỗi đồn chỉ cách nhau khoảng 2 đến 3 km nhưng không tài nào chi viện được cho nhau. Chúng tự biết số phận như “cá nằm trên thớt”.
Trận địa pháo Tân Châu và Hồng Ngự bị pháo binh Z10 do anh Trạch làm tiểu đoàn trưởng khống chế cũng chẳng dám “ho he”.
9h sáng ngày 22/01/1973, máy bay F111 ném bom vào hậu cứ của ta gần khu vực Tàu Chìm gây thiệt hại cho hậu cần và bộ phận phía sau.
5h chiều ngày 22/1/1973, một công điện từ quân khu gửi về do các đ/c báo vụ chuyển sang cho bộ phận cơ yếu. Trong cái hầm lộ thiên có mấy tấm ni lon che bít bùng bộ phận cơ yếu khẩn trương giải mã và nét mặt của đ/c Sở tổ trưởng tổ cơ yếu hớn hở chuyển ngay công điện cho đ/c chính ủy và trung đoàn trưởng. Những gương mặt lem nhem bụi đất của chúng tôi trong ánh chiều tà giữa căn hầm tiền phương tạm bợ đều rạng rỡ hẳn lên.
“Một đơn vị pháo đặc biệt được tăng cường cho trung đoàn 207”.
Ngay trong đêm bộ phận pháo tăng cường đã về tới và được cơ quan tham mưu bố trí đồn trú cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 1km.
Ngày 23/1/1973, bộ đội ta ở các trận địa vẫn tiếp tục vây ép làm cho quân địch càng thêm mỏi mệt, hoang mang.
2h chiều ngày 23/01/1973, lại thêm mấy phi vụ F4 ném bom sâu vào hậu cứ của ta ở gần Cồn Cò gây nhiều thiệt hại cho các bộ phân phía sau, làm ảnh hưởng đến sức chiến đấu của bộ đội trên trận địa. Không thể cứ để “giằng dai” mãi được, sở chỉ huy trung đoàn quyết định sử dụng con “át chủ bài” là loại pháo hỏa tiễn mới được quân khu và quân ủy miền chi viện đêm qua.
Sớm tinh mơ, 4h sáng ngày 24/1/1973, cối 82, cối 120, H12 của ta bắt đầu dồn dập bắn phá đồn Cái Sách. Những quả tên lửa A72 (một loại tên lửa điều khiển có dây lần đầu tiên xuất hiện trên chiến trường bắn bách phát, bách trúng) nổ chụp ngay trung tâm đồn Cái Sách, đồn Cái Sách chìm nghỉm trong khói lửa.
Không chịu nổi trước làn hỏa lực mạnh như vũ bão của pháo binh ta, ngay sáng ngày 24/1/1973 toàn bộ lính trong đồn đã mở đường máu tháo chạy, Cái Sách đã hoàn toàn được giải phóng.
Vị trí tiền tiêu được coi là mạnh và kiên cố nhất của địch đã rơi vào tay Quân Giải Phóng nên chỉ sau đó mấy ngày, ở ba đồn còn lại (Cầu Tiểu, Cầu Đại, Cầu Muống) bọn địch cũng bỏ đồn tìm đường thoát thân.
Một dải đất dài mấy chục km bên sông Sở Thượng rợp cờ Mặt trận dân tộc giải phóng tung bay phần phật trên những ngọn cây ô môi.
Vùng giải phóng của ta đã được nối liền từ Cầu Muống tới tận Hồng Sa.
Với sức tiến công như vũ bão của quân giải phóng trên khắp các chiến trường trong đó có địa bàn do trung đoàn 207 đảm trách. Không còn cách nào khác ngày 27/1/1973 địch đã phải ký kết hiệp định tại hội nghị Pari…
“Ta sẵn sàng xé trái tim ta
Cho Tổ quốc, và cho tất cả
Lá cờ này là máu là da
Của ta, của con người, vô giá.
……….
Việt Nam ơi, máu và hoa ấy
Có đủ mai sau, thắm những ngày?” (Tố Hữu – Việt Nam Máu và Hoa)
Ngày 27/01/1973, hiệp định Pari chính thức được ký kết.
Cách Cầu Muống khoảng 1km địch đã điều 1 tiểu đoàn địa phương quân tiểu khu Kiến Phong đến đóng chốt tạo thành điểm “khóa đầu” ranh giới giữa vùng giải phóng của ta và vùng tạm chiếm của địch. Bộ đội địa phương huyện Hồng Ngự do anh Năm Thành huyện đội trưởng chỉ huy được giao nhiệm vụ chốt chặn tai đây.
Ngày 6/2/1973 đ/c năm Thành đi kiểm tra trận địa tại chốt khóa đầu và đã lọt vào ổ phục kích của địch rồi hi sinh tại đây. Bọn giặc “đểu cáng” đã giấu xác đ/c năm Thành, không cho ta lấy. Cuối cùng ta phải dùng vũ lực “Hăm dọa” chúng mới chịu trả thi thể đ/c năm Thành và được anh bảy Cường (lúc đó là y sỹ quân dân y Hồng ngự) trực tiếp khám nghiệm tử thi..(đ/c năm Thành bị 1 viên đạn nhọn của địch bắn trúng tim rồi hi sinh ngay).Sau 30/4/1975 anh bảy Cường được điều về công tác tại huyện Phú Tân tỉnh An Giang với cương vị tỉnh ủy viên-Bí thư huyện ủy. Với 2 nhiệm kỳ anh đã cùng ban thường vụ huyện ủy đưa ra nhiều chủ trương đúng đắn xây dựng quê hương Phú Tân thêm giàu đẹp xứng đáng là 1 huyện trọng điểm của cả nước. Gần đây anh làm sui với anh sáu Hân và con rể của anh là cháu Thắng Lợi (sẽ kể lại ở phần sau) Đặc biệt vợ của anh Bảy là một nữ cán bộ “Nòi”. Chị là huyện ủy viên huyện Hồng Ngự lúc mới 20 tuổi và khi trung đoàn 207 chiến đấu tại cù lao Long Khánh 31/10/1972 chị đang làm bí thư chi bộ xã Long Thuận. Hiện nay anh chị đã nghỉ hưu và đang sinh sống tại quê hương thứ 2 (huyện Phú Tân) Tuy đã hơn 70 tuổi anh chị vẫn còn rất khỏe và “nhiệt huyết cách mạng” lúc nào cũng cháy bỏng trong con người của 2 vị “Lão thành cách mạng”. Anh chị vẫn là một “chỗ dựa” vững chắc của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân huyện Phú Tân...
Lúc này vùng giải phóng của ta nối dài liên hoàn từ Cầu Muống, Cầu Đại, Cầu Tiểu, Cái Sách dọc sông Sở Thượng tới tận Hồng Sa. Cả một dải đất dài mấy chục km rợp cờ Mặt trận Dân tộc giải phóng Miền Nam Việt Nam. Nhân dân khắp nơi kéo về cất nhà dọc 2 bên sông, xuồng ghe đậu san sát. Đồn Cái Sách được sử dụng làm nơi họp chợ, tưng bừng, náo nhiệt. Nhân dân lần đầu tiên được xem bộ phim NỔI GIÓ của Đào Hồng Cẩm (rất ấn tượng). Tinh thần cách mạng của đồng bào càng thêm sâu sắc. Nhiều người đã vào vùng địch tạm chiếm vận động con em và binh lính bỏ hàng ngũ địch trở về với cách mạng.
Khi ấy, trong không khí rộn ràng thắng lợi, các tài năng nghệ thuật của Trung đoàn được dịp thăng hoa, đ/c Phan Xuân Thi (hiện là trưởng ban LL bạn chiến đấu E 207) liên tiếp “trổ tài” năng khiếu của mình khi trung đoàn tổ chức những đêm văn nghệ quần chúng phục vụ nhân dân và bộ đội. Bởi có ưu thế giọng rất “ấm” và được luyện giọng ngâm thơ ngay từ lúc mới 14 tuổi do đó Phan Xuân Thi đã có giọng thơ chẳng thua kém gì các nghệ sỹ chuyên nghiệp. Bài thơ “Bầm ơi” của nhà thơ Tố Hữu mà Phan xuân Thi ngâm trong một đêm văn nghệ tại Cái Sách làm bao nhiêu cán bộ chiến sĩ và nhân dân cảm động và ngưỡng mộ, khiến biết bao cô gái thầm thương trộm nhớ những chàng trai E207 oai hùng và lãng mạn… Hiện giờ Phan Xuân Thi là nghệ sỹ ngâm thơ của Đài truyền hình thành phố HCM và đã có gần nghìn bài thơ trong các CD. Anh chính là đại diện cho hình ảnh tiêu biểu về người chiến sĩ Giải phóng quân thuở ấy: Một thế hệ “tài hoa ra trận”.
Cuối tháng 2/1973 Sở chỉ huy trung đoàn dời về đóng quân bên kia sông sở Thượng ngang đồn Cái Sách. Đại đội thông tin chúng tôi cũng ở gần sở chỉ huy trung đoàn (cách trạm Kinh Tài của tỉnh Kiến Phong khoảng 100m).
Huyện ủy Hồng Ngư gồm có chú bảy Trọng bí thư huyện ủy, chú ba Lê Hiếu thường vụ huyện ủy, chú hai Thanh Hùng thường vụ huyện ủy, anh Tư Thôi thường vụ huyện ủy, anh hai Hung (còn gọi là cụt Hung vì bị thương cụt hết 1 tay). Thường vụ huyện ủy cũng dời về nằm cạnh sở chỉ huy trung đoàn. Thời gian này bọn lính sư 7 và sư 9 của quân ngụy Sài Gòn đã “lảng vảng” ở khu vực Tân Châu, Hồng Ngự. Bộ chỉ huy chiến dịch của ta đã tăng cường thêm 1 trung đoàn của sư 5 và 1 trung đoàn của sư 9 cho khu vực này phối hợp với trung đoàn 207 (mặt trận lúc này vô cùng khẩn trương và sôi động)
Đại đội cối 82 (16) được bố trí trận địa gần Cái Sách để có thể bắn chi viện nếu địch liều lĩnh dùng máy bay trực thăng đổ quân vào hậu cứ của ta. Lực lượng an ninh của tỉnh Kiến Phong cũng được dời về ven sông Sở Thượng để làm nhiệm vụ giữ gìn trật tự, an ninh vùng dân cư ta mới giải phóng.
Đ/c Võ Hoài Việt nguyên giám đốc công an tỉnh Đồng Tháp, và hiện nay là thiếu tướng tổng cục phó Tổng cục An ninh Bộ Công an, lúc đó là cán bộ an ninh tỉnh Kiến Phong thường tới lui trung đoàn, để quan hệ công tác, và rồi anh kết bạn thân “chí cốt” với đ/c Giải đại đội trưởng đại đội 16 của trung đoàn. Sau này có lần đ/c Võ Hoài Việt tâm sự với tôi: “Lúc trung đoàn 207 và lực lượng quân khu về giúp tỉnh Kiến Phong giải phóng hàng loạt đồn bốt dọc sông Sở Thượng. Chúng tôi thực sự sung sướng quá. Xưa nay cánh an ninh chúng tôi chỉ được trang bị súng nhỏ nên bọn địch nó coi tụi tôi “chẳng ra gì”. Tôi kết bạn thân với đ/c Giải lâu lâu anh em thăm nhau mời nhau nhậu cho vui. Đ/c Giải dẫn đi xem trận địa pháo toàn súng bự tôi “khoái” quá và suy nghĩ rằng: “Chỉ có bộ đội chủ lực của ta mới đủ sức QUẬT GỤC quân chủ lực Việt Nam cộng hòa. Mà thực tế đúng là như vậy”. Thế đấy, tình người trong chiến tranh đơn giản mà vĩ đại vô cùng. Mỗi người sống bình dị khiêm nhường, nhưng khi vào trận sẵn sàng chia nhau đến giọt máu cuối cùng!
Đầu tháng 3/1973 Tiểu đoàn 2 đóng quân quanh khu vực cầu Đại làm nhiệm vụ chống địch lấn chiếm. Đối phương cũng có một tiểu đoàn thuộc trung đoàn 15 sư 9 quân Ngụy Sài Gòn án ngữ ngay sát nách tiểu đoàn 2. Đại đội 5 thuộc tiểu đoàn 2, lúc này do đ/c Phan Xuân Thi làm chính trị viên, tiếp giáp và đối mặt trực tiếp với tiểu đoàn 2 thuộc trung đoàn 15, sư đoàn 9 ngụy do đại úy Hùng làm tiểu đoàn trưởng.
Đ/c Phan Xuân Thi quê gốc Quảng Bình nhưng học ở Hà Nội từ khi còn nhỏ. Đang học năm thứ hai, khoa văn trường Đại học Tổng hợp Hà Nội và được lệnh nhập ngũ vào chiến trường.
Ngày 4/03/1973 trong lúc đang chỉ huy đơn vị phục kích, phòng ngự tại gần Cầu Đại, thì Phan Xuân Thi phát hiện bọn lính sư đoàn 9 “mò” vào hòng lấn chiếm trận địa của ta, đ/c Thi ra lệnh cho bộ đội ta sẵn sàng nổ súng “nghênh tiếp”. Bất ngờ tên đại úy Hùng tiểu đoàn trưởng la lớn: “Đã ngừng bắn rồi 2 bên không được nổ súng” và yêu cầu được gặp mặt với vị chỉ huy của ta. Đ/c Thi vội xuống hầm lục ba lô lấy một bộ quân phục mới nhất mặc ngay vào, rồi hiên ngang tiến tới “đường biên” đối thoại với tên đại úy Hùng. Chỉ sau 1 giờ “khẩu chiến”, với lý lẽ sắc bén và chính nghĩa của người chính trị viên từng học Văn - ĐH TH Hà Nội, tên đại úy Hùng đã tự nhận ra: “Sĩ quan của chúng không thể là đối thủ của cán bộ Quân Giải Phóng” và từ đó về sau tên này “cạch mặt” không dám huênh hoang và lặng lẽ lui quân. Nhờ đó, trận địa 2 bên êm đềm được một thời gian ngắn.
Đến cuối tháng 3/1973, lúc này bọn sư đoàn 9 + sư đoàn 7 ngụy đã bắt đầu “giở trò”, chúng chia quân làm nhiều mũi lấn chiếm vùng ta kiểm soát tại khu vực Thường Phước. Tiểu đoàn 2 - E207 lại được lệnh hành quân chặn đánh địch và cuộc giao tranh ác liệt đã xảy ra tại cầu ván Mương Kênh.
Trung đoàn 15 sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn có xe bọc thép, pháo binh và máy bay yểm trợ đã hùng hổ tiến vào trận địa phục kích của tiểu đoàn 2, cả tiểu đoàn đã anh dũng chiến đấu đánh lui nhiều đợt tấn công của địch. Với quân số đông hơn nên bọn lính sư 9 rất liều lĩnh. Một tốp lính mấy chục tên đã bí mật bò gần sát hầm trận địa ta chỉ còn cách độ hơn chục mét. Chúng điên cuồng dùng lựu dạn ném vào trận địa. Một quả lựu đạn đã rơi trúng hầm của đ/c Thi và 1 chiến sĩ tên là Hùng (lựu đạn rơi sát chân Hùng). Ở đầu hầm bên kia (loại hầm chữ Z) Đ/c Thi vội hét lên “Bốc ném lựu đạn ra ngoài” Đ/C Hùng đã kịp chụp quả lựu đạn đã nóng bỏng ném lên khỏi miệng hầm thì lựu đạn nổ tung (Thi và Hùng cách cái chết chỉ còn trong gang tấc). Hiện nay Hùng đang sinh sống tại Mỹ Tho. Thi và Hùng ngày 27/7/2012 gặp nhau tại Đá Biên (Hai người ôm nhau, nước mắt lưng tròng). Chúng tôi cũng không ai cầm được nước mắt chứng kiến “Hai đồng đội tưởng như không thể nào còn sống…”của trận đánh ác liệt và giây phút hiểm nguy…
Sau khi “thoát chết” Thi và Hùng cùng đồng đội tiếp tục chiến đấu. Chính trị viên Phan Xuân Thi đã dũng cảm sử dụng khẩu B40 của đồng đội bắn cháy 1 xe bọc thép M113. Tám tên giặc trong xe đều bị cháy đen thui. Đạn trong chiếc xe này nổ liên tục trong 3 tiếng đồng hồ mới dứt, khiến bọn giặc không dám liều lĩnh tấn công nữa. Qua trận đánh này đ/c Thi được đề nghị tặng thưởng Huân chương chiến công giải phóng hạng 2.
Chiến tranh dẫu có khắc nghiệt biết bao nhưng cuộc sống vẫn có tiếng nói riêng của nó. Giữa bom đạn bời bời, những trai tài gái sắc của nước Việt Nam vẫn yêu nhau và cùng nhau xây tổ ấm trong lửa đạn quân thù. Một câu chuyện về tình yêu như thế đã xuất hiện ở Trung đoàn 207 TRUNG DŨNG KIÊN CƯỜNG. Trong cuộc họp chi bộ ngày 05/4/1973 của đại đội thông tin do tôi làm bí thư chủ trì sau gần 4h bàn bạc, công việc của đơn vị đã xong, thì đ/c Năm Thắng đại đội trưởng kiêm phó bí thư chi bộ bất ngờ có ý kiến và kèm theo một đơn xin cưới vợ.
Người bạn đời đ/c định kết hôn là cô Út Dúng em ruột của chị Năm Phượng (còn có tên là Năm Nết). Chồng chị Năm Phượng là anh Ba Hẩm thủ trưởng cũ của đ/c Năm Thắng đã hi sinh để lại một đứa con khoảng 5 tuổi tên là Thắng Lợi. Khi anh Ba Hẩm còn sống đã có ý định mai mối giới thiệu em vợ cho người đồng đội “thân tín” của mình. Xin kể sơ qua về mới liên hệ họ hàng của cô Út Dúng, cô dâu tương lai của Trung Đoàn: Anh Ba Hẩm là anh ruột của đ/c Sáu Hân nguyên là chủ tịch ủy ban nhân dân tỉnh Đồng Tháp. Má chị Năm Phượng là em ruột má chị Hai Nhị (Trương Thị Thắm). Chồng chị Hai Nhị phó ban an ninh khu hi sinh năm 1968 để lại 2 đứa con là Phương và Tài. Chị Hai Nhị sau khi hòa bình là trưởng phòng cảnh sát kinh tế công an tỉnh Đồng Tháp rồi chuyển ngành qua làm giám đốc công ty du lịch tỉnh Đồng Tháp. Chị Hai Nhị có mấy người em: chị Tư Bê, chị Sáu Hoàng, cô Tám Hà, chú Mười Toại và cô Út Nguyện. Đây là một đại gia đình cách mạng. Sau này tất cả mọi người đều trở thành “người nhà” của 207.
“Nguyện vọng” của anh năm Thắng được chi bộ chấp thuận và tôi trực tiếp báo cáo với anh Lê Chư bí thư Đảng ủy kiêm chính ủy Trung đoàn 207. Anh Lê Chư ủy quyền cho tôi gặp gia đình chị Út Dúng trước rồi báo cáo cho Đảng ủy Trung đoàn.
Ngày 09/04/1973, tôi và anh Năm Thắng đến nhà chị Năm Phượng nằm sát bên sông Sở Thượng gần cồn Cò dưới sông là một chiếc ghe (cũng của gia đình chị Năm). Tôi báo cáo với gia đình về nguyện vọng của anh Năm Thắng và được sự ủy quyền của Đảng ủy trung đoàn đến xin phép gia đình cho 2 anh chị được tiếp tục tìm hiểu. Má, Út Dúng, chị Năm Phượng mừng vui như “tết”. Chị Hai Nhị nhà cách đó vài trăm mét nghe tin cũng chạy tới để “chiêm ngưỡng” hình dáng em rể tương lai
Chị Năm Phượng thịt ngay con vịt để thết đãi tôi “người đại diện cho đơn vị” và anh Năm Thắng. Việc cưới vợ của anh Năm Thắng coi như đã thuận lợi mọi bề. Từ đó trở đi tôi và anh em trong đơn vị nghiễm nhiên coi 2 gia đình như là chỗ thân tình. Và 2 chị như những người chị ruột, coi Thắng Lợi, Phương, Tài như những đứa cháu THÂN THƯƠNG của đơn vị (tội nghiệp, Ba các cháu đều đã hi sinh vì cuộc chiến đấu giải phóng Dân tộc). Thỉnh thoảng 2 chị lại đưa các cháu đến đơn vị chơi và ngược lại có điều kiện là chúng tôi đến thăm các má, các chị, các cháu.
Ngày 20/4/1973, tôi ghé cụm đài máy 2W (một loại máy liên lạc vô tuyến) tại sở chi huy trung đoàn ngay cạnh căn nhà anh Bảy Thàng và anh Lê Chư đang ở. Anh Năm Thắng đã “đeo bám” nơi đây gần chục ngày nay. Bốn đ/c thông tin 2w trực ở cụm đài này nhưng anh Năm Thắng vẫn giành cầm tổ hợp, giọng nói cứ oang oang:
“Đ..m… Mày chuyển gấp ngay công điện này cho máy bên kia, mày mà chậm trễ là cả sếp mày và mày cũng cho đi vùng 1 luôn…”
Đầu máy bên kia giọng nói rặt Nam Bộ:
“Dạ…sếp cứ yên tâm…chúng em sẽ chuyển ngay ạ…”
Tôi thấy “lạ” nên vội vặn hỏi, anh Năm liền báo lại:
Tiểu đoàn 1 nằm ở cự ly quá xa đáng lẽ phải bố trí một máy T139 ở ban chỉ huy tiểu đoàn và 1 máy ở sở chỉ huy trung đoàn. Loại máy này do Trung Quốc sản xuất liên lạc được ở cự ly xa hàng trăm km nhưng nó lại có yếu điểm là sử dụng sóng FM nên khi liên lạc thường bị lộ (cả radio cũng có thể bắt được sóng) hơn nữa độ nhiễu lại cao. Nếu bị đối phương phát hiện “phá sóng” là bị “tịt” luôn coi như đứt liên lạc. Anh Năm Thắng quyết định cho sử dụng máy PRC25 (do Mỹ sản xuất). Loại máy này liên lạc được ở cự ly gần nhưng dùng sóng ở tần số độc lập địch khó phát hiện. Mà lỡ có bị “lộ” thì chạy qua sóng khác đã hợp đồng trước, thông tin liên lạc không bị gián đoạn.
Để liên lạc bằng máy PRC25 từ tiểu đoàn 1 về trung đoàn đúng ra phải bố trí 1 máy tại đoạn giữa làm trung gian (trung chuyển) nhưng địa hình đoạn này toàn đồng trống, địa hình phức tạp không thể bố trí tổ máy nên anh Năm Thắng đã nảy ra 1 “sáng kiến” khá độc đáo. Bởi có ưu thế nói giọng Nam Bộ, anh đã tự xưng mình là lính sư đoàn 9 ngụy để “hù dọa” bọn giặc trong đồn Bình Phú do lũ bảo an chốt giữ. Nghe tiếng sư đoàn 9 nên bọn bảo an “sợ vỡ mật” không dám “ọ ẹ” gì và cả chục ngày nay cung cúc làm trung gian, chuyển điện qua lại cho Quân Giải Phóng (mà chúng cứ tưởng giúp cho bọn thông tin sư đoàn 9 của chúng). Những bức điện chúng chuyển toàn bằng mật mã nên bọn chúng cũng chẳng biết đường nào mà lần.
Lính 207 chiến đấu thông minh và sáng tạo như vậy đấy. Trong chiến tranh “có những chuyện thật như đùa” mà giờ đây nghĩ lại mới thấy khâm phục tinh thần chiến đấu tràn đầy nghị lực và lạc quan yêu đời của người chiến sĩ giữa chiến trường khốc liệt, và thông minh, trí tuệ đến bất ngờ. Ví như sự sáng tạo của anh Năm Thắng là một bài ca tuyệt vời.
Đầu tháng 8/1973, trung đoàn bộ dời về đóng quân tại 1 phum cách Tân Lèo 5km.
6h tối ngày 20/8/1973, chúng tôi được lệnh hành quân theo sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn và được lệnh dừng chân tại 1 phum cách Tà Nu khoảng 4km.
Tà Nu là một thị trấn cặp biên giới Việt Nam – CPC thuộc vùng giải phóng của bạn và ta. Nhưng trước đó mấy ngày 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 9 quân ngụy Sài Gòn đã hành quân chiếm đóng Tà Nu vì chúng biết rất rõ nơi đây là đầu nối của đường giao liên để bộ đội chủ lực của ta từ biên giới theo kênh 28 vượt sông Vàm Cỏ xuống vùng 4 Kiến Tường và vùng Đồng Tháp Mười giáp ranh 3 tỉnh Kiến Phong (nay là Đồng Tháp), Kiến Tường (nay là Long An) và Định Tường (nay là Tiền Giang). Một vị trí rất quan trọng như vậy ta đâu có thể để cho chúng nghiễm nhiên chiếm đóng. Bộ chỉ huy chiến dịch chỉ thị cho trung đoàn 207 và 1 đơn vị của sư đoàn 5 phải tiêu diệt căn cứ của địch mới được hình thành này.
Trung đoàn 207 (sử dụng tiểu đoàn 1+3 và các đơn vị trực thuộc) chịu trách nhiệm hướng Tây + Nam
Một trung đoàn của sư 5 hướng Bắc + Đông.
Các đơn vị còn lại của sư 5 và quân khu là lực lượng dự bị sẵn sàng chặn đánh quân địch chi viện bằng máy bay trực thăng hoặc từ Long Khốt tràn lên.
Đúng 1h sáng ngày 21/8/1973 bộ đội ta đã vào hết vị trí tập kết tạo thành hình thái bao vây căn cứ Tà Nu, bí mật đào công sự.
2h sáng cối 120, cối 82 và pháo các cỡ của quân khu, sư đoàn 5 đã nhả đạn bắn phá trận địa địch. Hàng ngàn quả đạn các cỡ của nhiều trận địa “cấp tập”. Căn cứ Tà Nu có chiều dài khoảng 1km, bề ngang khoảng 400m nhoang nhoáng lửa đạn và kèm theo là những tiếng nổ rền vang.
2h30 pháo binh ta được lệnh ngừng bắn. Cả 4 hướng bộ đội ta nhất loạt xông lên. Từ các lô cốt và công sự bằng đất trong căn cứ, hỏa lực địch thi nhau vãi đạn ra cả 4 hướng. Lúc này là thời cơ của những hỏa lực bắn thẳng DKZ75, DKZ57, B41, B40 của bộ đội ta phát huy hiệu lực. Phát hiện được “ánh lửa chớp nhá” ở bất cứ vị trí nào của địch là hỏa lực bắn thẳng của ta khai hỏa. Sau những tiếng nổ inh tai những ánh lửa, hỏa điểm địch dần dần tắt rụi.
4h30 từ ngoài trận địa báo về trung đoàn 207 đã bắt tay được với sư 5 - Quân chủ lực của ta, làm chủ hoàn toàn trận địa. Bọn địch lớp chết, lớp bị thương, lớp đầu hàng. Số còn lại mở đường máu tháo chạy về bên kia biên giới.
5h sáng, chúng tôi được lệnh cho bộ phận hữu tuyến thu quấn đường dây rồi cùng các máy phát sóng hành quân quay lại.
Sở chỉ huy tiền phương trung đoàn lại “nhổ neo” trở về hậu cứ.
Trận tập kích đêm 21/8/1973 trung đoàn 207 phối hợp với 1 trung đoàn của sư 5 đã tiêu diệt và làm tan rã 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn, bắt nhiều tù binh, thu nhiều vũ khí quân trang quân dụng.
Trong số chiến lợi phẩm thu được, thật bất ngờ chúng tôi bắt gặp một chiếc xẻng (do Mỹ sản xuất), trên cán có khắc tên: Nguyễn Văn Thảo - tiểu đoàn 1 - e 207. Đ/c Thảo đã hi sinh trong trận đánh bi tráng 31/10/1972 tại cù lao Long Khánh, Long Thuận và chiếc xẻng này rơi vào tay địch. Qua gần 1 năm theo một tên lính nào đó thuộc sư đoàn 9 quân ngụy Sài Gòn bây giờ lại quay về với cán bộ chiến sĩ Trung đoàn 207. Có lẽ linh hồn Anh linh thiêng đã bắt tên lính đó phải mang theo cây xẻng để trả về cho đồng đội của Anh!
“Mối thù trước đây coi như ta đã rửa xong…”
“Chúng muốn đốt ta thành tro bụi
Ta hoá vàng nhân phẩm, lương tâm
Chúng muốn ta bán mình ô nhục
Ta làm sen thơm ngát giữa đầm.” (Tố Hữu – Việt Nam Máu và Hoa)
Sau trận đánh ở Tà Nu bọn sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn đã co về bên kia biên giới. Trung đoàn bộ 207 vẫn đứng chân tại địa bàn cũ để kịp thời chỉ huy các đơn vị tiếp tục đánh địch ở tất cả các hướng, làm tiêu hao sinh lực địch nhằm giữ vững vùng giải phóng của ta và bạn dọc biên giới Việt Nam – Cam Pu Chia.
Thời gian này vùng giải phóng trên đất bạn lương thực và thực phẩm rất dồi dào. Nhân dân CămpuChia (CPC) vừa sản xuất trồng lúa, vừa chăn nuôi heo, bò, gà, vịt… Nhưng ngược lại những mặt hàng tiêu dùng lại khan hiếm (nhất là vải vóc). Do vậy các đơn vị bộ đội của ta thường cử người xuống tận sông Sở Thượng mua hàng (phần nhiều là vải nilon dầu) đem về đổi cho nhân dân CPC để lấy lương thực và thực phẩm.
Bọn phản động CPC mà sau này chính là tụi Pôn pốt đã len lỏi vào hàng ngũ chính quyền của bạn và quân đội giải phóng CPC nên thường gây những khó khăn cho ta. Họ tổ chức các trạm chốt canh gác ở khắp mọi nơi, các phum sóc và tuyến lộ giao thông. Gặp bộ đội ta đi lẻ là “làm khó” có khi còn bất ngờ nổ súng gây thương vong cho bộ đội ta.
Về phía ta, bộ đội được học tập, quán triệt tinh thần “kiên trì, nhẫn nại” không được nổ súng “trả thù”. Thường khi có sự việc xảy ra “nghiêm trọng” ta chỉ cử đoàn cán bộ đến gặp họ để khuyên giải, thuyết phục, mặt khác, tiếp tục cho bộ đội ta học tập nâng cao ý thức cảnh giác, cố gắng không để cho những hành động “đáng tiếc” của họ gây ra ngày thêm phức tạp.
Ngày 26/08/1973, tôi và anh Năm Thắng Đại đội trưởng cùng các đ/c trong ban chỉ huy đại đội (C bộ) thông tin quây quần tại nhà ban chỉ huy. Anh Năm Thắng đang cặm cụi nối dây điện vào lố pin (loại pin của Mỹ dùng cho máy PRC25 đã cũ) để tối nay câu bóng đèn cho thêm sáng sủa. Thì bất ngờ nghe tiếng súng nổ bên kia cánh đồng. tại một phum (ấp)không có bộ đội ta đóng quân cách khoảng 2km.
Độ 20 phút sau thì có một đ/c chiến sĩ (tôi không nhớ tên, thuộc đại đội 17 DKZ) mặt mày tái mét, thở không ra hơi từ hướng súng nổ chạy tới. Qua trình bày của đ/c chiến sĩ chúng tôi hiểu rằng: ban chỉ huy đại đội 17 cử 3đ/c xuống sông Sở Thượng để mua hàng về cho đơn vị. Khi đi ngang qua phum có lính canh của CPC, họ đã bất ngờ nổ súng. 2 đ/c hi sinh, (trong đó có đ/c tên Hòa) còn một đ/c chạy thoát về đơn vị chúng tôi “cầu cứu”.
Tất cả chúng tôi đều vô cùng tức giận và đau xót khi nghĩ về đồng đội vừa hi sinh. Anh Năm Thắng mặt “hầm hầm” lệnh ngay cho 2 liên lạc xuống các trung đội điều hết bộ đội có súng đạn về ban chỉ huy (vì là đại đội thông tin kỹ thuật nên “vét sạch” cũng chỉ có không tới 40 tay súng, toàn AK). Anh Năm Thắng định dẫn cánh lính ta, băng đồng đến “trả thù” cho đồng đội. Tôi vội vàng ngăn lại và trao đổi với anh: “Cần điện về xin ý kiến ban chỉ huy Trung đoàn”.
Ở đầu máy hữu tuyến bên kia, đ/c Trung đoàn trưởng trả lời: “Việc này không phải nhiệm vụ của đơn vị đồng chí… hãy bình tĩnh hoàn thành tốt nhiệm vụ chính của đơn vị mình, giữ vững thông tin liên lạc”.
Ban chỉ huy Trung đoàn đã điều đại đội trinh sát, kết hợp cùng lực lượng vệ binh do đồng chí tham mưu phó Trung đoàn chỉ huy đến nơi có tiếng súng nổ. Bọn lính gác phum khoảng hơn chục tên (tiền thân của bọn pôn pốt) thấy bộ đội ta xuất hiện liền bỏ chạy. 2 thi thể của bộ đội ta được đưa về đơn vị mai táng. Xót thương đồng đội hi sinh dưới họng súng của những kẻ phản trắc, nhưng những người lính gan dạ trên chiến trường diệt giặc lại không thể làm gì, đành ngậm ngùi vĩnh biệt…
Những ngày tháng ấy trên đất bạn CPC, chúng tôi đã phải chịu đựng những nỗi đau xé lòng âm thầm như vậy đấy!
Cuối tháng 9 năm 1973, cả trung đoàn chuẩn bị bước vào chiến dịch mới.
Ngày 28/9/1973, tôi và anh Năm Thắng được mời về ban chỉ huy trung đoàn dự hội nghị quân chính. Đ/c Lê Chư (chính ủy) phổ biến nghị quyết Đảng ủy quân khu sau đó đ/c Bảy Thàng (Trung đoàn trưởng) triển khai và giao nhiệm vụ cho từng đơn vị:
“Toàn bộ Trung đoàn được lệnh hành quân xuống vùng 6 Kiến Tường”, xuyên qua Đồng Tháp Mười luồn sâu xuống Định Tường, Gò Công (Để làm nhiệm vụ mở mảng, mở vùng, củng cố địa bàn đứng chân, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực của ta làm bàn đạp thực hiện những chiến dịch lớn, chuẩn bị lực lượng cho chiến dịch Hồ Chí Minh tiến tới giải phóng hoàn toàn Miền Nam thống nhất đất nước).
Vậy là nhiệm vụ lần này của trung đoàn 207 có ý nghĩa hết sức quan trọng trong chiến lược quân sự của ta. Tất cả cán bộ chiến sĩ của Trung đoàn đều cảm nhận rõ không khí khẩn trương sôi sục khí thế giải phóng đang lan rộng trên toàn thể chiến trường. Chúng tôi hào hứng chuẩn bị cho cuộc hành quân trở về Đất Mẹ, lòng thầm mơ về ngày toàn thắng…và Quê nhà dường như đang gần lại…
Ngày 29/9 tại cuộc họp chi bộ và hội đồng quân nhân, đại đội 20 thông tin được chia làm 2 bộ phận:
Bộ phận 1 do anh Năm Thắng và đ/c Cát chỉ huy có 1 đài 7w, ½ quân số máy 2 oát, hữu tuyến, truyền đạt.
Bộ phận 2 do tôi và đ/c Nói phụ trách, có đài 15 w, và quân số còn lại
18h ngày 30/9/1973, bộ phận 1 do anh Năm Thắng chỉ huy theo sở chỉ huy trung đoàn do anh Lê Chư chính ủy, anh Bảy Thàng trung đoàn trưởng cùng ½ quân số của 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đại đội trực thuộc, C21, C19, C16, C17, C18, C25 cùng 2 tiểu đoàn bộ binh được lệnh hành quân. Bộ phận còn lại do anh Tư Dẫu phó chính ủy và anh Tư Công(lúc này anh Tư Công mới được điếu về làm trung đoàn phó) chỉ huy dự kiến hành quân tiếp theo sau đó 3 ngày (trong đó có bộ phận thông tin do tôi chỉ huy).
Khi chia tay với tôi anh Năm Thắng còn cố căn dặn: nhớ cho đài 15w trực 24/24 để liên lạc với máy 7w của anh.
Máy 7w (Ấp Bắc) là loại máy vô tuyến điện báo có tầm liên lạc cự ly hàng ngàn km nhưng nguồn điện sài toàn bằng pin. Một lần nạp phải 3 lố pin đấu nối trực tiếp nếu mở máy 24/24 thì chỉ một ngày 1 đêm coi như nguồn điện đã sạch. Do vậy mỗi lần đi chiến dịch phải có 4-5 đ/c cõng pin cho “nó”.
4h sáng ngày 1/10/1973, các báo vụ của đài 7w đánh tín hiệu báo về đã cách chúng tôi khoảng 30km. Chúng tôi hiểu rằng “cánh quân” của anh Lê Chư và anh bảy Thàng đang dừng chân tại một vị trí nào đó để chuẩn bị đêm sau tiếp tục hành quân. Cả ngày hôm đó yên ả trôi qua.
18h ngày 1/10, đài 15w lại nhận được tín hiệu của đài 7w: Bộ đội tiếp tục hành quân (nguyên tắc của thông tin vô tuyến điện báo, các bức điện đều phải qua cơ yếu giải mã). Báo vụ chỉ có thể thông tin thông thường qua một số ký hiệu giản đơn.
5h sáng ngày 2/10/1973, đài 15 w tiếp tục nhận được tín hiệu của đài 7 w. Chúng tôi được biết “cánh quân” thứ nhất đã cách vị trí xuất phát khoảng 60km, (gần vị trí Ba Thu).
19h ngày 2/10/1973, đài 7w lại phát tín hiệu tiếp tục hành quân và chúng tôi hiểu rằng đoàn quân thứ nhất đã chuẩn bị vượt biên giới hành tiến xuống chiến trường miền Nam Việt Nam.
Tại nhà ban chỉ huy đại đội Thông tin (C20) ở hậu cứ, tôi và đ/c Nói cùng với quân số ở lại, trong lòng đều cảm thấy rạo rực, nôn nao, vì trung đoàn 207 sắp trở về Đất Mẹ và chúng tôi cũng sắp sửa được tiếp bước. Khó ai có thể diễn tả đầy đủ và hết nhẽ những cảm xúc trong chúng tôi ngày ấy, khi chiến đấu triền miên trên đất bạn CPC, chỉ một tiếng Việt nhẹ nhàng thân thương, bất kể ở địa phương nào, cũng đủ gợi nhớ quê hương khôn xiết, huống chi lần này được lệnh “về hẳn”…
Đ/c Nói cho liên lạc thông báo xuống các bộ phận còn lại chuẩn bị sẵn sàng hành quân tiếp theo bộ phận phía trước. Nếu đúng như hợp đồng thì chỉ đêm sau là chúng tôi lại được tiếp tục cùng theo chân bộ phận phía trước đi làm nhiệm vụ. Được về chiến trường chính, “quê mẹ”, ai cũng bừng bừng khí thế phấn khởi… Đêm hôm đó, 2/10/1973, tôi và đ/c Nói thức sáng đêm bên anh em đài 15w. Các đ/c báo vụ cứ 2 giờ lại phải thay ca vào vị trí mang cáp tai và bàn tay không rời manip. Những tín hiệu: “tích tích tè tè” được liên tục nhận đến rồi lại chuyển đi. Để đủ nguồn điện cho máy 15w hoạt động thì một đ/c có sức khỏe phải ngồi quay cái máy Garuno nặng mấy chục kg liên tục không được ngưng tay. Do vậy dù có sức khỏe đến đâu cũng chỉ chịu đựng khoảng 1h là phải nhường lại cho người khác. Vậy nên biên chế cho đài 15w cả chục người mà chẳng “thấm tháp” gì. Công việc là vậy mà nhiều người có chịu hiểu cho đâu. Anh em chúng tôi nhiều lúc chỉ còn biết than thở với nhau. Thật đúng là “thối tai, chai đít, công ít, tội nhiều”, nhiệm vụ cứ âm thầm lặng lẽ, chiến công chẳng ai biết tới, nhưng khi có sơ suất thì “tội” nó “phơi bày” ra ngay.
Cùng một lúc phải liên lạc vượt cấp với quân khu, bộ chỉ huy chiến dịch, và bây giờ với sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn, nên anh em chúng tôi mệt rã rời, nhưng không ai bảo ai, tất cả đều ngong ngóng về phía đội hình hành quân thứ nhất của Trung đoàn.
Bỗng nhiên đài 7w của anh Năm Thắng mất liên lạc. Suốt đêm hôm đó và cả ngày hôm sau 3/10/1973, đài 7w không có tín hiệu và mất liên lạc hoàn toàn. Ruột gan tôi rối bời và linh cảm chiến trường cho tôi biết đồng đội đang gặp hiểm nguy. Tôi lặng lẽ nhìn sang bên cạnh, anh Tư Dẫu và anh Tư Công cũng không kém gì tôi, trên gương mặt các anh hằn rõ sự căng thẳng và một nỗi lo lắng của những người chỉ huy cho đồng đội đang ở phía trước…Anh em chúng tôi chỉ lặng lẽ nhìn nhau, trong lòng cồn cào như xát muối.
Tiếp ngày 4/10 rồi ngày 5/10/1973 đài 7w vẫn cứ “lặng thinh”. Máy PRC10 đem theo dự phòng cũng không phát sóng (bộ phận 2 chúng tôi vẫn chưa có lệnh hành quân).
6h sáng ngày 7/10/1973, thật bất ngờ và tôi thật sự không thể tin vào mắt mình: Anh Năm Thắng và đ/c Cát cùng đoàn quân đi trước lại quay trở về tới đơn vị. Nhìn anh em quần áo tả tơi, mặt mày hốc hác tôi hình dung ra được những gì đã xảy ra…
Phải 2 ngày sau, 9/10/1973, chờ cho anh Năm Thắng đã lấy lại sức và khỏe hẳn, chúng tôi mới được anh Năm kể lại câu chuyện xảy ra mấy ngày trước. Bởi nơi xảy ra chiến sự là vùng đất Kiến Tường cũ và là Long An ngày nay, nơi chôn nhau, cắt rốn của anh năm Thắng nên những chi tiết, sự kiện và diễn biến trận đánh anh nhớ chính xác hầu như là tuyệt đối. Qua câu chuyện của anh Năm Thắng, từng thời khắc lần lượt hiện ra:
Đúng 7 giờ tối ngày 2/10/1973, toàn bộ cánh quân thứ nhất của Trung đoàn được lệnh hành quân. Xuất phát từ khu Mỏ Vẹt biên giới Việt nam - Campuchia. Các trinh sát của quân khu đã rải quân bám địch từ trước và chốt ở các vị trí cần thiết để phối hợp với trinh sát Tỉnh Kiến Tường làm nhiệm vụ dẫn đường. Đi đầu là tiểu đoàn 1, rồi tới các đơn vị còn lại, sở chỉ huy Trung đoàn hành quân sau cùng. Đội hình thành một hàng dọc và khoảng 8h tối thì tới biên giới. Con kênh biên giới ngăn cách 2 vùng đất tuy nhỏ nhưng rất sâu vì lúc này đang là cao điểm mùa nước. Bộ đội ta được gần chục chiếc xuồng, mỗi xuồng có sức chở khoảng 10 người do lực lượng giao liên giúp đỡ vượt kênh. Sau đó tất cả hành quân bộ vượt cánh đồng nhắm thẳng hướng vùng 6 Kiến Tường. Bộ đôi ta được trang bị 1 cơ số đạn và một ruột tượng gạo để đủ ăn trong 7 ngày.
Như một con trăn khổng lồ, lặng lẽ trườn trên cánh đồng nước ngập mênh mông. Thường thường thì nước chỉ ngập ngang đầu gối. Gặp phải đoạn trũng thì ngập tới bụng. Cánh đồng lúc này toàn là lúa “trời” (loại lúa mọc tự nhiên) nên đã ngoi khỏi mặt nước khoảng 20 – 30 phân (loại lúa này nước tới đâu thì nó ngoi theo tới đó).
Tiểu đoàn 1 đi đầu chủ yếu là lính tân binh của trường đại học xây dựng Hà Nội mới bổ sung. Bộ đội chưa quen hành quân vùng đồng nước nên tỏ ra uể oải và mau thấm mệt. Càng về khuya bộ đội ta thêm đuối sức, tốc độ hành quân càng chậm. Cứ khoảng 1h lại phải dừng tạm nghỉ vì đôi chân của các chiến sĩ ta đã mỏi tê (muốn rã rời). Nghỉ có nghĩa là tạm dừng cho chân đỡ mỏi. Hai chân vẫn đứng dưới nước có khi ngập sâu trong bùn đất. Ba lô, súng đạn, gạo vẫn đè nặng trên vai. Nhiều đ/c chiến sĩ ta không chịu đựng nổi nên trở báng súng chống xuống đất lấy mũi súng kê tạm ba lô để cho đôi vai khỏi bị tê buốt.
Tội nghiệp nhất là những bộ phận hỏa lực, phải cõng những quả đạn, những nòng pháo, những thân súng nặng nề nhưng đâu có dám quẳng xuống nước và đất bùn. Cánh anh Năm Thắng cũng chẳng thua kém gì. Cứ 2 người một máy vô tuyến nặng mấy chục kg kèm theo một khẩu súng. Nặng nề nhất vẫn là bộ phận 7w. Với lượng pin đem theo để có đủ nguồn điện phục vụ chiến dịch, nếu lỡ để ướt thì kể như đi “toi”, mạch máu của trung đoàn coi như bị đứt.
Sau 8 – 9h đồng hồ hành quân liên tục, bộ đội ta hầu như kiệt sức, nhiều đ/c đã đổ bớt gạo nhưng súng đạn vẫn phải bảo quản tuyệt đối (thà nhịn đói chứ không thể để mất phương tiện chiến đấu).
Nơi đây thực sự là một địa hình bất lợi cho ta, bởi vì cánh đồng rộng mênh mông và hết sức trống trải. Cánh đồng này được mệnh danh là cánh đồng “chó ngáp” bởi nó rất rộng, bà con địa phương ví nó rộng đến nỗi chó chạy mệt nhoài nên phải “ngáp ngáp”. Bộ đội hành quân cực kỳ vất vả, đi liên tục không được nghỉ để kịp vượt cánh đồng trước khi trời sáng. Cả cánh đồng ngập toàn nước lâu lâu gặp được một ụ mối hay gò đất bằng cái chiếu trồi lên khỏi mặt nước nhưng chẳng ai dám “bén mảng” tới (kiến lửa, kiến mối, có khi có cả rắn, rết vì xung quanh nước đã ngập hết nên chỗ này là nhà trú ẩn của chúng). Nhiều đ/c mệt quá, liều mạng “sà” vào đã bị kiến đeo cắn sưng hết mình mẩy.
4h sáng ngày 3/10/1973 đội hình hành quân đã tấp vào được một số đám Tràm (không thể gọi là rừng vì chúng không liên hoàn, mỗi đám Tràm cũng chỉ rộng từ 4 -5 hecta có khi cách nhau hàng mấy chục mét).
Đội hình đóng quân của Trung đoàn thành 3 cụm liên hoàn:
Trung đoàn bộ (sở chỉ huy tiền phương) và ba cơ quan(tham mưu, chính trị, hậu cần (cũng rất gọn nhẹ) cùng các đơn vị trực thuộc C16, C17, C18, C21, C25):Thành 1 cụm.
Tiểu đoàn 1 cách sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn khoảng hơn 1 km về hướng đông.
Tiểu đoàn 3 nằm sát nách sở chỉ huy tiền phương về hướng tây.
Khu vực này lúc đó có tên gọi là ấp Đá Biên, xã Thạnh Phước huyện Mộc Hóa, tỉnh Kiến Tường (và bây giờ là ấp Đá Biên xã Thạnh Phước huyện Thạnh Hóa tỉnh Long An). Đây là một địa danh nằm trong vùng Đồng Tháp Mười có đường chim bay về phía biên giới CPC khoảng hơn chục km và cách thị xã Mộc Hóa (căn cứ Tiền phương của sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn) khoảng 20 km. Cách sông Vàm Cỏ Tây khoảng 7km. Một vùng đất lúc đó thật hoang vu lâu lâu mới bắt gặp một vài nhà dân, làm lán trại rất tạm bợ để trông coi những đám tràm và sống bằng nghề giăng câu, đặt lợp, đến mùa thì đi mót lúa trời (một loại lúa mùa tự mọc từ những gốc rạ của các vụ năm trước).
Bởi quá mệt mỏi, gần như đã kiệt sức qua một đêm hành quân, lội nước: “Bụng đói, gối mỏi, chân chồn…”, nên khi được lệnh dừng chân bộ đội ta tưởng chừng như vớ được “vị cứu tinh” vội vàng sà ngay vào những đám tràm, vắt ba lô, súng đạn lên cành cây, giăng võng để ngã lưng.
Dưới lưng võng của bộ đội ta chỉ cách vài tấc toàn nước là nước nên các chiến sĩ nuôi quân “khỏe re” vì chẳng thể nào nấu nướng gì được, và bộ đội ta phải nhai lương khô, gạo rang, hoặc ăn gạo sấy (một loại gạo trong bịch nilon nếu đổ nước sôi vào thì 5 phút thành cơm nóng, còn nước lạnh thì phải 30 phút thành cơm nguội ăn lạt thếch). Mà ở giữa vùng sóng nước như thế này thì cũng chả đào đâu ra được nước sôi.
Dù vậy, các chiến sĩ ta cũng chẳng thèm quan tâm đến “cái bụng” lúc này đã trống rỗng vì đã qua hơn chục tiếng đồng hồ chưa có cái gì bổ sung cho nó. Vừa đặt lưng lên võng là các chiến sĩ ta đã “thiếp” đi ngay. Cả một khu rừng Tràm non mênh mông yên ả đến lạ kỳ.
Những chiếc võng được giăng ngay trên hai thân Tràm yếu ớt nhè nhẹ đung đưa. Những khuôn mặt còn búng ra sữa nhưng đã hốc hác, nhợt nhạt chìm vào trong giấc ngủ ngon lành, gợi nhớ lại lúc còn nhỏ cũng được nằm trên những chiếc võng đan bằng sợi gai, lỗ to bằng bàn tay, được mẹ ru qua những trưa hè. Đây chính là những sinh viên của trường Đại học Xây dựng Hà Nội còn đang ngồi trên ghế nhà trường, xếp bút nghiên theo tiếng gọi non sông vượt Trường Sơn vào chiến trường Miền Nam chiến đấu để giải phóng đồng bào.
Trong buổi sáng sớm yên ả dưới những vạt Tràm thưa thớt ấy, chẳng ai có thể ngờ được lại là buổi sáng cuối cùng của những chàng trai trẻ của trung đoàn. Chẳng ai có thể ngờ được rằng đội hình hành quân đã bị lộ.
Đúng 8h sáng ngày 3/10/1973, chiếc OV10 từ hướng Kiến Tường đến quần đảo nhiều vòng trên không rồi tiếp đến chiếc L19. Cả một vệt cỏ + lúa bề ngang rộng vài mét bị giẫm nát thành một vệt từ biên giới băng qua cánh đồng xuyên vào những “đám tràm” thì làm sao che nổi con mắt của máy bay trinh sát của địch có phương tiện “trông nhìn” tối tân vào bậc nhất thế giới.
Vậy là 9h 30 phút hơn chục máy bay trực thăng vũ trang HU1A (loại cá lẹp) lồng lộn lao tới cứ nhè những “đám tràm” phóng rocket, đại liên và lựu đạn. Những cột nước trắng xóa bung lên, những thân tràm bị mảnh rocket gọt cắt nằm đổ ngổn ngang, nhiều chiên sỹ cũng bị trúng đạn địch “ ngã xuống như những thân Tràm”. Cả một vùng hàng trăm hecta Tràm non ầm ầm đạn địch. Bộ đội ta được lệnh thu cuốn võng và sẵn sàng chiến đấu nhưng nhiều đồng chí đã hi sinh nằm im lìm trong chiếc võng.
9h 45’ sở chỉ huy trung đoàn gửi điện “khẩn cấp” xuống các đơn vị: “tuyệt đối giữ bí mật, chưa được nổ súng. Có khả năng địch chỉ mới bắn phá để thăm dò lực lượng ta”.
10h, điện “khẩn cấp” từ tiểu đoàn 1 báo về:
“Địch đã gia tăng cường độ bắn phá. Bộ đội ta đã có nhiều thương vong và chắc chắn ta đã bị lộ”.
10h15’ lệnh từ sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn hạ lệnh cho tiểu đoàn 1 nổ súng chống trả và cuộc chiến đấu vô cùng ác liệt bắt đầu.
Cả 3 đại đội bộ binh 1, 2, 3 đã tỏa ra dàn thành thế trận dùng súng bộ binh bắn trả lũ máy bay địch. Bọn trực thăng bay rất thấp với những cánh quạt khổng lồ làm rạp những thân tràm yếu ớt tạo ra những khe hở trống hoác, những tên giặc thò đầu ra khỏi máy bay có thể nhìn rất rõ bộ đội ta đang ẩn náu dưới những gốc tràm và đạn đại liên, lựu đạn từ máy bay trực thăng cứ thế phóng xuống: rất chính xác…
Ngược lại các chiến sĩ ta cũng nhìn rất rõ những chiếc trực thăng đen “thùi lũi” và những khuôn mặt của những tên lính trên máy bay nhô đầu qua cửa đằng đằng sát khí. Không có công sự, bộ đội ta phải ngâm mình dưới nước và dùng những thân cây tràm, ba lô làm bệ tỳ phóng đạn lên trời, nhiều tên lính nhào đầu từ máy bay rớt xuống giống như “sung rụng”, lũ trực thăng hoảng hồn vội nhấc mình nâng độ cao và điên cuồng phóng đạn tứ tung.
12h bọn địch đã huy động thêm nhiều trực thăng vũ trang thay nhau bắn phá trận địa tiểu đoàn 1. Lúc này, chi đoàn xe bọc thép M113 lội nước cũng đã xuất hiện trên lộ kiến bình để đón lõng lực lượng vượt lộ của ta. Hỏa lực chống tăng vác vai B40 + B41 của ta được lệnh sẵn sàng “nghênh chiến”.
Đúng 3h chiều ngày 3/10/1973, bọn lính sư đoàn 9, được mấy chục chiếc trực thăng chuyên chở bất ngờ đổ quân cách trận địa tiểu đoàn 1 về hướng đông chỉ khoảng 800m. Chúng chia quân thành nhiều mũi, đột kích vào hướng tiểu đoàn 1.
Trên trời là máy bay trực thăng liên tục bắn phá, dưới đồng nước ngập mênh mông là lũ bộ binh “bám đít” xe bọc thép triển khai hàng ngang trên lộ kiến bình – mộc hóa. Địch có ưu thế hơn hẳn ta về quân số và hỏa lực, rocket, lựu đạn của máy bay trực thăng vũ trang và những khẩu trọng liên 12 ly 7, đại liên M60, M79 trên những “con cua” sắt liên hoàn thay nhau xối vào nơi phòng ngự của ta. Trận địa tiểu đoàn 1 trải rộng gần 1km mịt mù lửa đạn.
3h30’, bọn địch đã vào sát trận địa tiểu đoàn 1 chỉ còn cách độ 300m. Hỏa lực B41 của ta được lệnh khai hỏa.
Vì phải đứng chân dưới nước “tác xạ” nên rất khó khăn và nguy hiểm cho các xạ thủ B41. Nhưng những quả đạn “chống tăng” vẫn xé không khí từ những “đám Tràm” lao ra nổ tung ngay giữa đội hình bộ binh địch, nhiều tốp lính bộ binh địch gục ngã… Và ngay sau đó hỏa lực 12 ly 7, đại liên M60, M79, đạn rocket từ bọn trực thăng lại ầm ầm bắn phá trận địa tiểu đoàn 1. Rất nhiều chiến sĩ ta trúng đạn hi sinh.
4h30, một công điện “khẩn cấp” từ sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn xuống tiểu đoàn 1: “Bằng mọi giá phải giữ vững trận địa…”. Hỏa lực của trung đoàn không thể chi viện được: cối 82, DKZ75, 12 ly 8 của trung đoàn và tiểu đoàn 1 vẫn “không có đất làm ăn”(vì địa hình trên cánh đồng nước không thể đặt các loại hỏa lực) và nhiều nơi cũng đang bị máy bay địch bắn phá: sở chỉ huy tiền phương của Trung đoàn, trận địa tiểu đoàn 3 cũng bị máy bay địch “thăm hỏi”.
5h kém 15, một công điện từ ban chỉ huy tiểu đoàn 1 báo về, bộ đội ta vẫn giữ vững trận địa nhưng đã có rất nhiều thương vong. Lũ xe bọc thép M113 bị hỏa lực B41 và B40 của ta chống trả nên cũng không dám liều lĩnh xông vào mà chỉ ở tít ngoài xa vãi đạn. Bọn bộ binh địch cũng chẳng dám “xáp vô” vì chúng biết rất rõ những tay súng AK rất “điêu luyện” của các chiến sĩ E207.
Khoảng 5h lại 1 công điện từ tiểu đoàn 1 báo về: “Quân địch đã giảm cường độ bắn phá. Tuy nhiên bộ đội ta sức lực hầu như đã kiệt quệ…”
Các chiến sĩ phần lớn là những sinh viên khóa 18 của trường Đại học Xây dựng Hà Nội mới được bổ sung cho tiểu đoàn 1 cách đó mấy ngày, do không có kinh nghiệm chiến trường nên đã hi sinh gần hết, số còn sống sót thì thân hình “xơ xác” qua một đêm, một ngày bụng đói lại phải ngâm mình dưới nước. Nhiều đồng chí người run bần bật, da dẻ tím tái, mặt mũi nhợt nhạt nhưng đôi tay vẫn nắm chắc khẩu súng đang cùng đồng đội nhả đạn vào lũ quân thù khát máu.
5h30, trời đã xẩm tối. Thời gian đã dần dần có lợi cho ta và lũ xe bọc thép cùng bộ binh địch đã lui quân.
Tổng kết một ngày chiến đấu không cân sức và không khoan nhượng, trận địa tiểu đoàn 1 vẫn được giữ vững. Trận địa tiểu đoàn 3 và trung đoàn bộ bị máy bay oanh tạc, bộ đội đã có nhiều thương vong. Đổi lại ta bắn rơi 1 máy bay trực thăng (bọn địch đã phải điều máy bay trực thăng vận tải quân sự loại 2 chong chóng đến cẩu đi), tiêu diệt hàng trăm tên địch, bắn bị thương hàng trăm tên khác (chính mắt nhiều người dân nhìn thấy lũ trực thăng đáp xuống lấy xác đồng bọn, đến tận bây giờ họ vẫn thường kể lại)…
Ngay đêm đó sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho bộ đội ta phá vòng vây quân địch trở về hậu cứ.
Trận chiến “tao ngộ” bi hùng tại rạch Đá Biên ngày 3/10/1973 là một tổn thất rất lớn của Trung đoàn, (gần ngang với trận đánh tại cù lao Long Khánh, Long Thuận) và chỉ cách nhau đúng một năm (tháng 10/1972 – tháng 10/1973). Gần 300 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn đã mãi mãi nằm xuống nơi này. Các anh đều còn rất trẻ ở lứa tuổi 20.
Gần 300 con người của “một thế hệ tài hoa ra trận”. Một tài sản quý báu của dân tộc đã vĩnh viễn hiến dâng cho tổ quốc để cho đất nước được mãi mãi trường sinh và mọi người có được một cuộc sống thanh bình…
Ngay ngày hôm sau, đồng chí Lê Chư chính ủy đã mời đồng chí Phạm Hậu lúc đó là chính trị viên Đại đội Trinh sát (C21)giao nhiệm vụ: “Bằng mọi giá phải quay lại trận địa tìm kiếm và mai táng liệt sỹ” (đồng chí Hậu hiện nay đã nghỉ hưu với quân hàm đại tá và đang sinh sống tại Cần Thơ, ủy viên của Ban liên lạc Bạn chiến đấu và hội CCB trung đoàn 207).
38 năm, sau ngày các Anh hi sinh, trong ngày họp mặt Bạn chiến đấu và CCB E207 lần thứ 15 (30/4/2011) tại Trường đại học Kiến trúc tp Hồ Chí Minh, chúng tôi đã được chứng kiến và nghe đồng chí Phạm Hậu nghẹn ngào trong 2 hàng nước mắt kể lại câu chuyện bi thương của những ngày các anh quay về tìm đồng đội:
“Sau khi nhận được chỉ thị của đ/c chính ủy, đại đội trinh sát cử 5 đồng chí kết hợp với 2 đồng chí của Tỉnh kiến Tường (trong đó có anh Hai Bê) thuộc đơn vị 917(đặc công tỉnh) Hiện nay anh Hai Bê đang sinh sống tại xã Thạnh Hưng huyện Mộc Hóa và 2 đồng chí của huyện, tất cả là 9 người do đ/c Hậu chỉ huy, đi trên 4 chiếc xuồng ba lá (cứ 2 người một xuồng) và được hậu cần trung đoàn cung cấp mấy chục chiếc mùng, dầu nước xanh, xà bông Cu Ba để làm nhiệm vụ “đặc biệt” mà chính ủy giao. Do địch gài quân lại phục kích vì chúng biết thế nào ta cũng đến làm công tác tử sỹ, nên phải 10 ngày sau, khi địch rút hết, bộ phận đi làm tử sỹ mới tiếp cận được khu vực anh em hi sinh.
Lúc này Đồng Tháp Mười đã vào đỉnh lũ, nước ngập mênh mông. Khi bộ phận trinh sát tiếp cận được thì thân xác anh em đang trong thời kỳ phân hủy, mùi hôi thối không thể tưởng tượng nổi loang khắp một vùng … Anh em trinh sát rải ra và cứ 2 người 1 tổ dùng mùng tuyn (mùng lưới) vớt anh em lên rồi gói lại buộc vào gốc cây, đánh dấu trên sơ đồ giao lại cho địa phương đợi mùa khô năm sau khi nước rút sẽ đến chôn cất.. Đặc biệt trong bụng của các liệt sỹ có rất nhiều cá đủ các loại, đang thi nhau ăn rỉa những phần nội tạng tan rữa. Mỗi thi thể khi vớt lên có khoảng 7-8kg cá các loại, đặc biệt là cá Chốt (một loại cá nhỏ bằng ngón tay) ở vùng này nhiều vô số kể.
Vì không được trang bị phương tiện chuyên môn để làm công tác tử sỹ nên các chiến sĩ trinh sát luôn bị, ói mửa, nhức đầu và xây xẩm mặt mày, có lúc tưởng chừng như không thể nào chịu nổi do những mùi phân hủy của thân xác liệt sỹ đã trải qua 10 ngày dầm mưa, dãi nắng trên đồng nước làm cho choáng váng… Cũng bởi số lượng anh em hi sinh quá nhiều và trên cùng một khu vực hẹp… Nhưng nghĩ đến sự hi sinh đau đớn của đồng đội các chiến sĩ trinh sát của ta đã quên hết gian khổ và chỉ sau 2 đêm đã tìm được khoảng 60 thi thể đồng đội. (Anh Hai Bê thì nhớ khoảng 80 thi thể), số còn lại do bị rocket bắn cự ly gần nên xương thịt tan tành hoặc nằm ẩn mình trong các bụi cây, lùm cỏ chìm ngập trong nước nổi mênh mông mùa lũ, lại thêm việc tìm kiếm anh em toàn là trong đêm tối mù mịt để tránh sự rình mò săn đuổi của kẻ thù, nên tổ công tác không thể nào tìm hết được thi thể liệt sỹ…
Do điều kiện chiến trường, không thể kéo dài thời gian tìm kiếm lâu hơn nữa, tổ công tác của anh Phạm Hậu đành ngậm ngùi vĩnh biệt đồng đội trong bóng đêm thăm thẳm của đồng không, mông quạnh mùa nước nổi Đồng Tháp Mười để trở về hậu cứ chuẩn bị cho những trận đánh mới…”
Viết tới đây hai hàng nước mắt tôi lại tuôn trào và thầm cảm phục những cán bộ chiến sĩ của đại đội trinh sát giữa chiến trường khốc liệt với “tình nghĩa đồng đội cao cả” đã giúp các anh vượt qua khó khăn để hoàn thành những công việc mà tưởng chừng ít ai làm được… Rồi tôi lại suy nghĩ và hình dung tới hàng trăm, hàng ngàn, hàng triệu những người cha, người mẹ, người anh, người chị, người cháu của trung đoàn 207, của tất cả những trung đoàn từng ra trận năm xưa, suốt 39 năm qua vẫn khắc khoải ngóng tin người thân…mà vẫn không thấy bóng hình đâu cả …cho đến tận bây giờ vẫn chỉ là ước vọng:
Như lời thơ khấn nguyện tha thiết của người anh Liệt Sỹ:
“…Em khôn thiêng run rủi cho anh biết. Để gia đình ta được đón em về…” (Nguyễn Văn Chỉnh, anh ruột Liệt Sỹ Tế). Hay giọng nói nghẹn ngào đau thấu tận tim gan của Nguyễn Phương Thảo (em gái Liệt Sỹ Nguyễn Mạnh Sơn) tại rạch Đá Biên ngày 27/7/2012 vừa qua.
Cũng như những nỗi đau vô bờ bến của tất cả mọi người dân nước Việt khi nghĩ về sự hi sinh của các Anh… “Chẳng có đất nào ngấm được nỗi đau” …(HL).
“Gần ba trăm chiến sĩ hiên ngang
Tên tuổi lừng danh tạc sử vàng
Anh dũng hi sinh vì đất nước
Kiên cường chiến đấu giữ giang san.
Bút nghiên gửi lại cùng quê Bắc
Nghĩa khí đem vào với đất Nam
Máu đổ xương rơi không hối tiếc
Ngàn đời bia đá tỏa ngàn hương.”
(Lê Thị Ngà)
Trong lúc đang tìm kiếm thân xác liệt sỹ, bộ phận trinh sát đã may mắn tìm được đ/c Oanh (đ/c Oanh là sinh viên năm thứ 3 trường đại học tổng hợp Hà Nội được lệnh nhập ngũ vào chiến trường). Đ/c Oanh bị thương rất nặng không thể đi lại được nên nằm ẩn mình trong gò chuối và xé đọt chuối để ăn, đang thoi thóp trong một gò đất có cỏ cây rậm rạp, thì 5 ngày sau may mắn có hai mẹ con một người dân phát hiện đem về giấu kín trong hầm, cho ăn uống, thuốc men chăm sóc và 10 ngày sau gặp được tổ công tác tử sỹ. Anh em lập tức đưa Oanh về trạm quân y cấp cứu. (đ/c Oanh hiện nay đang sinh sống tại tp Cần Thơ).
Trường hợp thứ hai sống sót kì diệu sau trận đánh Đá Biên, theo lời kể của Chị Phạm Thị Đấu, (lúc đó là thường vụ Tỉnh ủy Kiến Tường, phụ trách vùng 6, chị là một người phụ nữ nhỏ bé mà rất kiên trung gan dạ, là hình ảnh tiêu biểu cho phụ nữ Miền Nam “Anh hùng, Bất khuất, Trung hậu, Đảm đang” tham gia chiến đấu với câu nói bất hủ của chị Út Tịch “ Giặc đến nhà đàn bà cũng đánh”).
Sau khi địch rút, đêm đêm chị tổ chức lực lượng bơi xuồng vào trận địa tìm thương binh. Anh em vừa chống xuồng vừa kêu: “Anh em bộ đội giải phóng ơi, chúng tôi là người của phe mình đi tìm anh em đây, có ai còn sống thì lên tiếng cho chúng tôi thấy để đưa về! ”. Sau nhiều lần như vậy bỗng có một tiếng nói giọng miền Bắc phát ra từ một lùm cây: “Chúng mày là quân tàn ác, dã man. Tao thà chết chứ không đầu hàng đâu! ”. Đồng chí này tưởng địch dụ dỗ nên mặc dù đã rất yếu vẫn hiên ngang trả lời bằng khí phách của người chiến sĩ Quân Giải Phóng.
Anh em trong đoàn của chị Hai Đấu mừng rỡ vừa nói vừa lao xuồng đến chỗ vừa phát ra tiếng động: - “Đồng chí mình ơi, chúng tôi là người đằng mình thật mà, đừng bắn nhé, chúng tôi đến đây”. Nhanh như chớp chiếc xuồng trờ tới lùm cây, từ trong buị cỏ một chiến sĩ của ta bị thương gãy chân, trên mình chỉ có độc chiếc quần đùi đang lóp ngóp trong nuớc chỉ kịp thều thào nói không thành tiếng: “Tôi đói và lạnh quá”, rồi ngất đi. Đó là đồng chí Lập cơ công ở ban Thông tin Trung đoàn, sau đó Lập được anh em lấy quần áo ủ ấm đưa về trạm phẫu của Trung đoàn cứu sống, hiện nay anh đang nghỉ hưu ở Thanh Hóa
Chính nhờ những thông tin vô cùng quý giá về những ngày tìm kiếm ấy do đ/c Phạm Hậu cung cấp trong ngày họp mặt anh em CCB trung đoàn 207 tại trường đại học kiến trúc TPHCM 30/4/2011, mà thân nhân gia đình liệt sỹ Nguyễn Văn Tế là em Nguyễn Hoài Nam đã cùng đ/c Phan Xuân Thi trưởng Ban liên lạc Bạn chiến đấu E207 đi tìm lại được chiến trường oanh liệt năm xưa và “ngôi miếu Bắc bỏ” linh thiêng vào ngày 27/7/2011 (ngôi miếu thờ nhỏ bé đơn sơ nằm lọt thỏm giữa rừng Tràm do người dân Đá Biên dựng lên để thờ phụng những người chiến sĩ kiên cường của Trung đoàn 207 đã ngã xuống để giải phóng quê hương họ).
Ngôi Miếu từ đó đã mở ra 1 câu chuyện dài về tình đồng đội và tấm lòng của biết bao con người hướng về Liệt sỹ E207 với công trình “KHU TƯỞNG NIỆM CÁC LIỆT SỸ TRUNG ĐOÀN 207” đang gấp rút để khánh thành vào đúng ngày giỗ LS lần thứ 39 ngày 8/9 âm lịch năm 2012).
Cũng trong buổi họp mặt lần thứ 15 này chúng tôi được thấy nét mặt “đăm chiêu” ẩn chứa đầy cảm xúc đang hồi tưởng lại của người đồng đội đã “từ cái chết trở về” của trận đánh khốc liệt ngày ấy: anh chính là Phạm Thanh Nghị lúc đó là trợ lý cán bộ thuộc ban chính trị trung đoàn. Anh bị 1 mảnh rốc két của máy bay địch làm gãy xương cánh tay trái lúc bò trên đồng nước ra khỏi vòng vây quân địch. Ba lô, gạo phải bỏ lại, chỉ còn 1 khẩu súng ngắn với cánh tay “lủng lẳng” bùng nhùng trong ống tay áo quân phục, anh đã dùng bàn tay còn lại và dùng răng xé áo “quấn” cánh tay lại và bò suốt đêm vượt qua cánh đồng về được tới biên giới gặp đồng đội đưa vào trạm cấp cứu, may mắn “vượt qua được cái chết”. Sau khi chữa lành vết thương anh lại trở về cùng đơn vị tiếp tục chiến đấu trả thù cho đồng chí đồng bào, đến năm 1995 thì về hưu với quân hàm đại tá và đang sinh sống tại Cần Thơ.
Trong cuộc họp ấy, chúng tôi còn được gặp lại anh Vũ Nhụy, người bác sỹ đã từng cứu sống biết bao đồng đội và gắn liền với biết bao trận đánh trong những năm tháng đầy cam go, ác liệt, (bạn đọc đã từng biết đến trong bài viết “ Bạn đã ra đi nhẹ nhàng trong tay tôi” của CCB Phạm Văn Thông đã được đăng trên web e207). Năm nay anh Nhụy đã hơn 80 tuổi mà vẫn lặn lội từ tận Vũng Tàu về dự họp mặt và gặp gỡ đồng đội… Hồi tưởng lại trận đánh ở Rạch Đá Biên, đ/c Tiệp đã kể cho tôi nghe:
“Trận đánh 3/10/1973 lúc đó, đ/c Tiệp ở C3-D1 bị thương nặng vào bụng, đứt mấy khúc ruột, máu ra nhiều tưởng chắc chắn sẽ đi “chầu trời”. Vậy mà được anh Vũ Nhụy tận tình cứu chữa, trong hoàn cảnh trạm phẫu thuật vô cùng thiếu thốn. Thiếu dịch truyền, BS Nhụy đã phải dùng nước dừa tươi (thay dung dịch) để cấp cứu thương binh và đã cứu sống được rất nhiều đồng đội (trong đó có đ/c Tiệp)” Cảm phục hình ảnh người bác sĩ chiến trường tài hoa và nhân hậu, hết chiến tranh, đ/c Tiệp theo học ngành Y. Hiện nay đ/c Tiệp là Bác sỹ chuyên khoa 2, Giám đốc Bệnh viện quận Gò Vấp TPHCM.
Sau trận chiến ngày 3/10/1973, Trung đoàn 207 được trên giao nhiệm vụ củng cố lực lượng, sắp xếp bố trí lại đơn vị, thành lập thêm một tiểu đoàn do đồng chí Hoàng Tế làm chính trị viên và đồng chí Huy làm Tiểu đoàn trưởng để bổ sung khẩn cấp cho Trung đoàn 24 (một Trung đoàn chủ lực vẫn thường “chia lửa” cùng 207 trên chiến trường Nam Bộ)
Cả Trung đoàn lại trở về hậu cứ, nén đau thương tiếp tục chỉnh huấn, luyện quân, bổ sung thêm quân số bị hao hụt, trang bị thêm vũ khí và chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo.
“Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh”
Sau trận đánh “tao ngộ” tại Rạch Đá Biên thuộc xã Thạnh Phước huyện Thạnh Hóa tỉnh Kiến Tường (nay là tỉnh Long An), cấp trên cho phép toàn bộ trung đoàn dời về hậu cứ để củng cố, học tập, huấn luyện. Rất nhiều vũ khí mới hiện đại được tăng cường, quân số cũng nhanh chóng được bổ sung. Lúc này có một đoàn “chiến thắng”, gồm đa số anh em bị địch bắt giam giữ ở nhà tù Phú Quốc, Côn Sơn trong đó có một số cán bộ chiến sĩ của 207 được trao trả tù binh tại Lộc Ninh sau khi hiệp định Pari được ký kết.
Qua một thời gian được bồi dưỡng sức khỏe, học tập chỉnh huấn anh em đều tha thiết muốn được trở lại trực tiếp chiến đấu sau khi chứng kiến sự tàn ác chưa từng có trong các nhà tù Mỹ Ngụy. Hơn 300 cán bộ chiến sĩ được cấp trên bổ sung về cho trung đoàn 207. Trung đoàn đã điều chỉnh cho 3 tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc, và 3 cơ quan (trong số này tôi còn nhớ có đồng chí Phạm Hồng Quý quê ở Cà Mau bị địch bắt năm 1968 và giam tại nhà tù Phú Quốc. Đ/c Quý là sinh viên luật Sài Gòn từng tham gia phong trào học sinh sinh viên rất giỏi tiếng Anh. Về 207 đ/c Quý được biên chế về cơ quan tài vụ sau này cưới vợ tại Chợ Mới và hiện đang sinh sống tại xã Mỹ Luông, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang).
Thời gian này yêu cầu phải xây dựng song song cho các trung đoàn chủ lực. Quân khu đã điều một số lượng lớn. Gần 400 cán bộ chiến sĩ của trung đoàn 207 thành lập 1 tiểu đoàn mới do đ/c Tế làm chính trị viên tiểu đoàn, đ/c Tuấn làm tiểu đoàn trưởng, đ/c Huy làm tiểu đoàn phó và đ/c Gạo làm chính trị viên phó bổ sung qua tăng cường cho trung đoàn 24. Lúc đầu nghe tin tất cả cán bộ chiến sĩ trong trung đoàn đều buồn lắm, nhưng sau khi được quán triệt đả thông tư tưởng vì yêu cầu nhiệm vụ, cùng là một “cơ thể” cũng đều làm nhiệm vụ chiến đấu để giải phóng dân tộc, vì độc lập tự do cho Tổ quốc nên mọi người dần dần cũng yên lòng. Như vậy trung đoàn 24 (trung đoàn được phong tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang) lúc đó và mãi mãi sau này có 1 phần “máu thịt” của 207.
“MẠCH MÁU” của trung đoàn do bộ đội thông tin đảm trách luôn luôn giữ vai trò “cấp thiết” bởi nó là phương tiện chuyển tải những mệnh lệnh đúng đắn của ban chỉ huy trung đoàn đến từng đơn vị để quyết định thắng lợi cho từng trận đánh, từng chiến dịch vì vậy đại đội thông tin luôn được quan tâm một cách “ĐẶC BIỆT”
Mặc dù Đại đội 25 (đặc công) biên chế quân số chưa đủ nhưng trung đoàn vẫn quyết định điều 2đ/c từ đặc công bổ sung cho thông tin và từ đó (Quý+Đản) trở thành “con cưng” của đại đội 20 thông tin.
Lê Quang Quý (từ C25 về C20) là một trong những thông tin viên máy 2w thường được phân công đi những mũi chủ yếu, quan trọng nhất và luôn hoàn thành suất sắc nhiệm vụ được giao. Là 1 trong những người được kết nạp vào Đảng sớm nhất và trưởng thành nhanh nhất trong cùng “thế hệ”. Hiện nay đ/c Lê Quang Quý là giáo sư –tiến sỹ, hiệu phó kiêm bí thư Đảng ủy trường đại học kiến trúc thành phố HCM và phu nhân Nguyễn Thị Bích Đào tiến sỹ-bác sỹ chủ nhiệm khoa nội tiết kiêm chủ tịch công đoàn bệnh viện chợ Rẫy thành phố HCM (Trong đợt đoàn cán bộ bệnh viện chợ Rẫy về khám bệnh miễn phí cho nhân dân xã Thạnh Phước, Thạnh Hóa, Long An có Một phần công lao của tiến sỹ Bích Đào và tiến sỹ Chu Văn Nhuận người nhà của 207 đấy)
Riêng đ/c Trương công Đản, tham gia mặt trận 479, với quân hàm trung tá, chủ nhiệm chính trị trung đoàn, sau khi ra quân chuyển về công tác làm trưởng ban tuyên giáo thuộc huyện ủy KRONGBACH và hiện nay làm chủ tịch HCCB huyện này thuộc tỉnh ĐACLAC.
Sau một thời gian được nghỉ ngơi học tập, củng cố và huấn luyện, trung đoàn lại được lệnh chuyển quân xuống chiến trường.
Tiểu đoàn 1 đánh chiếm giải phóng hoàn toàn đồn Cái Xơ thuộc xã Tân Thành huyện Hồng Ngự sau đó đánh quân tiếp viện của sư đoàn 7 của quân Ngụy Sài Gòn đến ứng cứu, tiêu diệt và làm bị thương nhiều sinh lực địch.(bạn đọc có thể xem bài:TRẬN CÔNG ĐỒN CÁI SƠ của Hồ Tĩnh Tâm CCB trung đoàn 207 đã đăng trên trang web E207)
Tiểu đoàn 2 và đặc công giải phóng hoàn toàn đồn Cây Me, đồn Cá Cái tiêu diệt toàn bộ quân địch ở 2 khu vực này, sau đó được lệnh đóng quân tại Cả Muỗi và kinh Phước Xuyên cùng với địa phương quân Hồng Ngự chốt chặn giữ vững vùng giải phóng của ta. Tiểu đoàn 3 phối hợp với Z10 và các đơn vị bạn giải phóng 2 đồn Cà Vàng, Thông Bình nằm cặp biên giới Việt Nam – CPC.
Huyện Hồng Ngự trước đây (mà ngày nay là huyện Tân Hồng khi chia tách huyện).
Thị trấn Xa Rài trung tâm huyện Tân Hồng bây giờ trước đây gọi là Đôn Phục. Liên kết quanh khu vực này có 5 gò gọi là Gò Bói, Gò Ổi, Gò Chùa, Gò Đội, Gò Da. Địch chọn Gò Bói thuộc xã Tân Hội Cơ và Gò Da thuộc Tân Công Chí để đóng đồn. Hệ thống đồn bốt ở đây được kẻ địch xây dựng kiên cố, toàn bằng bê tông cốt thép, nửa nổi nửa chìm, bên ngoài rất nhiều lớp rào kẽm gai, xen kẻ những bãi mìn, đủ loại: mìn đạp nổ, mìn vướng nổ và có cả mìn chống tăng, trung tâm đồn còn có trận địa pháo 105 ly, cối 106, 7, cối 81 để bắn chi viện hỗ trợ cho nhau.
Ngoài hệ thống đồn bốt kiên cố, xung quanh khu vực này là các ấp chiến lược có lính bảo an dân vệ phòng thủ suốt đêm ngày. nhân dân vùng này được bè lũ Mỹ Ngụy đặt mật danh là “dân số 1” hay còn gọi là dân của anh Ba Diệm.
Ngay sau khi hiệp định Giơ ne vơ được ký kết chính quyền Ngô Đình Diệm đã cưỡng bức nhân dân ở miền Bắc, miền Trung như Đà Nẵng, Quảng Nam, Quảng Ngãi ồ ạt di dân và lập thành các khu trù mật, ấp chiến lược ở đây. Chúng “hậu đãi” dân mới đến vùng này một cách “đặc biệt” và được bọn tâm lý chiến nhồi nhét những tư tưởng vô cùng phản động. Vì vậy bọn địch cho rằng dân vùng này là bất khả xâm phạm, “dân chống cộng tuyệt đối.” Trung đoàn 207 có vài lần bao vây, tấn công đồn Gò bói, nhưng không thành công.
Ngày 19/04/1974, trung đoàn đã sử dụng đại đội đặc công 25 đánh đồn Gò Bói, với lối đánh “ Táo bạo” của bộ đội đặc biệt tinh nhuệ do đại đội trưởng Vũ Huy Thục trực tiếp chỉ huy, trong vòng 20 phút, C25 đặc công đã làm chủ đồn Gò bói. Mặc dù đã gần 40 năm trôi qua nhưng diễn biến và kết quả trận đánh vẫn còn như in trong tâm trí người CCB của Trung đoàn 207 người trực tiếp tham gia trận đánh.
Anh chính là Phạm Văn Thông.
Theo anh Thông nhớ lại, Gò bói là một đồn kiên cố được trấn giữ bởi 1 đại đội bảo an, tăng cường và 2 khẩu pháo 105 ly, đồn này làm nhiệm vụ án ngữ đường chuyển quân và khí tài của ta xuống miền Tây Nam bộ, đồn hình chữ nhật, kích thước 80x 60m, ngoài ra còn có 3 đồn tua, đồn có 7 lớp rào, ngoài cùng là 4 lớp rào kẽm gai đơn, tiếp đến là hàng rào cũi lợn, và hào sâu khoảng 2m, rộng 4m, dưới hào là hàng rào bùng nhùng, và hàng rào cuối cùng ở mép thành là hàng rào bằng cây tràm, cao 3m. Sau hơn 3 tháng trinh sát, C25 về trên đất Campuchia lập sa bàn đánh thử.
Đêm ngày 19.04.1974, ta quyết định đánh đồn Gò bói. Phía ta sử dụng hai mũi, mũi 1 gồm 8 chiến binh, do Đ/C Vũ Huy Thục làm mũi trưởng, Đ/C Sái văn Khanh làm mũi phó, mũi này có Đ/C Phạm văn Hừu mang bộc phá lệnh nặng 2kg thuốc nổ TNT với 4 kíp nổ số 10, mũi số 2 gồm 7 chiến binh, do Đ/C Vũ Chí Nghiêm làm mũi trưởng, Đ/C Nguyễn văn Trụ làm mũi phó. Ngoài ra còn một đội dự bị do Đ/C Phạm Hữu Dần chỉ huy, sau khi tất cả các chiến binh, lọt vào trong bốt, Chỉ huy trưởng Vũ Huy Thục kiểm tra tất cả các vị trí và bắt tay với mũi 2.
Đúng 1g45 phút sáng ngày 19/ rạng ngày 20/04/1974, chỉ huy Vũ Huy Thục ra lệnh nổ súng, lệnh nổ súng được phát ra bằng 1 loạt đạn AK, tiêu diệt 2 tên lính gác trên nóc lô cốt đầu cầu của Đ/C Sái văn Khanh, tiếp theo là quả bộc phá lệnh nặng 2kg phát ra tiếng nổ long trời, tiêu diệt ngay sở chỉ huy và hệ thống liên lạc của địch, và rồi tiếp theo là tiếng nổ ran đồng loạt của thủ pháo, tại tất cả các vị trí trong đồn giặc, khoảng 20 phút sau, các chiến binh lần lượt thoát ra cửa mở về phía sau, bất ngờ, một khẩu đại liên từ đồn tua bắn chéo, cản đường rút của ta, Đ/C Vũ huy Thục, là người ra cuối cùng, yêu cầu B40 bắn vào đồn tua, nhưng tiếng ra lệnh của Đ/C vang lên trong đêm, địch phát hiện ra vị trí và hướng về đó bắn, làm Đ/C Thục, Trạch hi sinh tại chỗ, Đ/C Khanh bị thương vào đùi (sau này nghe cở sở báo lại), Khi về đến vị trí tập kết, kiểm lại thấy thiếu 5 người, Đ/c Dần lệnh cho đội dự bị quay lại tìm, thì chỉ thấy hai người đã hi sinh là Anh Thục Đại đội trưởng bị đạn vào ngực, nằm vắt qua hàng rào đầu quay về hướng bắc, khẩu súng ngắn còn treo trên tay, với chiếc đồng hồ vàng Omega do chính ủy trao cho lúc vào trận, anh Trạch xạ thủ B40, bị mất một mảng sau gáy.
Còn 3 người không thấy đâu là anh Sái văn Khanh, anh Kiệm và anh Trường, 3 ngày sau anh Trường và anh Kiệm tìm về đến đơn vị, thì ra anh Trường bị thương vào mặt, không nhìn thấy đường, anh Kiệm dìu ra, nhưng bị lạc lối, sau đó được dân che chở rồi đưa về đơn vị, còn anh Khanh bị thương, anh bò ra nhưng lại lạc vào ấp, sáng hôm sau địch bắt được và giết chết ngay.
Chính đ/c Thông đã mang 1 trong 2 thi thể đồng đội hi sinh xuống xuồng để nhờ du kích địa phương đem đi mai táng (trong đó có một đồng đội chẳng còn quần áo gì) “Thật đau lòng trước cảnh thân xác đồng đội lúc đã hi sinh” Đ/c Thông phải lấy bèo lục bình đậy vào chỗ “kín” của đồng đội. Bởi khi vào trận bộ đội đặc công chỉ mặc 1 chiếc quần đùi trên người. trải qua trận đánh quần bị dây thép gai cào rách và mất đi. Khi anh em hi sinh, thi thể chẳng còn được 1 tấm vải để che thân… Viết tới đây tôi không thể nào cầm được nước mắt. THƯƠNG ĐỒNG ĐỘI TÔI QUÁ …
Phạm Văn Thông hiện là dược sỹ cao cấp làm việc tại Quân khu 7, nay đã về hưu đang làm thêm cho công ty dược tại thành phố Hồ Chí Minh, ủy viên thường trực BLL bạn chiến đấu và CCB, người quản trị mạng trang web trung đoàn 207.(Là một thành viên rất quan trọng của BLL và HCCB trung đoàn 207 đấy)
Đêm 21/04/1974, tiểu đoàn 3 được lệnh sử dụng một đại đội đánh đồn Gò Da. Do xung lực ít, hỏa lực mỏng, 4h sáng bộ đội ta được lệnh rút ra ngoài “tạm tha” cho cái đồn Gò Da bị Đại đội 9 “thăm hỏi” còn đang dang dở…
Ngày 26/04/1974 trung đoàn đã sử dụng toàn bộ tiểu đoàn 3 cùng hỏa lực trung đoàn chi viện đánh chiếm đồn Gò Da. 17h ngày 26/04/1974, bộ đội ta được lệnh xuất kích. Sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn do chính ủy Huỳnh Công Trứ và trung đoàn trường Năm Thời trực tiếp chỉ huy (lúc này anh Ba Trứ và anh Năm Thời đã về thay thế cho chính ủy Lê Chư)
Đại đội 20 cử một máy PRC25 xuống trực tiếp đi với ban chỉ huy tiểu đoàn 3, một máy tăng cường cho đại đội 16, một máy tăng cường cho đại đội 17. Còn lại tại sở chỉ huy tiền phương trung đoàn có 2 máy và 2 máy dự phòng. Đài 15oat cũng theo sở chỉ huy để nhận mệnh lệnh trực tiếp từ quân khu và bộ chỉ huy chiến dịch.
2h sáng ngày 27/04/1974, bộ đội ta đã vào hết vị trí tập kết. chỉ huy trung đoàn đóng cách biên giới khoảng 2 km có nhà dân đan xen và những hàng me chua rợp bóng
2h30 ban chỉ huy tiểu đoàn 3 báo về bộ đội đã vào hết vị trí chiến đấu và đã chuẩn bị xong công sự. DKZ75 của Đại đôi 17 được tăng cường cho hướng tiểu đoàn 3 cũng sẵn sàng nhả đạn, trận địa cối 82 của trung đoàn cũng vào vị trí chiếm lĩnh, chỉnh xong hướng, tầm sẵn sàng đợi lệnh.
Đúng 3h sáng ngày 27/04/1974, hàng trăm quả đạn cối 82 của trung đoàn + hỏa lực của tiểu đoàn và cối 61 của các đại đội bộ binh ầm ầm bắn phá căn cứ địch. Đồn Gò Da do 1 đại đội bảo an địch đóng giữ, “quằn quại” trước làn hỏa lực của pháo binh ta. 3h30 sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho pháo binh ta tạm dừng từ 3 hướng của 3 đại đội bộ binh 9, 10, 11 đang ở tư thế chuẩn bị xung phong. Những quả mìn DH10, và mìn Cremo thổi rạp nhiều đoạn hàng rào dây kẽm gai được chằng chéo nhằng nhịt quanh đồn. Nhiều quả mìn vướng nổ, gài nổ quanh đồn địch bị DH10 của ta thổi tung cũng tự động phát nổ. Ba cửa đã được mở toang dọn đường cho bộ đội ta chuẩn bị đánh chiếm.
Bọn địch trong đồn hoang mang đến cực độ vì mới chỉ cách đây mấy ngày đã bị Đại đôi 9 nện cho một trận làm cho quân số trong đồn địch bị hao hụt chưa được bổ sung. Số còn lại trong đồn đang sống dở, chết dở bây giờ lại bị Tiểu đoan 3 “đập” nhồi thêm mà trận đánh này đâu phải giống như lần trước. Quân số + hỏa lực đã tăng lên gấp bội, áp đảo quân địch một cách “tuyệt đối”.
Mặc dầu vậy, như “chó cùng cắn bậy” từ những lô cốt, đạn đại liên, đạn nhọn, M79 chúng tuôn đạn ra các hướng của ta một cách điên cuồng. DKZ75 của trung đoàn, DKZ 57 của tiểu đoàn cùng với hỏa lực B40, B41 của các đại đội bộ binh lại thi nhau dập tắt ngay những hỏa điểm xuất hiện. Bọn địch lớp chết, lớp bị thương càng lúc càng tăng. 4h10’ ngoài trận địa Tiểu đoàn 3 báo về hỏa lực địch mỗi lúc một thưa dần. Bộ đội ta đã có một số hi sinh và bị thương.
Sở chỉ huy trung đoàn ra lệnh cho pháo binh ta tiếp tục bắn phá. Vậy là các trận địa cối 82, cối 61, DKZ75 lại ầm ầm nã đạn vào đồn địch cho đến khi “sạch sẽ” cả cơ số đạn mang theo. Tiếng pháo vừa dứt bộ đội ta dũng mãnh xông lên…
Đúng 5h sáng ngày 27/04/1974, từ ban chỉ huy tiểu đoàn 3 báo về: “bộ đội ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa. Địch lớp chết lớp bị thương, số sống sót mở đường máu tháo chạy”.
Từ sở chỉ huy tiền phương của trung đoàn, anh Năm Thời ra lệnh cho tiểu đoàn 3 thu dọn chiến trường rồi nhanh chóng lui quân, các đơn vị hỏa lực của trung đoàn và sở chỉ huy tiền phương cũng được lệnh dời về hậu cứ.
Như vậy đồn Gò Da nằm trên địa bàn xã Tân Công Chí huyện Hồng Ngự và bây giờ là huyện Tân Hồng tỉnh Đổng Tháp, chỉ cách đồn Gò Bói khoảng 2 tiếng đi xuồng. Đã bị trung đoàn 207 san bằng và vĩnh viễn xóa tên trên bản đồ quân sự.
“Bạn ta đó
Ngã trên dây thép ba tầng
Một bàn tay chưa rời báng súng,
Chân lưng chừng nửa bước xung phong.
Ôi những con người mỗi khi nằm xuống
Vẫn nằm trong tư thế tiến công!
Những đêm tiến công, những ngày phòng ngự,
Có phải các anh vẫn còn đủ cả
Trong đội hình đại đội chúng ta?
Khi bạn ta
lấy thân mình
đo bước
Chiến hào đi,
Ta mới hiểu
giá từng thước đất,
Các anh ở đây
Trận địa là đây,
Trận địa sẽ không lùi nửa thước,
Không bao giờ, không bao giờ để mất
Mảnh đất
Các anh nằm.”
(Chính Hữu – Giá từng thước đất)
Từ cuối năm 1973 đến tháng 7 năm 1974. Trung đoàn bộ trung đoàn 207 vẫn cơ động đóng quân cặp biên giới thuộc 4 tỉnh Prâyven, Xoài Riêng (CPC), Kiến Phong, Kiến Tường (VN) trực tiếp chỉ huy 3 tiểu đoàn bộ binh và các đại đội trực thuộc tiếp tục đánh địch vừa tiêu hao sinh lực, vừa “nhổ” các đồn bốt xung quanh khu vực này mở rộng vùng giải phóng của ta cặp biên giới. Trong thời gian này ta đã đánh và tiêu diệt các đồn Thông Bình, Cà Vàng, Gò Da, Gò Bói, Cái Xơ, Cây Me, Cá Cái, Tham Bua giải phóng hoàn toàn xã Tân Thành và một phần xã Tân Hội Cơ, xã Tân Công Chí thuộc huyện Hồng Ngự.
Ngày 15/7/1974, một trận tao ngộ xảy ra giữa cánh đồng từ khu vực xã Tân Thành về hướng Tân Lèo. Do không được cung cấp thông tin nên bộ đội ta đã lọt vào ổ phục kích của địch gần 30 đ/c đã bị hi sinh tại nơi đây.
Sau đó đúng 5 ngày vào ngày 20/7/1974, cũng tại khu vực này bỗng nhiên tụi địch đã bỏ lại 3 chiếc xe M113 còn nguyên vẹn và được đơn vị thiết giáp của quân khu thu chiếm bổ sung cho đơn vị của mình. Sau này chúng tôi mới biết là tên tỉnh trưởng tỉnh Kiến Phong đã lấy tiền của ta và đã lén bán 3 chiếc xe bọc thép này cho Quân Giải Phóng….
Thực tế trong chiến tranh bọn chỉ huy cao cấp của địch chỉ nghĩ đến “đồng tiền” còn mặc xác bọn cấp dưới: “Sống chết mặc bay, tiền thầy bỏ túi”. Cũng nhờ đó mà hậu cần của ta mua được rất nhiều vũ khí của địch, từ xe tăng, xe bọc thép, máy thông tin PRC25, súng đạn và nhiều phương tiện chiến tranh khác…góp phần tăng thêm sức mạnh của ta trên chiến trường.
Do yêu cầu tác chiến ngày càng ở mức độ qui mô nên cuối tháng 7/1974. Bộ chính trị và quân ủy miền QUYẾT ĐỊNH thành lập sư đoàn 8 trực thuộc quân khu 8 do đ/c Sáu Phú làm sư đoàn trưởng và Đ/C Tám Nam làm chính ủy và trung đoàn 207 được sáp nhập trực thuộc sư đoàn 8. Vậy là từ nay trở đi đài 15W của tụi tôi lại phải tiếp tục mở máy phát sóng 24/24 trực tiếp nhận các chỉ thị mệnh lệnh của bộ chỉ huy sư đoàn 8 và liên lạc vượt cấp với quân khu, bộ chỉ huy chiến dịch. Nghĩa là lính thông tin chúng tôi lại tăng thêm vất vả gấp 3 lần trước đó. Nhưng chúng tôi vui mừng lắm, vì từ nay Trung đoàn 207 không còn phải tác chiến độc lập nữa.
Ngày 29/7/1974, tôi và anh Năm Thắng được mời đi dự hội nghị quân chính do Đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn triệu tập.
Một chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên: “toàn bộ sư đoàn 8 thọc sâu xuống chiến trường miền Nam” được ban bố. Đây thực sự là một niềm vui làm nức lòng toàn thể cán bộ và chiến sĩ của sư đoàn…
Trở về đơn vị chúng tôi nhanh chóng tổ chức họp chi bộ và hội đồng quân nhân để quán triệt nhiệm vụ, trên nét mặt của từng càn bộ chiến sĩ ai cũng hồ hởi, phấn khởi. Mặc dù thời gian chưa biết chính xác nhưng chúng tôi suy đoán là sẽ không còn bao xa nữa…
Vậy là công tác chuẩn bị cho cuộc “dời đô” về quê mẹ được các đơn vị tiến hành rất khẩn trương. Thực phẩm quản lý mua về dự trữ cho đơn vị được lệnh “tém luôn” không để dành nữa. Kể cả tiền bạc mua bán trong dân phải được nhanh chóng thanh toán sòng phẳng. Quần áo, quân tư trang cũng được dần dần thay thế cho phù hợp với chiến trường sông nước đồng bằng sông Cửu Long chằng chịt những kênh rạch và nước ngập lênh láng.
Bộ đội ta được cấp phát quần nilon dầu và áo Poliphăng (cũng chỉ bộ nghiêm bộ nghỉ)
Võng cũng bằng nilon dầu, mùng ngủ bằng mùng tuyn hoặc dù pháo sáng nhuộm xanh kết lại. Cả tấm đắp cũng bằng dù hoặc vải nilon
Đặc biệt là cái balo cũ được trang bị của bộ đội chính quy từ ngoài bắc vào bằng vải bạt “nặng bỏ mẹ” bây giờ lính ta không ai dám xài nữa, nó vừa to, vừa dễ thấm nước. Vậy là hậu cần cấp phát “bồng” (loại vải nhựa, mỏng nhẹ, nhưng không thấm nước và rất bền). Chỉ cần may vài đường chỉ giống như cái bao đựng lúa bây giờ. Làm một cái quai riêng giống như quai balo buộc vào 2 góc đáy còn ở trên túm vào cái cổ bồng là “quảy” đi một cách ngon ơ. Mà cũng chẳng cần kích cỡ gì. Ai muốn to thì làm to, ai muốn nhỏ thì tự mình may bớt đường chỉ lại.
Nói tới “bồng” tôi nhớ mãi hình ảnh của anh Tư Be (Võ Be) quê ở Bến Tre đi tập kết, tốt nghiệp Trường Sỹ Quan Lục Quân rồi được điều trở lại chiến trường. Bữa đó hội nghị xong thời gian còn sớm nên tôi và anh Năm Thắng có mời anh Tư Be về đơn vị tôi chơi. Tôi thực sự bất ngờ khi thấy anh đi họp từ tiểu đoàn lên trung đoàn (có một đ/c liên lạc đi theo) mà “bồng bềnh” vẫn cứ nghiêm chỉnh.
Đ/c liên lạc của anh (tôi không nhớ tên), cái bồng cũng vừa đủ, ngực mang bao xe đạn, vai khoác khẩu AK báng xếp. Còn anh tư Be thì “oai” hơn. Ngang lưng mang khẩu súng ngắn bao da còn mới cảo. Cái bồng của anh cực kỳ “vĩ đại”: nó vừa to, vừa cao…Tôi thầm thắc mắc: chả hiểu “cụ” này có gì trong cái bồng to cao kia… Ngoài cái bồng ra một bên tay xách cái thùng luộc (thùng đạn 12 ly 7) một bên là cái Ktap bằng da căng phồng…. Một lát sau đ/c Dần chính trị viên C25 cũng ghé thăm chúng tôi. Anh năm Thắng pha một ấm trà của hậu cần mới phân phối và nói với anh nuôi làm thịt gà…. Nhưng anh tư Be và đ/c Dần cản lại nói “chỉ ghé thăm chúng tôi một chút rồi trở về đơn vị ngay”….
Trong cánh “bằng vai phải lứa” tụi tôi với nhau thì đ/c Dần thuộc loại “lý lắc” nhất... Chờ lúc anh tư Be “chủ quan” không để ý nên đồng chí Dần đã “lén” mở cái bồng và đổ hết đồ đạc ra, mở cả cái thùng luộc và cái cặp da nữa. Đ/c Dần vội la toáng lên: “ôi của chìm…của nổi… sao mà nhiều thế”…. Đồ đạc nhà binh do hậu cần cấp phát thì ít… còn đồ đạc loại “khơi khơi” thì nhiều…. Có cả quần áo của chị em phụ nữ mới “tuyệt vời” chứ. Anh Tư Be nổi quạu, cự nự lung tung… Anh Năm Thắng không “nhịn” được cũng phải lên tiếng. “Cha! bỏ bớt đi cho con nhờ … đi đánh giặc mà thồ “hàng” chẳng khác gì con lạc đà. Có ngày chạy không kịp bọn địch nó vớ được chắc chắn tụi nó thiến…”. Thì ra trong lúc đánh đồn Gò Da, bọn địch bỏ chạy hết, anh tư Be chỉ huy bộ đội vào thu chiến lợi phẩm và không bỏ sót bất cứ một thứ gì… Cũng nhờ “vụ lộ hàng” lần ấy mà sau này gặp lại anh Tư Be tôi nhìn thấy “cái bồng của anh đã nhỏ đi rất nhiều”. Giờ ngồi nhớ lại mới thấy thương đồng đội tôi quá đỗi!
Sáng ngày 1/8/1974, tôi và anh năm Thắng thật bất ngờ và vui mừng không sao tả siết, khi nhìn thấy chị Hai Nhị (Trương Thị Thắm) dẫn 2 cháu Phương và Tài đến tận đơn vị thăm chúng tôi. Hỏi ra tụi tôi mới biết đơn vị của chị (an ninh khu) đang đóng quân tại gần chùa Praynhiết, chỉ cách chúng tôi khoảng 4km. Chị tâm sự với chúng tôi: “Nghe lời khuyên của tụi bay và gia đình nên sau khi trung đoàn 207 chuyển quân chị quyết định trở về đơn vị cũ nơi mà ngày xưa anh và chị công tác gặp nhau. Khi anh hi sinh, một mình chị nuôi 2 đứa con còn quá nhỏ mà lại không muốn làm phiền lụy cho đơn vị nên chị xin tạm nghỉ về gia đình “tá túc” nuôi con, bây giờ các con của chị đã lớn. Với lại chị nghĩ chắc chắn chiến tranh sắp kết thúc rồi mình phải có mặt trong trận đánh cuối cùng chứ...”.
Nghe chị tâm sự, nhìn khuôn mặt của chị buồn buồn nhưng rất đẹp. Chị mặc bộ quần áo bà ba đen và cái nút thứ 2 trên ngực cài một miếng vải trắng (chị vẫn để tang chồng).
Tôi và anh năm Thắng “khen” chị giỏi. Đúng là cánh an ninh nhạy thật. Chúng tôi cũng chỉ mới được phổ biến sơ sơ chuẩn bị “xuống đường” vậy mà chị cũng đã biết… “mày mò” tìm kiếm thăm đơn vị (đại đội thông tin trung đoàn 207) bởi chị đã coi tất cả những anh em trong đơn vị như những đứa em ruột thịt… Bữa cơm hôm đó bộ phận nuôi quân rất chu đáo có cả thịt gà và cá lóc (cá chuối, cá quả) hấp lá bầu, thịt heo xào mặn... Giữa chiến tranh, mất còn trong gang tấc, nhìn chị và 2 cháu ăn cơm cùng với bộ phận C bộ, chúng tôi thấy “ấm cúng” hẳn lên, cũng lại ngậm ngùi thương chị và 2 cháu vô cùng…”(Hiện giờ chị đã nghỉ hưu và đang sinh sống tại Sa Đéc, thỉnh thoảng gặp dịp tôi vẫn ghé thăm chị).
Đúng 5h chiều ngày hôm đó, tôi và anh Năm Thắng cùng 2 đ/c liên lạc tiễn chị và 2 cháu về tới tận đơn vị (gần chùa Pray Nhiết), cháu Phương đã lớn, cháu Tài còn nhỏ nên đi bộ mỏi chân, chốc chốc anh Năm Thắng lại cõng cháu Tài trên lưng, cảnh vật thanh bình như trên quê nhà không còn khói súng….
Ngày 2/8/1974, cơ quan trung đoàn bộ và các đơn vị trực thuộc được lệnh hành quân. Vì đã có ý thức từ trước nên chúng tôi dọn dẹp rất chu đáo. Quân tư trang thì rất gọn nhẹ, vũ khí, đạn dược, máy móc lại được bổ sung (Mấy cái máy PRC25 cũ ọp ẹp chúng tôi cho ra rìa hết và thay thế bằng những loại máy mới) Nhờ sự chi viện của thông tin sư đoàn và quân khu.
Khoảng 8h tối chúng tôi đã có mặt tại kinh 28 (gần khu vực Tà Nu) và cứ từ 8 – 10 đ/c được xuống 1 chiếc xuồng tam bản (loại xuồng ba lá lớn) có các đ/c giao liên phụ trách. Trong đêm tối hành quân bằng xuồng, dọc theo bờ kênh và băng ngang cánh đồng nhiều đoạn vướng cỏ và lúa là tất cả phải nhảy xuống đẩy xuồng vượt qua…Đến 2h sáng, thì đoàn quân xuống hành quân bộ, đoàn quân được giao liên dẫn đường len lỏi qua những đám tràm., qua những bờ ruộng tiến về phía trước... Khoảng 4h sáng tôi gặp anh Bảy Việt có một đ/c y tá và một liên lạc mang ba lô dùm, anh cứ đi cà nhắc, cà nhắc nhìn rất tội nghiệp, hỏi thăm đ/c y tá tôi mới biết anh bị bệnh thấp khớp, 2 đầu gối sưng vù mà vẫn ráng hành quân xuống đường cùng đơn vị.
Sau 2 đêm hành quân chúng tôi đã vượt qua sông Vàm Cỏ rồi qua kinh Bùi, kinh Bích, kinh Tè và đóng quân tại kênh Chuối cách bờ bao Mỹ Hòa khoảng 4km (kênh rạch ở đây rất nhiều và chằng chịt).
Giữa tháng 9 năm 1974, lúc này bộ đội ta đã được trang bị xuồng ba lá để làm phương tiện đi lại (loại xuồng có sức chở từ 3 – 5 người. Đại đội thông tin chúng tôi được trang bị tới gần 30 chiếc, cứ bình quân 3 người một chiếc.). Vậy là bộ đội ta phải nhanh chóng học tập cách bơi, cầm lái, chống xuồng. Những ngày đầu chiếc xuống nó giống như những con ngựa bất kham... cứ quay vòng vòng đâm vào bờ nọ lạng qua bên kia, nhiều đ/c còn bị xuồng lật úp mình mẩy ướt nhẹp. Đã vậy ở đây trong các kênh rạch và cả trong các đám tràm, nước trong vắt do bị nhiễm phèn, ở độ sâu khoảng 2m là vẫn nhìn rất rõ tới tận đáy kênh hoặc các rễ tràm. Bộ đội ta cứ quen thói sợ bị ướt quần lót, nên khi tập thường “khỏa thân toàn tập”… bất ngờ mà gặp các chị em đi ngang qua là coi như “toi đời”... chả giấu giếm “gì” được cả…
Sợ nhất vẫn là cái nạn đi cầu (đi ỉa). Bởi xung quanh toàn ngập nước nên mỗi khi “có nhu cầu” là phải chống xuồng xa vài trăm mét. Sau khi “bĩnh” ra… chỉ một thời gian rất ngắn là các chú cá nào là cá rô, cá chốt, cá sặt… bu đến “làm vệ sinh” ngay nên chẳng cần phải sợ làm ô nhiễm môi trường. Tuy nhiên, lính ta dễ gặp nạn “ngã xuồng” như chơi….
Bữa đó tôi và đ/c Tốt (liên lạc của đại đội thông tin), hai anh em bơi xuồng cũng cách nơi đóng quân khá xa để làm cái công việc “cần thiết” ấy. hai anh em ngồi nghiêng qua một bên be xuồng, tay với nắm những bụi cỏ trồi lên trên mặt nước để giữ thăng bằng. Lính quýnh thế nào đ/c Tốt tuột tay ngã nhào xuống nước. Chiếc xuồng “chồng chành” nhưng may tôi vẫn gượng được không bị ngã và với tay nắm kéo đ/c Tốt lên. Tôi thật “ấn tượng” khi nhìn đ/c Tốt ướt như chuột lộị lóp ngóp leo lên được xuồng mà trên cổ vai đ/c khoác nguyên “một đoạn…” mà chính của đ/c vừa mới “bĩnh” ra. Tới bây giờ nhớ lại tôi vẫn còn thấy ớn ớn, nổi cả da gà…
2h chiều ngày 2/10/1974, sở chỉ huy trung đoàn bất ngờ bị hàng trăm quả đạn pháo của 2 trận địa Mỹ An bắn phá. Sau gần 1h phải chui hầm tránh pháo, tiếng pháo đã dứt tôi chui lên khỏi mặt hầm, xuống bờ kênh rửa mặt và thật đau lòng khi nhìn thấy chiếc xuồng của ban chính trị đang bơi tới Trên xuồng có đ/c Hoàng y tá cầm lái, đ/c Hùng họa sỹ (2 đ/c này đã ở cùng tôi từ năm 1971), và đ/c Thoại của cơ quan tuyên huấn (đ/c Thoại thay cho tôi khi tôi xuống đơn vị). Đ/c Thoại bị một mảnh pháo phạt cụt mất bàn tay trái, một mảnh làm gãy xương đùi. Cả 2 đ/c Thoại và Hùng, mặt mũi đều bê bết máu (đ/c Hùng ôm đ/c Thoại trong lòng…). Đ/c Thoại được đưa vào trạm phẫu thuật của sư đoàn do BS Phủ phụ trách chỉ cách đó không đầy 1km. Và Đ/c Thoại đã hi sinh tại đây vì mất quá nhiều máu…
Cho đến bây giờ khuôn mặt của Thoại, Hùng, Hoàng vẫn còn như in trong tâm trí tôi: Thoại quê Nghệ An, có giọng nói rất ấm… Hoàng quê Hà Bắc… Hùng quê Lạng Sơn có khuôn mặt phúc hậu và rất hiền…(nghe tin Hùng đã hi sinh năm 1979 tại cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc) Bây giờ nếu được gặp Hùng và Thoại ở bất cứ trong đám đông người nào, tôi cũng sẽ nhận ra ngay… Nhưng đồng đội tôi đã vĩnh viễn trở thành người “thiên cổ”…
Viết tới đây, tim tôi lại quặn đau, ngực như nghẹn thở… Ngày ấy, bao đồng đội thân yêu của tôi cứ lần lượt “ra đi”… Và chẳng biết bao giờ mới hết chiến tranh để chúng tôi thôi ngã xuống, chợt nhớ lại câu nói của anh Thiệp vào đầu năm 1971 khi tôi có quyết định từ đại đội 6, tiểu đoàn 2 về cơ quan tuyên huấn trung đoàn “Em về được chỗ đó là coi như ấm được cái gáo rồi”… Rồi lại nhớ ngày bàn giao cho đ/c Thoại vào tháng 8/1972 (khi tôi có quyết định về đại đội 19 công binh) giọng đ/c Thoại rất ấm và đầy truyền cảm “Kiên cứ yên tâm trở về đơn vị chiến đấu… Thoại hứa sẽ cố gắng để đưa cơ quan tuyên huấn của chúng ta ngày càng tiến bộ, vươn lên…”. Giờ đây lại chính là anh ấy đã hi sinh. Thế đấy, chúng tôi là đồng đội. Chúng tôi “THẾ CHỖ CHO NHAU” người còn…người mất... trong cuộc chiến vô cùng khốc liệt… không ai có thể đoán trước được điều gì… Nôn nao nhớ mấy câu thơ của nhà thơ Chính Hữu:
“ Đồng đội ta
Là hớp nước uống chung, nắm cơm bẻ nửa
Là chia nhau một trưa nắng một chiều mưa
Chia khắp anh em một mẩu tin nhà
Chia nhau đứng trong chiến hào chật hẹp
Chia nhau cuộc đời, chia nhau cái chết.”
Ngày 4/10/1974 tại sở chỉ huy trung đoàn cụm đài 2W gồm 4 máy, liên tục nhận những thông tin từ tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 3 báo về và truyền đi những mệnh lệnh của đ/c Năm Thời trung đoàn trưởng và đ/c Ba Trứ chính ủy. Chúng tôi biết tình hình trận địa tiền duyên rất căng thẳng. Tiểu đoàn 1 + tiểu đoàn 3 đang chiến đấu phòng ngự đánh địch tại bờ bao kênh Mỹ Hòa, địch dùng cả xe bọc thép M113, 2 trận địa pháo Mỹ An bắn như vãi đạn vào trận địa D1 và D3. hỏa lực của trung đoàn gồm cối 82, DKZ75 được lệnh bắn chi việc cho 2 tiểu đoàn (Các bạn có thể xem các bài viết của Hồ Tĩnh Tâm CCB E207 về trận đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa đã đăng trên trang web 207)
Sau gần 20 ngày liên tục chiến đấu với trung đoàn 10, sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn, có xe tăng, xe bộc thép, máy bay yểm trợ, ta vẫn giữ vững trận địa. Địch vẫn không thể nào chiếm nổi bờ bao Mỹ Hòa, ngày 21/10/1974, sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn đã phải lặng lẽ lui quân.
Vậy là tại trận đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa - Đồng Tháp Mười, trung đoàn 207 đã đánh thiệt hại nặng, đẩy lùi nhiều đợt tấn công của sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn, giữ vững vùng căn cứ cách mạng của quân khu 8, giáp ranh 3 tỉnh, Kiến Phong, Kiến Tường, Định Tường, tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch, làm cho bọn địch xung quanh khu vực này hoang mang tột độ.
Sau trận đánh chống càn tại bờ bao Mỹ Hòa trung đoàn bộ về đứng chân tại kênh Cái Lân (khu vực này là đất địa của tỉnh Định Tường, nhưng lại giáp ranh tỉnh Kiến Phong, Kiến Tường).
Một trung đoàn chủ lực nằm trong đội hình sư đoàn 8 thuộc quân khu 8 về đứng chân tại đây nên tỉnh ủy và tỉnh đội tỉnh Kiến Phong mừng vui ra mặt. Từ kênh Cái Lân chúng tôi có thể cơ động qua kênh Sáng Phèn, kênh Nước Mắm, Nguyễn Văn Tiếp, kinh Nhất, Kênh Dương Văn Dương, kênh Cổ Cò rồi tỏa đi 4 hướng để đánh địch.
Xung quanh khu vực này có các đồn của địch là đồn Kinh Nhất, đồn Gãy, đồn Bà Vững, đồn Cổ Cò, đồn Chín Cai, đồn Thanh Mỹ và đồn Ngã Sáu…
Ngay từ khi mới về đứng chân trung đoàn đã điều 3 tiểu đoàn bộ binh ra án ngữ và khống chế các đồn địch buộc chúng phải nằm co lại trong đồn, không dám “mò” ra lùng sục như trước. Do vậy, vùng giải phóng và căn cứ cách mạng của tỉnh Kiến Phong và Đinh Tường, Kiến Tường được bình yên và luôn tưng bừng náo nhiệt.
Nhân dân bắt đầu về sửa lại nhà cửa cho rộng rãi thông thoáng hơn. Các tiệm buôn bán tạp hóa cũng đầy ấp hàng tiêu dùng chẳng thiếu thứ gì có cả Lave (bia Con Cọp uống rất ngon và thơm).
Tại kênh Sáng Phèn có tiệm tạp hóa của má Mười Ngài (một gia đình cách mạng kỳ cựu, chồng của má và các con đều đã hi sinh chỉ còn một cô con gái út tên là Bé Nhanh rất xinh đẹp phụ má bán hàng).
Cửa hàng của má lúc nào cũng đông đặc khách mà phần nhiều là cán bộ chiến sĩ Quân Giải Phóng của đủ các đơn vị 207, tỉnh đội, 320, 24, 88 và anh em đủ cả các miền quê: miền Bắc, miền Trung, miền Nam và cả anh em Việt kiều bên CPC. Vì là gia đình cách mạng “nòi” nên khi lớn tuổi má lấy việc buôn bán để “ngầm” cung cấp hàng hóa cho “đằng mình”. Hàng của má bán rẻ như cho nên các chiến sĩ ta khi ngang qua đây đều ghé mua hàng và đều được má gọi bằng 2 tiếng thân thương: “các con”. Để tỏ lòng biết ơn má anh em chúng tôi đã công khai gọi má là: “bà má Đông Dương” và từ đó cái tên này mãi mãi ghi sâu trong tâm trí mọi người…
Tỉnh đội Kiến Phong lúc đó là anh Bảy Phụng làm tỉnh đội trưởng và anh Năm Nhượng làm chính ủy, đồn trú cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 3km, tỉnh ủy tỉnh Kiến Phong ở gần Kinh Nhất. gần vườn chuối 307. Cánh anh Bảy Phụng và anh Năm Nhượng thường xuyên lui tới trung đoàn để liên hệ công tác và bàn biện pháp phối hợp đánh địch, chống địch lấn chiếm vùng giải phóng của ta. Vì vậy trung đoàn 207 và tỉnh đội Kiến Phong trở nên mật thiết và khăng khít như “môi với răng”.
Nhờ mối quan hệ đó, cánh thông tin của 2 đơn vị cũng thân nhau chẳng khác gì người nhà. Lúc này anh Hai Trừ là chủ nhiệm thông tin của tỉnh đội và đ/c Ngọc cụm trưởng đài 15W của tỉnh vẫn thường qua lại thăm hỏi và giao lưu với cánh tụi tôi. Anh Hai Trừ còn mời chúng tôi về gia đình riêng ở kênh Sáng Phèn để thết đãi cơm và nhậu lai rai nữa…
Trên kênh Nước Mắm là nơi đóng quân của đoàn văn công tỉnh Kiến Phong, lúc này do anh Thanh Tùng làm đội trưởng (anh Thanh Tùng sau này về làm phó chủ tịch UBND tỉnh Đồng Tháp, hiện nay đã nghỉ hưu và đang sinh sống tại thành phố Cao Lãnh). Đội văn công của tỉnh Kiến Phong khi ấy đã có khoảng gần 30 người cả nam lẫn nữ. Ngoài những dụng cụ cần thiết phục vụ cho công tác chuyên môn (như đàn, trống, sáo…) mỗi người chiến sĩ văn công còn được trang bị súng đạn để sẵn sàng đánh địch, vì vậy, mỗi khi gặp, nhìn cánh “nghệ sỹ” còn “oai” hơn cả cánh lính tụi tôi (vai đàn, vai súng).
Thời gian này, các đơn vị bộ đội được thay phiên nhau đến xem chương trình văn nghệ do đoàn văn công tỉnh Kiến Phong phục vụ tại kênh Sáng Phèn.(Một đơn vị mỗi lần xem cũng chỉ được 1/3 quân số, còn lại thì sẵn sàng chiến đấu.)
8h tối ngày 28/10/1974, bộ đội ta từ nhiều hướng trên những chiếc xuồng ba lá đã tập trung về “Nhà hát” trên kênh Sáng Phèn vùng Đồng Tháp Mười nước ngập mênh mông. Bộ đội được hướng dẫn đậu xuồng sát vào nhau tạo thành đoàn khán giả mấy trăm người “chòng chành” trên những chiếc xuồng bé nhỏ.
Sân khấu của đoàn văn công cũng gồm hàng chục chiếc xuồng liên kết lại và trải một lớp ván gỗ trên những be xuồng. Chỉ có 2 chiếc đèn Măng xông cung cấp ánh sáng (có người trực sẵn nếu nghe tiếng máy bay địch là tắt đèn ngay).
Lần đầu tiên chúng tôi được xem chương trình biểu diễn nghệ thuật trên vùng sông nước, các ca sỹ, nghệ sỹ biểu diễn lắc lư trên “nhịp điệu” của dàn sân khấu: “nếu không điêu luyện thì té lăn nhào, bổ ngửa là cái chắc”. Tôi ấn tượng nhất là điệu múa bông sen do 8 cô gái biểu diễn được hầu hết khán giả vỗ tay tán thưởng. Thật đúng là trên chiến trường Miền Nam các chị các em của đội quân tóc dài làm cái gì cũng giỏi và luôn sát cánh cùng đội quân của Dân tộc suốt cuộc trường chinh để làm nên thắng lợi vang dội năm châu, chấn động địa cầu.
Ngay đầu tiếp nối của kênh Nước Mắm với kênh Sáng Phèn là bộ phận dân y của tỉnh Kiến Phong gồm bác sỹ Cầm (bác sỹ Cầm sau này về làm giám đốc bệnh viện đa khoa tỉnh Đồng Tháp), bác sỹ Chi (sau này về làm giám đốc bệnh viện đa khoa tỉnh Bến Tre), dược sỹ cao cấp Kim Yên (sau này về làm giám đốc xí nghiệp dược Trung Ương tại Hà Nội). Cả 3 người đều tốt nghiệp Đại học y dược Hà Nội năm 1973 và được điều vào chiến trường bổ sung cho tỉnh Kiến Phong. Lúc đó vùng giải phóng nhân dân còn thưa thớt nên lực lượng dân y tỉnh kiến phong chủ yếu hỗ trợ quân y, cấp cứu cho thương bệnh binh. Ban chỉ huy đại đội thông tin chúng tôi rất thân với cánh dân y này. Chúng tôi thường xuyên qua lại thăm nhau, tổ chức những bữa tiệc nhẹ và lúc nào cũng dành một sự ưu ái số 1 cho Kim Yên “người nữ chiến sĩ khoa học trên chiến trường”.
Vào cuối năm 1974, đầu năm 1975 tình hình trên chiến trường đang hết sức khẩn trương. Trung đoàn vừa đứng chân củng cố xây dựng lực lượng vừa học tập, chỉnh huấn, quán triệt các nghị quyết của bộ chính trị và quân ủy trung ương, vừa tổ chức đánh địch, tiêu hao, tiêu diệt sinh lực địch vùng xung quanh địa bàn đứng chân của trung đoàn. Cả 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3 vẫn được giao nhiệm vụ tập kích những đồn bốt như:Bà Vững, Chín Cai, Kinh Nhất, đồn Gãy… tiêu diệt nhiều sinh lực địch…(Bạn đọc có thể xem bài viết của Hồ Tĩnh Tâm CCB E 207 viết về trận đánh đồn Gãy đã đăng trên trang web E207.net)
Đặc biệt, tại trận đánh đồn Bà Vững, trung đoàn đã sử dụng đại đội trinh sát do đ/c Phan Xuân Thi làm chính trị viên (lúc này đ/c Thi đã được điều từ C5 tiểu đoàn 2 về C21). Mặc dù gần 40 năm đã trôi qua nhưng những hình ảnh, diễn biến của trận đánh đồn Bà Vững vẫn in sâu trong tâm trí người CCB Phan Xuân Thi hiện là trưởng ban liên lạc ban chiến đầu trung đoàn 207.
Vào khoảng tháng 1/1975, hôm ấy là ngày 28 tết âm lịch, bộ đội ta được lệnh xuất kích.
Đồn Bà Vững nằm trong địa bàn huyện Kiến Văn tỉnh Kiến Phong (nay là huyện Cao Lãnh tỉnh Đồng Tháp). Đồn do một đại đội Bảo An của địch chiếm giữ nằm thoi loi giữa cánh đồng vùng Đồng Tháp Mười, xung quanh lau sậy, cỏ đưng mọc um tùm. Đồn nằm trên một gò cao có kích cở 200 x 200m, bên trong đồn là hệ thống lô cốt bằng bê tông cốt thép, xen lẫn bao cát, có 6 lớp rào dây kẽm gai, xen lẫn bãi mìn dày đặc bao quanh. Trung tâm đồn có trận địa cối 82 ly và 60 ly, đồn còn được 2 trận địa pháo Mỹ An và Kiến Văn bắn chi viện …
Lúc này ở hướng lộ 30 có 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn đóng dã chiến do vậy trung đoàn đã quyết định sử dụng lực lượng như sau:
C21 +C25 tiến hành vây ép đồn Bà Vững để nhử cho 2 tiểu đoàn địch đến cứu viện.
Tiểu đoàn 2 + tiểu đoàn 3 lập thành trận địa phục kích bên ngoài sẵn sàng đánh quân tiếp viện trên bộ hoặc bằng máy bay đổ bộ đường không.
Đại đội 16, 18 lập thành trận địa vừa bắn phá đồn Bà Vững vừa bắn máy bay trực thăng hoặc quân địch chi viện.
Đêm 29 tết, bộ đội ta đã vào hết vị trí chiếm lĩnh tiến hành đào công sự. Vì đang mùa khô nên rất có lợi cho bộ đội ta… công sự vừa sâu vừa có nắp để tránh thương vong do đạn cối pháo của địch.
2h sáng đêm 29 tết, cối 82 của ta bắt đầu nả đạn vào đồn Bà Vững (bắn theo kiểu cầm canh). Cối 81 trong đồn địch cũng phản pháo ngay về hướng trận địa ta… Suốt đêm hôm đó 2 bên đấu pháo nhưng chẳng có quy luật gì. Trận địa pháo của ta lại thường xuyên di chuyển làm cho pháo của địch “tức tối điên cuồng”.
Sáng 30 tết, bọn địch bắt đầu hoảng sợ vì phát hiện chúng đã bị bao vây bởi những công sự, hầm hào của quân giải phóng gần như khép kín bao quanh chúng. Bộ đội ta vẫn chưa được lệnh xung phong vì chưa có cửa mở. Suốt ngày hôm đó, ta vẫn ẩn mình dưới các công sự, ăn cơm nắm và mỗi người có một bình tông nước do hậu cần cung cấp.
Đêm 30 tết, ta quyết định thay đổi cách đánh để tiết kiệm đạn cho pháo binh ta.
Đại đội trinh sát dùng 2 cây tràm cắm thật sâu xuống đất. Hai sợi dây thun to bằng bắp tay (do những cọng thun kết lại) được buộc vào 2 đầu cây tràm tạo thành nạng dàn thun (giống như nạng thun để bắn chim của những em bé). Cách đánh này cánh du kích vùng miền Tây rất hay dùng. Muốn bắn một quả lựu đạn xa vài trăm mét các chiến sĩ phải sử dụng cùng một lúc rất nhiều người (một người 2 tay nắm thật chặt quả lựu đạn đã được choàng sợi dây thun vào. Kéo căng ra… Người thứ 2 ôm bụng người thứ nhất tiếp sức… rồi tiếp tục người thứ 3, thứ 4… giống như trò chơi rồng rắn của đám trẻ nhỏ. Khi sợi dây thun đã căng hết cỡ, một người khác rút chốt và người kia buông tay… lựu đạn được lao đi …bay rất xa và nổ ngay trong trung tâm đồn địch (bọn địch rất sợ kiểu đánh này vì chúng cứ nghĩ đó là cách đánh của đặc công).
Rồi cuối cùng bọn địch cũng đã phát hiện được “trận địa pháo” của đại đội trinh sát. Đúng lúc giao thừa của năm 1974 bước sang năm 1975, hàng trăm quả đạn pháo 105 ly bao trùm lên trận địa của đại đội trinh sát. Chiếc hầm hình chữ nhật do đồng chí Phan Xuân Thi và đ/c Trương Công Đản (lính thông tin 2w của trung đoàn tăng cường) “ăn” gọn quả pháo 105ly sập một góc hầm. Nhưng rất may cả Thi và Đản đều vô sự.
Trận địa vây ép của ta vẫn tiếp tục… 2 tiểu đoàn lính sư 7 của địch chắc đã phát hiện được trận địa phục kích của trung đoàn nên chúng không dám giải cứu cho đồn Bà Vững.
Ngày mùng 3 tết, đại đội đặc công đã bí mật dùng cách đánh táo bạo tiêu diệt gọn đồn Bà Vững, trận này đại đội đặc công chỉ sữ dụng 7 chiến sĩ do chính trị viên trưởng Vũ chí Nghiêm trực tiếp chỉ huy, chỉ huy phó là Đ/C Mạc Trung Tuyến, trận đánh diễn ra trong khoảng 10 phút, do các đồn bốt xung quanh bị vậy ép mấy ngày qua, nên bọn lính trong đồng Bà vững ở trong tư thế chạy, vì vậy ngay sau khi bộc phá lệnh nổ, bọn lính đã kêu nhau chạy sạch, vì vậy lính đặc công không rút ra ngay như bình thường, mà thông báo cho du kích đang ém gần đó vào tiếp quản đồn và thu vũ khí, còn lính đặc công chúng ta thu chiến lợi phẩm, trận đó đại đội đặc công lấy được cơ man là gạo, cá khô và bắt được cả 1 con chó khoảng 15 kg, về thịt ăn mừng ngay sáng hôm đó. Trận này ta không thương vong, bọn lính trong đồn chạy hết, sáng ra đếm được 3 (4) xác chết, và bắt sống 1 thằng bị thương chạy không kịp, giao lại cho du kích địa phương.
Như vậy thời gian này đồn Bà Vững nằm trên địa bàn tỉnh Kiến Phong đã bị trung đoàn 207 xóa sổ… Vùng giải phóng của ta tiếp tục được mở rộng.
ĐÁNH CHIẾM CHI KHU NGÃ SÁU, CHẶN VIỆN TRÊN CÁNH ĐỒNG BẰNG LĂNG
"Hỡi tuổi trẻ như một rừng cây lớn
Nhận nắng trời gió bão đầu tiên
Hãy đến đây làm người lính trung kiên
Trong đội ngũ những người đi cứu nước
Hãy đứng dậy! Và giơ cao ngọn đuốc!
Của tình yêu đã khơi lửa ngàn đời
Hãy nhận mặt quân thù và xuất kích hôm nay
Giành chiến thắng và làm nên hạnh phúc!"... (Mặt đường khát vọng – Nguyễn Khoa Điềm)
Đầu năm 1975 cục diện chiến trường đã thay đổi có lợi cho ta và bất lợi cho địch. Ý thức cách mạng của nhân dân trong vùng giải phóng có nhiều dấu hiệu “khởi sắc”.
Ngày ấy ở tỉnh Kiến Phong nay là tỉnh Đồng Tháp có tiểu đoàn 502 trực thuộc tỉnh, trong tiểu đoàn có rất nhiều thanh niên địa phương tham gia chiến đấu. Tuy nhiên, mặc dù là bộ đội địa phương tỉnh nhưng tới gần phân nửa quân số là thanh niên miền Bắc tăng cường vào và hiện nay vẫn còn rất nhiều đồng chí đang sinh sống tại nơi này (anh Ba Trọng - đại tá, nguyên Giám đốc nông trường Giồng Găng quân đội, anh Ba Hoạt nguyên Huyện đội trưởng Huyện đội Thanh Bình, anh Duy Tân phóng viên báo Đồng Tháp).
Đặc biệt có anh Mười Họa, quê quán tại huyện Kiến Xương tỉnh Thái Bình, lúc mới 27 tuổi đã là Tỉnh đội phó kiêm Tham mưu trưởng Tỉnh đội Kiến Phong. Anh Mười Họa là một trong những vị chỉ huy trẻ tuổi, tài ba, từng làm cho kẻ thù ở vùng này phải nể mặt. Anh Họa hi sinh tại Kênh Ba, Tháp Mười trong một lần đi điều nghiên bị địch phục kích, để lại niềm tiếc thương và cảm phục vô bờ của cán bộ chiến sĩ tỉnh đội tỉnh Kiến Phong.
Lực lượng thanh niên trong vùng giải phóng bây giờ đã nô nức và tự giác tòng quân, tham gia lực lượng địa phương quân và bổ sung cho các đơn vị chủ lực. Một gia đình tại khu vực đóng quân của đơn vị tôi, có 2 người con trai tên Giao và Xuân cùng đăng ký nhập ngũ một ngày. Và một gia đình có người con gái tên Hoa cũng tham gia tòng quân giết giặc. Riêng các ba, các má, các chị thì sẵn sàng đóng góp của cải, vật chất để ủng hộ giải phóng, ủng hộ cách mạng.
Tại trung đoàn bộ lúc đó, luôn luôn có khách đến thăm, cứ “nườm nượp” đoàn này vừa đi đoàn khác lại đến: các tổ chức mặt trận, đoàn thể của ba tỉnh: Kiến Tường, Kiến Phong, Định Tường cứ đua nhau đến úy lạo cho bộ đội (Hình như đoàn nào đa phần cũng là chị em phụ nữ). Hàng hóa gồm đường, sữa, thuốc hút, bánh, trà. Nhiều đoàn còn có cả chiếc vỏ lãi chở hàng chục con heo. Hậu cần trung đoàn “không tiện từ chối”, cứ nhận rồi phân phối lại cho các đơn vị, do vậy cuộc sống của bộ đội ta lúc này đã khá lên rất nhiều…
Đêm đến các chuyến hàng quân sự do những đoàn dân công hỏa tuyến toàn chị em phụ nữ chèo xuồng ba lá và những chiếc tam bản (một loại xuồng lớn) chuyển từ biên giới xuống đủ các loại đạn: đạn nhọn, 12ly8, cối 61, cối 82, DKZ75, DK82, cối 120, cả H12, DKB và A72, có những quả đạn to bằng gốc chuối trắng phau cả liều phóng và đầu đạn nặng gần trăm ký. Chúng tôi ấn tượng nhất là những hầm súng, hầm đạn được hậu cần quân khu vận chuyển xuống từ lúc nào, giao cho cán bộ cơ sở của ta cất giấu ngay ven các đìa cá, bờ bao, đám nghể. Khi nhận vũ khí đạn dược, bộ đội ta chỉ cần vài du kích dẫn đường. Các đồng chí cơ sở lặn xuống nước và cứ thế moi lên những thùng súng AK, B40 + B41 vẫn còn mới toanh gói trong bọc ny lon phủ đầy lớp mỡ bò. Thế mới biết để chuẩn bị cho chiến dịch giải phóng hoàn toàn Miền Nam bộ chỉ huy chiến dịch và lực lượng hậu cần quân đội đã chuẩn bị khá chu đáo một lượng vũ khí và đạn dược trang bị cho bộ đội của ta đủ sức đè bẹp Quân lực Việt Nam Cộng hòa.
Nơi đóng quân của chúng tôi cũng nằm trong tuyến hành lang giao liên tỏa đi khắp chiến trường miền Tây Nam Bộ, và cửa ngõ phía nam Sài Gòn nên rất nhiều đoàn quân của bộ đội chủ lực thuộc quân khu và quân ủy miền nối tiếp hành quân qua đây. Nhiều lúc bộ đội còn hành quân cả ban ngày vì kênh rạch có nhiều cây cối che phủ và máy bay địch lúc này cũng ít hoạt động. Nhìn cánh lính bơi xuồng hành quân, chúng tôi biết ngay là cánh lính mới toe từ ngoài miền Bắc bổ sung vào và vừa từ biên giới CPC xuống. Họ giống như chúng tôi những năm về trước, quần áo gabadin và nón cối vẫn còn mới cảo. Những chiếc xuồng ba lá lướt trên kênh rạch chẳng có hàng ngũ gì, chỗ thì dồn cục, chỗ thì vắng tanh. Nhiều chiếc xuồng đâm ngang, đâm dọc, đâm cả vào nhau, các chiến sĩ còn quá trẻ, cứ hồn nhiên nghịch ngợm, nhốn nháo ồn ào cả một vùng sông nước… Chợt gợi nhớ tới cảnh hành quân ở Trường Sơn… “vùng rừng núi và vùng sông nước khác nhau nhiều quá”…
Hành quân trên đường Trường Sơn thường là bằng đường mòn, khi gặp ngã 3, để các bộ phận phía sau không bị lạc đường các đồng chí giao liên bẻ cành cây chặn ngang đường nào là đường đó bị “cấm”. Còn hành quân bằng xuồng trên kênh rạch khi gặp ngã ba kênh nhìn đoạn trước có dây chuối khô giăng ngang mặt kênh là đoạn kênh này bị “cấm”…
Mặc dù thời gian đã qua đi gần 40 năm nhưng hình ảnh của người đồng đội, người chiến sĩ Nguyễn Văn Long vẫn còn như in trong tâm trí của người CCB Phan Xuân Thi
Ngày 2/3/1975 trung đoàn chỉ thị đích danh đ/c Thi (chính trị viên đại đội trinh sát) về Tân Lèo (thuộc biên giới VN-CPC) để dẫn tân binh về bổ sung cho trung đoàn. Thi chọn đ/c Long trinh sát viên quê Quảng Ninh cũng lính tân binh mới được bộ sung trước đó ít ngày. Vậy là 2 người lặn lội …cắt góc phương vị đi làm nhiệm vụ quan trọng do chính đ/c trung đoàn trưởng và chính ủy giao. Trời rất tối nên Thi và Long chỉ nhờ chiếc La Bàn và những vì sao để định hướng thẳng tiến về hướng biên giới. Khi vượt qua kinh Phước Xuyên.
Đoạn kinh này nước rất sâu nên Thi hỏi Long “có biết lội không” Long trả lời “có ạ”. Thi yên tâm vượt qua kinh trước. Tới bờ bên kia quay đầu lại không thấy Long đâu! Kinh nghiệm cho Thi biết rằng đồng đội đã bị đuối nước. Thi bơi rất giỏi nên vội nhào xuống kinh mò và rất may nắm được ngón chân cái của Long lôi vào bờ và đưa lên khỏi mặt nước. Long đã uống nước nhiều… nhưng may mắn chưa bị ngạt nước dù cái chết cũng chỉ còn trong gang tấc. Sau đó hai người tiếp tục lên đường hoàn thành nhiệm vụ trên giao. Hiện nay đ/c Long sinh sống tại Quảng Ninh và hai người vẫn thường liên lạc với nhau bằng điên thoại (số điện thoại của Long 0913325996) Thi kể lại với tôi “cứ mỗi lần thấy số ĐT của Long hiện lên là lại nghe tiếng sụt sịt từ đầu máy bên kia và bên này Thi lại chảy nước mắt …
Ngày 6/3/1975, tôi và anh Năm Thắng được mời dự họp quân chính do Đảng ủy và ban chỉ huy trung đoàn triệu tập.
Bộ chỉ huy chiến dịch và quân khu quyết định sử dụng trung đoàn 24 đánh đồn Ngã Sáu, một đồn quan trọng án ngữ tuyến hành lang giao liên vận chuyển vũ khí và chuyển quân của ta (đồn này trước đây do Mỹ đảm nhiệm và sau này chuyển giao cho quân Ngụy Sài Gòn).
Khu đồn này, nằm ở chỗ giao nhau của 3 con kênh: kênh Nguyễn văn Tiếp, kênh Bằng Lăng và kênh Tổng Đốc Lộc, theo kênh tổng Đốc Lộc về hướng Bắc gặp quốc lộ 1 (QL 4 cũ) về hướng Nam, gặp thị trấn Mỹ an, phía bên kia ngã sáu là đồn giặc do một tiểu đoàn bảo an trấn giữ, và 1 đại đội pháo 105 ly gồm bốn khẩu, ngoài ra còn 1 đại đội dân vệ, đồn này cách căn cứ Đồng tâm Mỹ tho chỉ 50 km theo đường chim bay, Đồng tâm là căn cứ của sư đoàn 7 bô binh quân đội VNCH. Đối diện với đồn Ngã sáu là chợ Ngã sáu và khu hành chính của xã Hậu Mỹ.
Bộ tư lệnh sư đoàn 8 quyết định sử dụng trung đoàn 207 và trung đoàn 320 đánh chặn viện (vì biết chắc chắn sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn sẽ không chịu để mất Ngã Sáu), trung đoàn 88 làm nhiệm vụ dự bị.
Đây là một trận đánh có tính chất quyết định với toàn chiến dịch tổng tấn công của ta. Theo tài liệu Lịch sử quân đội, thì trận này được ví như cuộc mở màn chiến dịch giải phóng miền Nam ở đồng bằng, sau trận tấn công Buôn ma thuột ngày 10/3/1975. vì sau trận này, địch không dám điều quân lên ứng cứu cho Tây nguyên.
17h ngày 10/3/1975, chúng tôi được lệnh cùng sở chỉ huy trung đoàn hành quân. Có xuồng của trinh sát và giao liên dẫn đường, chúng tôi len lỏi qua nhiều kênh rạch và dừng chân cách đồn Ngã Sáu khoảng 4km.
Cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 2km là một cánh đồng, có tên gọi Bằng Lăng. Vì đang giữa mùa khô nên rất thuận tiện làm bãi đáp cho lũ trực thăng và nơi này được dự kiến địch sẽ dùng trực thăng đổ bộ để cứu viện Ngã Sáu, khu vực này chỉ cách Ngã Sáu khoảng 2km.
24h, 10/3/1975 các đơn vị đã vào hết vị trí tập kết và bí mật đào công sự.
Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân có cây cối rậm rạp ven kênh và xen lẫn nhiều nhà dân (Nhà cất tạm bợ của nhân dân vùng giáp ranh giữa ta và địch), nhà thấp nhỏ lợp bằng lá dừa nước khung nhà toàn bằng gỗ tràm, nhưng nhà nào cũng có hầm trú ẩn để tránh bom pháo hoặc đạn nhọn). Gọi là sở chỉ huy tiền phương nhưng tất cả hành trang đều mang theo hết, nên mỗi cán bộ chiến sĩ ngoài súng đạn và những vật dụng cần thiết còn có cả bồng, ba lô “của cải bất ly thân mà”.
2h sáng ngày 11/3/1975, chúng tôi đã hoàn thành chiếc hầm dã chiến cho tổ đài 2w, có giao thông hào thông sang hầm của trung đoàn trưởng Năm Thời và chính ủy Ba Trứ. Cụm đài 15w được bố trí xa hơn, độ 50m. Kíp làm việc của các đồng chí báo vụ đã mở máy thu phát sóng. Trung đội hữu tuyến đã kéo xong đường dây từ sở chỉ huy trung đoàn đến tận các ban chỉ huy tiểu đoàn (trong tác chiến nếu ở cự ly gần thì liên lạc bằng hữu tuyến thì an toàn và bí mật nhất).
Cả 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3 đã vào hết vị trí theo quy định.
Riêng đại đội 25 đặc công E207 được giao nhiệm vụ tấn công khu vực hành chính của xã này, bao gồm chợ, nhà làm việc của chính quyền cũ. Đại đội đặc công đã đánh chiếm và chốt giữ đến sáng hôm sau, thì được lệnh rút ra cách chợ khoảng 1 km.
Ban chỉ huy tiểu đoàn 3 báo về sở chỉ huy: bộ đội đã bí mật đào hầm “độn thổ” (hầm có nắp, trên được phủ bằng cỏ cây, rơm rạ).
Trận địa 12ly8, DKZ, cối 82 và cả cối 120 ly của sư đoàn tăng cường cũng đã bố trí xong trận địa.
2h30 ngày 11/3/1975 căn cứ Ngã Sáu nhì nhằng chớp lửa và những âm thanh ì ầm rền vang: “trung đoàn 24 đã vào trận” (có sự phối hợp của tiểu đoàn 1 và C25 thuộc trung đoàn 207).
4h, một công điện từ sư đoàn chuyển xuống qua đài 15w. Tại sở chỉ huy trung đoàn trên nét mặt ai cũng mừng vui: “đồn Ngã Sáu đã hoàn toàn rơi vào tay quân giải phóng”. Tiểu đoàn 1 được lệnh rút ra nhập vào đội hình phục kích của trung đoàn.
8h sáng ngày 11/3/1975, địch cho nhiều phi vụ máy bay phản lực ném bom quanh khu vực Ngã Sáu bởi chúng biết rất rõ là bộ đội ta đang làm nhiệm vụ chốt chặn để bảo vệ thành quả cách mạng mà biết bao xương máu của đồng đội trung đoàn 24 đổ xuống mới giành được từ tay kẻ thù.
Khoảng 10h sáng ngày 11/3/1975, lại một công điện từ bộ tư lệnh sư đoàn. “Hai tiểu đoàn địch hành quân trên bộ từ quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1) đến cứu nguy hòng chiếm lại đồn Ngã Sáu đã lọt vào trận địa phục kích của trung đoàn 320 cách đồn Ngã Sáu khoảng 9 km, bộ đội ta đã nổ súng”.
Khoảng 12h ngày 11/3/1975, lại có công điện thông báo của sư đoàn, ”trung đoàn 320 đã đánh thiệt hại 2 tiểu đoàn địch và đẩy lùi chúng về hướng quốc lộ 4. Trên nét mặt của trung đoàn trưởng Năm Thời và chính ủy Ba Trứ hiện lên một nỗi niềm vui, buồn đan xen. Tất cả chúng tôi cũng đều có tâm trạng giống như 2 anh…
Hai trung đoàn bạn đã lập chiến công vang dội vậy mà cánh tụi tôi giờ này vẫn “ngồi chơi xơi nước”. Nhìn anh năm thời mặc bộ quần áo Polyphang màu xanh rêu cứ đi đi lại lại trong căn hầm lộ thiên và không ngừng giơ tay xem đồng hồ… chúng tôi hiểu được anh đang sốt ruột muốn được xung trận cùng các đơn vị bạn lập công…
Đã 13 giờ, anh Ba Trứ tặc lưỡi: “hay là phương án sư đoàn giao cho trung đoàn 207 bị lộ rồi”... Một nỗi lo âu trên khuôn mặt của các vị chỉ huy… Tôi thầm nghĩ: “Làm gì mà mấy bố cứ cuống lên… Đánh giặc mà cứ như đi chia phần…”
Đúng 13h30, từ ngoài trận địa báo về, chiếc OV10 đảo nhiều vòng trên cánh đồng…
14h kém 15, trên 20 máy bay trực thăng ào ào lao đến rồi sà ngay xuống giữa cánh đồng và không đầy 30 phút, khoảng 60 lượt chiếc trực thăng chuyên chở đã đổ 2 tiểu đoàn thuộc sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn thành nhiều cụm trên cánh đồng, nơi mà cán bộ chiến sĩ 207 suốt đêm và ngày nay phải ẩn mình trong lòng đất ăn lương khô và gạo sấy chờ chúng.
Từ ngoài trận địa báo về “ máy bay địch đã ngừng đổ quân và lũ bộ binh đã chia thành nhiều mũi đang hành tiến về hướng đồn Ngã Sáu.”
Nơi án ngữ trước mặt quân địch là trận địa tiểu đoàn 3, một bên sườn là tiểu đoàn 2, tiểu đoàn 1 nằm thê đội dự bị.
Khoảng 14h30, trận địa phía D3 đã nổ súng. Đại đội 12ly8 được tăng cường cho hướng này đã hạ nòng rà sát mặt ruộng “cùng cùng” nhả đạn và chỉ lát sau, lũ máy bay phản lực F4 đã chúi đầu ném bom. Trực thăng vũ trang cũng ào ào lao đến phóng đạn rocket, trận địa D3 bị bom và rocket của máy bay địch cày xới tan hoang. Cây cối đổ ngổn ngang, nhiều nhà tạm của dân cũng bị trúng bom địch bốc cháy ngút trời.
Khoảng 15h, lũ bộ binh địch đã tiến sát trước mặt trận địa tiểu đoàn 3. Đạn M79 của địch nổ ngay sát mép công sự của bộ đội ta.
Từ ngoài trận địa tiểu đoàn 3 báo về, bộ đội ta đã có thương vong nhưng không đáng kể.
Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn: “Phải bằng mọi giá giữ vững trận địa”. Trung đoàn trưởng Năm Thời và chính ủy Ba Trứ trực tiếp cầm tổ hợp máy hữu tuyến, nhận những báo cáo khẩn cấp của các tiểu đoàn từ ngoài trận địa.
Địch tổ chức nhiều mũi đột kích vào trận địa phòng ngự D3, bọn chúng ỷ có bom của máy bay phản lực, rocket của trực thăng vũ trang dọn đường, chúng lao vào trận địa D3 như một lũ thiêu thân, tốp này lùi ra, tốp khác lại lao tới.
Đúng 16 giờ, lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn cho 2 tiểu đoàn 1+2 xuất kích, bám sát địch, hai gọng kềm của ta tạo thành hình thái bao vây dồn quân địch vào giữa. Cối 120ly của sư đoàn cũng đã phối hợp dồn dập. Cối 82 của trung đoàn và các tiểu đoàn, cối 61 của các đại đội bộ binh cũng đồng loạt nhả đạn vào đội hình địch. Cánh đồng trống, rộng 2-3 km2 mịt mù khói đạn của pháo binh ta… Sau khoảng 30 phút, bọn địch chịu quằn quại dưới làn đạn pháo đủ các cỡ. Lúc này, cả 3 tiểu đoàn 1 +2+ 3 của E207 được lệnh thoát khỏi công sự đánh vận động, Địch lớp chết, lớp bị thương, số sống sót quay đầu tháo chạy. Bộ đội ta truy kích tiêu diệt địch, khi chiến thắng trở về, các chiến sĩ ta cười vui vẻ và nói: “Hôm nay đuổi bọn chúng chạy như vịt”.
17h30, tin chiến thắng từ ngoài trận địa báo về, ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa, xác địch chết bỏ lại nằm ngổn ngang trên khắp cánh đồng. Số sống sót đã lùi ra xa và cụm lại để chờ máy bay trực thăng đến cứu viện đem về hậu cứ.
Vậy là mở đầu cho chiến dịch Hồ Chí Minh, nằm trong chiến dịch xuân 1975 tại khu vực Ngã Sáu, trung đoàn 207 đã đánh thiệt hại nặng và gần như xóa sổ 2 tiểu đoàn thuộc trung đoàn 10, sư đoàn 7 quân Sài Gòn, thu rất nhiều vũ khí, quân trang, quân dụng. Cả trung đoàn bừng lên một khí thế đánh giặc lập công cùng với các đơn vị bạn trên khắp các chiến trường chuẩn bị cho nhũng trận đánh tiếp theo. Bước vào cuộc chiến đấu gay go và khốc liệt cuối cùng…
Một điều ngẫu nhiên, là trung đoàn 10 – sư đoàn 7 quân đội VNCH chính là trung đoàn đã tập kích trung đoàn 207 của chúng ta trong trận ngày 03/10/1973 tại rừng tràm Đá Biên – xã Thạnh Phước - Thạnh hóa - Long an. Sau trận Ngã sáu – Bằng Lăng, mối hận của E207 tại trận đánh Đá Biên cũng đã nguôi ngoai phần nào…
CHÚNG TA KHÔNG THỂ NÀO QUÊN, NHƯNG CHÚNG TA CÓ THỂ THA THỨ CHO KẺ BẠI TRẬN…
Ghi chú: Dưới đây là một đoạn trong blog của một sỹ quan chỉ huy của trung đoàn 10 – sư đoàn 7 QL VNCH còn sống sót sau trận Ngã sáu – Bằng lăng, có những đoạn như sau:
“…
NGÀY 20.12.10
Tiểu đoàn thuộc Trung đoàn 10/SĐ 7 BB, (mà tôi là 1 SQ) đả lọt ổ phục kích tai hại giữa ban ngày trên đường tiếp cứu cho đồn Ngã 6. Từ hơn 36 năm qua, tôi đả cố gắng tìm tòi thông tin về trận đánh này nhưng vô ích.
Tiểu đoàn 2, trung đoàn 10 SĐ 7 bb QLVNCH, mà tôi phục vụ, đả gần như bị xóa sổ vào khoảng giữa tháng 3/1975 khi đi tiếp cứu cho đồn kinh ngả sáu (đồn này do 1 đđ đpq trú đóng với 4 khẩu 105 ly, có tên là đồn kinh ngả 6 vì là nơi mà 3 con kinh giao nhau) bị cs chiếm trước đó 1-2 ngày. xuất phát từ kinh bằng lăng, con kinh chạy từ ql 4 đến quận hậu mỷ, tđ di chuyển về hướng tây để đến đồn kinh ngả 6. (sau này, tôi được biết một số tđ khác của sđ 7 củng tham gia cuộc tiếp cứu này bằng đường bộ hay trực thăng vận theo các hướng khác nhau). có lẻ do ông trung đoàn trưởng chủ quan khinh địch, củng như tin tức về địch không đầy đủ, tđ đả tiến về đồn ngả sáu bằng 3 cánh quân vào ban ngày trên 1 địa thế trống trải, với ruộng lúa đả gặt xong, nước lấp sấp với một vài mương nước ngang dọc. Di chuyển một lúc, tđ bị pháo bằng cối 102 và 81 ly và sau đó địch đả dùng đại liên 12.8 ly. Khi thấy địch dùng súng này, tôi biết địch chuẩn bị xung phong. Là 1 sq ban 5, tuy ko chỉ huy 1 đơn vị nào, tôi ko nằm mẹp xuống đất để tránh đạn mà ngồi quan sát. Nhờ vậy tôi mới thấy địch quân xuất hiện dầy đặc phía trước và hông phải của tđ. Chúng xuất hiện hàng hàng lớp lớp. Do địa thế trống trải, tđ chỉ có thể tạt về phía trái để tìm chổ chống cự.”
“ Là Việt Nam chống Mỹ
Chúng tôi gánh trên vai hành trang nặng nề của thế kỷ
Để bạn bình tâm bước vào ngưỡng cửa Tự do...
…Người dạy chúng tôi
Hãy bền gan đánh giặc
Dẫu phải chết cũng không khuất phục:
"Không có gì quý hơn Độc lập, Tự do!"
(Trích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm)
ĐÁNH CHIẾM ĐỒN NGÃ TƯ THANH MỸ
Chiến thắng Ngã Sáu Bằng Lăng là một chiến công to lớn của ta ở vùng Đồng Bằng sông Cửu Long, làm nức lòng quân và dân 3 tỉnh: Định Tường, Kiến Phong, Kiến Tường.
Thời kỳ này đang là cao điểm mùa khô nên bộ đội ta mỗi lần di chuyển rất khó khăn (nửa bộ, nửa xuồng).
Các kênh lớn có độ sâu nên bộ đội ta vẫn hành quân được bằng xuồng. Ngược lại các kênh rạch nhỏ khi nước thủy triều lên thì lòng kênh rất sâu, rất thuận lợi cho bộ đội ta di chuyển bằng phương tiện đường thủy nhưng khi thủy triều rút xuống thì lòng kênh cạn kiệt có chỗ nước chỉ còn ngang đầu gối. Bộ đội hành quân trong một ngày một đêm 24 giờ có hai lần lên xuống như vậy. Do đó việc hành quân di chuyển của bộ đội ta phụ thuộc rất nhiều vào sự tính toán của các vị chỉ huy để hạn chế đến mức thấp nhất cho bộ đội ta không bị mất thời cơ vào chiến dịch và cũng đỡ vất vả.
Giữa tháng 3 năm 1975, cơ quan trung đoàn bộ đóng xung quanh khu vực Mỹ Thiện. Ở đây cây cối rậm rạp, xanh tươi, đan xen có những vườn cây ăn trái. Do dân cư vẫn còn thưa thớt nên dưới các kênh rạch cá tôm nhiều vô kể. Chúng tôi đã chứng kiến cách bắt cá của nhân dân vùng này đặc biệt là loại cá chốt. Họ chẳng cần vó, lưới, lợp gì cả. Chỉ với chiếc xuồng ba lá và con mắm (loại mắm cá lóc còn nguyên con, cũng không cần to lắm chỉ bằng ngón chân cái là được), các chị, các cô ngồi trên chiếc xuồng ba lá, nghiêng về một bên tay trái cầm con mắm thả lập lờ trên mặt nước, đàn cá chốt thấy mùi bu lại “lúc nhúc”. Có khi rộng bằng cả mấy chiếc chiếu. Vậy là mấy ngón tay của bàn tay phải các chị quấn vải lại (cho khỏi trơn) và cứ vậy nắm râu cá chốt thảy lên xuồng. Thời gian chỉ vài tiếng đồng hồ là chiếc xuồng ba lá đầy cá chốt, muốn khẳm.
Cánh chúng tôi không quen bắt cá kiểu này thì kiếm chà gai hoặc nhánh cây bó lại như bó củi cột lại bằng dây rồi quẳng xuống nước ven các kênh rạch. Một đầu dây kia buộc vào cọc hoặc gốc cây trên bờ kênh để cho bó chà khỏi lạng đi xa. Buổi tối thả xuống, sáng hôm sau kéo bó chà lên, giũ ra là trong bó chà đã có được từ 2 – 3 ký cá, đủ các loại: cá rô, cá chốt, cá sặt, cá trê… Do vậy một bếp ăn sẽ tùy theo quân số để tính toán làm chà bắt cá.
Gặp những đìa cá, nhân dân đã khai thác, nước trong đìa chỉ còn đến bụng nhưng cá lóc (cá chuối) vẫn còn nhiều vô kể.
Anh Năm Thắng và đ/c Nói là hai “tay” bắt cá cự phách.
Bữa đó 3 chúng tôi quyết định “trổ tài”, kéo thêm đồng chí Tốt liên lạc ra tận ngoài cánh đồng cách đơn vị đóng quân cũng gần cây số và gặp ngay một đìa cá bỏ hoang. Vậy là anh Năm Thắng ra lệnh “hành động”. Bốn chúng tôi bỏ súng đạn, quần áo trên bờ (chỉ mặc quần đùi) xuống đìa “tác nghiệp”. Anh Năm Thắng và đ/c Nói quậy tưng bừng làm cái đìa nước đục ngầu, các loại cá nhảy tưng tưng. Chờ một lát các anh mò theo những dấu chân dưới lớp bùn và lôi lên những chú cá lóc to bằng cườm tay, thảy lên bờ.
Tôi cũng theo chân các anh, lòm khòm thọc tay xuống qua lớp nước là xuống lớp bùn: “cá nhiều vô kể”. Tuy nhiên, do “kém tài” nên tôi loay hoay cả nửa tiếng đồng hồ mà vẫn chưa bắt được con cá nào. Lúc nắm phải đầu, lúc tóm phải đuôi. Nhưng nó chỉ quẫy một cái là đã vuột khỏi tay tôi bơi đi mất dạng. Tôi đổ quạu dùng cả 2 tay chộp cá nhưng ôi thôi vừa đút tay vào một lỗ hang thì tay tôi đau nhức muốn phát khóc. Rút tay lên khỏi mặt nước thì giữa lòng bàn tay trái máu chảy đầm đìa, anh Năm Thắng vội lao tới dìu tôi lên bờ đến đống quần áo móc túi lấy ra điếu thuốc ruby xanh vé vụn đắp vào vết thương cho tôi, anh nói “loại này cầm máu tốt lắm” và anh an ủi tôi: “Không sao đâu chắc bị gai cá trê đâm ấy mà”.
Cuộc bắt cá tạm đành phải dừng. Đồng chí Tốt lấy ngay quần dài buộc túm 2 ống quần lại rồi lượm cá dồn vào phải mấy chục ký, lệ khệ vác về tặng nhà bếp.
Trong suốt thời gian này, sau khi đánh chiếm hoàn toàn đồn Ngã sáu, các đơn vị bộ binh được nghỉ ngơi, tập huấn. riêng hai đại đội trinh sát C21 và đặc công C25 được giao nhiệm vụ trinh sát đồn Ngã tư Thanh Mỹ, đây là một đồn lớn, nằm trong hệ thống đồn bốt cùng với đồn Ngã sáu, nằm trên kênh 28 và kênh Nguyễn Văn Tiếp, là một hệ thống liên hoàn với đồn Ngã Sáu nhằm án ngữ và ngăn chặn tuyến giao liên bằng đường thủy của ta nên chúng bố phòng rất kiên cố. Đồn do 2 đại đội bảo an đóng giữ, xung quanh là 7, 8 lớp rào kẽm gai chằng chit và các bãi mìn, trong đồn là những lô cốt bằng bê tông cốt thép, xen lẫn những lô cốt bằng bao cát chất dày cả mét. Đồn được bố trí các loại trọng liên 12 ly 7. đại liên 30 và đủ các loại đạn nhọn, súng chống tăng M72. Trung tâm đồn là trận địa cối 106, 7, cối 81 và cối 60 ly.
Khi đồn Ngã sáu chưa bi diệt, thì hai đồn Ngã tư Thanh Mỹ và Ngã sáu của địch thường chi viện cho nhau, nay đồn Ngã sáu bị đã bị diệt, nên địch trong đồn Ngã tư Thanh Mỹ ra sức củng cố lại, tăng thêm viện, mở thêm các đồn tua (là một loại chốt nhỏ, bố trí xung quanh đồn, mỗi chốt có 3-5 tên địch chốt giữ, cách đồn chính khoảng 100-200m), làm cho việc trinh sát, điều nghiên gặp rất nhiều khó khăn. Song C25 đặc công và C21 trinh sát của trung đoàn 207 vẫn luồn lách điều nghiên kỹ lưỡng. Gần đến ngày nổ súng, C25 dẫn đường đưa các chỉ huy tiểu đoàn 2 - 3 và các chỉ huy đại đội trực thuộc như C16 hỏa lực, vào tận hàng rào ngoài cùng để nắm tình hình địch, và xác định vị trí sẽ tấn công.
17h, ngày 23/3/1975, trung đoàn bộ lại được lệnh hành quân. Vẫn bằng xuồng ba lá luồn lách qua những kênh rạch. Và dừng chân bên bờ kênh Nguyễn Văn Tiếp. Trung đoàn quyết định sử dụng tiểu đoàn 2 + 3+ C25 và toàn bộ hỏa lực chi viện đánh đồn Ngã Tư Thanh Mỹ.
Đồng chí Phan Xuân Thi nhớ lại: Để chuẩn bị cho việc đánh đồn Ngã Tư Thanh Mỹ, ngày 20/3 đại đội trinh sát nhận lệnh hành quân trước để bám địch giúp cho cán bộ chỉ huy nghiên cứu đồn Thạnh Mỹ. Khi còn cách đồn Thanh Mỹ khoảng 3 km, thì bỗng một loạt cối trong đồn bắn ra, trúng đội hình hành quân của đại đội trinh sát. Một quả nổ cạnh chiếc xuồng của đ/c Cương (lúc này đ/c Cương là đại đội phó đại đội trinh sát). Chiếc xuồng bị lật úp, đ/c Cương bị thương phần mềm còn 2 đ/c chiến sĩ đi chung xuồng vô sự. Sau này đ/c Cương lên làm đại đội trưởng trinh sát và đã hi sinh tại mặt trận phía Tây Nam năm 1979.
Khoảng 2h sáng ngày 25/3/1975 các đơn vị đã vào hết vị trí tập kết theo quy định, tiểu đoàn 2 chiếm lĩnh đào công sự từ hướng Nam, C25 từ hướng Đông, Tiểu đoàn 3 từ hướng Tây + Bắc. Hỏa lực 12ly 8 được tăng cường cho 2 tiểu đoàn trực tiếp chỉ huy. Trận địa cối 82 nằm ngay trước mặt sở chỉ huy trung đoàn.
Sở chỉ huy trung đoàn nằm cách đồn Thanh Mỹ khoảng 2km. Đây là khu vực dân cư nhưng nhà dân còn thưa. Nhà nào cũng lợp bằng lá dừa nước và có hầm trú ẩn tránh bom pháo.
Anh Năm Thắng theo sát cụm đài 2w nằm ngay cạnh hầm của anh Năm Thời và anh Ba Trứ. Tôi ở chung với cụm đài 15w, cách hầm của sở chỉ huy khoảng 50m.
Cạnh chiếc hầm lộ thiên của đài 15w. Cách khoảng 20m là một ngôi nhà dân nhỏ nhưng rất gọn gàng, sạch sẽ. Tôi quyết định cho một bộ phận ở lại trực đài còn lại tranh thủ chui vào nhà dân ở nhờ, tranh thủ chợp mắt để giữ sức khỏe cho những ngày sau.
Chủ nhà là một cô gái tên Hồng độ 24 – 25 tuổi, mặc bộ quần áo bà ba loại vải tuyết nhung (một loại vải rất đẹp thời đó các chị em phụ nữ miền Nam vẫn mặc). Căn nhà có 2 gian, vách ngăn cũng bằng lá. Chỉ có một chiếc giường bằng tre trong gian buồng nên chúng tôi phải trải tấm nilon xuống đất giăng mùng. Thấy có chiếc máy may thì tôi đoán cô chủ làm nghề thợ may.
4h kém 15, đ/c liên lạc đi với anh Năm Thắng đánh thức tôi dậy, tôi quơ đại khẩu súng ngắn và đến hầm của cụm đài 2w… Đúng 4h sáng, pháo các cỡ của ta được lệnh bắn phá đồn Thanh Mỹ. Cối 120 của sư đoàn tăng cường, cối 82 của trung đoàn. Đạn cầu vồng của ta nổ ì ầm trong căn cứ địch kèm theo những ánh chớp nhì nhằng.
4h30, pháo cầu vồng được lệnh ngưng bắn, bộc phá sào và mìn DH10 nổ tung phá tan nhiều đoạn rào dây thép gai, tạo ra những khu cửa mở quanh đồn chuẩn bị cho bộ đội xung phong. Đ/c Se trung đội phó hữu tuyến trực máy tại sở chỉ huy đưa tổ hợp cho anh Năm Thời và anh Ba Trứ. Tin tức truyền về: Bọn địch chống cự rất quyết liệt. Các loại cối pháo ở trong đồn tuôn đạn vào đội hình của bộ đội ta. Đạn 12ly7, đại liên 30 và các loại đạn nhọn, cũng tuôn ra các hướng cửa mở như vãi trấu, đạn M79 (cối cá nhân) nổ chát chúa… Bộ đội ta đã có thương vong.
Ta vẫn chưa đánh chiếm được cửa mở. 5h30 sau khi bàn bạc với chính ủy trung đoàn Ba Trứ, trung đoàn trưởng Năm Thời ra lệnh qua máy hữu tuyến, bộ đội ta chuyển sang vây ép để bảo tồn lực lượng, vậy là cả ngày hôm đó, bộ đội ta phải ẩn mình dưới các công sự ngay sát hàng rào địch. Cứ mỗi lần nghe pháo bắn thẳng của ta khai hỏa là đạn các cỡ trong đồn địch lại rộ mé tuôn ra các hướng. Đêm 25, bộ đột ta được lệnh tiếp tục áp sát trận địa địch. Số liệt sỹ và thương binh được C22 vận tải chuyển về phía sau. Rồi họ lại vận chuyển đạn dược ra bổ sung cho các trận địa. Suốt đêm hôm đó, pháo cầu vồng của ta tiếp tục bắn phá đồn Thanh Mỹ, pháo bắn thẳng khi phát hiện được hỏa điểm là lập tức khai hỏa tiêu diệt ngay.
Đêm 25, C25 đặc công được tung vào trận, do bị vậy ép cả ngày, nên bọn địch trong đồn rất cảnh giác, việc luồn sâu vào trong bốt là không thể được, do không còn yếu tố bí mật bất ngờ, vì thế C25 đặc công, bằng kỹ thuật điêu luyện, mang theo 6 quả mìn DH 10 (một loại mìn hình nón, mỗi quả chứa 10kg thuốc nổ TNT) vào sát hàng rào ngoài cùng, lập thành hai cụm mìn cách nhau khoảng 5-6 m, mỗi cụm 3 quả chồng lên nhau, nối kíp nổ cho cả hai cụm mìn vào cùng một nguồn điện, và lính c25 nằm chờ cách đó khoảng 30m, khoảng gần 5 giờ sáng, lệnh từ tổng chỉ huy cho nổ mìn. Cùng lúc, một tiếng nổ long trời do hai cụm mìn cùng lúc phát nổ, tạo thành một hành lang rộng hướng thẳng vào đồn giặc, đất đá mù mịt rơi xuống, nhưng lính C25 vẫn nhanh chóng vượt qua tất cả các chướng ngại vật, xông thẳng vào trong đồn, dùng thủ pháo tấn công vào những vị trí kháng cự của địch từ bên trong đồn.
Ngay sáu đó, rạng sáng ngày 26/3/1975 bộ đội ta được lệnh xung phong. Từ các công sự các chiến sĩ ta nhất loạt xông lên tràn qua cửa mở. C25 đặc công như một mũi mác vượt lên trước đánh thẳng vào trung tâm đồn, tiểu đoàn 2 và 3 cũng phối hợp nhịp nhàng … Không chịu nổi với sức tấn công như vũ bão của ta, quân địch lớp chết, lớp bị thương, lớp mở đường máu tháo chạy (riêng khu vực do C25 đặc công đảm nhiệm bọn địch bỏ lại rất nhiều xác chết, 1 tên địch chạy không kịp đã bị lính đặc công của ta bắt sống. Chấp hành triệt để chính sách tù hàng binh của quân đội và nhà nước ta, đ/c Vũ Chí Nghiêm chính trị viên C25 đã nhanh chóng giảng giải, trấn an tinh thần rồi quyết định phóng thích tên tù binh tại chỗ, hướng dẫn cho anh ta an tâm về với gia đình…Tên tù binh mừng vui ra mặt, cảm ơn quân giải phóng và hứa “sẽ không bao giờ đi lính, làm tay sai cho giặc nữa”!
6h sáng 26/3/1975, từ ngoài trận địa báo về, ta đã làm chủ hoàn toàn đồn Thanh Mỹ thu rất nhiều vũ khí, đạn dược và các phương tiện chiến tranh. Vậy là đồn Thanh Mỹ nằm trong khu vực Đồng Tháp mười đã bị E207 san bằng và từ đó trở đi khu vực này vĩnh viễn nằm trong vùng giải phóng của ta. Hậu cứ của quân khu 8, của tỉnh Kiến Phong, Định tường, Kiến tường và hành lang đường giao liên từ biên giới xuống chiến trường được mở rộng vững chắc, tạo điều kiện cho các đơn vị chủ lực tiếp tục thọc sâu xuống chiến trường cửa ngõ phía nam Sài Gòn thực hiện chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trận đánh này toàn trung đoàn bị thương 4 đ/c, hi sinh 7đ/c (trong đó có đ/c Nguyễn Xuân Viễn, chính trị viên phó đại đội quê quán tại xã Đức Thuận, huyện Đức Thọ, Tỉnh Hà Tĩnh)
17h cùng ngày, sở chỉ huy trung đoàn được lệnh xuống xuồng tiếp tục hành quân rời vị trí. Tôi vội ghé nhà cô thợ may để từ giã và cảm ơn. “Người chủ nhà” đã cho chúng tôi ngủ nhờ khi chuẩn bị bước vào trận đánh.
Cô chủ “bịn rịn” tiễn chúng tôi ra tận bờ kênh để chúng tôi xuống xuồng. Lúc này tôi mới nhìn rõ mặt Hồng, khuôn mặt tròn trịa, da trắng hồng, rất đẹp…nhưng cô ấy đi cà nhắc, cà nhắc rất khó khăn… Thì ra chân trái của Hồng là chân giả. Hồng bị một mảnh pháo của địch cách đây 4 năm, được gia đình chuyển về bệnh viện Sài Gòn tháo khớp tới tận đầu gối và thay thế bằng chiếc chân giả. Hồng làm nghề thợ may nhưng mỗi khi may đồ chỉ đạp bàn máy bằng một chân….
Chiến tranh là thế… Rất nhiều người dân vô tội đã phải mang thương tật suốt cuộc đời vì bom pháo, mìn và các chất nổ…
TIẾP QUẢN CĂN CỨ ĐỒNG TÂM - TP MỸ THO
SÀO HUYỆT CUỐI CÙNG CỦA SƯ ĐOÀN 7 BỘ BINH QL VNCH
Đầu tháng 4/1975, trung đoàn 207 lại được lệnh tiếp tục thọc sâu về hướng Nam cửa ngõ Sài Gòn. Từ vùng Đồng Tháp Mười sở chỉ huy trung đoàn lúc đầu hành quân bằng xuồng theo kênh Nguyễn Văn Tiếp rồi qua nhiều kênh rạch…
Khác với kênh rạch ở vùng Đồng Tháp Mười, nơi đây chúng tôi hành quân ven những kênh là những hàng cây trái xanh tươi, trĩu quả, miên man là dừa, xoài, cam, ổi… Nhà dân của vùng này cũng đông đúc hơn nhiều.
Thời gian này Trung đoàn vẫn tiếp tục “nhổ” các đồn bốt của địch án ngữ trước mặt “hướng tiến quân” về giải phóng Sài Gòn. Rộn rã trong lòng mỗi người lính Giải Phóng Quân lời bài hát Tiến về Sài Gòn của nhạc sĩ Lưu Hữu Phước. Bao năm chiến đấu gian khổ trường kỳ, biết bao đồng đội kế tiếp nhau ngã xuống, hôm nay đây, ngày toàn thắng đang đến gần, nhưng mỗi chúng tôi đều không thể biết chắc mình có kịp sống đến ngày toàn thắng, mặc dù vậy, lòng không chút nao núng, chúng tôi vẫn tiến lên phía trước, vẫn ca vang bài ca ra trận giải phóng nước nhà:
“…. Quê nhà ta đau đớn lầm than đang bóp nghẹn tim người
Sài Gòn ơi! Ta đã về đây! Ta đã về đây! …
Lướt qua nắng mưa súng bom nhịp chân đi
Quê hương kêu gọi tiến lên diệt quân Mỹ!
Tiến về Sài Gòn ta quét sạch giặc thù
Hướng về đồng bằng ta tiến về thành đô!”
Tiểu đoàn 2 + 3 được lệnh đánh chiếm đồn Xẻo Muồng và Mỹ Phước Tây thuộc huyện Cái Bè và Cai Lậy tỉnh Định Tường, 2 đồn này án ngữ, bảo vệ hành lang cho quốc lộ 4 (nay là quốc lộ 1.)
Tiểu đoàn 1 được lệnh đánh chiếm và tiêu diệt đồn Cầu Bà Tồn trên quốc lộ 4.(Bạn đọc có thể xem bài viết của Hồ Tĩnh Tâm cựu chiến binh trung đoàn 207 về trận đánh ở Cầu Bà Tồn đã đăng trên trang web E207.)
Ngày 24/4/1975, cả trung đoàn được lệnh tạm dừng chân, tôi và anh Năm Thắng được mời dự họp quân chính do Đảng ủy và Ban chỉ huy trung đoàn triệu tập khẩn cấp tại một vườn cây ăn trái rậm rạp. Đ/c chính ủy nói tóm tắt tình hình chiến sự rồi đ/c trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cho các đơn vị với phương châm là “thần tốc”. Mục tiêu là “căn cứ Đồng Tâm rồi thẳng tiến về ngã ba Trung Lương hướng về Sài Gòn”. Tin thắng trận từ khắp các chiến trường lan nhanh nhưng cánh lính chiến như chúng tôi thì gần như “mù tịt”, cứ triền miên qua hết trận đánh này tới trận đánh khác mà cũng chẳng có điều kiện và thời gian đâu mà nghe được đài (radio)... Khi biết tin ta đã giải phóng vào tới tận Xuân Lộc cửa ngõ phía bắc Sài Gòn, nhiều chiến sĩ ta đã nhảy lên, ôm nhau mừng vui khôn tả…
Ngày 25/4/1975, hậu cần tiếp tục bổ sung súng đạn và lương thực cho bộ đội, ngoài cơ số chiến đấu như thường lệ, còn nhiều cơ số dự bị được lực lượng dân công hỏa tuyến vận chuyển luôn theo sát, tiếp tế kịp thời cho lực lượng vận tải, hậu cần của trung đoàn, (không khí chiến thắng rõ rệt ngay cả trong lĩnh vực vận tải vũ khí đạn dược và lương thực cho bộ đội).
Đêm 25/4/1975, 3 tiểu đoàn bộ binh được lệnh hành quân trước. Các đơn vị trực thuộc cũng được lệnh bám gót các tiểu đoàn bộ binh để kịp thời chi viện hỏa lực khi có yêu cầu. Sở chỉ huy trung đoàn lại được lệnh “nhổ neo” cùng các đơn vị tiến về phía trước. Thời gian này, cánh thông tin hữu tuyến được “xả hơi”. Vì đội hình toàn trung đoàn luôn cơ động. Lực lượng thông tin 2w phải làm việc hết công suất. Đài 15w cũng phải thường xuyên mở máy phát sóng, ngay cả khi hành quân. Tuy nhiên, để nhận lệnh và báo cáo về trên một cách nhanh nhất, đài 15w phải lợi dụng tất cả các địa hình, địa vật, “ tạm dừng chân” kéo ăng ten, mở máy phát sóng có khi ngay bên cạnh các bờ kênh, gò đất…
Ngày 28/4/1975, sở chỉ huy trung đoàn vẫn tiếp tục hành quân đường bộ (lúc này phương tiện bằng đường thủy không còn tác dụng nữa). Ngay đêm đó tiểu đoàn 1 đi đầu đã vào trận. Tập kích quân địch của sư đoàn 7 đóng giã ngoại gần quốc lộ 4 (trận đánh này Hồ Tĩnh Tâm, cựu chiến binh E207 đã viết và đăng trên trang web của trung đoàn). Người bạn rất thân của Hồ Tĩnh Tâm là đ/c Thơ đã hi sinh trong trận đánh này:
“…Đêm đó trong lửa đỏ
Mày chia lửa cho tao,
Vượt hàng rào phòng thủ
Tao với mày gặp nhau.
Mặt mày lem thuốc pháo
Nở nụ cười với tao,
Rồi lao vào hai mũi
Lửa đỏ trùm hai nơi.
Thọc sâu vào tung thâm
Đánh tan tiểu đoàn địch,
Trong tiếng hò thắng lợi
Tao cõng mày trên lưng.
Máu mày rơi từng giọt
Từng giọt đỏ như cờ
Thịt da mày nóng rực
Như mặt trời ban trưa
Tao gọi mày…Thơ ơi! ”
(Hồ Tĩnh Tâm – Thơ…ơi)
Tiểu đoàn 2 đã áp sát quốc lộ 4. Tiểu đoàn 3 áp sát căn cứ pháo binh Long Định. Cả 3 tiểu đoàn 1, 2, 3 của ta vừa đánh địch, vừa mở đường thẳng về hướng căn cứ Đồng Tâm (Mỹ Tho).
Căn cứ Đồng Tâm cách thành phố Mỹ Tho khoảng 10 km là một căn cứ quân sự thuộc loại bậc nhất của khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Căn cứ này trước đây là căn cứ quân sự của Mỹ và sau này là hậu cứ của sư đoàn 7 quân Ngụy Sài Gòn. Nó có diện tích rộng tới mấy chục km2, có 2 đường bộ lớn ra vào (cổng 1 đường qua Bình Đức chạy thẳng về TP Mỹ Tho, cổng 2 đường chạy thẳng ra quốc lộ 4)
Khu quân sự Đồng Tâm được xây dựng rất kiên cố, xung quanh là nhiều lớp rào dây kẽm gai và những bãi mìn dày đặc. Bên trong được chia thành nhiều khu có đường nhựa ngang dọc như bàn cờ để tiện cho các loại xe cơ giới, cơ động.
Từng khu trong căn cứ lại có hàng rào riêng biệt, bên trong từng khu là một hệ thống nhà, hầm vừa bằng bê tông cốt thép, vừa bằng bao cát và đầy đủ các tiện nghi, ngoài lính bộ binh bảo vệ vòng ngoài, căn cứ Đồng Tâm có đủ các loại pháo cối từ 60, 81, 106, 7 và pháo 105, 155. Căn cứ Đồng Tâm còn có nhiều chi đoàn xe tăng và xe bọc thép cùng với sân bay lên thẳng.
Với diện tích và cơ sở vật chất như vậy, sau khi ta tiếp quản, sư đoàn huấn luyện 868 của ta do anh Tư Dẫu nguyên chính ủy trung đoàn 207 trực tiếp làm chính ủy sư đoàn với biên chế có lúc lên tới 27 tiểu đoàn. Mỗi tiểu đoàn từ 5 – 6 trăm quân.
Khoảng 3h sáng ngày 29/4/1975, chúng tôi vẫn bám gót sở chỉ huy trung đoàn, hành quân bộ, tiến về hướng quốc lộ 4. Đi ngược lại với chúng tôi là rất nhiều cáng liệt sỹ và thương binh được chuyển về phía sau (liệt sỹ và thương binh của cả 3 tiểu đoàn), do du kích và nhân dân địa phương giúp đỡ chuyển thương.
Khoảng 4h sáng ngày 29/4/1975, sở chỉ huy trung đoàn được lệnh dừng chân tại một khu vườn có diện tích khoảng vài ha. Xung quanh là cánh đồng lúa đã thu hoạch chỉ còn chừa lại những gốc rạ.
Cả 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đều khẩn trương đào công sự. Đài 15w đã nhanh chóng mở máy phát sóng 2 đồng chí vào kíp trực làm việc ngay, các đồng chí còn lại cũng khẩn trương đào hầm.
Khoảng 7h sáng ngày 29, chúng tôi đã hoàn thành chiếc hầm dã chiến lộ thiên có giao thông hào qua hầm đ/c chính ủy và trung đoàn trưởng. Hầm của cụm đài 2w gồm 4 máy cũng chỉ cách hầm đài 15w độ 5m.
Tình hình chiến sự ngày càng khốc liệt, các đơn vị phía trước tiểu đoàn 1, 2, 3 và các đại đội trực thuộc vẫn tiếp tục nổ súng đánh địch. Pháo của địch tại căn cứ Đồng Tâm, Bình Đức, Long Định và các vùng lân cận vẫn ầm ầm nhả đạn.
Khoảng 9h sáng ngày 29/4/1975, sở chỉ huy trung đoàn bị hàng trăm quả đạn 155 của địch bắn phá, nhưng rất may, cán bộ và chiến sĩ ta không có thương vong.
12h trưa ngày 29/4/1975, thông qua bức điện “tối khẩn” của bộ chỉ huy chiến dịch, anh Ba Trứ và anh Năm Thời mới “tiết lộ” cho chúng tôi tin tức nóng hổi và bất ngờ (không như chúng tôi tưởng tượng rằng mình sẽ ào ào như vũ bão tiến thẳng về Sài Gòn):
- Đội hình hành tiến của sư đoàn 8, trong đó có trung đoàn 207, có nhiệm vụ quan trọng là “dừng chân” bao vây và đánh chiếm căn cứ Đồng Tâm do sư đoàn 7 quân Ngụy Sài Gòn đóng giữ. Nhiệm vụ của sư đoàn 8 phải kềm chân sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn không cho chúng về chi viện và ứng cứu Sài Gòn. Các sư đoàn còn lại thuộc quân đoàn 4 của địch đã có các đơn vị bạn của ta đảm nhiệm, kềm chân.
Vậy là một sư đoàn của ta đối đầu với 1 sư đoàn của địch (50/50), nhưng bọn địch có ưu thế về hỏa lực pháo binh, xe tăng, xe thiết giáp và cả không quân chi viện.
Khoảng 14h, ngày 29/4/1975, chiếc máy bay trinh sát 2 thân (OV10) từ hướng Cần Thơ lao đến, đảo nhiều vòng trên bầu trời và sau đó 4 chiếc phản lực F5 cũng xuất hiện.
Bất ngờ, chiếc OV10 chúi đầu phóng quả pháo khói chỉ điểm. Cột khói trắng chỉ cách cụm đài 15w chúng tôi khoảng 30m. Gần trăm cán bộ chiến sĩ của trung đoàn bộ “thót tim”... Một khoảng đất “ bé tí tẹo” nằm giữa vùng đồng trống mà công sự hầm hào thì đủ sức tránh pháo và đạn nhọn chứ đâu có tránh nổi bom có sức công phá lớn, chúng tôi sẽ ra sao đây? Chúng tôi hình dung với số lượng bom của 4 chiếc phản lực đang vòng lộn trên bầu trời kia khi nó trút xuống khoảng đất này thì sự tàn phá của nó sẽ vô cùng khủng khiếp. Một “tai họa” sắp đến cho sở chỉ huy trung đoàn…
Trong tình huống nguy cấp ấy, người chỉ huy dũng cảm sẽ có những quyết định sáng suốt. Anh Năm Thời ra lệnh ngay cho các khẩu đội A72 (một loại súng tên lửa phòng không vác vai tầm nhiệt) được bộ chỉ huy chiến dịch tăng cường. Bốn đồng chí xạ thủ thoát lên khỏi công sự lợi dụng những thân cây dừa làm bệ tỳ ngóc nòng súng lên bầu trời “nghênh chiến”.
Cụm khói trắng cạnh chúng tôi đã tan dần, 4 chiếc phản lực đã thu hẹp đường vòng. Chiếc OV10 quyết định chúi đầu phòng tiếp pháo khói chỉ điểm cho lũ phản lực… Tôi chỉ nghe tiếng Oàng…xéo…xéo… một quả đạn A72 cách chỗ tôi khoảng 50m xé gió lao lên cắm vào chiếc OV10 nổ tung. Chiếc máy bay trinh sát đứt làm đôi rơi xuống cánh đồng cách sở chỉ huy khoảng 2 km.
Biết chúng tôi đã có loại vũ khí vô cùng lợi hại, 4 chiếc phản lực không muốn chịu chung số phận như chiếc OV10, chúng mở rộng vòng bay rồi biến mất về hướng Cần Thơ. Chúng tôi thoát chết trong gang tấc!
Khoảng 20h ngày 29/4/1975, nguồn tin trinh sát báo về, bọn địch ở căn cứ pháo binh Long Định đã bỏ đồn tháo chạy. Anh Năm Thời ra lệnh cho tiểu đoàn 3 cử 1 bộ phận vào thu dọn chiến trường rồi giao cho bộ đội và du kích địa phương canh giữ.
2h sáng ngày 30/4/1975, cả 3 tiểu đoàn được lệnh vượt quốc lộ 4 áp sát căn cứ Đồng Tâm.
7h sáng, ngày 30/4/1975, những công điện bằng máy 2w từ các tiểu đoàn liên tục báo về sở chỉ huy trung đoàn. Những mệnh lệnh của bộ tư lệnh sư đoàn và bộ chỉ huy chiến dịch cũng tới tấp chuyển tới qua đài 15w. Bộ phận báo vụ và bộ phận cơ yếu làm việc không biết mệt mỏi. Thông qua những bức điện, cánh chúng tôi hiểu rằng, tình hình trên khắp các chiến trường đang “nghiêng hẳn” có lợi thế cho ta, riêng anh Ba Trứ và anh Năm Thời, tôi cảm thấy các anh vui mừng và tự tin hơn bất cứ lúc nào.
9h sáng ngày 30/4/1975, địch cho nhiều xe thiết giáp phản kích ra hướng D1, D3, tiểu đoàn 1, 3 được lệnh dùng hỏa lực chống tăng kềm chân quân địch, khoảng 10h từ trận địa D1, D3 báo về lũ xe tăng và xe bọc thép đã “co đầu” vào trong căn cứ, bộ đội ta đã có một số hi sinh và bị thương.
12h ngày 30/4/1975, một công điện từ bộ chỉ huy chiến dịch: “Tổng thống ngụy, Dương Văn Minh, đã đầu hàng, Sài Gòn đã được giải phóng”. Mọi người trong sở chỉ huy, trung đoàn bộ, trong có anh Ba Trứ và anh Năm Thời nhảy cẫng lên, nhiều đồng chí rơi nước mắt, một niềm vui thật khó mà có thể nói hết được của chúng tôi ngày ấy, giờ phút thiêng liêng của Tổ quốc đã đến. Miệng cười tươi mà nước mắt tuôn trào, bởi đồng đội của chúng tôi vẫn kẻ trước người sau đang tiếp tục ngã xuống…
12h15 ngày 30/4/1975, một công điện khẩn cấp từ bộ tư lệnh sư đoàn và bộ chỉ huy chiến dịch: trung đoàn 207 và sư đoàn 8 chuyển sang vây ép căn cứ Đồng Tâm, không được nổ súng khi quân địch không phản kích. Lúc này các chiến sĩ ta ngoài mặt trận vẫn còn chưa hay biết gì. Vẫn vững chắc tay súng và sẵn sàng đợi lệnh xung phong…
Khoảng 2h chiều, một công điện từ bộ chỉ huy chiến dịch: “Tên Trần Văn Hai sư đoàn trưởng, sư đoàn 7 quân ngụy Sài Gòn đã tự sát”. Từ ngoài trận địa báo về, bọn địch trong căn cứ Đồng Tâm đã kéo cờ trắng XIN ĐẦU HÀNG.
Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn xuống các tiểu đoàn: mở đường cho đám lính sư đoàn 7 tư do thoát thân.
4h chiều cùng ngày ta đã làm chủ hoàn toàn căn cứ Đồng Tâm, cùng với toàn quân, toàn dân giải phóng hoàn toàn Miền Nam, thống nhất tổ quốc…
Viết thêm về ngày 30/4
Có 2 chuyện cười ra nước mắt nhân ngày 30/4 về C25 đặc công – E207
1- Trước khi vào chiến trường, lính đặc công đều được học lái xe ở Xuân Mai (Hà tây cũ), vì thế, khi vào tiếp quản căn cứ Đồng tâm, cứ 4-5 anh có 1 xe ô tô, nhóm thì xe jeep, nhóm xe tải nhẹ, chạy tung trời trong căn cứ, chạy cả ra Mỹ tho chơi, khi về hết xăng, bỏ xe lại, nhờ xe khác về, khi mang xăng ra thì mất xe, lại về căn cứ kiếm cái khác, trong lần đi tìm xe lái chơi, lính ta phát hiện ra 1 chiếc xe thể thao hai cửa, mui trần, chắc là của sỹ quan Mỹ bỏ lại, lính ta lái dạo chơi khắp căn cứ Đồng Tâm. Ai dè thủ trưởng sư đoàn thấy được, yêu cầu mang nộp về sư. Thế là trên đường về, lính ta đẩy ngay xe xuống sông phía sau căn cứ, sau đó báo cáo là xe bị tai nạn, lao xuống sông, còn thò lên mỗi tí đuôi. Báo hại, hôm sau vệ binh sư đoàn phải dùng xe GMC kéo lên mang đi, sau này không biết xe đó đi về đâu?!
2- Khi vào tiếp quản căn cứ Đồng tâm, tranh ảnh khỏa thân rất nhiều, lính ta hầu hết còn rất trẻ, chưa nhìn thấy bao giờ, vì thế, anh nào cũng thủ vài tấm trong ba lô, chính trị viên trưởng Vũ Chí Nghiêm biết được, đang đêm báo động di chuyển khẩn, đi trấn áp tàn quân, lính ta vội vã thu dọn ba lô di chuyển theo lệnh, khi đi không quên mang theo ảnh khỏa thân, khi đi ra đến cánh đồng trống, thủ trưởng cho nghỉ giãi lao, và ra lệnh khám ba lô, thế là bao nhiêu ảnh khỏa thân bị thu và đốt tại chỗ, xong lại quay về ngủ. Lính ta tức lắm, ngày hôm sau, biết tính Thủ trưởng Vũ Chí Nghiêm ăn ở rất sạch sẽ, mỗi tối, trước khi ngủ, thủ trưởng phải rũ chiếu, quét giường đàng hoàng, lính ta bèn mang một tấm ảnh cô gái khỏa thân to đúng bằng chiếc chiếu giường một, lót xuống chiếu, tối thủ trưởng rũ chiếu để ngủ, phát hiện ra, tức quá, quát tháo ầm ĩ, điều tra, nhưng không ai nhận. Sau này khi đã ra quân về làm dân, chúng tôi hỏi xếp lúc đó thấy sao, xếp bảo cũng hơi thinh thích nhưng phải gương mẫu.
(Không tin các bạn cứ hỏi lại Đ/C Vũ Chí Nghiêm, nay là chủ tịch hội đồng quản trị công ty Sách và Thiết bị Trường học tỉnh Hải Dương)
PHẦN III - CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM
Sau khi đánh chiếm căn cứ Đồng Tâm, Trung đoàn bộ về đứng chân tại xã Vĩnh Kim, huyện Châu Thành, tỉnh Định Tường (cách căn cứ Đồng Tâm khoảng 5km). Những ngày đầu giải phóng thật là mới lạ với nhân dân trong vùng bị địch tạm chiếm. Từ những cụ già, các ba, các má, các chị, các em đều đã bị bọn tâm lý chiến nhồi nhét những tư tưởng và nhận thức rất lệch lạc về Quân Giải Phóng, nào là Việt Cộng uống máu moi gan, nào là Việt Cộng ở rừng ốm nhom 7 thằng đu không gãy 1 cành đu đủ… Vì vậy khi gặp bộ đội Giải Phóng nhân dân ai cũng đều “ngỡ ngàng” vì thấy chú nào cũng hiền lành đẹp trai, quân phục xanh ngời, sạch sẽ phẳng phiu… lại nói năng rất lịch thiệp…
Chiều hôm đó, chúng tôi được lệnh vào đóng quân tại một khu dân cư nhà cửa rất đông đúc và sầm uất. Gặp chúng tôi xin mượn nhà nghỉ, mấy bác chủ nhà với nét mặt sợ sệt nói: “Dạ! Các thầy, các ông cứ tự nhiên ạ”. Nghe giọng nói đầy khép nép của các bác, các chú đáng bậc cha, chú mình, tim tôi lại quặn đau…Tôi vội đứng ra phân giải: “Các ông, các bà, các bác, các chú đừng gọi như thế. Chúng con chỉ đáng là tuổi con cháu, đừng dùng tiếng thầy, tiếng ông, tội lắm.”. Được lời, mấy người lớn tuổi mừng vui hớn hở: “Các cháu cho phép… Từ nay chúng tôi không gọi thế nữa. Ở đây lâu nay chúng tôi vẫn phải gọi các ông quốc gia như vậy đấy”.
Thấy “Việt Cộng” (quân giải phóng) ai cũng hiền lành không giống như lời đồn đại của bọn tâm lý chiến, các má, các chị, các em kéo đến đơn vị mỗi lúc một đông. Nhiều bà cụ đã bộc bạch: “Tụi bây đứa nào cũng đẹp trai mạnh khỏe, vậy mà bọn lính quốc gia nó nói: Việt Cộng, bảy thằng leo một cọng đu đủ không gãy… nó còn nói tụi bay có lông, có đuôi… thật bây giờ… rõ ràng tụi nó toàn nói láo”. Đồng chí Mậu trung đội trưởng vô tuyến điện báo quê Thanh Hóa có tiếng nghịch ngợm, liến láu giành trả lời:
“Dạ, thưa các má, các chị, tụi nó nói đúng đấy ạ! Chúng con cũng có đuôi đấy ạ! Mà đuôi chúng con ở đằng trước ạ!”. Tôi hoảng hồn… đưa mắt lườm đồng chí Mậu, cũng may các má chỉ cười, còn mấy chị, mấy em mắc cỡ nhìn đi chỗ khác…
Đêm hôm ấy, 30/4/1975, hình như chúng tôi không ngủ. Hậu cần Trung đoàn vào thu chiến lợi phẩm trong căn cứ Đồng Tâm và cấp phát ngay cho bộ đội để ăn mừng chiến thắng: nào thịt hộp, đường, sữa, kẹo socola, thuốc lá Salem, … Có cả những khẩu phần ăn của bọn sĩ quan Mỹ còn để lại, hộp vuông 20x20 cm, cao 15cm, trong đó gồm có: bánh bích quy, pate, ca cao, một gói đường, sữa, cà phê, nước trái cây, một gói Salem 4 điếu, 4 kẹo cao su… Hai người chúng tôi chia nhau ăn một hộp, no và ngán tới tận cổ. Vậy mà bọn lính Mỹ trước đây, một thằng “tém” hết một hộp.
8h, sáng ngày 1/5/1975, cô gái tên Thanh (con của gia đình chúng tôi ở nhờ) đến xin gặp tôi “tâm sự”. Tôi đồng ý. Rồi hai anh em đã trao đổi rất nhiều. Tôi giải thích chính sách của Đảng và nhà nước ta. Rồi tương lai của miền Nam cũng giống như miền Bắc xã hội chủ nghĩa, sẽ khôi phục lại tất cả nền kinh tế, nền giáo dục, y tế… Nghe những lời giảng giải của tôi và thực tế tận mắt chứng kiến việc làm, hành động của những người chiến sĩ Quân Giải Phóng. Thanh đã hoàn toàn an tâm và nói với tôi: “Em có mấy đứa bạn nữ sinh thuộc trường đại học Mỹ Tho. Tụi nó sợ Việt Cộng vào giải phóng sẽ dùng kềm rút móng tay, móng chân của nữ sinh viên… Tụi nó sợ bỏ trốn vào vùng sâu. Để em vào kêu tụi nó trở về nhà…”
Thế đấy! Cái loa tuyên truyền của bọn tâm lý chiến… đội quân bán nước làm tay sai cho bọn quan thầy Mỹ thật độc địa!
Khoảng gần giữa tháng 5/1975, căn cứ Đồng Tâm được bàn giao cho Quân khu 8. Bộ tư lệnh Sư đoàn 8 về đóng quân tại Cao Lãnh. Trung đoàn 207 về đứng chân tại huyện Chợ Mới, An Giang. Tiểu đoàn 1 đóng quân ở Lấp Vò, Tiểu đoàn 2 đóng quân ở Cù Lao Tây, Tiểu đoàn 3 đóng quân ở Cái Xoài. Nhiệm vụ chính của Trung đoàn là tiếp tục truy quét bọn tàn quân ngoan cố không ra trình diện, thu hồi vũ khí và chất nổ, xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng còn rất non trẻ. Lúc này là chế độ quân quản nên hầu hết mọi công việc đều do quân đội đảm trách, vì thế chúng tôi rất vất vả trong những ngày đầu miền Nam mới giải phóng.
Cuối tháng 5/1975 CHIẾN TRANH BIÊN GIỚI TÂY NAM bùng nổ. Ở Phú Quốc và Hà Tiên bọn Pôn Pốt đã xua quân sang xâm lược Việt Nam và giết hại rất nhiều dân thường. Trên toàn tuyến biên giới An Giang, Đồng Tháp, Long An chúng đã rải quân đột nhập lãnh thổ Việt Nam.
Ngày 28/5/1975, Trung đoàn được lệnh hành quân lên biên giới và dàn quân thuộc các huyện Châu Đốc, An Phú, Tân Châu. Nhiệm vụ của Trung đoàn là chốt chặn, bảo vệ vững chắc hành lang biên giới, ngăn chặn không cho lính Pôn Pốt vượt qua biên giới, cướp bóc, giết hại dân ta. Sở chỉ huy Trung đoàn đóng quân tại huyện An Phú cách Đồng Ki khoảng 4 km.
Ngày 14/6/1975, đồng chí Hùng quản lý của C20 quê Hà Bắc, trong lúc đi mua thực phẩm về cho đơn vị, bất ngờ đã bị một cành cây gãy rơi trúng đầu và ngay đêm đó, đ/c Hùng đã tử vong.
Trên mảnh đất mới giành được độc lập tự do, lần đầu tiên sau biết bao phen chôn vùi đồng đội vội vã giữa các trận đánh, chúng tôi được chứng kiến đám tang của đồng đội được tổ chức quy mô và hoành tráng như vậy. Chiếc xe nhà binh GMC của Trung đoàn chở chiếc quan tài có 8 vệ binh bồng súng đứng 2 bên. Có hàng trăm cán bộ và chiến sĩ của Trung đoàn bộ, và trên 200 học sinh của trường trung học huyện An Phú đưa tiễn. Nhân dân ra đứng đông nghẹt hai bên đường tiễn đưa linh cữu đ/c Hùng và thảy lên xe tang rất nhiều hoa và nhang. Đ/c Hùng được mai táng tại một gò đất cách đường lộ 100m.
Cuối tháng 6/1975, Trung đoàn bộ lại chuyển về đứng chân tại xã Tân An, Tân Châu, Tiểu đoàn 1 + 3 vẫn đóng quân tại vị trí cũ, Tiểu đoàn 2 về đứng chân tại xã Vĩnh Xương nằm sát biên giới Căm Pu Chia.
Nhiệm vụ của Trung đoàn vẫn tiếp tục tuần tra, phòng ngự, ngăn chặn sự xâm lược của bọn Pôn Pốt - Yêng Sa Ry bảo vệ nhân dân vùng biên giới an tâm sản xuất. Nhờ có bộ đội chủ lực của ta hành động kịp thời nên bọn Pôn Pốt ở khu vực này chưa dám “ho he” do vậy nhân dân vùng này cũng tạm yên ổn làm ăn.
Cuối tháng 8/1975, một tin tình báo quân sự cung cấp: Bọn tàn quân sẽ nổi dậy cướp chính quyền thuộc 3 huyện Chợ Mới, Thanh Bình, Phú Tân vào dịp Quốc khánh mùng 2/9. Đây là một vùng thánh địa và chính quyền rất non trẻ, trong kháng chiến khu vực này là vùng trắng.
Ngày 27/8/1975, toàn Trung đoàn được lệnh “hộc tốc” từ biên giới quay về địa bàn cũ… Có hẳn một Trung đoàn chủ lực về đứng chân “dằn mặt”, nhờ vậy, dịp lễ Quốc khánh mùng 2 tháng 9 năm 1975 bọn tàn quân không dám liều lĩnh (bọn này gồm 3 đại đội, sau này bị ta truy quét bắt sạch). Cùng thời gian này nhiệm vụ của Trung đoàn còn hỗ trợ chính quyền tổ chức học tập, cải tạo binh lính, ngụy quân và ngụy quyền thuộc chế độ cũ. C25 và một số cán bộ (trong đó có anh Hoàng Đăng Dĩ) được điều về thành lập đoàn 675 quản huấn bọn sĩ quan cấp úy quân Ngụy Sài Gòn tại căn cứ Trần Quốc Toản.
Cuối tháng 12/1975, tôi được thông báo tập trung về Ban chính trị (lúc này anh Cư về làm chủ nhiệm) để chuẩn bị cho đợt đi phép đầu tiên của sĩ quan trung đoàn.
Mặc dù vẫn còn bộn bề công việc, nhưng Đảng, Nhà nước và Quân đội đã nghĩ đến việc cho bộ đội về thăm gia đình, quê hương. Điều này làm thỏa lòng bao cán bộ chiến sĩ chúng tôi, vì đã hòa bình gần 1 năm mà vì nhiệm vụ chúng tôi vẫn chưa có dịp về thăm lại cha mẹ, người thân… ”.
Chính sách được phổ biến công khai: “Ưu tiên người có thâm niên trong chiến trường: Trước hết là sĩ quan… đến hạ sĩ quan… rồi đến chiến sĩ”. Tôi được nằm trong danh sách nhóm số 1 và cùng đợt với tôi có anh Lợi, anh Vũ Nhụy, anh Tịch, anh Thái, anh Sản… Chúng tôi được xe của Trung đoàn đưa lên Sư đoàn sau đó xe Sư đoàn đưa thẳng lên Binh trạm 1 tại thị xã Long Khánh, Đồng Nai.
5 giờ sáng ngày 24/12 xe của Binh trạm 1, loại xe Song Long 52 chỗ ngồi có 2 ống khói đưa chúng tôi ra Binh trạm 2. Rất nhiều các đơn vị đã được tập trung về đây nên mỗi đợt có đến hơn chục xe khoảng 500 – 600 người.
Đoàn quân ngược đường số 1 trở về Miền Bắc cũng rất dũng mãnh, tự hào, chẳng khác gì khi chúng tôi vượt Trường Sơn ra trận, chỉ có khác là trong chiếc balo căng phồng, ngoài quân phục đồng chí nào cũng có vài chiếc áo len, khăn len mua tại Sài Gòn đem về làm quà cho gia đình. Ngoài quân phục được cấp mới toanh, chúng tôi vẫn gây ấn tượng nhất cho mọi người là chiếc quân hiệu gắn trên mũ có ngôi sao nửa xanh nửa đỏ “niềm tự hào của Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam đã trải qua cuộc chiến”. Ngay trong con mắt của mọi người nhất là nhân dân Miền Bắc vẫn luôn mến mộ những người lính lúc đó đội mũ gắn quân hiệu Quân Giải Phóng Miền Nam Việt Nam.
Chiều ngày 24/12, chúng tôi đã có mặt tại Binh trạm 2 (thuộc địa phận Quy Nhơn) và được ăn một bữa cơm theo tiêu chuẩn trung táo (nghĩa là tiêu chuẩn ăn của sĩ quan theo định lượng của các đơn vị bộ đội Miền Bắc lúc bấy giờ).
Bữa ăn tương đối thịnh soạn, có cả rau xanh, thịt heo tươi sống, thịt gà và bột cá khô (một loại bột cá chiến lợi phẩm) làm tôi chạnh lòng nhớ lại lúc hành quân trên đường Trường Sơn, qua các binh trạm, khó khăn thiếu thốn trăm bề, 2 khẩu phần, 2 bữa ăn “1 trời – 1 vực” và cách nhau cả một tuổi thanh xuân…
Tối hôm đó, “báo hại” do ăn phải loại bột cá đã bị quá đát, Binh trạm đã “thưởng” cho cả đoàn quân về phép 1 trận đau bụng đi cầu… Mấy chục cái cầu tiêu của trại gia binh lúc nào cũng đặc nghẹt lính ta. Anh Lợi là người “gan lỳ” nhất: “Bố cứ ở trong cầu tiêu không chịu ra, sợ ra rồi người khác chiếm mất chỗ”. Riêng tôi đêm hôm đó cũng bị “Tào Tháo rượt” đến 3 - 4 lần. Cũng nhờ các y bác sĩ kịp thời cho uống thuốc nên sáng hôm sau cũng tạm ổn.
Vậy là ngày 25/12 lúc 8h đoàn quân về Miền Bắc phải quyết định hành quân chậm so với dự kiến 3h.Trước khi hành quân các đ/c thuộc binh trạm đã “kêu gọi” đ/c nào chưa thật hết bệnh thì ở lại Binh trạm tiếp tục uống thuốc… nhưng chẳng ai “dám” cho là mình còn bệnh. Vậy là 100% quân số lên xe thẳng tiến. Khi đoàn xe đang đi qua một khu dân cư trên quốc lộ 1 (đoạn từ Quảng Ngãi đến Quảng Nam) thì đ/c Phẩu người dân tộc thiểu số (thuộc Sư bộ) đi chung xe với tôi bất ngờ yêu cầu tài xế dừng xe … Hai bên đường nhà dân đông san sát thì làm sao chấp thuận được cái yêu cầu không đúng lúc này… Bỗng nhiên đ/c Am (cũng là lính Sư bộ) liền ghé tai mách nhỏ …và đ/c Phẩu vốn tính “thật thà” vội nhổ sợi tóc se lại ngoáy vào lỗ mũi thực hiện “ mẹo chữa bệnh đi tiêu chảy” do “ông” bạn quý vừa mách nước.
Sau một tiếng “hắt sì” thì ôi thôi cái “công sức” của đ/c Phẩu từ nãy giờ vẫn cố nín bỗng nhiên thành công cốc. Cái đũng quần ướt nhẹp… nước chảy theo hai ống quần xuống đôi giày đen… Một mùi khó tả loang khắp xe, các cửa xe được vội mở hết cỡ. Đ/c Phẩu mặt đuỗn ra đứng “chết trân” ngay cửa xe lên xuống phía sau. Mấy chục con người cố “nhồi nhét” dồn ra phía trước. Chúng tôi vừa buồn cười, vừa tức, vừa la lối ngậu xị … Ông bạn chỉ “mẹo” trị bệnh bị mấy đ/c lớn tuổi “chửi” cho một trận nên thân rất hối hận, vội phân giải: “Tôi chỉ nói chơi ai ngờ đ/c làm thật”…
Khi đoàn xe ra khỏi khu vực dân cư, đến đoạn trống có cái cống thoát nước của con mương nhỏ. Tài xế đã vội vàng cho xe dừng lại, chúng tôi xuống xe giúp bác tài múc nước rửa … riêng đ/c Phẩu “tặng” nguyên bộ quần áo đang mặc trên người và đôi giày đen cho con mương.
Khoảng 15 phút sau chiếc xe của chúng tôi lại bon bon lên đường … Quên đi tất cả! Quê hương đang vẫy chào phía trước!
Sau hơn 1 tháng của thời gian nghỉ phép, chúng tôi đã trở về đơn vị, lúc này vào khoảng đầu tháng 2/1976, toàn bộ đội hình của Trung đoàn đã hành quân vào Đồng Tháp Mười, vùng biên giới thuộc tỉnh Long An.
Sư đoàn 8 trong đó có Trung đoàn 207 có nhiệm vụ vừa bảo vệ biên giới, vừa xây dựng khu kinh tế quốc phòng: khai phá một vùng đát hoang hóa trong đó có cánh đồng “chó ngáp” trứ danh mà bộ đội đã vất vả hành quân từ CPC xuống chiến trường năm 1973. Bộ tư lệnh Sư đoàn đóng quân tại Thị xã Mộc Hóa và đã về trực thuộc Quân khu 9 (do hai Quân khu 8 và 9 sáp nhập thành Quân khu 9).
Do yêu cầu nhiệm vụ, Sư đoàn phải thành lập thêm 1 Trung đoàn vậy là Trung đoàn 207 điều gần 1/3 quân số cán bộ chiến sĩ thành lập 1 Trung đoàn mới mang tên Trung đoàn 5 (trong số này có anh Võ Be, đ/c Nhạc, đ/c Thuấn, anh Tư Công…). Anh Ba Trứ được điều về làm Chủ nhiệm chính trị Sư đoàn, anh Năm Thời được điều về Ban tác chiến Quân khu.
Trung đoàn 207 còn lại được đổi tên thành TRUNG ĐOÀN 1 do anh Nguyễn Tấn Dẫu làm chính ủy, anh Tám Sơn (Nguyễn Hoàng Sơn) làm Trung đoàn trưởng, anh Lê Tựu làm Phó chính ủy.
Cuối tháng 9/1976, theo chỉ thị của Sư đoàn và Quân khu, Trung đoàn thành lập 1 khung (tương đương cấp tiểu đoàn) để nhận tân binh huấn luyện và tôi được chỉ định làm Chính trị viên, kiêm Chỉ huy trưởng.
Khung huấn luyện này có tới 12 đại đội (từ 1-12) và anh Phạm Hậu làm Chính trị viên Đại đội 9. Anh Mạnh (còn gọi là anh Mạnh khịt) làm Chính trị viên Đại đội 5, đ/c Ngân làm Chính trị viên Đại đội 7…
Đầu tháng 10. Khung huấn luyện chúng tôi đã nhận đủ 2400 thanh niên của tỉnh Đồng Tháp và biên chế đều cho 12 đại đội về đóng quân từ xã An Bình cặp quốc lộ 30 đến thị xã Hồng Ngự. Đoạn đường này dài gần 10km và Ban chỉ huy đóng quân ở trung tâm, cách Hồng Ngự khoảng 6km. Trong số tân binh kể trên có 3 cặp anh em ruột cùng nhập ngũ 1 ngày:
Đ/c Nghệ + Tùng ở xã An Phong
Đ/c Năm + Công ở xã Tân Thạnh
Đ/c Nam + Long ở xã Tân Long.
Sau gần 3 tháng huấn luyện, học tập quân sự, chính trị, cuối tháng 12/1976, toàn bộ 12 đại đội tân binh được điều về bổ sung cho 3 tiểu đoàn bộ binh cùng 9 đại đội trực thuộc, 3 cơ quan Tham mưu, Chính trị, Hậu cần của Trung đoàn (một số được bổ sung cho Trung đoàn 5) tiếp tục thực hiện nhiệm vụ vừa xây dựng kinh tế quốc phòng, vừa bảo vệ vững chắc vùng biên cương, biên giới Tây Nam Tổ quốc thuộc địa phận huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Long An…
Cuối năm 1976 “khung nhận quân tân binh” do tôi làm chỉ huy trưởng giải thể sau khi đã hoàn thành nhiệm vụ, quân số huấn luyện xong đã được bàn giao cho trung đoàn 1 (207) và trung đoàn 5. Số tân binh đợt này hiện nay vẫn còn nhiều đ/c đang công tác và thành đạt trên nhiều lĩnh vực, ví dụ như:
- Đ/c Hà Văn Thượng hiện là thẩm phán tòa án nhân dân tối cao, kiêm phó chánh thanh tra của tòa án nhân dân tối cao phụ trách phía Nam.
- Đ/c Võ Hoàng Hoa cục trưởng cục thuế quận Bình Thạnh, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đ/c Phạm hữu Thuấn, tiến sĩ y khoa đang công tác tại sở y tế tỉnh Đồng Tháp.
- Đ/c Ân, đang công tác tại công ty du lịch tỉnh Đồng Tháp, giám đốc chi nhánh khu vực Hồng Ngự.
- Đ/c Hải, chủ tiệm vàng Thanh Long, thuộc thị trấn Mỹ Thọ, huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp
- Đ/c Điển chủ doanh nghiệp Tôm giống huyện Tam Nông
- Đ/c Lê Minh Trí, giám đốc cục dự trữ nhà nước khu vực tỉnh Đồng Tháp.
- Đ/c Lê Thanh Hồng, bí đảng ủy xã Tân Long huyện Thanh Bình, Đồng Tháp.
- Đ/c Mỹ Lệ thượng tá công an tỉnh Đồng Tháp…
Ngày 26/12/1976, tôi và Đ/C Năm Thắng (lúc này Đ/C Năm Thắng đã được điều về làm chủ nhiệm thông tin trung đoàn thay cho Đ/C Sáu Hiền) được đ/c Tư Dẫu và đ/c Tám Sơn mời lên giao nhiệm vụ: “chúng tôi có trách nhiệm thẩm tra lại toàn bộ hồ sơ của số tân binh vừa được bàn giao để chọn ra những nhân tố đào tạo sĩ quan phục vụ lâu dài trong quân đội tại các tỉnh phía Nam”.
Vậy là chiếc xe honda 67 cá nhân (mua tại Tân Châu) đã rong ruổi đưa 2 chúng tôi đi hầu hết các huyện Hồng Ngự, Tam Nông, Thanh Bình, Cao Lãnh, Mỹ An, Kiến Văn… Chúng tôi gặp các Đ/C Thanh Bần chủ tịch huyện Hồng Ngự, Đ/C Năm Ngọc, huyện đội trưởng Hồng Ngự, chú Hai Thương chủ tịch huyện Thanh Bình, chú Ba Dân huyện đội trưởng huyện Thanh Bình… và thời gian ở lại Cao Lãnh là lâu nhất. Tại nhà ban chỉ huy quân sự thị xã Cao Lãnh (bây giờ là thành phố Cao Lãnh) đ/c Đức chỉ huy trưởng đã giúp chúng tôi đến hầu hết các xã của huyện Mỹ An, Kiến Văn, Cao Lãnh (lúc đó huyện Mỹ An, Kiến Văn còn trực thuộc Cao Lãnh) cùng với chính quyền địa phương xác minh những yếu tố cần thiết theo yêu cầu của trên.
Ngày 29/12/1976, thật bất ngờ khi biết tin chị Hai Nhị (Trương Thị Thắm) đang làm trưởng phòng kinh tế thuộc công an tỉnh Đồng Tháp và hai chúng tôi đã đến thăm chị.
Tại khu nhà trước đây là trại giam của bọn cảnh sát Ngụy (bây giờ là khu hội trường công an tỉnh Đồng Tháp) chị hai tiếp chúng tôi bằng một bữa cơm có đủ các món ăn… Cháu Phương và cháu Tài mới đi học được hơn 1 năm. Thấy chị cũng chẳng khác sau 3 năm mới gặp lại. Chị vẫn đẹp, vẫn hiền dịu nhìn 2 chúng tôi ăn cơm và âu yếm nói “thấy hai đứa bay còn sống và mạnh khỏe tao mừng lắm…”. Cũng thời gian này, Đ/C Năm Thắng dẫn tôi đến thăm chị Nguyễn Thị Sáng đang là trưởng trạm y tế xã Hòa An (em vợ của Đ/C Huỳnh Công Trứ) và sau này hai người thành vợ chồng sinh sống ở xã Ba Sao huyện Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp. Chị và Đ/C có ba cháu. Giờ đây, cháu lớn đầu lòng đang làm trưởng phòng thống kê huyện Cao Lãnh và vợ là cháu Loan là tỉnh ủy viên, nguyên phó ban tuyên giáo tỉnh ủy, mới được điều về làm bí thư huyện ủy huyện Thanh Bình. Cháu gái thứ 2 có chồng ở Sa đéc và cháu út đang ở nhà với chị (mối tình của Đ/C với cô út Dúng trong kháng chiến trước đây không thành, Hiện nay cô út Dúng đã có chồng và 3 đứa con đang sinh sống tại huyện Hồng Ngự).
(Đ/C Năm Thắng đã qua đời vào đầu năm 2007, và tôi đã kịp đến thăm Đ/C trước khi Đ/C tắt thở 15 phút, chị năm và gia đình kể lại, “sau khi Đ/C bị tai biến được cấp cứu tại bệnh viện Hữu Nghị 5 ngày thấy bệnh không thuyên giảm bác sĩ đã “chạy” và gia đình chuyển Đ/C về nhà để lo hậu sự. Trong lúc hôn mê Đ/C vẫn thường nhắc đến tên tôi”. Được cháu Huỳnh Thanh Sơn (con Đ/C Huỳnh Công Trứ) điện gấp cho đ/c Thứng chính trị viên huyện đội Thanh Bình chuyển điện tiếp cho tôi báo Đ/C bệnh nặng, tôi đã kịp đến nhà anh. Tôi chạy đến bên giường bệnh, Đ/C còn kịp “ ú ớ…” và từ từ yếu dần… rồi nhắm mắt… Tôi đã khóc và vuốt mắt cho anh. Đ/C được mai táng tại đất nhà, xã Ba Sao, huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp. Ngày giỗ của Đ/C hàng năm vào ngày mùng 6 tháng giêng âm lịch.)
Sau chuyến công tác chúng tôi trở về đơn vị, nhưng các phương tiện cơ giới chỉ về tới thị xã Hồng Ngự là phải stop, từ đây, chúng tôi phải đi bằng phương tiện đường thủy (ghe, xuồng, vỏ lãi, tắc ráng) rồi đi bộ băng tắt cánh đồng về nơi đóng quân. Vậy là chiếc xe honda cá nhân không biết phải “xử lý” nó như thế nào… Cũng may nhờ đ/c Mạnh và đồng chí Thái (ban quân y) mách nước từ trước khi lên đường… Tôi đã liều mạng “mò” vào ngân hàng huyện Hồng Ngự để “làm quen” tìm chỗ gửi xe…
Tại ngân hàng huyện Hồng Ngự lúc đó có 3 cô gái ngoài miền Bắc mới được tăng cường vào tên là Liên, Cát, Thanh. Cả 3 cô rất đẹp nhưng đều bị bệnh ghẻ ngứa (do chưa quen với nguồn nước), nhờ có ít kinh nghiệm “ngoại giao” tôi đã được cả 3 cô “mến mộ” và tình nguyện giữ xe miễn phí. Chiếc xe của tôi là chiếc thứ 9 của các anh em trong trung đoàn gửi lại, trong đó có cả chiếc xe HON ĐA 50 của đ/c Tám Sơn nằm trong “bãi xe” của ngân hàng Hồng Ngự.
Một thời gian sau đ/c Được thuộc đơn vị tôi đã cưới cô Cát và hai người chuyển ra Bắc. Đồng chí Giang cưới cô Liên và hiện nay hai người đang sinh sống tại huyện Thanh Bình. Nghe đâu cô Thanh vẫn độc thân, hiện đang công tác tại ngân hàng thành phố Hồ Chí Minh.
Đầu năm 1977, trung đoàn 1 (207) được giao nhiệm vụ bảo vệ dọc tuyến biên giới của huyện Mộc Hóa, bây giờ là huyện Vĩnh Hưng, Mộc Hóa, Long An và quản lý trên 10 ngàn hecta đất nông nghiệp. và trung đoàn 5 (có nhiều cán bộ chiến sĩ của 207 tăng cường) đóng quân tại Thủ Thừa –Long An.
Sông Trăng là con sông nhỏ dọc biên giới ngăn chia hai nước Việt Nam - Campuchia. Mùa nước thì lòng sông rất sâu thuận tiện cho việc lưu thông bằng phương tiện đường thủy, nhưng mùa khô nước lại cạn kiệt, thường thường mực nước chỉ ngang bụng, có chỗ chỉ ngang đầu gối, do vậy việc qua lại của nhân dân hai nước cũng thật dễ dàng.
Cả ba tiểu đoàn bộ binh được điều đóng quân sát biên giới, chỉ cách độ 1 km, vừa làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu, vừa gieo sạ lúa trên vùng đất hoang hóa. Để giúp cho bộ đội làm kinh tế, cấp trên đã tăng cường rất nhiều loại máy, máy cày MTZ xe vận tải GMC, sáng cạp (là loại xe cô Be cạp đất nằm trên Sà lan)…và có cả đàn trâu gần trăm con. Đ/C Hai Tường trung đoàn phó, quê Bến Tre, rất hay cưỡi trâu ra xã Tân Thành nhậu chung với mấy bác nông dân. Nhìn cái cảnh Đ/C mặc quân phục, “xắn quần móng lợn”, mang quân hàm cấp tá, đầu đội nón lá (vì sợ nắng) ngồi ngất ngưởng trên lưng trâu thì … “không thể chê vào đâu được”…
Từ xã Hưng Điền giáp sông Trăng là một con đường đất chạy thẳng về Gò Chùa, Gò Pháo, ấp Kênh, rồi về Gò Gòn. Bên trái Gò Chùa là Gò Chuối. Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân tại Gò Chùa. Vị trí này cách biên giới khoảng 3km.
Trước khi trung đoàn bộ chuyển về đây, khu vực này đã được hai đội quản huấn sĩ quan Ngụy Sài Gòn “giúp” xây dựng doanh trại cho trung đoàn bộ…
Khu đất cao hơn mặt ruộng khoảng 1m, rộng khoảng 10ha, trồng toàn cây me nước, được xây dựng những căn nhà bằng thân cây tràm lợp bằng lá dừa nước. Nơi này còn được trang bị máy phát điện chạy bằng dầu diezen để cung cấp ánh sáng cho toàn khu vực.
Ngày 20/1/1977, tôi có quyết định về nhận công tác tại ban chính trị trung đoàn và chính thức bổ sung cho cơ quan tuyên huấn. Vậy là sau đúng 6 năm (tháng 1/1971 – tháng 1/1977): “Vòng vo tam quốc” tôi lại trở về đơn vị cũ. Chỉ có điều đơn vị thì vẫn như xưa nhưng con người thì đã thay đổi gần hết duy còn có mỗi mình Đ/C Lợi (Phạm Đức Lợi) là “đóng chốt” từ đó cho đến tận bây giờ.
Ban chính trị lúc này gồm có: Đ/C Bảy Việt làm chủ nhiệm chính trị, có một Đ/C y tá, một Đ/C liên lạc, một Đ/C quản lý, một Đ/C nuôi.
Cơ quan tổ chức có Đ/C Hợp là trợ lý 1, đ/c Phạm Hậu làm trợ lý 2, đ/c Hà trợ lý 3, đ/c Hùng là văn thư.
Cơ quan bảo vệ có đ/c Sở (bên cơ yếu chuyển qua) làm trợ lý 1, Đ/C Hởi làm trợ lý 2.
Cơ quan dân địch vận có đ/c An Xuân Triển.
Cơ quan cán bộ có: Đ/C Lợi trợ lý 1, đ/c Nghị trợ lý 2, đ/c Hữu thống kê, đ/c Dịu (Nguyễn Khắc Dịu) làm văn thư – hiện nay đ/c Dịu là cán bộ vụ tổ chức, cán bộ trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam.
Cơ quan tuyên huấn có: Tôi trợ lý 1, đ/c Phan Xuân Thi trợ lý 2, đ/c Nhuận phụ trách câu lạc bộ (đ/c Nhuận hiện là tiến sĩ đang công tác tại bệnh viện Chợ Rẫy), đ/c Thuấn văn thư (đ/c Thuấn hiện là tiến sĩ công tác tại sở y tế Đồng Tháp), đ/c Lê Minh Trí (hiện là giám đốc cục dự trữ nhà nước khu vực Đồng Tháp), đ/c Nguyễn Hữu Trí (hiện đang sinh sống tại xã Mỹ Long huyện Cao Lãnh, Đồng Tháp).
Thế đấy! Đúng 6 năm “vào sinh ra tử” trên chiến trường giờ quay trở lại đơn vị cũ lên được một chức… Nghĩ lại vẫn còn “ngon” hơn Đ/C Lợi: “cứ ngồi ì tại chỗ”…
Cơ quan tuyên huấn được bố trí một căn nhà lợp lá, vách ngăn cũng bằng lá có 3 phòng:
Phòng giữa nhà có bàn hình chữ nhật dùng để tiếp khách, kiêm luôn bàn ăn. Phòng bên trái làm phòng văn thư và làm chỗ nghỉ cho Nhuận, Thuấn, Lê Trí, Hữu Trí.
Phòng bên phải làm thư viện và làm chỗ nghỉ cho tôi và Thi. Phòng không có cửa sổ nên ở vách đầu giường tôi và đ/c Thi đã tự khoét 2 lỗ trên vách lá hình chữ nhật cao 20cm, bề ngang 50cm làm lỗ thông gió cho mát và khỏi ngộp. Trong phòng có cả gần chục cây đàn ghi ta, man đô luyn…Lúc rảnh rỗi mấy anh trong đơn vị chúng tôi thường hòa tấu vài bản nhạc …Thi đàn rất hay …Tôi cũng biết “võ vẽ” …Cho đến bây giờ vẫn còn nhớ nhất Thi đệm đàn cho tôi hát bài “Chiếc nón bài thơ” hay “hết biết”… lính tuyên huấn mà…
Tại doanh trại ban chính trị có một cái giếng đào nhỏ xíu, có từ trước do bộ phận quản huấn đào không đủ nước sinh hoạt nên Đ/C Bảy Việt quyết định đào thêm giếng khác để phục vụ cho Đ/C em tắm giặt. Vậy là gom tất cả cán bộ chiến sĩ của các tiểu ban thay nhau đào giếng. Chiếc giếng nằm cạnh đường đi, đêm hôm đó Đ/C Bảy Việt đi họp về trời tối loạng choạng thế nào ngã xuống giếng cạn, bị cụp xương sống phải điều trị nửa tháng mới khỏi, rất may cái giếng mới đào sâu khoảng 2m, chứ nếu sâu hơn không biết cái lưng với đôi chân của Đ/C sẽ ra sao? Giờ nhớ lại thấy thương Đ/C quá!
Nhiệm vụ của cơ quan tuyên huấn lúc này là soạn thảo những tài liệu học tập cho bộ đội, nhất là số chiến sĩ mới bổ sung cho 3 tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc và 2 đội quản huấn (giáo dục số sỹ quan cấp úy của quân Ngụy Sài Gòn) nên công việc của chúng tôi rất bận rộn. Tôi và đ/c Thi cứ miệt mài chia nhau công việc (nhiều lúc đ/c Thi còn đảm nhận nhiều hơn cả tôi. Vì vậy cơ quan tuyên huấn lúc nào cũng hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ).
Ngày 28/3/1977, trung đoàn được thông báo có đại tướng đến thăm. Vậy là sáng hôm đó, cả cơ quan trung đoàn bộ tấp nập chuẩn bị. Sĩ quan ăn mặc quân phục mới nhất. Trung đội vệ binh súng đạn đầy đủ canh gác 3 – 4 lớp quanh khu vực nhà ban chỉ huy trung đoàn (nhà đ/c Tư Dẫu chính ủy được chọn là nơi đón tiếp đại tướng). Tôi được đ/c tư Dẫu và đ/c Tám Sơn mời đến trước để tháp tùng, cùng các Đ/C chuẩn bị một số nội dung cần thiết. Đ/c Du bên ban tham mưu được phân công chuẩn bị bãi đáp cho máy bay trực thăng hạ cánh. 8h sáng, công việc chuẩn bị đã hoàn tất và tất cả đã ở tư thế sẵn sàng. Dự kiến cho bãi trực thăng hạ cánh nằm ở khu vực đồng trống cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 200m. Đ/c Du hướng dẫn vệ binh kiểm tra rất kỹ và 4 góc cắm 4 lá cờ. Hai đống rơm to đùng được để sẵn đốt lên hun khói cho máy bay dễ nhìn. Lực lượng vệ binh tản ra bảo vệ xung quanh “sân bay”…
Trên chiếc bàn gỗ hình chữ nhật tại nhà đ/c Tư Dẫu đã có bình trà, bộ ly và phích nước sôi, đ/c Tám Sơn và đ/c Tư Dẫu đã ở tư thế rất sẵn sàng…
10h sáng vẫn “im hơi lặng tiếng”… 11h trưa cũng vẫn “lặng tăm”, tôi thấy đ/c Tám Sơn và đ/c Tư Dẫu từ “sốt ruột” đã chuyển sang “bình thản”, đ/c Tám sơn còn nói với đ/c Tư Dẫu: “Mấy cha chắc nói dóc rồi, chẳng có tướng tá nào chịu bò đến cái vùng khỉ ho cò gáy này đâu”…
Nhiệt độ ngoài trời lúc này rất cao vì mặt trời đã gần đứng bóng. đ/c Tám Sơn đã cởi bỏ bộ quần áo và tháo đôi giày. Đ/C mặc mỗi chiếc quần đùi, ở trần, “mặt đỏ như gà chọi”…ngồi chờ đại tướng.
Khoảng 11h30, ở ngoài cánh đồng, từ hướng Mộc Hóa bỗng thấy bụi cát cuộn lên mù mịt (lúc này là cao điểm mùa khô nên cánh đồng chẳng khác gì bãi sa mạc), đám bụi cát cứ thế tiến thẳng vào sở chỉ huy trung đoàn. Khi còn cách khoảng 700m, chúng tôi đã nhìn rõ hai chiếc xe nhà binh một chiếc xe Jep và một chiếc xe GMC đang thẳng tiến vào hướng chúng tôi và chỉ độ 5 phút sau hai chiếc xe đã dừng cách nhà đ/c tư Dẫu khoảng 50m.
đ/c Tư Dẫu đã vội vàng bước ra vì nhìn thấy Đ/C Sáu Phú sư đoàn trưởng từ trên xe Jep bước xuống. Sau cái bắt tay đ/c Tư Dẫu hỏi đ/c Sáu Phú: “Đại tướng không đến à?”. Đ/C Sáu Phú chỉ về phía chiếc xe GMC và chúng tôi đã nhìn thấy 4 – 5 người đang ở trên sàn chiếc GMC trèo xuống…
Bốn vị khách đã theo đ/c Tư Dẫu và đ/c Sáu Phú vào trong nhà tiếp đón, Đ/C Tám Sơn vẫn còn ở trần tỉnh bơ hóng gió… Vào tới nhà đ/c Sáu Phú đã vội vàng giới thiệu:
“Đây là đại tướng Chu Huy Mân… Đây là thiếu tướng Lê Quốc Sản… Còn 2 đ/c này là cục trưởng cục tuyên huấn và cục trưởng cục cán bộ”... Lúc này Đ/C Tám Sơn mới tá hỏa đi lấy quần áo mặc để tiếp chuyện đại tướng.
Đ/c Du và cánh vệ binh trung đoàn vẫn chưa hay biết gì, vẫn kiên trì bám trụ ngoài “sân bay dã chiến” chờ máy bay của đại tướng đến thăm trung đoàn…
Sau này Đ/C Sáu Phú kể lại chúng tôi mới biết “máy bay của đại tướng chỉ bay tới Mộc Hóa và đại tướng quyết định dùng xe GMC đến thăm trung đoàn để thực tế được nhìn tận mắt vùng đất mà bộ quốc phòng giao cho sư đoàn 8. Các đ/c vệ binh sư đoàn đã dùng rơm trải trên sàn xe GMC để đại tướng và các đ/c cùng đi ngồi cho êm."
Đầu tháng 5/1977, tình hình biên giới bắt đầu căng thẳng, bọn Pôn Pốt đã cho lực lượng trinh sát thường xuyên vượt biên giới sang thăm dò nơi đóng quân và các chốt tiền tiêu của ta để chuẩn bị cho các bước xâm lược tiếp theo của chúng…Và những hi sinh tổn thất bắt đầu trở lại với những người lính trung đoàn.
Đ/c Hải nguyên là chiến sĩ tiểu đoàn 2 đã nghẹn ngào kể lại với tôi:
Đêm 16/5/1977 tiểu đoàn 2 được lệnh xuất kích để ngăn chặn đám lính Pôn Pốt đã thập thò bên kia biên giới. Đội hình phòng ngự chốt chặn của ta nằm cặp sông Trăng cách kho lúa xã Hưng Điền khoảng 300m do đ/c Hồ Minh Sanh tiểu đoàn trưởng trực tiếp chỉ huy. Sau 5 ngày đêm bọn địch chỉ nằm bên kia sông Trăng và lâu lâu lại nổ súng về phía trận địa ta bằng B40 và cối 60. Khoảng 7h tối ngày 21/5/1977, một cơn mưa rất lớn đã làm nước ngập hầu hết các công sự phòng ngự của ta. Tới 12h khuya, đ/c Hồ Minh Sanh đã ra lệnh cho toàn tiểu đoàn rút về phía sau khoảng 1km và xây dựng tuyến phòng thủ tại đây. Khi rút quân trời rất tối và mưa nên đ/c liên lạc đại đội 7 đã “quên” không thông tin cho chốt tiền tiêu do đ/c Hải và đ/c Bộ đảm trách. 4h sáng ngày 22/5/1977, cơn mưa vừa dứt, bọn Pôn Pốt bên kia biên giới đã cho lực lượng vượt sông Trăng. Một tốp lính khoảng 6 tên đã tiến thẳng vào vị trí tiền tiêu, khi chúng còn cách độ 10m, đ/c Hải và Bộ đã ném lựu đạn. Sau 2 tiếng nổ, 6 tên địch đã nằm tại trận địa, bọn địch phía sau lùi lại (vì chúng chưa hiểu gì về lực lượng ta). Tranh thủ thời cơ, đ/c Hải và đ/c Bộ đã bò lên lấy được 4 khẩu súng và rất nhiều đạn từ xác mấy tên lính Pôn Pốt đem về hầm, dùng nón cối tát nước mưa trong công sự để chuẩn bị chiến đấu.
Phát hiện được lực lượng của ta quá ít, bọn Pôn Pốt đã cho lực lượng bao vây tổ tiền tiêu, chúng la ó om sòm: “Chô…chô…” và tung đủ các loại đạn về hướng công sự. Hai chiến sĩ ta với 6 súng trong đó có 4 khẩu chiến lợi phẩm mới thu được đã dũng cảm nổ súng đánh trả. Bọn địch lớp chết, lớp bị thương vẫn không thể nào chiếm được chốt tiền tiêu chỉ có hai người. Sau gần 1h đồng hồ chiến đấu đ/c Bộ đã trúng đạn hi sinh, còn lại một mình, đ/c Hải vẫn ngoan cường nổ súng chống trả… Hải suy nghĩ “thà trúng đạn chết như đ/c Bộ chứ nhất định không để chốt lọt vào tay quân Pôn Pốt”.
Nghe tiếng súng nổ rền vang ngoài trận địa, kiểm tra lại thấy thiếu mất tổ tiền tiêu, đ/c Hồ Minh Sanh đã hạ lệnh toàn tiểu đoàn nhanh chóng vận động trở lại trận địa cũ, găm đạn vào lũ quân Pôn Pốt đang bao vây 4 phía căn hầm của đ/c Hải. Bọn địch thấy lực lượng của ta xuất hiện đã vội vàng tháo chạy về bên kia biên giới.
Đây là trận đánh đầu tiên của trung đoàn ở mặt trận phía Tây Nam. Bọn địch đã bỏ lại 16 xác chết quanh khu vực này. Nhiều tên lính bị thương và xác chết chúng đã lôi về bên kia biên giới. Sau trận đánh này, đ/c Hải được điều về làm liên lạc cho đ/c Hồ Minh Sanh và được đề nghị tặng thưởng huận chương chiến công hạng nhất.
Đ/c Hải quê quán tại Mỹ An, nhập ngũ vào cuối năm 1976 (Đợt tôi nhận quân), hiện nay là chủ tiệm vàng Thanh Long, tại thị trấn Mỹ Thọ huyện Cao Lãnh. Nói chuyện với tôi và đ/c Lê Minh Trí, đ/c Hải vô cùng xúc động bồi hồi nhớ lại những ngày tháng gian khổ, ác liệt, hi sinh… trong cuộc chiến đấu bảo vệ Tổ quốc tại biên giới Tây Nam, nước mắt cứ tuôn trào khi nhớ lại đ/c Bộ (quê Thanh Hóa) người đồng đôị thân thương, người duy nhất đã hi sinh anh dũng trong trận đánh này…
Bước sang năm 1977 là năm lính ta “đua nhau” cưới vợ. Nghĩ cho cùng thì nước nhà thống nhất đã gần 2 năm. Nhiều đồng chí đã lớn tuổi (đặc biệt là những anh em miền Nam đi tập kết ngoài bắc rồi trở lại chiến trường). Gần nửa đời người cứ mải miết với chiến trận… với công việc… ngoảnh lại đã “cúp thùng thiếc” cả rồi…
“Mở màn” là anh Võ Be cưới chị Tâm giáo viên dạy tại xã Tân Long, huyện Thanh Bình, Đồng Tháp. Anh Võ Be chỉ nhỏ hơn ông già vợ có 6 tuổi. Bố vợ anh Be tên là Kim, mới đầu anh Be gọi chú Ba Kim là anh…sau dần tăng lên là chú…và cuối cùng là ba. Kế đến anh Tư Dẫu cưới chị Tý. Anh Tư Dẫu lớn hơn chị Tý gần 20 tuổi. Ngày 2 người chuẩn bị làm đám cưới, anh Tám Sơn chọc anh Tư Dẫu: “Trâu già mà gặm cỏ non”. Thế nhưng sự đời nhiều khi khó đoán trước, chỉ sau đó 1 thời gian ngắn anh Tám Sơn lại quen cô giáo Mai dạy tại Gò Pháo rồi 2 người yêu nhau và làm đám cưới. Cô giáo Mai nhỏ hơn anh Tám Sơn tới tận… 23 tuổi. Đến lượt anh Tư Dẫu “trả đũa”… “Cỏ non nó làm tít mắt lão trâu già”.
Rồi tới tôi cưới vợ. Bà xã tôi nhỏ hơn đúng 5 tuổi. Đồng đội cứ tấm tắc khen “xứng đôi phải lứa”… Sau đó tiếp tục rất nhiều đồng chí khác lập gia đình… Ôi! Đủ các lứa tuổi, đủ các niềm vui…Trung đoàn cứ liên tục “vui như tết”.
Thời kỳ đó tổ chức đám cưới cho bộ đội ở các tỉnh phía Nam, nhất là đối với sỹ quan bài bản lắm. Thường từ lúc “triển khai” đến khi “hoàn thành” thời gian mất độ nửa năm là ít. Ví dụ như trường hợp của tôi.
Ngay cuối năm 1976 chúng tôi đã làm đơn xin kết hôn, kèm theo một bản lý lịch bên vợ có xác nhận của chính quyền địa phương gửi cho Đảng ủy trung đoàn. Riêng tôi phải có giấy xác nhận của địa phương ngoài miền Bắc là tôi chưa có vợ. Tiếp theo đó trung đoàn cử cán bộ bảo vệ (đ/c Sở) về tận quê vợ để xác minh và thẩm tra lý lịch. Những kết quả được trình cho đảng ủy trung đoàn: “Quyết nghị” rồi báo cáo về Bộ Tư Lệnh sư đoàn ra QUYẾT ĐỊNH. Khi đã có quyết định ban chỉ huy trung đoàn mới tiến hành kết hợp với gia đình, địa phương chuẩn bị và ấn định tổ chức ngày hôn lễ.
Trước ngày hôn lễ khoảng 1 tuần, cơ quan tuyên huấn đã chuẩn bị một số vật dụng cần thiết như phông, màn, khẩu hiệu, hoa, máy chụp hình …tôi còn nhờ đ/c Nhuận (hiện đang công tác tại bệnh viện Chợ rẫy) và đ/c Tỵ (hiện là bác sỹ chuyên khoa 2 bệnh viện K171) quẩy 2 ba lô đường đem về gia đình bên vợ để cho má làm bánh kẹo (thời kỳ này bao cấp, bánh kẹo bên ngoài phải phân phối khó mua lắm). Đặc biệt là đường cát rất khan hiếm. Vợ tôi giáo viên chỉ được phân phối 1 tháng 1 kg đường. Còn tôi sỹ quan 1 tháng được 2 kg. Cũng nhờ bạn bè trong trung đoàn nhường tặng nên mới có khoảng 30kg đường đem về nhà trước.
Ngày tổ chức đám cưới thì vui tuyệt.Trung đoàn thành lập 1 ban tổ chức hẳn hoi. Có anh Lợi, anh Nghị, anh Hậu, đ/c Thi, đ/c Hà… do đ/c Phan Xuân Thi làm MC. Đ/c Thuấn + đ/c Minh Trí còn mang về 2 khẩu AK với mấy trăm viên đạn bảo vệ đám cưới. Cánh sỹ quan đ/c nào cũng đem theo súng ngắn (cũng bởi tình hình an ninh lúc đó chưa thật ổn định nên lính ta phải cảnh giác ấy mà). Riêng tôi ngoài khẩu súng ngắn K54 đầy nhóc đạn, tôi còn thủ theo gần chục quả lựu đạn (loại mini dùng cho đặc công). Cũng tại cái vụ này mà bà già vợ tôi hết hồn hết vía…
Chuyện là, gia đình bên vợ tôi làm nghề thuốc bắc, nên cái phòng ngủ của chúng tôi có một chiếc tủ rất nhiều hộc (giống như ngăn kéo), số lựu đạn mang về được tôi cất vào 1 hộc tủ thuốc. Khi trở về đơn vị tôi quên khuấy. Độ nửa tháng sau má vợ tôi mở hộc tủ và gặp ngay gần chục quả lựu đạn. Bà sợ quá lăn đùng ra xỉu (bởi má có bệnh tim). Cũng may cậu Hai của vợ tôi trước đây làm xã đội trưởng xã Tân Thạnh, huyện Thanh Bình cũng có mặt và ông ấy cất số lựu đạn chờ tôi về phép đem trả lại cho đơn vị. (Hiện nay cả cậu Hai và má đã mất rồi). Ngồi nghĩ lại vừa thương má vừa thương cậu.
Khoảng đầu tháng 6/1977, cái giếng mới của ban chính trị đã hoàn thành và nước lúc nào cũng trong veo, mát rượi… Bên cạnh giếng cách độ 2m có một cái nhà tắm độ 4m2 quây toàn bằng lá dừa nước để cho lính ta vào tắm và thay đồ cho kín đáo. Chiều hôm đó tôi và Phan Xuân Thi rủ nhau đi tắm và ấn tượng nhất đến bây giờ vẫn còn nhớ là: “2 thằng kỳ lưng cho nhau bằng dép”.
Bộ đội ta thời kỳ đó hễ tắm là lấy dép râu kỳ lưng thì tuyệt vô cùng. Chỉ cần đưa mũi dép cao su “ủi” vài đường là bợn ghét bám trên lưng bung ra hết, xối qua vài ca nước là cái lưng đã sạch lắm rồi. Tuy nhiên lúc này cánh chúng tôi đã thành sĩ quan nên không còn được trang bị dép râu mà thay thế là loại dép nhựa Trung Quốc màu da bò, vậy là tôi và Thi lấy dép nhựa ủi lưng cho nhau…không có xà phòng thơm và dầu gội, tôi làm ngay 1 vốc xà bông bột…cũng còn tốt chán…lúc ở trên rừng thì bói cũng chẳng kiếm đâu ra xà bông… Đ/c Thi buồn cười chọc tôi: “Thật ông trời chẳng công bằng chút nào… Vợ (Cóng) ở nhà tắm gội bằng xà phòng thơm rồi xịt nước hoa, còn chồng (Kiên): “rửa đầu” bằng xà bông bột… Nghĩ cũng thấy “tủi ” thật. Nhưng cứ kệ nó…lính mà…miễn sao đừng có bệnh tật gì để có sức khỏe mà đánh giặc là Ok rồi…
Đầu tháng 7/1977, chị Tý từ Sài Gòn lặn lội đến thăm anh Tư Dẫu. Tại nhà riêng giành cho chính ủy, được lợp bằng tôn có đóng la phông, xung quanh vách được dựng bằng loại ván ép, có 1 căn buồng để giành cho 2 anh chị. Chị đến đơn vị, anh em trong trung đoàn coi như người chị cả và lúc nào cũng giành một sự ưu ái đặc biệt… Chiều hôm đó anh Lợi làm thịt mấy con gà nấu cháo và mời anh chị Tư, chúng tôi cũng được hưởng sái. Vậy là căn nhà của cơ quan cán bộ rất vui và nhộn nhịp… Ăn cháo xong anh Tư cầm tay dắt chị về nhà riêng, rất tình tứ và hạnh phúc. Chúng tôi còn nhìn thấy anh xách nước từ ngoài giếng vào nhà để chị tắm. Anh Bảy Việt nói vui, “vợ trẻ thì được cưng là cái chắc rồi”, riêng tôi thì suy nghĩ: “Anh Tư thật thương chị…Tình cảm của những người chồng là lính…lúc nào cũng có một cái gì…rất đặc biệt…”.
Như bài trước đã nói “cơ quan trung đoàn bộ có máy phát điện chạy bằng dầu Diezen”. Một anh đại úy sỹ quan quân đội Sài Gòn nằm trong đội quản huấn rất giỏi nghề điện được trung đoàn điều lên phụ trách nhà đèn. Anh ta có nhiệm vụ trông coi máy phát, kiểm tra đường dây, câu bóng đèn phục vụ ánh sáng… Tiêu chuẩn mỗi nhà chỉ được 1 bóng đèn (loại bóng tròn 75w) Và nhà tuyên huấn chúng tôi dù có 3 phòng cũng chỉ được 1 bóng ngay phòng giữa. Ánh sáng theo cửa lọt qua 2 phòng bên.
Anh sỹ quan quân đội SG này ghiền thuốc lắm, nếu cho anh ta “đốt” thả ga 1 ngày phải hết 1 gói (20 điếu) mà 1 tháng anh ta chỉ được phân phối 5 gói (thời kỳ bao cấp mà).Cánh sỹ quan của bọn tôi lúc đó được ưu tiên hơn, mỗi người 1 tháng được phân phối 1 cây (loại Sài Gòn giải phóng hoặc Presidant). Ai ghiền thuốc như anh Lợi cũng tạm đủ. Ai không biết hút đem bán ngoài cũng được một món tiền kha khá…
Tôi là người “ghét” thuốc nhất vì từ nhỏ đến lớn chưa hút thuốc bao giờ. Đến bây giờ cũng vậy. Vậy mà thời kỳ đó cứ mỗi tháng là quản lý phát cho 1 cây thuốc đều đều.
Chiều hôm đó anh thợ điện đi kiểm tra đường dây, ghé vào nhà cơ quan tuyên huấn. Biết anh thèm thuốc, nên tôi tặng anh 1 cây Sài Gòn giải phóng (mà quản lý vừa mới phân phối). Anh mừng rơn và tối hôm sau anh câu cho nhà tuyên huấn thêm 1 bóng đèn. Thế có “đã” không cơ chứ!
Thời gian này Sông Trăng (là đường biên giới) đã bị bọn pôn pốt khống chế, nên các phương tiện vận tải của ta thường bị bọn chúng nổ súng làm hư hại tài sản có khi còn chết người. Từ Mộc Hóa chúng tôi phải đi phương tiện bằng đường thủy vào tới gần ngã ba lò gạch (cách biên giới khoảng 1 km) là phải dừng và đi bộ tắt về trung đoàn. Để thuận tiện cho việc đi lại của bộ đội, trung đoàn đã bố trí 2 – 3 chiếc máy cày MTZ kéo thùng ngay bến làm nhiệm vụ đưa rước…
Cuối tháng 7/1977, tôi có chuyến công tác về Mộc Hóa (nơi sư đoàn bộ đóng quân) và ngày hôm sau trở về đơn vị. Oái ăm thay khi chiếc máy cày còn cách cơ quan trung đoàn bộ khoảng 2km thì bị hư máy, tôi phải xuống đi bộ về đơn vị. Trên người chỉ có khẩu súng ngắn và cái xà cột nên khỏe re. Đi cùng chiều với tôi có một người phụ nữ cũng cỡ tuổi tôi, trên tay có 2 giỏ xách nặng. Tôi đoán người phụ nữ này chắc là chị của số anh em tân binh mới nhập ngũ, nên tôi đã tình nguyện xách dùm 2 giỏ xách.
Hai người chúng tôi cuốc bộ trên cánh đồng lúa đã cắt hết còn trơ lại những gốc rạ. Đi được một đoạn mồ hôi đã chảy dầm dề, hai tay đã mỏi rã rời. Tôi thầm ước “giá có cái ba lô mà bỏ những thứ này vào quẩy sẽ khỏe hơn nhiều, xách tay kiểu này tôi chưa quen”.
Đã nhiều lúc tôi muốn trả 2 cái “của nợ” cho người phụ nữ nhưng nghĩ lại mình là nam nhi, hơn nữa là người thân của đồng đội mình mà, vậy là tôi phải ráng xách cho hết đoạn đường…
Khi tới con đường đất, chỉ còn cách sở chỉ huy trung đoàn độ ba trăm mét, tôi mới có dịp hỏi thăm cô gái.
Cô vào thăm ai? Thuộc đơn vị nào?
Dạ em vào thăm nuôi chồng em, đội quản huấn số 2.
Tôi sửng sốt… Thì ra cô gái này là vợ của sỹ quan quân đội Sài Gòn đang cải huấn tại đội số 2 do đồng chí Liễu làm đội trưởng đóng tại gần Gò Pháo. Từ đây đến đó còn khoảng 3km. Không lẽ để người phụ nữ “chân yếu tay mềm” này tiếp tục đi bộ 1 mình với 2 giỏ xách nặng trĩu này sao? Rất may tôi gặp chiếc xe Jep do đ/c Cường tài xế của ban chỉ huy trung đoàn trên đường về Gò Pháo. Tôi gửi cô gái cho Cường và mở xà cột lấy giấy, viết biên vài chữ… cho đ/c Liễu.
Thật bất ngờ khoảng 9h sáng ngày hôm sau, cô gái hôm qua (đến bây giờ tôi vẫn chưa biết tên) xuất hiện tại ban chính trị và hỏi thăm vào đúng nhà cơ quan tuyên huấn, với 1 giỏ xách nặng trĩu đem tặng tôi và nói: “Chồng em là đại úy sĩ quan quân đội Sài Gòn đang học tập cải tạo…Gặp chồng em… em kể lại…Anh ấy rất ngưỡng mộ các sỹ quan của quân đội cách mạng…Anh ấy hứa sẽ học tập thật tốt để hết thời hạn trở về sum họp với gia đình. Anh ấy bảo em biếu anh giỏ quà này…”
Tôi chỉ nhận mấy trái Xoài cho cô gái vui lòng còn lại bao nhiêu bánh tét, bánh ích …tôi nhờ cô đem về cho anh em đang học tập tại đội quản huấn.
Đến cuối tháng 8/1977, anh Tư Dẫu được điều về làm chính ủy trung đoàn 77 và dc Nguyễn Hữu Quý được điều về làm trợ lý 2 quân lực (trung đoàn này đến năm 1978 phình ra là sư đoàn huấn luyện 868 và anh Tư Dẫu được bổ nhiệm làm chính ủy sư đoàn). Anh Hai Tựu được bổ nhiệm quyền chính ủy trung đoàn. Anh Tám Sơn được điều đi làm trung đoàn trưởng trung đoàn Vàm Cỏ và anh Hai Thu được quân khu điều về làm trung đoàn trưởng.
Anh Hai Tựu (hiện nay đang sinh sống tại Mỹ Tho), quê Quảng Ngãi đi tập kết, tốt nghiệp học viện chính trị Trung Quốc và được điều trở lại chiến trường. Chữ viết của anh rất đẹp. Chẳng thua kém gì chữ viết trên giấy khen, bằng khen, huân, huy chương… Bởi được học hành và đào tạo bài bản cộng với tài năng thiên phú nên trong công việc lúc nào anh cũng bình thản và xem nhẹ “như lông hồng”. Tôi đã chứng kiến tận mắt. Lúc tôi và anh được mời về quân khu tập huấn. Chiếc xe Jep do đ/c Cường lái. Tôi ngồi trước song song tài xế. Anh ngồi một mình ở băng sau. Từ Mộc Hóa đến Cần Thơ chạy mất độ 3 tiếng đồng hồ (thời kỳ đó đường khó chạy nên xe đi chậm). Xe cứ chạy… cứ lắc lư… chồm lên chồm xuống, vậy mà anh kê cuốn sổ trên đầu gối làm việc…khi đến Cần Thơ thì đã hoàn chỉnh xong bản báo cáo của trung đoàn dài hơn 10 trang. Nét chữ đẹp như cắt. Tôi thật ấn tượng về tài năng viết của anh.
Anh Hai Thu quê Bến Tre cũng đi tập kết rồi được điều trở lại chiến trường. Anh rất hiền, chất phác, ít nói…
Đầu tháng 9/1977, bọn Pôn Pốt đã gia tăng cường độ đánh phá, xâm lược Việt Nam. Vào ngày 4/9/1977, chúng đã huy động 1 lực lượng tấn công Gò Chuối nơi đồn trú của tiểu đoàn 3. Đêm hôm đó, khoảng 2 giờ sáng, bọn địch đã bất ngờ nổ súng (cũng giống như cách đánh của ta) chúng nã cối 82, cối 60 và DKZ vào đội hình đóng quân của D3 rồi sau đó cho bộ binh xung phong. Tiểu đoàn 3 đã dũng cảm nổ súng chống trả, xác địch nằm xếp lớp, ngổn ngang trên trận địa. Khẩu 12ly8 của C18 được tăng cường cho tiểu đoàn 3 đã hạ nòng nhả đạn… Sau 2 giờ nổ súng, biết không kham nổi, bọn Pôn Pốt đã lặng lẽ lui quân, lôi xác đồng bọn về bên kia biên giới. Tuy nhiên gần 30 tên Pôn Pốt và nhiều vũ khí chúng đã phải bỏ lại trước mặt trận địa D3. Sáng ra ta cho người lên thu dọn chiến trường, thu chiến lợi phẩm. Bộ đội được lệnh tiếp tục củng cố công sự và sẵn sàng chiến đấu tiêu diệt bất cứ kẻ thù nào dám đụng đến mảnh đất thân yêu của Tổ Quốc đã thấm biết bao máu xương của bao người con Việt trong mấy chục năm ròng đánh Mỹ.
Trong trận chiến này, đ/c Huỳnh Việt Nam thuộc khẩu đội 12ly8 đã hi sinh và thi thể được mai táng gần khu vực Gò Pháo. Nam và Long là 2 anh em ruột quê xã Tân Long nhập ngũ cùng 1 ngày (do tôi nhận quân), hiện nay đ/c Long đang sinh sống tại xã Tân Long và thỉnh thoảng chúng tôi vẫn gặp nhau.
Còn liệt sỹ Nam đang được người cháu ruột là Huỳnh Nam Việt (trưởng phòng Tài nguyên Môi trường huyện Thanh Bình) thờ cúng. Cũng chỉ có di ảnh, còn hài cốt của liệt sỹ Nam giờ này không biết nằm ở nơi nào? Nghĩa trang Mộc Hóa, Vĩnh Hưng, Tân Hưng hay vẫn còn ở nơi gần biên giới… Cháu rể của liệt sỹ Nam là thượng tá Phong (phó phòng Công an huyện Tân Hồng) đã nhiều lần tổ chức tìm kiếm hài cốt nhưng vẫn chưa tìm được…Nỗi đau này là nỗi đau chung của biết bao gia đình có con em đã ngã xuống vì cuộc chiến tranh giải phóng Dân tộc và bảo vệ Tổ quốc. Xin thắp một nén nhang lòng tri ân đến liệt sỹ Nam và các liệt sỹ…Đất nước khi ấy dẫu đã hòa bình nhưng vẫn còn binh đao khói lửa, nên hậu sự cho các Anh cũng chẳng được vẹn toàn…
Cũng thời gian này đ/c Thu Bèo (chiến sĩ nữ) quê Hồng Ngự, do uống thuốc quá liều loại Cloroquin (trị bệnh sốt rét) đã bị tử vong. Trung đoàn tổ chức đưa thi hài của Thu Bèo về quê mai táng trong nỗi tiếc thương của bạn bè, đồng đội, cán bộ, chiến sĩ trung đoàn…
Chuyện bên lề: Về chuyện cưới vợ của Thủ trưởng Tư Dẫu – Chính ủy trung đoàn, có chuyện vừa cười vừa buồn như thế này: “Mất trộm đồ sính lễ.”
Sau hơn 30 năm đi kháng chiến. Sau giải phóng, thủ trưởng mới có dịp về thăm quê, ở 18 thôn Vườn Trần, huyện Hóc môn, TP HCM, nay thuộc xã Tân Xuân, - Hóc môn.
Về đến nhà thì ba mẹ thủ trưởng đã qua đời, chỉ còn mấy bà chị gái, biết thủ trưởng chưa có vơ, mấy bà chị làm mai mối cho 1 cô thôn nữ mới 19 tuổi cùng quê, Thủ trưởng người nhỏ, trắng trẻo đẹp trai, nói chuyện dí dỏm, lại là cán bộ chính trị, thế là cô thôn nữ ưng liền.
Thủ trưởng về báo cáo đơn vị và xin cưới. Tiền bạc chẳng có, thủ trưởng lĩnh 1 tháng lương và anh em gom góp, mua được 2 chỉ vàng, làm quà sính lễ.
Trung đoàn đóng quân ở Gò chùa – Đồng tháp, ngày về quê làm đám hỏi, chỉ có 1 xe Jeep, trên xe có 4 người, gồm lái xe là anh Tưởng (nguyên lính C16 –E207, hiện đang sống ở Đà lạt), liên lạc là anh Nam, (hiện đang sống ở TP HCM), vệ sỹ là anh Xuân (nguyên lính C25 đặc công, nay sống ở quê xã Cẩm điển – Cẩm Giàng Hải Dương).
Xuất phát từ Gò chùa vào sáng sớm, đến hơn 1 giờ mới về đến An lạc, TP HCM, thầy trò nghỉ trưa ăn cơm, và mua ít hoa quả, lúc lên xe thì cái cặp công tác của thủ trưởng trong đó có chứa đồ sính lễ bị mất cắp.
Thề là sính lễ xin cưới vợ của Trung tá chính ủy trung đoàn chỉ có ít hoa quả và … tấm lòng người lính chiến.
Rất may, gia đình Chị Tư cũng thông cảm với hoàn cảnh của lính.
Rồi anh chị cưới nhau, chị theo anh đi khắp các chiến trường dọc biên giới Việt nam - Campuchia trong chiến tranh biên giới Tây nam, cháu đầu lòng sinh tại Gò chùa.
Anh chị sinh được 5 cháu, 2 trai 3 gái, 4 cháu đã trưởng thành, có gia đình riêng, chỉ còn cháu út ở với anh chị tại xã Tân xuân – huyện Hóc môn – tp HCM, anh Tư nay đã ngoài 80, nhưng vẫn còn rất khỏe – minh mẫn.
Có dịp mời các bạn đến thăm gia đình anh chị, chị Tư sẽ nhanh chóng làm mồi mấy anh em nhậu. Chị làm mồi nhậu ngon và rất nhanh.)
“…Miền Tây, lửa cháy từng thân cỏ
Mới gặp bạn cười đã thấy bạn hi sinh…”
(Thiều Quang Thạch CCB E320 QK8)
Cuối tháng 12/1977, vì tình hình biên giới đã trở nên căng thẳng thật sự, nên sở chỉ huy trung đoàn được chuyển về đóng quân tại ấp Kênh cách biên giới khoảng 8km. Gò Chùa, ngã ba Lò Gạch, Gò Chuối là nơi đóng quân chốt chặn của 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3. Khu vực Gò Pháo là trận địa của cối 82 và DKZ75, sẵn sàng chi viện hỏa lực cho 3 tiểu đoàn. C18 (12ly8) lúc này do đ/c Linh làm chính trị viên được tăng cường phối thuộc trực tiếp cho 3 tiểu đoàn phòng ngự chốt chặn phía trước.
Thời gian này, anh Hai Thu và anh Lê Tựu lại được điều về nhận nhiệm vụ tại quân khu và anh Bảy Việt được bổ nhiệm quyền chính ủy, anh Hai Mạnh (người dân tộc quê Cao bằng) được quân khu điều về làm trung đoàn trưởng.
Anh Hai Mạnh có dáng người cao, to nước da ngăm đen, hiền lành, tác phong chậm rãi nhưng trong giải quyết công việc lại rất kiên quyết. Anh Hai Cúc được quân khu điều về làm chủ nhiệm chính trị thay cho anh Bảy Việt.
Cả 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và nhà ban chỉ huy trung đoàn nằm 2 bên 1 con đường đất rộng và cao (do 2 đội quản huấn đào đắp) và doanh trại nơi đây giống hệt như lúc còn ở Gò Chùa… Cũng nhà cột tràm, lợp bằng lá dừa nước, mỗi căn có 3 phòng (kiểu mẫu rập khuôn do ban doanh trại sư đoàn thiết kế).
Mỗi ban cũng chỉ có 1 giếng nước do bộ phận quản huấn đào sẵn nhưng nước giếng ở khu vực này thì rất khó dùng. Bởi vùng đất này là loại đất sét, màu gạch cua nên nước giếng lúc nào cũng đục như “bát đất”. Muốn ăn uống tắm giặt là lính ta phải múc sẵn đổ vào tăng nước, quậy phèn chờ vài tiếng đồng hồ mới có thể dùng được. Nhiều khi không có thời gian, bộ đội ta cứ nước đó tắm gội, giặt giũ nên da dẻ và quần áo cứ loang lỗ màu da bò. Nhìn cũng “đẹp mắt” ra phết…
Tại khu đóng quân mới, nhà ở của cơ quan tuyên huấn được coi là trung tâm nhất của trung đoàn bộ nên tôi và đ/c Thi quyết định “xây dựng” một cột cờ. Vừa biểu tượng khí phách hiên ngang của doanh trại quân đội nhân dân Việt Nam, vừa làm đẹp cho khu vực đóng quân. Ý tưởng này lập tức được anh Hai Mạnh và anh Bảy Việt đồng ý. Vậy là cánh tuyên huấn chúng tôi qua bên kho vật tư hậu cần xin được 4 cây tre rất thẳng và dài, 3 cây được ráp chụm lại làm thành tầng 1, còn 1 cây làm tầng trên. Cột cờ được dựng lên có dây thép chằng chéo hình tam giác (giống như chằng cột ăngten) nên vừa cao, vừa oai, vừa đẹp… và lá cờ đỏ sao vàng: “lá cờ thiêng liêng của Tổ quốc” được bọn tôi kéo lên tung bay suốt đêm ngày. Đứng xa khoảng 3 – 4 km đã nhìn rất rõ. Mỗi ngày nhìn sắc cờ thấm máu bao đồng đội rực rỡ trong nắng gió phương Nam, lòng chúng tôi càng thêm quyết tâm gìn giữ từng tấc đất tự do vừa giành được từ tay giặc, dù có phải tiếp tục hi sinh tuổi trẻ và mạng sống của mình!
Đầu năm 1978, hôm đó khoảng 2h chiều thì bất ngờ ở hướng Gò Pháo (chỉ cách sở chỉ huy trung đoàn hơn 1km) có những tiếng nổ ghê người. Lúc đầu, chúng tôi cứ tưởng bọn pôn pốt đã tập hậu vượt qua các trận địa phòng ngự chốt của các tiểu đoàn đánh vào trận địa cối 82 và DKZ của ta. Nhưng lắng nghe các âm thanh, ban đầu là những tiếng nổ lớn liên hồi của các loại đạn DKZ75, cối 82, B40, B41, lựu đạn, rồi xen lẫn các loại đạn nhọn, ở cùng 1 tọa độ… chỉ ít phút sau chúng tôi đã khẳng định: “ta đã bị nổ kho đạn”.
Phải gần 4h chiều, tiếng nổ mới chấm dứt. Tôi tháp tùng cùng cơ quan tham mưu theo anh Hai Mạnh và anh Bảy Việt ra tận nơi xảy ra sự cố, thì cảnh tượng thật đáng tiếc…
Do chưa kịp sơ tán kho đạn và kho súng (đã được dự kiến đưa về Gò Gòn), một quả đạn pháo 122ly của bọn pôn pốt đã bắn trúng kho đạn và kích nổ toàn bộ mấy chục tấn vũ khí (dự trữ) tan tành thành mây khói. Mấy trăm khẩu AK, mấy chục khẩu B40 – B41, gần chục khẩu cối 82 và DKZ75 cong nòng… Một thiệt hại rất lớn về vật chất nhưng may mắn bộ đội ta không có đồng chí nào bị thương vong.
Mặc dù chiến tranh biên giới đã gia tăng và mức độ ác liệt đã đến cực điểm nhưng các phong trào văn nghệ, thể thao của trung đoàn và sư đoàn vẫn được phát động tổ chức, nhằm tăng cường tinh thần thoải mái và sức khỏe cho bộ đội có sức chiến đấu cao. Phòng tuyên huấn sư đoàn do anh Ba Cương khởi xướng mở cuộc thi văn nghệ quần chúng… Vậy là cơ quan tuyên huấn chúng tôi cũng ráo riết thành lập đội văn nghệ để chuẩn bị cho hội thi.
Đ/c Phùng Gia Thặng đang công tác dưới tiểu đoàn 1 đã được chúng tôi đề xuất xin về và được anh Cúc, anh Bảy Việt chấp thuận. Phùng Gia Thặng lúc này còn là hạ sỹ quan nên việc điều động phải qua bộ phận quân lực và chỉ sau 1 tuần lễ đã có mặt tại cơ quan tuyên huấn nhận nhiệm vụ.
Thặng nguyên là giáo viên cấp 3 có tài năng “xuất khẩu thành thơ”, và giọng ca rất hay được giao nhiệm vụ làm đội trưởng đội văn nghệ không chuyên của trung đoàn. Hiện nay, Phùng Gia Thặng đang sinh sống tại Cần Thơ.
Chiến tranh là vậy, nhưng quân đội vẫn luôn luôn chú ý và quan tâm đến “món ăn tinh thần” cho bộ đội. Báo chí các loại (báo Quân đội nhân dân, báo Nhân dân, tạp chí Văn nghệ Quân đội, tạp chí Xây dựng Đảng…) vẫn được cấp phát tới tận trung đội, tiểu đội mà cơ quan tuyên huấn là nơi “đầu mối” vì vậy Lê Minh Trí và Nguyễn Hữu Trí rất vất vả. Hàng ngày 2 đ/c này phải ra tận bến tàu (tắc ráng) để nhận báo chí, sách vở, tài liệu… rồi về phân phối và cấp phát xuống các tiểu đoàn, các đại đội trực thuộc và 3 cơ quan. Ngoài ra chúng tôi còn được cấp rất nhiều loại sách quý. Có quyển nặng tới gần 1 kg như:Lenin toàn tập, Leptonxtoi, Bút ký triết học, Biện chứng của tự nhiên, Những cặp phạm trù của phép biện chứng duy vật… Do vậy, vừa sẵn sàng chiến đấu, lính ta cứ tha hồ mà đọc sách…
Sư đoàn còn tăng cường đội chiếu phim lưu động do đ/c Sơn làm đội trưởng (đ/c Sơn hiện nay đang sinh sống tại xã Tân Bình, Thanh Bình, Đồng Tháp). Chúng tôi hợp đồng với các đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn, đại đội cho bộ đội thay phiên nhau từ ngoài chốt về phía sau xem phim. Nhiều lúc do đặc thù tác chiến bộ đội ta phải xem phim ngay giữa cánh đồng, gò đất…
Đầu tháng 1/1978 có một gia đình từ Cai Lậy, Tiền Giang chở 1 chiếc quan tài bằng gỗ dày đến đơn vị để liên hệ xin lấy thi thể người thân đã hi sinh gần 1 tháng đem về quê.
Liệt sỹ này (lâu quá tôi không nhớ tên) thuộc lính trinh sát của sư đoàn tăng cường cho trung đoàn và hi sinh tại biên giới trong 1 lần bị địch phục kích và được đồng đội mang về gần khu vực Gò Pháo mai táng. Liệt sỹ chỉ còn mẹ và 4 chị gái nên được coi như “báu vật” của gia đình. Hôm ấy có gần chục cán bộ chiến sĩ của tiểu đoàn trinh sát đã tháp tùng cùng gia đình đến vị trí… làm thủ tục… rồi khai mộ. Tôi và đ/c Hợp, đại diện cho ban chính trị đến tham dự và được chứng kiến những phút giây đau xót cảm động của người mẹ và những người chị Liệt sỹ
Thi thể của liệt sỹ được gói bằng 1 tấm nilon chôn sâu hơn 1m tại 1 Gò Đất gần khu vực Gò Pháo. Bởi biết chắc chắn là người thân của mình (có bia bằng gỗ, tên tuổi, quê quán) nên khi thi hài của liệt sỹ vừa đưa lên khỏi mặt đất là người mẹ và 4 người chị gái nhào đến ôm lấy xác con, em khóc như mưa, bất chấp thi thể Liệt sỹ đang trong giai đoạn phân hủy mạnh nhất…
Chiều hôm ấy, cơ quan chính trị trung đoàn có tổ chức 1 bữa cơm tại nhà anh Cúc để thết đãi gia đình và anh em D trinh sát, nhưng cả 5 mẹ con hình như không ai đụng đũa. Nước mắt cư dầm giề nhìn về chiếc quan tài có người con, em thân yêu đang nằm trong đó. Chúng tôi và cả số anh em trinh sát sư đoàn cũng chẳng ai nuốt nổi cơm mặc dù đã gần một ngày chưa có cái gì vào bụng. Dù là lính chiến biết bao lần nghẹn lòng nhìn đồng đội hi sinh, nhưng hình ảnh ấy ám ảnh chúng tôi nhiều.
Chiến tranh biên giới vẫn tiếp tục gia tăng nhưng Đảng, nhà nước vẫn có chính sách cho bộ đội về phép thăm gia đình, người thân, đặc biệt là cánh sỹ quan cứ 2 năm 1 lần.
Ngày 15 /1/1978, tôi được cơ quan cán bộ trao giấy phép năm (đợt 1 của năm 1978), tôi liền nhanh chóng bàn giao công việc lại cho đ/c Thi rồi tức tốc về quê rước vợ tôi đi cùng (bởi từ khi cưới nhau, vợ tôi chưa có dịp về thăm bố mẹ và người thân bên tôi).
Trên chuyến tàu Bắc Nam của thời kỳ bao cấp, mặc dù toa tàu chỉ có độ 60 ghế mà họ nhét lên cả trăm người, trong đó có gần 1/3 là bộ đội (của nhiều đơn vị vừa đi phép, vừa đi công tác). Vậy là cánh lính ta cùng nhau giăng võng bên trên để nhường ghế cho những người khác. Hơn chục chiếc võng buộc từ thanh để hành lý bên này, qua bên kia và thẳng tắp đung đưa… Nhìn cũng thật buồn cười… Nhiều lúc gặp các đ/c nhân viên toa tàu đi nhắc nhở…lính ta cuốn võng rồi…lát sau đâu lại vào đấy. Nhắc chán, các đ/c nhân viên kiểm soát đoàn tàu cũng phải “chịu thua” rồi mặc kệ… thông cảm cho những người lính ngủ võng trên rừng Trường Sơn quen rồi…
Tàu Thống Nhất thời kỳ đó còn chạy chậm lắm, đi từ Sài Gòn ra tới Hà Nội phải mất 3 ngày 4 đêm mà ngán nhất là cái cảnh phải đi vệ sinh… Khoảng 11h tối hôm đó, bà xã tôi “có việc” phải vào trong toilét, tôi ngồi ngoài ghế chờ cả tiếng đồng hồ mà chả thấy “nàng” trở về chổ cũ. Tôi đoán chắc là có sự cố gì… Rồi vội vàng tới phòng toilet…thì ra vợ mình vẫn ở bên trong mà không tài nào ra bên ngoài được bởi vì có 4 – 5 thanh niên đã trải chiếu ngay trước phòng toilet nằm ngủ, “tếu táo” hơn mấy thanh niên này còn móc chiếc khóa từ bên ngoài. Tôi phải “năn nỉ” mãi mấy cậu thanh niên mới chịu thức dậy, nép vào 1 bên nhường đường cho vợ tôi từ trong toilet đi ra, một cậu thanh niên không chịu ngồi dậy cứ nằm bẹp dưới sàn tàu khi vợ tôi đi ngang liền la toáng lên: “Cái chị này đi đứng kiểu gì… vẩy cả nước đ… vào mặt người ta”. Chúng tôi ráng nhịn cười rồi mau chóng về chổ.
Sau 3 ngày 4 đêm, chúng tôi đã về đến Nam Định thăm cha mẹ rồi qua Thái Bình thăm bà con dòng họ sau đó trở về Hà Nội. Tại phố Cát Linh có người cháu (con anh cả) và một số người thân ở phố Phùng Hưng. Tôi đưa bà xã tôi đi thăm hầu hết những người thân, các khu di tích, các tuyến phố của Hà Nội rồi lại nhanh chóng vào Nam trở lại chiến trường.
Ngày 29/2/1978, bạn bè chúng tôi thật bất ngờ có một niềm vui: “Vợ của anh Mạnh (Nguyễn Văn Mạnh) hay còn gọi là Mạnh khịt vì anh có thói quen hay khìn khịt cái lổ mũi. Bất ngờ xuất hiện tại ban chính trị trung đoàn”.
Chuyện là: sau đợt về phép năm 1976, anh Mạnh cưới vợ tại quê, rồi tiếp tục trở lại chiến trường. Thời gian lâu quá không thấy anh về phép làm chị sinh “nghi” và quyết định “đơn thương độc mã” vào đơn vị tìm anh “để tìm nguyên nhân và hỏi cho ra nhẽ ”.
Chị quê ở Thanh Hóa đã nhảy tàu Thống Nhất vào tới Sài Gòn rồi hỏi thăm đường nhảy xe về Mộc Hóa. Được anh em lính sư bộ giúp đỡ chỉ đường, chị đã đến đúng ngay cơ quan Ban chính trị của trung đoàn rồi “trình báo” là vợ của anh Nguyễn Văn Mạnh (lúc này anh Mạnh đang làm chính trị viên đại đội 7, tiểu đoàn 2). Vậy là anh Mạnh có lệnh khẩn tốc từ D2 về Ban chính trị “nhận nhiệm vụ mới”. Cơ quan cán bộ cũng rất chu đáo nhường ngay cái phòng riêng cho 2 anh chị làm phòng hạnh phúc. Anh Lợi “di tản” sang ở chung với anh Cúc còn anh Nghị sang tá túc với cánh tuyên huấn chúng tôi. Cũng tại đây mà sau này cháu Thu con đầu lòng của anh chị ra đời. Thời gian sau anh được điều về làm hiệu trưởng trường bổ túc của Tỉnh đội Đồng Tháp và hiện nay cả gia đình anh đang sinh sống tại thành phố Vũng Tàu.
Đêm 16/3/1978, mới 1h khuya bọn pôn pốt đã cho 1 lực lượng tập kích vị trí đóng quân của tiểu đoàn 2 nằm ngay đầu Kinh Mới gần Lò Gạch. Khu vực này cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 3km. Đoạn kênh do sáng cạp thi công từ sông Tân Thành nối ra sông Trăng để làm nhiệm vụ rửa phèn cho vùng đất này, nhưng mới vượt qua ấp Kênh 3km thì phải dừng lại nên chiếc sáng cạp vẫn còn nằm chình ình tại đó…
Địch dùng cối 82 và DKZ75 nã đạn vào đội hình đóng quân của tiểu đoàn 2 rồi cho bộ binh xung phong. Đạn 12ly8 của chúng vượt qua đội hình D2 bay xèn xẹt vào nơi đóng quân của trung đoàn bộ. Những đường đạn lửa như sợi chỉ đỏ vạch ngang trên đầu chúng tôi. Toàn bộ cơ quan trung đoàn bộ được lệnh sẵn sàng chiến đấu. Tôi và đ/c Thi “chôm”ngay 2 khẩu AK của Trí và Thuấn bò ra mép bờ kênh trước mặt, bụng bảo dạ: “bọn mày mà dám mò đến đây…nếu chúng mày sống sót được thì cũng phải bước qua xác chúng tao…”. Nhưng sự việc đã không xảy ra. Tôi, Thi và cả anh em trong trung đoàn bộ chờ mãi mà cũng chẳng thấy tên lính Pôn Pốt nào “vác mặt” tới… Tiểu đoàn 2 đã anh dũng nổ súng đánh trả lũ quân khát máu vẫn thường xuyên gây hấn, khiêu khích, xâm lược… Gần sáng chúng đã phải lùi về bên kia biên giới bỏ lại rất nhiều xác chết và vũ khí đủ loại… Tuy nhiên, cái sáng cạp đã bị trúng mấy quả đạn B40 của chúng, vĩnh viễn trở thành đống sắt phế thải và không còn cơ hội tiếp tục khai thông con kênh chiến lược nhằm rửa phèn cho vùng đất hoang hóa đã chịu cảnh bao đời nhiễm phèn, chua, mặn…
Sau trận đánh tại đầu kênh mới gần Lò Gạch, quân pôn pốt đã phải lùi về bên kia biên giới. Tuy nhiên bọn “chóp bu” vẫn có ý đồ xâm lược Việt Nam vì vậy chúng liên tục xua quân sang xâm chiếm lãnh thổ nước ta và gây rối cho ta dọc biên giới Tây Nam cả ngày lẫn đêm.
Ở sông Trăng (là đường biên giới giữa Viêt nam và Campuchia) chúng điều động một lực lượng lớn bao gồm cả bộ binh lẫn pháo binh áp sát biên giới, liên tục tung lực lượng đánh vào các vị trí chốt thuộc khu vực Gò Chùa, ngã ba Lò Gạch, Gò Chuối, là 3 trận địa chốt chặn của 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3.
Thời gian này nhiệm vụ chính của trung đoàn là “chiến đấu bảo vệ biên giới kiên quyết không cho quân pôn pốt tràn sang đốt phá, cướp của, tàn sát dân ta”. Nhiệm vụ “xây dựng kinh tế quốc phòng” được chuyển sang nhiệm vụ thứ yếu. Sư đoàn và quân khu đã tăng cường nhiều đơn vị về đây phối thuộc. Có 1 đại đội xe thiết giáp M113 và 1 đại đội pháo 37+40 ly nằm tại Gò Gòn. Hai đại đội pháo 105ly nằm tại ấp Kênh (ngay sau lưng trung đoàn bộ).
Ngày 3/6/1978, nhân dịp đợt nghỉ hè, bà xã tôi từ Đồng Tháp đã đến đơn vị thăm tôi. Sau hơn 1 tháng “sống chung” với bộ đội, cô ấy cũng giống như một người lính…ngủ hầm… đội pháo… Kỷ niệm đêm đầu tiên, có vợ lên thăm ở tại đơn vị thuộc cơ quan tuyên huấn chúng tôi thật ấn tượng đến bây giờ vẫn còn nhớ.
Vốn dĩ cánh lính chúng tôi “chăn đơn gối chiếc” quen rồi, nhiều khi chỉ lo “đánh đấm” còn chẳng kịp mùng màn chăn gối… bây giờ, có vợ tôi ngủ lại đơn vị làm tôi thật “khó xử...”. Không lẽ dùng 2 cái mùng đơn giăng sát vào nhau trong căn hầm dã chiến được anh em bộ phận tuyên huấn làm cho toàn bằng những chiếc thùng đựng đầy sách…Tối hôm ấy, tôi đang bối rối chưa biết phải giải quyết bằng cách nào thì thật may đồng chí Sơn (liên lạc của anh Bảy Việt) bất ngờ xuất hiện và trên tay ôm chiếc mùng trắng toát, bự tổ chảng đến trao cho tôi Sau này tôi được biết anh bảy Việt (quyền chính ủy trung đoàn) đã hiểu rất rõ hoàn cảnh của những người lính trên chiến trường… Cũng may chị bảy từ Bến Tre đến thăm anh cách đây nửa tháng. Chị đã cẩn thận mang chiếc mùng đôi từ Bến Tre lên đơn vị. Khi trở về để lại cho anh giữ làm kỷ niệm. Anh đã gửi tặng vợ chồng tôi.
Đồng chí Sơn quê quán tại phường 3 thị xã Cao Lãnh, nhập ngũ cuối năm 76 (đợt tôi nhận quân). Học hết lớp 12 rồi nhập ngũ. Sơn có khuôn mặt tròn trịa, rất điển trai. Khi đồng chí Sơn còn ở C5, tiểu đoàn 2, tôi đã có ý định xin cậu ta về cơ quan tuyên huấn. Nhưng anh Bảy Việt đã “chấm” trước rút về làm liên lạc cho anh. Và trong trận đánh quân pôn pốt ở biên giới Hà Tiên đầu năm 1979, Sơn đã hi sinh. Thi hài của Sơn được mang về mai táng tại phần đất quê nhà thuộc P3, thành phố Cao Lãnh. Cách nhà đ/c Thuấn khoảng 150m và tôi đã có dịp đến thăm mộ, thắp hương cho Sơn. Riêng anh Bảy Việt, sau này được điều về làm chính ủy sư đoàn 8. Hoàn thành nhiệm vụ trên chiến trường CPC anh về nghỉ hưu tại Bến Tre và đã mất cách đây hơn 1 năm. Xin thắp một nén nhang lòng tri ân người thủ trưởng đức độ… và liệt sỹ Sơn. Hình ảnh của anh Bảy Việt và Lê Văn Sơn mãi mãi còn in đậm trong tâm trí vợ chồng tôi…
Như đã nói ở những phần trước, chiến tranh biên giới Tây Nam đã lên đến đỉnh điểm. Quân pôn pốt rất tàn bạo, chúng thường xuyên bắn phá, giết hại dân ta mà khu vực trung đoàn bộ đóng quân (ấp Kênh) có trận địa pháo 105 là tâm điểm cho chúng bắn phá… Chúng thường xuyên pháo kích vào khu vực này, Chẳng có quy luật gì. Bọn tôi “ăn” pháo riết quen rồi nên cánh lính ta cứ tỉnh bơ, vẫn sinh hoạt, vẫn công tác… rất bình thường. Khi nghe tiếng pháo kêu hu hú là biết nó nổ ở xa (cứ mặc xác nó), khi nghe tiếng kêu xèn xẹt thì biết nó nổ gần, lúc đó bộ đội ta mới chịu xuống hầm trú ẩn. Vợ tôi những ngày đầu ở trong đơn vị: nghe tiếng pháo nổ gần là mặt “xanh lét” sau dần dần đâm quen cô ấy dạn dĩ hẳn lên … Ngớt tiếng pháo là lại theo Thuấn và Trí ra đồng bắt chuột. Thuấn và Trí bắt chuột giỏi lắm. Xung quanh nước ngập nên chuột gom vào những chiếc gò rộng bằng vài chiếc chiếu. “Hai chú nhóc” trổ tài dùng leng đào bới chỉ một hồi là chị tư 2 tay xách chuột muốn không nổi. Lúc đó mới chịu ra về. Đem chuột tặng cho nhà bếp làm những món ăn theo kiểu nam bộ… ngon phải biết…
Cơ quan tuyên huấn lúc này đ/c Thi đi phép nên công việc chính còn một mình tôi đảm trách, cũng vất vả… vừa soạn thảo văn bản, tài liệu… vừa trực tiếp xuống báo cáo bài cho các đơn vị…Cái khó ló cái khôn, chúng tôi biến chiếc đài Orionton thành phương tiện công tác đa năng vừa có tính năng thu, vừa có tính năng phát (thay cho âm ly và micro). Chỉ cần nối dây điện ra 2 cái loa kéo xa vài ba chục mét là đã giúp chúng tôi truyền đạt kiến thức… nội dung… cho một vài trăm chiến sĩ khỏe re. Hôm ấy tôi đang báo cáo bài cho 2 đại đội 16 + 17 tại Gò Pháo thì bất ngờ một loạt đạn 122ly của bọn pôn pốt nổ rất gần. Bộ đội được lệnh sơ tán trở về vị trí sẵn sàng chiến đấu. Chờ mãi tới tận chiều vẫn chưa dám tập hợp đơn vị lại. Cuộc truyền đạt nội dung… cho cán bộ chiến sĩ đành phải bỏ dở.
Thế đấy! việc học tập…sinh hoạt…của những người lính ở chiến trường cũng như những quả đạn pháo mà quân pôn pốt khiêu khích, bắn phá: “sáng nắng…chiều mưa…” chập chà, chập chõm.
Khoảng 9h sáng ngày 14/6/1978, nhà cơ quan tuyên huấn của chúng tôi có khách. Cũng bởi có vợ tôi từ quê đến nên anh em cán bộ chiến sĩ của trung đoàn vẫn thường xuyên tới lui, thăm hỏi. Gần chục người đang quây quần xung quanh chiếc bàn hình chữ nhật. Trên đó có 1 dĩa kẹo và 1 ấm trà (chưa kịp rót) thì bỗng đâu những âm thanh xèn xẹt đến ghê người… Một loạt đạn pháo 122 ly của pôn pốt từ biên giới bắn qua nổ ầm ầm ngay sau lưng trung đoàn bộ. Khói lửa mịt mù, đất cát văng lên tung tóe… mảnh đạn bay vèo vèo. Chúng tôi vội vã xuống hầm trú ẩn. Cả một vùng đất rộng và dài đến vài trăm mét mịt mù trong khói đạn…
9h15, khi đã im hẳn tiếng pháo địch, tôi theo đồng chí Tùng (quê xã An Phong) y tá của khẩu đội pháo đang có mặt tại nhà cơ quan tuyên huấn vội vã đến vị trí của khẩu đội… thì một cảnh tượng vô cùng tang thương diễn ra trước mặt. Chiếc hầm lộ thiên bên dưới có khẩu pháo 105ly thuộc đại đội 1 (1 trong 2 đại đội) của tiểu đoàn pháo mặt đất do sư đoàn tăng cường đã bị trúng 1 quả đạn pháo 122ly của quân pôn pốt. Khối thép nặng mấy tấn “uy nghi” là thế giờ đây nằm gục, trơ trọi… hệ thống máy ngắm, chỉnh tầm, chỉnh hướng nát vụn. Nòng pháo và thân pháo bị nhiều mảnh đạn lỗ chỗ. Chiếc vải bạt che pháo bị rách nát bay tả tơi quanh khu vực bán kính đến vài chục mét. Những cành lá ngụy trang bị những mảnh đạn cắt nát nằm chồng chất lên nhau. 7 chiến sĩ trong khẩu đội pháo không còn ai sống sót. Đầu, mình, tay, chân, xương thịt văng tứ tung… lẫn lộn trong bùn đất dưới hầm đã bị sập hoàn toàn. Có những mảnh xương thịt còn văng lên nằm trên mặt đất. Cả một vùng đất bùn nhuộm thấm máu còn tươi rói của các chiến sĩ ta…
Lúc này đồng chí chính trị viên đại đội pháo cùng rất nhiều chiến sĩ đã có mặt trên hiện trường. Các chiến sĩ pháo binh mắt người nào cũng rưng rưng ngấn lệ… đang loay hoay chưa biết phải làm gì thì tất cả được lệnh trở về vị trí chiến đấu. Khoảng 20 phút sau 11 khẩu pháo còn lại của ta được lệnh bắn trả (mà bấy lâu nay vẫn nằm im đợi lệnh). Mấy trăm quả đạn xé gió ào ào lao về hướng biên giới. Cả cơ quan trung đoàn bộ cùng nhân dân khu vực ấp Kênh reo hò, tán thưởng… Pháo binh ta đã nhả đạn giáng đòn sấm sét xuống đầu lũ quân gây hấn trả thù cho đồng đội … Đêm hôm đó trinh sát thực địa báo về “trận địa pháo của lũ quân pôn pốt đã bị phá hủy hoàn toàn” Thật đáng đời cho lũ quân xâm lược…
Buổi chiều hôm đó đơn vị pháo binh đã được cơ quan trung đoàn bộ giúp đỡ nhặt xương thịt của các đồng chí hi sinh, gói lại làm 7 bọc, đem đi mai táng phía sau ấp Kênh cách trung đoàn bộ khoảng 500m. Lúc làm lễ truy điệu hạ huyệt cho anh em, gần trăm con người không ai cầm được nước mắt… Đ/c Tùng nước mắt giàn dụa kể lại với tôi “ Nghe tin chị đến đơn vị đã lâu nhưng chưa có dịp đến thăm anh chị được. Sáng nay vẫn như thường lệ, kíp trực chiến ăn cơm xong là quay sang đánh tú lơ khơ ngay tại hầm pháo (cho khuây khỏa) 4 người đánh chính, 4 người ngồi xem. Được 2 ván em nói với đ/c khẩu đội trưởng đến thăm anh chị. Em đi được 15 phút thì xảy ra sự việc đau lòng này. Khẩu đội pháo có 8 người, giờ chỉ còn một mình em sống sót …”
Trận địa pháo của lũ quân pôn pốt bị pháo binh ta phá hủy, nên bọn chỉ huy của chúng vô cùng tức tối… Và ngay sau đó 1 đêm, ngày 16/6/1978, chúng đã sử dụng một lực lượng lớn xung lực có DKZ75 và cối 82 chi viện ào ạt tấn công vào 2 trận địa chốt của ta là Gò Chùa và Gò Chuối. Lực lượng của chúng đông hơn ta gấp nhiều lần. Chúng lao vào trận địa của ta như một lũ thiêu thân. Tốp này lùi ra, tốp khác lại lao tới…
Tại sở chỉ huy trung đoàn, đ/c trung đoàn trưởng và đ/c quyền chính ủy liên tục cầm tổ hợp máy hữu tuyến, nắm bắt tin tức từ ngoài trận địa và truyến đi những mệnh lệnh kịp thời… Cối 82 và DKZ 75 của ta cũng ầm ầm nã đạn bắn chi viện cho 2 tiểu đoàn 1 và 3.
Rạng sáng ngày 17, từ các trận địa báo về, bộ đội ta đã có một số thương vong. Trận địa vẫn được giữ vững. Quân địch đã tản ra đào công sự tạo thành hình thế bao vây 2 tiểu đoàn 1 và 2 của ta. Tình hình chiến sự trở nên vô cùng khẩn trương và ác liệt. Rất nhiều lính tân binh (do chưa có kinh nghiệm chiến trường) đã tỏ ra uể oải, lo sợ… Tuy nhiên, ban chỉ huy tiểu đoàn 1, lúc này do đồng chí Thái làm chính trị viên và tiểu đoàn 3 do đ/c Thuấn (quê Hải Phòng) đã hạ quyết tâm (qua máy điện thoại) bằng mọi giá giữ vững trận địa.
Suốt buổi sáng ngày 17/6/1978, hai bên trận địa vẫn tiếp tục đối chiến bằng đủ các loại hỏa lực. Địch quyết tâm chiếm trận địa của ta để làm bàn đạp thực hiện âm mưu tiến sâu vào lãnh thổ Việt Nam. Bộ đội ta kiên quyết giữ từng tấc đất thiêng liêng của tổ quốc.
12 giờ trưa ngày 17/6, được sự chi viện của quân khu và sư đoàn “thiết giáp M113 và pháo 37 + 40 ly xuất kích”. Một điều thú vị khi có mặt tại sở chỉ huy trung đoàn tôi đã gặp đ/c Nguyện (lúc này đang là chính trị viên phó tiểu đoàn pháo cao xạ). Tôi và đ/c Nguyện đã có một thời gian chung sống bên nhau thuộc cơ quan tuyên huấn trung đoàn từ năm 1971 (lúc đó Nguyện còn là thư ký đánh máy). Sau một thời gian dài bặt tin nay bỗng gặp lại nhau giữa chiến trường. Chính đồng chí Nguyện đã đề xuất cho pháo 37+40 hạ nòng bắn thẳng để chi viện cho bộ binh và được sở chỉ huy trung đoàn chấp nhận. Gặp nhau ít phút đồng chí Nguyện ra xe kéo pháo tiến ra phía trước…Tôi ở lại trung đoàn bộ chỉ biết nguyện cầu cho đ/c và tất cả anh em được bình yên chiến thắng trở về.
14h30, trận địa pháo 105 được lệnh khai hỏa. Có trinh sát pháo binh chỉ điểm nên chỉ sau mấy loạt đạn pháo binh ta đã bắn trúng trận địa của địch.
15h pháo 37+40 đã hạ nòng khạc đạn, nhiều công sự của địch bị pháo bắn thẳng của ta thổi bay.
15h30 chiến xa của ta đồng loạt nổ máy tấn công. Bộ binh được lệnh thoát khỏi công sự truy kích địch. Không chịu nổi sức tấn công như vũ bão của ta, quân pôn pốt “vắt chân lên cổ” tháo chạy như vịt về bên kia biên giới, bỏ lại rất nhiều xác chết cùng vũ khí và đồ dùng quân sự: “mảnh đất thân yêu của tổ quốc nằm dọc biên giới Sông Trăng lại sạch bóng quân thù”.
Đây là trận đánh quy mô nhất của trung đoàn trong chiến tranh bảo vệ biên giới Tây Nam, có sự hợp đồng chi viện hỏa lực của các đơn vị bạn, đã giáng cho quân xâm lược một trận nhớ đời.
Tuy nhiên để đối phó với bản chất của bọn xâm lược: “đánh chết cái nết vẫn không chừa”…Tất cả không được phép lơi là mất cảnh giác, bộ đội ta được lệnh tiếp tục củng cố công sự, bổ sung thêm vũ khí đạn dược chuẩn bị cho những trận chiến đấu tiếp theo…
Sau trận đánh phản công đuổi quân pôn pốt rút chạy về bên kia biên giới, vùng đất Sông Trăng giáp biên giới Việt Nam – CPC đã sạch bóng quân thù, nhưng với bản chất của lũ quân xâm lược chúng quyết không từ bỏ ý định tiến sâu vào đất nước ta.
Trên địa bàn sát biên giới do trung đoàn đảm nhiệm, ba nơi chốt chặn là Gò Chuối, Gò Chùa, Lò Gạch là 3 cái “gai” trong con mắt của bọn chỉ huy quân địch, nên chúng quyết tâm dùng mọi thủ đoạn để “nhổ” cho bằng được mà vị trí Gò Chùa được chúng liệt vào vị trí quan trọng nhất.
Chiếm được Gò Chùa, chúng đương nhiên chia cắt được Gò Chuối, Lò Gạch, từ đó có thể đánh chiếm Gò Pháo, ấp Kênh (nơi có cơ quan đầu não của trung đoàn, trận địa pháo và kho vật tư, hậu cần).
Gò Chùa nơi cố thủ của tiểu đoàn 1 lúc này với quân số khoảng 500 người nhưng đại đa số là anh em tân binh quê ở Miền Tây, thời gian huấn luyện được rất ít và kinh nghiệm chiến trường chưa có. Số anh em miền bắc đã kinh qua chiến đấu thì lúc này đang ở các vị trí cán bộ A, B, C, D. Khoảng 10h tối ngày 21/6/1978 nhận được tin báo khẩn cấp của lực lượng vệ binh… Đ/c trung đoàn trưởng và quyền chính ủy đã huy động hầu hết các trợ lý của ban tham mưu và ban chính trị tháp tùng cùng ban chỉ huy trung đoàn đến ngay khu vực ngã tư, nơi giao nhau của con đường đất và kinh Mới. Gần đó là sân của kho vật tư thuộc cơ quan hậu cần. Khi chúng tôi ra tới thì thấy khoảng gần 100 chiến sĩ (toàn lính tân binh) đang ngồi xếp lớp hai bên vệ đường có đầy đủ ba lô súng đạn với những khẩu B41, B40, RPD, AK… Tìm hiểu kỹ chúng tôi mới rõ số chiến sĩ này thuộc tiểu đoàn 1 mới nhập ngũ đầu năm 1978, do còn quá non trẻ và thiếu bản lĩnh, phần vì sợ ác liệt đã tự động bỏ chốt phía trước…lui về phía sau. Mặc dù cán bộ “khung” từ A đến D của tiểu đoàn 1 biết rất rõ điều này, nhưng do trời tối… anh em lại lén bỏ đi nên chưa có cách giải quyết. Ban chỉ huy tiểu đoàn đã ra lệnh cho các đại đội đang chốt chặn giữ trận địa, giãn quân ra lấp vào các “lỗ hổng”, cảnh giác cao độ sẵn sàng chiến đấu. Sở chỉ huy trung đoàn đã điều C21 ra phối thuộc tăng cường cho trận địa tiểu đoàn 1 (bù vào quân số anh em tân binh tự động lui về phía sau).
Tại sân nhà kho vật tư, các đồng chí thuộc cơ quan tham mưu đã tập hợp số anh em tân binh lại và được đồng chí quyền chính ủy tiếp xúc nói chuyện… Khoảng 30 phút sau, toàn bộ anh em đã tình nguyện quay trở lại trận địa. Cơ quan hậu cần điều ngay 3 chiếc xe GMC chuyên chở số anh em từ ấp Kênh, trở lại Gò Chùa (về hướng biên giới). Lúc trèo lên xe nhiều anh em tân binh (lúc này đã vững tâm, không còn sợ sệt) vui cười hớn hở… có mấy đ/c cười giỡn nói vui “Hồi nãy đi bộ mỏi chân bỏ mẹ… bây giờ được đi bằng cơ giới sướng thật”.
Khoảng 2h sáng, ban chỉ huy tiểu đoàn 1 báo về, trận địa chốt đã vững vàng trở lại và tất cả đều vào vị trí sẵn sàng chiến đấu…
Đúng 4h sáng ngày 22/6/1978 bất ngờ quân pôn pốt mở đợt tấn công vào vị trí Gò Chùa. Mới đầu chúng dùng pháo cối đủ các loại cấp tập bắn phá trận địa của tiểu đoàn 1, sau đó dùng nhiều mũi xung lực xông lên quyết tâm chọc thủng trận địa phòng ngự của ta. Từ sở chỉ huy trung đoàn, đ/c trung đoàn trưởng và quyền chính ủy trực tiếp theo dõi trận đánh qua máy điện thoại để có những mệnh lệnh kịp thời. Pháo 105 cùng với trận địa cối 82 và DKZ75 được lệnh khai hỏa, chi viện cho tiểu đoàn 1. Tiểu đoàn 2 và 3 cũng được lệnh sẵn sàng cơ động chi viện khi có yêu cầu.
Từ BCH tiểu đoàn 1 báo về “trận chiến giữa ta và quân pôn pốt mỗi lúc mỗi gay go, ác liệt. Bởi đã có ý đồ và chuẩn bị từ trước nên pháo bắn thẳng và cầu vồng của địch dội xuống trận địa tiểu đoàn 1 rất dữ dội, hàng ngàn quả đạn từ cối 61 đến cối 82 phủ xuống bao trùm khu vực Gò Chùa (nơi căn cứ trung đoàn bộ trước đây), nhiều nhà lán, E bộ để lại cho D1 bị trúng đạn pháo của địch bốc cháy sáng rực cả một góc trời…”
Trời sáng dần, thời gian đang chuyển sang có lợi cho ta, bộ đội ta ở trong các công sự đã nhìn rất rõ quân địch. Những loạt súng bộ binh và hỏa lực của ta đã được phát huy tuyệt đối hạ sát nhiều tên địch liều lĩnh… Mặc dù quân địch đông hơn ta gấp rất nhiều lần nhưng chúng vẫn không thể nào “bén mảng” được đến trận địa có những tay súng kiên cường quyết tâm giữ từng tấc đất của quê hương.
Ngó bộ kham không nổi, 5h30 sáng ngày 22/6/1978 quân pôn pốt lặng lẽ lui quân về bên kia biên giới. Mảnh đất thân yêu của tổ quốc dọc sông Trăng được giữ vững.
Trận đánh kết thúc, bộ đội ta hi sinh 3 đ/c và 5 đ/c bị thương, đổi lại quân địch bỏ lại hơn 30 tên nằm phơi xác trước trận địa tiểu đoàn 1, rất nhiều xác chết và lính bị thương được chúng lôi về bên kia biên giới. Lại thêm một bài học đắt giá cho lũ quân xâm lược.
Ngày 26/6/1978 trung đoàn mở hội nghị quân chính rút kinh nghiệm, có đại diện bộ chỉ huy sư đoàn tham dự. Hội nghị nhất trí đề nghị cấp trên tặng thưởng huân chương chiến công cho tập thể cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn 1; qua 2 trận đánh (ngày 17 +22/6/1978)
Vậy là chỉ trong 5 ngày tiểu đoàn 1 đã trải qua 2 trận đánh kiên cường giữ chốt. Khí thế quyết tâm chiến đấu đánh giặc lập công giữ gìn biên giới, biên cương được phát động toàn trung đoàn. Bộ đội được lệnh tiếp tục củng cố công sự, nâng cao tinh thần cảnh giác, kiên quyết không để một tấc đất thân yêu của tổ quốc lọt vào tay quân xâm lược. Tuy nhiên, sự việc gần 100 chiến sĩ tự động bỏ về phía sau cũng được đề cập để rút kinh nghiệm cho các cấp lãnh đạo… và cố gắng không để lặp lại.
Ngày 28/6/1978 ban chính trị trung đoàn nhận được điện “cử 1 cán bộ cùng đ/c chính ủy họp tại phòng chính trị sư đoàn”. Anh Cúc có công việc gia đình đang ở tại Bình Phước Xuân- Chợ Mới- An Giang. Anh Lợi đang công tác tại quân khu. Vậy là ban chính trị lúc này chỉ còn mình tôi đủ “tư cách thế chân”. 4h sáng hôm đó tôi đã thức dậy, súng đạn chỉnh tề… thì bất ngờ thấy anh Bảy Việt và 2 vệ binh (đi hộ tống) đã đến ngay nhà cơ quan tuyên huấn, anh Bảy ghé tai nói nhỏ với tôi: “Có vợ lên thăm, Kiên ở lại, anh đi họp thế cho…” tôi thật cảm động về tấm lòng thương yêu cán bộ cấp dưới của người thủ trưởng…
Quân Pôn Pốt bị 2 trận “đòn” nên chúng đã biết tự lượng sức mình, không còn dám hung hăng, liều mạng… hơn nữa, lúc này cũng bắt đầu vào mùa mưa. Trên cánh đồng nước đã ngập, chỉ còn con đường đất từ Hưng Điền qua Gò Chùa- Gò Pháo, - Ấp Kênh- Gò Gòn, nên bọn địch cũng không dám liều lĩnh…
Tranh thủ thời gian này bộ đội ta vừa sẵn sàng chiến đấu vừa tổ chức học tập chính trị. Đặc biệt công tác tư tưởng được trung đoàn hết sức quan tâm. Nhất là đối với anh em chiến sĩ mới. Nhiều nội dung … những gương chiến đấu người tốt… việc tốt… của trung đoàn qua bao năm chiến đấu, xây dựng và trưởng thành được nêu ra (làm tài liệu học tập cho bộ đội) mà công tác soạn thảo đều do cơ quan tuyên huấn đảm trách…
Đến cuối tháng 8 năm 1978, bệnh cũ của tôi bất ngờ tái phát (do bị sức ép bom ở trận đánh năm 1970 tại thị trấn Kom pong Thơ Mo). Anh Vũ Nhụy đã giới thiệu lên bệnh xá sư đoàn rồi chuyển thẳng về bệnh viện K120điều trị, và ở đây thật bất ngờ, tôi đã gặp đ/c Vũ Chí Nghiêm (nguyên chính trị viên C25 đặc công) đang nằm điều trị tại khoa nội 4. Tôi được sắp xếp vào khoa nội 3 cùng với anh Nguyễn Văn Lưỡng (Sáu Lưỡng) lúc này đang làm tham mưu phó tỉnh đội Tiền Giang và thời gian sau tôi lại cùng anh về chung 1 trung đoàn tiến lên tiêu diệt quân pôn pốt ở chiến trường CPC.
Gặp lại đ/c Vũ chí Nghiêm, hai chúng tôi mừng lắm (bởi Vũ chí Nghiêm đã rời khỏi trung đoàn từ cuối năm 1975 khi thành lập đoàn 675 quản huấn sỹ quan cấp úy của quân Ngụy Sài Gòn).
Bệnh viện K120 ở tại Bình Đức, Mỹ Tho rất gần kho đạn (chỉ cách độ 1km) nên chúng tôi thường xuyên chứng kiến đêm đêm pháo sáng được bắn lên và tiếng xe thiết giáp của ta “gừ gừ” đi tuần quanh lớp hàng rào kẽm gai để bảo vệ an toàn tuyệt đối cho kho vũ khí: “một tài sản quý giá thu được từ tay quân giặc” bây giờ đang là phương tiện cần thiết để bảo vệ tổ quốc.
Bệnh viện lúc này đã có đầy đủ các khoa, nhưng khoa ngoại lúc nào cũng quá tải. Thương binh cứ nườm nượp từ ngoài mặt trận chuyển về, nhiều đ/c bị cụt tay, cụt chân, vỡ đầu, sứt mặt… Không đủ giường cho thương binh nằm, nên khoa ngoại chuyển cả thương binh sang khoa nội nằm chung. Ở trại nội 3 chúng tôi có đông chí tên Nguyễn Thế Hậu của sư đoàn 330 chuyển về, nằm chỉ cách tôi 4 giường. Đ/c Hậu quê ở Hưng Yên, bị thương vào đầu nên tính tình rất “khác thường”, thỉnh thoảng đ/c lại la hét um sùm trong đêm đánh thức gần 30 bệnh nhân “khỏi phải ngủ”. Nhiều đêm đ/c không la hét thì bất cứ lúc nào khi thấy anh em trong khoa đã ngủ hết thì đến tốc mùng của từng người rồi dùng 2 tay banh mắt, nếu nhìn thấy ai “không mở mắt”.
Cả trạị nội 3 lúc đầu ai cũng “bức rứt” sau dần dần đâm quen… vào buổi trưa hôm đó bất ngờ nghe tiếng đ/c Hậu la lối om sòm ngoài bể nước (lúc đó cả khoa chỉ có 1 bề nước lộ thiên để cho anh em đánh răng, rửa mặt còn tắm giặt thì phải ra sông Bình Đức cũng gần đó). Khi chúng tôi ra tới bể nước thì “tóm” được đ/c Hậu đang trần truồng như nhộng bơi bì bà, bì bõm trong bể nước, cả bể nước ôi thôi, khỏi dùng nữa nhé, nhưng thương đồng đội bị thương nên mới thành ra như vậy, chúng tôi lặng lẽ chịu đựng…
Vì là chiến hữu cũ nên ở bệnh viện, tôi và đ/c Nghiêm lúc nào cũng “sát cánh” bên nhau. Các chị Ba Tiến, bs trưởng khoa nội 4 (vợ của anh Tám Thổ, nguyên thiếu tướng tham mưu trưởng quân khu 7. Hiện anh chị đang sinh sống tại Mỹ Tho), chị Hai Xim, bs khoa ngoại quê Trà Vinh đi tập kết trở về, anh Tề Văn Tiến, chủ nhiệm khoa nội 3 (sau chuyển về công tác tại bệnh viện Chợ Rẫy) và chúng tôi rất quý nhau và có nhiều kỷ niệm của những ngày nằm viện. Tôi nhớ nhất một buổi đi xem phim: Tối hôm đó ngoài thành phố Mỹ Tho có chiếu bộ phim “Mối Tình Đầu”. Chỉ có 3 “thằng” chúng tôi mà dám dũng cảm “nê” theo gần chục cô bác sỹ, y sỹ, y tá trên những chiếc xe đạp. Khi giãn phim ba chúng tôi phải vội vàng chạy bổ vào bãi giữ xe vác từng chiếc ra ngoài cho khỏi bị chậm trễ giờ về và hơn hết cũng để làm “vẻ vang” cho “tinh thần nghĩa hiệp” của những người lính (dù mặt mũi chúng tôi méo xệch vì quá mệt….) …
Cũng thời gian ở bệnh viện, tôi được Thúy và mẹ Thúy (bây giờ là vợ và nhạc mẫu của đ/c Phan Xuân Thi đến thăm khi biết tôi nằm viện nơi này). Thông qua tôi, Thúy đã hiểu thêm rất nhiều về Thi (người bạn chí cốt của tôi) và tình yêu của hai người ngày càng mặn nồng…rồi tiến tới hôn nhân vào đầu năm 1979. Trong lúc đang viết bài này thì tôi nhận được thiệp mời của Thi và Thúy báo tin con gái của Thi và Thúy là Phan Thị Dạ Lý sẽ tổ chức đám cưới vào ngày 15-12-2013 này, tại thành phố Hồ Chí Minh và bằng mọi giá, tôi sẽ đến chung vui với Thi, Thúy cùng các cháu.
Đến giữa tháng 10 năm 1978, sau thời gian nằm viện tôi lại trở về đơn vị. Lúc này mức nước ở các sông dâng lên rất cao tạo thành một trận lũ lụt lịch sử ở miền Tây Nam Bộ mà theo các người lớn tuổi kể lại gần 20 năm mới tái lập 1 lần (1961 – 1978). Nước lũ lên nhanh đã nhấn chìm hầu hết các diện tích lúa và hoa màu chưa kịp thu hoạch, tạo ra cơn sốt thiếu lương thực cho cả vùng đồng bằng Sông Cửu Long và trên cả nước. Nhân dân và cán bộ công nhân viên đã phải ăn độn bằng bo bo hoặc bắp. Tai hại nhất là các tuyến lộ lưu thông ở vùng miền Tây Nam Bộ đều bị nước nhấn chìm.
Con lộ từ Mộc Hóa đi ra Cai Lậy cũng bị ngập nước hoàn toàn, việc cơ động của bộ đội và đi lại của dân đều phải bằng phương tiện đường thủy. Vùng đất Đồng Tháp Mười lênh láng như một biển nước. Những gò đất đóng quân của bộ đội cũng bị nước đe dọa. Xuất phát từ những yếu tố khách quan, toàn bộ trung đoàn đã được lệnh dời về Mộc Hóa (thay thế vị trí đóng quân của sư đoàn bộ).
Chúng tôi tiếp quản một khu trại gia binh của sư đoàn 9 quân Ngụy Sài Gòn để lại, nhà có vách xây lợp toàn bằng tol hoặc Fibro xi măng cũng đã bị ngập nước có chỗ tới gần 1m. Bộ đội ta phải dùng gạch đá kê kích giường chõng lên vừa để làm chổ ngủ, vừa để chứa đựng đồ đạc. Nhà này muốn đi qua nhà kia chỉ còn có cách săn quần lội nước… Nhiều bộ phận sáng tạo đã bắc cầu khỉ nên đi trong nhà cứ phải cúi lom khom (không cẩn thận là va đầu vào mái tol..) Sống trong cảnh “trên giường, dưới nước”. Suốt ngày chỉ bó gối trong căn nhà thấp lè tè. Nên thời gian rãnh rỗi chúng tôi làm cần câu cá, nhiều lúc ngồi ở trên giường mà câu được cá … mới tuyệt làm sao….
Đến đầu tháng 11/1978, chúng tôi nhận được tin: “sét đánh ngang tai”. Bộ quốc phòng và quân khu quyết định điều toàn bộ lực lượng cán bộ của trung đoàn 1 (207) đi bổ sung xây dựng nòng cốt cho các đơn vị trong toàn quân.
- Anh Mạnh (trung đoàn trưởng), anh Du, anh Chương….được điều về quân khu 1.
- Anh Chính, anh Tố về trung đoàn 320.
- Anh Nghị, Hợp, Hà, Hùng, Định, Dịu, Soạn…về đoàn 50 (sau này là đoàn 622)
- Anh Năm Thắng, Diệu, Cửu…về phòng thông tin quân khu.
- Anh Lợi, Phạm Hậu…về phòng chính trị quân khu.
- Anh Mạnh (khịt), Thanh… về tỉnh đội Đồng Tháp.
- Anh Bảy Việt, Thái, Dần, Khoái, Vũ Nhụy… về sư đoàn bộ sư 8.
- Tôi, đ/c Phan Xuân Thi, An Xuân Triển, Hồ Minh Sanh, đ/c Liễu… về sư đoàn 339 (tuy nhiên việc điều động cán bộ không diễn ra cùng một lúc mà chia thành nhiều đợt).
Tôi là người trong nhóm đầu tiên rời khỏi trung đoàn. Cầm quyết định trong tay, làm bữa cơm thân mật với anh em thuộc cơ quan tuyên huấn, ban chính trị tại Mộc Hóa. Chia tay với tôi, đ/c Thi và anh Nghị đều ngậm ngùi, chẳng thể ngờ những người lính chiến chúng tôi, đã từng bao năm gắn bó và sát cánh chiến đấu, giờ đây lại có phút giây tiễn biệt xao xuyến như trong phim tình cảm… lòng lưu luyến…chẳng muốn rời xa nhau…
Tôi khoác ba lô rời trung đoàn thân yêu mà hai hàng nước mắt tuôn rơi…
Rời khỏi Trung đoàn 207 mà đời binh nghiệp của tôi đã có hơn 8 năm gắn bó (1970-1978) Với biết bao kỷ niệm đã chôn chặt trong lòng, những địa danh đã từng đi qua gắn liền với những trận đánh oai hùng và khốc liệt… Bao nhiêu đồng đội thân thương đã vĩnh viễn nằm lại trên khắp các chiến trường… bao nhiêu đồng đội may mắn thoát chết giờ lại có cuộc chia ly…
Thế rồi, tôi cũng lấy lại được tinh thần: “Sẵn sàng nhận mọi nhiệm vụ khi Tổ quốc, nhân dân, quân đội giao phó”. Tôi khoác ba lô lên sư đoàn bộ và cùng anh tư Tường (quê Bến Tre đi tâp kết trở về đang làm trưởng ban cán bộ sư đoàn 8), anh Nhượng - Phó ban tuyên huấn sư đoàn. Cả 2 anh đều có quyết định giống như tôi: “Về quân khu nhận nhiệm vụ”. Chúng tôi được một chiếc xe Jep của sư đoàn đưa thẳng về phòng cán bộ quân khu (lúc này anh tư Bình đang làm trưởng phòng cán bộ QK9).
Ở lại phòng cán bộ quân khu khoảng 3 tuần, tôi được thỏa sức “tung hoành” tại thành phố Cần Thơ và các vùng lân cận. Tôi đã đến thăm đ/c Nguyễn Văn Ngự, nguyên lính C20 – E207 chuyển ngành từ cuối năm 1976. Lúc này đ/c Ngự đang làm phó phòng tổ chức cán bộ Công an tỉnh Hậu Giang.
Sở Công an tỉnh Hậu Giang (Lúc đó thành phố Cần Thơ vẫn trực thuộc tỉnh Hậu Giang) nằm trên đường Trần Phú, gần bến phà Cần Thơ và ngay chiều hôm đó, qua màn hình, tôi và đồng chí Ngự đã được xem trận bóng đá giữa đội thể công và Cảng Sài Gòn rất ngoạn mục và cuối cùng Thể Công (CLB quân đội) thắng Cảng Sài Gòn 2-1, làm những người lính chúng tôi thật hả hê… Các cầu thủ CLB quân đội như Thế Anh, Hùng Cường, Huy Giáp… đã để lại nhiều ấn tượng cho khán giả, đặc biệt khán giả là những người lính…
Ngày 5/12/1978, anh Tư Tường, anh Nhượng và tôi có Quyết định chính thức của Quân khu điều về sư đoàn 339 và chúng tôi lại được chiếc xe U-Oát của phòng chính trị sư đoàn 339 lên Cần Thơ rước về Đám Lác (hậu cứ của sư đoàn 339).
Đám Lác là một căn cứ quân sự của quân Ngụy Sài gòn để lại, cách thị xã Sa đéc khoảng 3 km. Nằm trên đường từ Sa đéc đi Long Xuyên. Là một khu đất rất rộng gồm toàn những nhà cấp 4 xây tường, lợp bằng tol hoặc tiếp-lo xi măng, có một hồ nước rộng và một trường bắn nằm ngay cạnh hồ. Xen lẫn những khu nhà là những bãi cỏ lác mọc um tùm, nên rất thuận tiện làm nơi trú ngụ cho rắn, rết, muỗi… có lẽ lác nhiều như vậy nên người ta mới đặt tên cho nơi này là “đám lác” chăng?
Tại phòng chính trị sư đoàn 339, chúng tôi được anh ba Thu Sơn chủ nhiệm chính trị sư đoàn đón tiếp rất niềm nở và ân cần. Anh Tư Tường được giao ngay nhiệm vụ chức trưởng ban cán bộ sư đoàn (lúc này ban cán bộ mới có anh ba Kinh quê Thanh Hóa tạm quyền).
Mấy ngày sau đó, anh Tư Tường và anh Ba Thu Sơn mời tôi và đồng chí Nhượng đến tham khảo… Các anh rất tế nhị khi chính thức giao nhiệm vụ cho 2 chúng tôi.
Tôi và anh Nhượng quân hàm bằng nhau, đều được phong từ dịp 2/9/1977, đều đã có 1 thời gian làm công tác tuyên huấn, nhưng xét kỹ, tôi đã trải qua… suốt từ năm 1970-1978 với nhiều cương vị khác nhau từ đơn vị bộ binh, tuyên huấn, công binh, thông tin, tuyên huấn. Anh Nhượng lớn hơn tôi 5 tuổi, nhưng xem quá trình công tác của anh, anh toàn “nằm ì” yên bề cơ quan nên anh ba Thu Sơn có ý định điều anh về Trung đoàn 8 (để có dịp thử thách…tạo điều kiện quy hoạch các chức vụ cao hơn sau này), giữ tôi lại phòng chính trị sư đoàn.
Thấy anh năm Nhượng không vui, tỏ vẻ lo âu… tôi đã tự nguyện xung phong về trung đoàn 8 và được anh tư Tường ủng hộ. Cuối cùng anh ba Thu Sơn cũng chấp thuận…
Ngay từ đầu tháng 12/1978, bọn Pôn Pốt xua quân từ biên giới đánh sâu vào lãnh thổ Việt Nam thuộc địa bàn huyện Hồng Ngự (và bây giờ là huyện Tân Hồng). Toàn tuyến biên giới ở khu vực này cặp sông Sở Hạ, địch đã lấn sâu vào từ 5-7km. Nhân dân đã phải đi sơ tán để lại ruộng vườn, nhà cửa bỏ hoang, nhiều điểm của xã Tân Hậu Cơ, Tân Công Chí, Bình Phú, Dinh Bà đã bị quân địch chiếm đóng. Khu vực Đôn Phục (bây giờ là thị trấn Sa Rài) đang bị uy hiếp nghiêm trọng.
Đảm nhiệm chốt chặn và giữ đất ở khu vực này do trung đoàn 320 và tiểu đoàn 502 thuộc tỉnh đội Đồng Tháp. Quân Pôn Pốt đã sử dụng toàn bộ sư đoàn 805 + gần 20 tiểu đoàn (tương đương với 2 sư đoàn), thực hiện đánh chiếm khu vực này, chúng lấn chiếm tới đâu là xây dựng hệ thống công sự phòng ngự tới đó, bên ngoài là bãi mìn, lựu đạn gài dày đặc, trung đoàn 320 và tiểu đoàn 502 đều đã nằm trong vòng vây uy hiếp của địch.
Sư đoàn 339 thành lập chưa đầy 1 tuổi với 1 lực lượng hùng hậu gồm 4 trung đoàn 8, 9, 10, 11 và 12 tiểu đoàn trực thuộc là lực lượng dự bị cơ động…dùng cho những việc “đại sự”. Nhưng trước tình hình trung đoàn 320 và tiểu đoàn 502 bị uy hiếp, quân khu đã nhanh chóng điều sư đoàn có mặt kịp thời, nơi đang có chiến sự vô cùng ác liệt. Chúng tôi theo xe của anh Ba Thu Sơn ra ngay Sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn, lúc này đang đóng cách thị xã Hồng Ngự khoảng 2 km và cặp theo kênh trung ương là trận địa pháo 130 ly, 122 ly của quân khu, 1 đơn vị xe tăng (gồm T54, M113). Gần tới đôn phục là trận địa pháo 155, 105 của sư đoàn, tất cả đều đã hướng nòng về phía biên giới và sẵn sàng nhả đạn vào các vị trí đóng quân của quân Pôn Pốt.
Ngày 13/12/1978, pháo binh ta được lệnh khai hỏa, chi viện cho các trung đoàn 8, 9, 10, các phi vụ máy bay F5E và A37 cũng thay nhau dội bom xuống những nơi đóng quân của quân Pôn Pốt. Mặc dù ta đã sử dụng hỏa lực rất mạnh… nhưng bọn xâm lược rất lì lợm với bản chất của một quân đội hiếu chiến và được huấn luyện theo cách đánh gần giống như quân đội ta nên chúng gây cho ta nhiều khó khăn và thương vong…và để giành lại mỗi tấc đất đều phải đổi lại bằng xương, bằng máu của các chiến sĩ. Liệt sỹ và thương binh cứ nườm nượp từ ngoài trận địa chuyển về phía sau. Liệt sỹ thì được các đội dân công và thanh niên địa phương giúp mai táng. Thương binh thì được bệnh xá sư đoàn phân tách ra, nặng thì chuyển về K120, K121, nhẹ thì giữ lại điều trị tại trạm xá sư đoàn. Nhân dân và chính quyền địa phương từ An Long cho tới huyện Hồng Ngự sẵn sàng giúp đỡ bộ đội khi có yêu cầu… Đặc biệt là huyện ủy, chính quyền và các ban ngành huyện Hồng Ngự (lúc này một số đã phải đi sơ tán) và họ biết rất rõ, nếu không có bộ đội của sư đoàn 339 đang ở phía trước thì nơi họ làm việc sẽ không còn đất cho họ đứng chân…
Với kinh nghiệm dày dặn đều đã trải qua những năm tháng đánh Mỹ của BCH sư đoàn (lúc này anh Dương Tử là sư đoàn trưởng, anh Bảy Gương là chính ủy, anh 2 Tý là phó chính ủy) chỉ sau 5 ngày sư đoàn đã đánh thiệt hại nặng lực lượng địch tại khu vực này buộc chúng phải co cụm về gần sát biên giới và trận đánh tại gò chùa diễn ra vô cùng ác liệt… bộ đội ta có nhiều thương vong…
Ngày 18/12/1978, tôi được đồng chí Huyền trợ lý cán bộ trung đoàn 8 đến tại sở chỉ huy tiền phương của sư đoàn dẫn tôi về trung đoàn bộ đang đóng quân tại Đôn Phục. Tôi đã gặp anh út Đậu-chính ủy, anh sáu Lưỡng-Trung đoàn trưởng, anh út Linh phó chính ủy, anh Tám Tính-trung đoàn phó. Các anh đang theo dõi trên bản đồ quân sự do đồng chí Thản tham mưu trưởng trình bày để có kế hoạch tác chiến tiếp theo cho 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3 và các đơn vị trực thuộc trung đoàn.
Vì là “đồng hữu” đã từng đánh Tú Lơ Khơ khi nằm viện K120 nên tôi và anh sáu Lưỡng gặp nhau mừng lắm. Anh út Đậu cùng ban chỉ huy trung đoàn trao đổi công việc với tôi thời gian khoảng 10 phút… Tuy là cấp trên nhưng quân hàm của các anh chỉ lớn hơn tôi 1 cấp nên tôi rất tự tin với nhiệm vụ mà các anh giao cho… Tôi nhanh chóng về ban chính trị, lúc này chỉ có anh Nguyễn Lộc Nhu là quyền chủ nhiệm, tôi được bổ sung làm phó chủ nhiệm kiêm công tác tuyên huấn.
Anh Nguyễn Lộc Nhu quê ở Mỹ Tho có quân hàm bằng tôi và lớn hơn tôi 6 tuổi. Anh có thâm niên trong quân đội hơn tôi 5 năm và chiều cao của anh rất khiêm tốn nên mỗi khi hành quân nhìn anh đeo chiếc ba lô thì không thể nhịn được cười… Và thời điểm đó anh vẫn còn “phòng không gối chiếc”. Các anh trong ban chỉ huy trung đoàn thường hay chọc ghẹo anh “Tính tình khó như quỷ… chỉ có ma nó mới ưng…” được cái có trí nhớ rất tuyệt vời và chơi đàn mandoluyn rất hay”. Các ban bệ của cơ quan chính trị gồm Tuyên huấn, cán bộ, tổ chức, bảo vệ, dân vận, địch vận… đều thiếu quân be bét và đang chờ được bổ sung tăng cường…
Ban chính trị đóng quân tại 1 khu nhà dân đã đi sơ tán nằm sát Sở chỉ huy trung đoàn và tiểu ban nào cũng đào hầm trú ẩn tránh pháo rất kiên cố!
Ngày 19/12/1978, ban chỉ huy trung đoàn phân công tôi xuống tiểu đoàn 2, anh út Linh xuống tiểu đoàn 1, anh Nhu xuống tiểu đoàn 3, vừa làm đặc phái viên vừa giúp ban chỉ huy tiểu đoàn củng cố lại đơn vị để chuẩn bị cho những trận đánh tiếp theo sau khi quân số mỗi đơn vị đã bị hao hụt… Tiểu đoàn 2 lúc này do đ/c Toán làm tiểu đoàn trưởng, đ/c Miên làm chính trị viên tiểu đoàn. Tôi đã cùng đ/c Miên xuống trận địa của từng Đại đội để nắm tình hình tư tưởng và công tác sẵn sàng chiến đấu của anh em. Trận địa của đại đội 5, 6, 7 nằm ngay giữa cánh đồng không có 1 bóng cây, anh em phải đào hầm thành tuyến phòng ngự, trên phủ cỏ hoặc rơm để ngụy trang. Và cuộc sống hàng ngày của bộ đội vẫn là cơm vắt với bình tông nước được đun sôi để nguội làm tôi chạnh lòng “với cuộc sống của xã hội, ồn ào, vật chất đầy đủ… phía sau cách đây không xa” Lúc này đã vào mùa khô nên cũng thuận tiện cho anh em chốt giữ trận địa…
2h chiều ngày 21/12/1978, tôi theo đoàn cán bộ của trung đoàn đến thị sát tại một trận địa của địch đang đóng cách khu vực Gò Bói khoảng 2km. Chúng tôi gặp ban chỉ huy trung đoàn 320 gồm anh bảy Thành làm chính ủy, anh Tịch (lính 207) làm trung đoàn phó. Gặp anh Tịch ngay giữa chiến trường ác liệt anh em chúng tôi vui mừng không sao kể siết. Anh ôm lấy tôi mà chẳng nói nên lời… trung đoàn 320 đã có một thời cùng chia lửa cho trung đoàn 207 trong đội hình sư 8 và giờ đây, trung đoàn 320 và trung đoàn 8 đã có mặt ngay giữa chiến trường ác liệt để tiếp tục chia lửa cho nhau thật cảm xúc không thể diễn tả bằng lời của những người lính trận chúng tôi ngày ấy…
Chúng tôi được ban chỉ huy trung đoàn 320 dẫn đi khảo sát nơi trận địa chốt. Dưới những hàng cây xen lẫn những nhà dân mà chẳng thấy bóng người dân nào. Trận địa chốt ở đây có hệ thống công sự bằng đất dày, có giao thông hào nối liền để bộ đội ta có thể cơ động dưới làn đạn của quân thù, không gian yên ả, tĩnh mịch của sự chết chóc bao trùm cả vùng đất này… Bên kia, chỉ qua một cánh đồng khoảng hơn 1 km là trận địa của kẻ thù… Nơi cố thủ của sư đoàn 805, quân Pôn Pốt.
Để xây dựng phòng tuyến cố thủ khi đã lấn chiếm được đất của Việt Nam, quân Pôn Pốt đã huy động hàng trăm xe bò chuyên chở vũ khí, đạn dược và mìn các loại. Bãi mìn chúng gài trước trận địa phòng thủ thật là khủng khiếp, có đủ các loại mìn đạp nổ, vướng nổ, mìn chống tăng… Trinh sát của ta đã nhiều lần bò vào nghiên cứu trận địa nhưng đều bị phơi xác trước bãi mìn và nhiều thi thể anh em vẫn còn nằm lại… Sau các bãi mìn là các ổ để kháng được chúng bố trí súng đại liên, trung liên, 12ly8 và ngán nhất là các khẩu DKZ75, cối 82, cối 61 tuôn đạn ra các hướng bất cứ lúc nào! Đây là một hệ thống trận địa liên hoàn của quân Pôn Pốt còn lại trên lãnh địa Việt Nam sau khi sư đoàn 339 mở đợt tấn công. Các trung đoàn 9, 10 đã chịu nhiều thiệt hại và thương vong của các trận đánh trước nên bộ tư lệnh sư đoàn và quân khu quyết định giao cho trung đoàn 8 cùng trung đoàn 320 tiêu diệt căn cứ cuối cùng thuộc sư đoàn 805 của địch ở khu vực này.
Sau 2 ngày đêm thực địa và nghiên cứu, ngày 23/12/1978 tại Sở chỉ huy trung đoàn đã chính thức hợp đồng giao nhiệm vụ cho 3 tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị phối thuộc. Theo như hợp đồng, trận đánh có 10 phi vụ máy bay của không quân ta ném bom vào trận địa địch và có sự chi viện của pháo 130ly, 122 ly của quân khu, 155ly và 105ly của sư đoàn, có 1 tiểu đoàn xe tăng cơ giới gồm T54, M113 chi viện… Trận đánh dự kiến với hỏa lực mạnh áp chế tuyệt đối hỏa lực của đối phương, đảm bảo chắc chắn 100% ta giành thắng lợi nhưng sẽ hạn chế mức thấp nhất thương vong của bộ đội ta.
Một không khí phấn khởi thể hiện rõ trên từng khuôn mặt của cán bộ ban chỉ huy các cấp…
QUYẾT TÂM VÀO TRẬN!
Quân Pôn Pốt sau khi bị thiệt hại nặng đã co cụm lại một khu vực, từ Gò Chùa (thuộc huyện Hồng Ngự) tạo thành trận địa cố thủ liên hoàn tới biên giớiViệt Nam - CPC (bên kia là tỉnh Pray ven –CPC). Lực lượng địch ở đây thuộc sư đoàn 805 ước tính có khoảng từ 5000-7000 tên được trang bị vũ khí tối tân của Trung Quốc.
Ngày 24/12/1978. Nhận nhiệm vụ xong, Ban chỉ huy của ba tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị tham chiến khẩn trương quán triệt tới từng cán bộ cấp dưới và chiến sĩ. Tôi theo anh Tám Tính (Trung đoàn phó) đến ban hậu cần (lúc này do đ/c Tăng làm chủ nhiệm) để kiểm tra công tác hậu cần phục vụ cho trận đánh… Quân giới đã chuẩn bị xong một số lượng đạn kịp thời bổ sung cho các đơn vị. Lực lượng vận tải cũng đã túc trực 100% quân số để khi có yêu cầu sẽ lập tức hỗ trợ các đơn vị tham chiến, vận chuyển vũ khí, tiếp đạn, tải thương... Chúng tôi ghé vào trạm phẫu thuật tiền phương và gặp đ/c Hùng – Đại đội trưởng quân y kiêm trưởng trạm phẫu thuật.
Đ/c Hùng quê ở Thái Bình là bác sỹ của Học viện Quân y bổ sung cùng đợt với đ/c Quế và đ/c Tiến, dáng người nhỏ, và vui tính. Nghe đâu lúc bảo vệ đồ án tốt nghiệp đạt loại giỏi. Cũng nhờ vậy, sau khi kết thúc chiến trường CPC, đ/c Hùng được điều về tiếp tục công tác trong ngành Y và hiện nay đang công tác tại bệnh viện Quân đội 108 (một bệnh viện tầm cỡ nhất của cả nước)
Khi trở về tới Ban Chính trị tôi thật bất ngờ gặp được đ/c Liễu mới được sư đoàn và quân khu bổ sung về nhận nhiệm vụ trợ lý bảo vệ (lúc đó anh Nguyễn Lộc Nhu còn phải kiêm nhiệm).
Nguyễn Văn Liễu quê Vĩnh Phúc, lúc ở E207 là đội trưởng quản giáo sỹ quan cấp úy của quân Ngụy Sài Gòn. Mặc dù quân hàm của Liễu nhỏ hơn tôi 2 cấp nhưng chúng tôi rất thương nhau, thường vẫn xưng hô “mày…tao…” Sau này Liễu được phong hàm đại tá và được bổ nhiệm làm trưởng phòng điều tra hình sự thuộc bộ phận Quân pháp Quân khu 9, hiện giờ đã về hưu và đang sinh sống tại quê nhà.
Gặp Liễu, hai “thằng” tôi thật quá vui mừng… Vậy là từ nay trở đi chúng tôi lại có những người bạn tri kỷ thâm niên, luôn bên cạnh nhau trong lúc gian khổ, khó khăn, ác liệt trong cuộc chiến đang ở phía trước.
Khu vực đóng quân của ban chính trị và sở chỉ huy trung đoàn ngay từ chiều hôm trước đã có mấy chục gia đình từ kênh Trung Ương trở về. Có mấy bác nông dân tuổi trung niên nói với chúng tôi: “Các chú cứ cấp súng, bọn tôi quyết cùng các chú chiến đấu, đánh đuổi lũ quân xâm lược và giữ gìn mảnh đất này, lính Pôn Pốt nó tàn ác lắm!” Theo lời kể của các bác nông dân, khi quân Pôn Pốt tràn xuống đến đâu là chúng phá sạch, đốt sạch nhà cửa, hoa màu, lúa thóc… người dân nếu sơ tán không kịp thì không ai còn sống sót kể cả người già, phụ nữ, trẻ em! Trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam quân Pôn Pốt đã gây cho dân ta ở vùng này (cặp biên giới bên này là tỉnh Đồng Tháp) bao nỗi vất vả, đau thương tang tóc!
5h sáng ngày 25/12/1978, tôi được ban chỉ huy trung đoàn phân công xuống các tiểu đoàn để giúp đơn vị khắc phục và giải quyết hậu quả của các trận đánh trước nhằm tạo khí thế cho đơn vị chuẩn bị bước vào trận đánh mới. Tôi kéo theo đ/c Kỷ - trợ lý chính sách, đ/c Trưng – trợ lý tổ chức đến ngay tiểu đoàn 1 và tôi đã gặp đ/c Chương lúc này đang là nhân viên thuộc tổ chính trị tiểu đoàn.
Cậu Chương là người Hà Nội, là sinh viên năm thứ nhất của trường Đại học mỏ địa chất, nhập ngũ khi chiến tranh biên giới Tây Nam ở mức cao điểm nhất. Thấy cậu ta nhanh nhẩu, nói năng lại hoạt bát rất hợp với nghề tuyên huấn nên tôi có ý định xin cậu ta về bổ sung cho cơ quan tuyên huấn. Nhưng do yêu cầu của các đ/c trong ban chỉ huy tiểu đoàn muốn giữ cậu ta lại, làm nòng cốt biên chế sang cho quân lực tiểu đoàn nên ý định của tôi không thực hiện được. Sau này cậu được điều về làm nhân viên quân lực trung đoàn, tiếp tục cùng tôi sát cánh bên nhau tham gia các trận đánh, các chiến dịch ác liệt nhất trong đợt tổng phản công quân Pôn Pốt trên chiến trường CPC.
Cuối năm 1981 theo quyết định của Bộ Quốc phòng, Chương được trở lại trường tiếp tục học và bảo vệ luận án tốt nghiệp của mình. Hiện nay đang công tác và sinh sống tại Hà Nội. Mặc dù thời gian đã trôi qua mấy chục năm rồi nhưng những hình ảnh của cán bộ chiến sĩ trung đoàn vẫn còn in đậm trong tâm trí CCB Nguyễn Thanh Chương qua lời tâm sự: Khi trung đoàn 8 nhận nhiệm vụ hành quân vào vùng chiến sự, cả trung đoàn từ cán bộ đến chiến sĩ đều hành quân bộ, mang vác rất nặng nề vượt qua cánh đồng ngập nước (có nơi còn gọi là cánh đồng chó ngáp) trong đêm tối nhưng không ai có một lời ca thán, và luôn luôn giúp đỡ nhau. Thế mới biết tình đồng đội đặc biệt của những người lính chiến trường thật quí giá và cao cả vô cùng…
Thời gian công tác tại ban chỉ huy tiểu đoàn 1 hết khoảng 4 giờ. Ăn với ban chỉ huy tiểu đoàn bữa cơm, khoảng 9 giờ sáng chúng tôi trở về sở chỉ huy trung đoàn.
21h ngày 25/12, một công điện khẩn từ quân khu và sư đoàn: “ Toàn trung đoàn nhanh chóng dời vị trí”. Chúng tôi tháp tùng sở chỉ huy trung đoàn hành quân bộ, do trinh sát dẫn đường. Vừa đi chúng tôi vừa suy đoán. Nhìn đồng hồ đã gần 3h sáng, 4h, rồi 5h, 6h, trời sáng rõ, tôi nhìn thấy đội hình hành quân rất dài phía sau lưng cặp kênh Trung Ương gần thị xã Hồng Ngự. Bộ đội được lệnh tạm dừng chân và khoảng 20 phút sau thì các đ/c tiểu đoàn trưởng, chính trị viên của các tiểu đoàn bộ binh được lệnh đến gặp ban chỉ huy trung đoàn nhận nhiệm vụ. Đ/c Tòng tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 1, Đ/c Dành tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2, Đ/c Toán tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 3 vừa đi vừa cằn nhằn “Không hiểu mấy ông cấp trên nhà mình đánh đấm kiểu gì? Anh em đang háo hức chờ lệnh xuất kích, giờ lại có lệnh hành quân quay về phía sau…”.
Chúng tôi được lệnh nhanh chóng di chuyển về hướng Châu Đốc. Các đơn vị xe tăng được tàu há mồm (vận tải quân sự) hỗ trợ. Bộ binh thì được tàu gỗ + tắc ráng chuyên chở, Các xe kéo pháo theo đường lộ 30 ngược về Cao Lãnh, Qua Long Xuyên rồi đi Châu Đốc.
Khoảng 16h ngày 26/12/1978, các tàu chở quân đã lần lượt cập bến phà Châu Đốc và được đoàn xe vận tải quân sự đã chờ sẵn để chuyển ngay bộ đội về hướng Tịnh Biên – Nhà Bàng (biên giới thuộc tỉnh An Giang, Tà Keo), riêng D1 hành quân bộ từ bến phà Tân Châu qua Châu đốc vượt qua núi Sam về Tịnh Biên.
Cơ quan trung đoàn bộ và các đại đội trực thuộc dừng chân tại một vườn xoài nằm cặp 2 bên đường lộ, các tiểu đoàn đóng cặp theo bên bờ kinh Vĩnh Tế. Sau bữa cơm dã chiến do anh nuôi vội vã nấu, chúng tôi giăng võng vào những thân cây xoài, nhanh chóng “Quất 1 giấc chẳng biết trời trăng mây gió”. Khi mở mắt ra thì mặt trời đã lên cao độ 1 con sào.
8h sáng ngày 27/12/1978, tôi và anh Nguyễn Lộc Nhu được lệnh cùng Ban Chỉ huy trung đoàn về họp quân chính mở rộng do Đảng ủy và BCH sư đoàn triệu tập. Sở chỉ huy sư đoàn đã dời về đây từ lúc nào? (chỉ cách chỗ đóng quân của chúng tôi độ 5 km) Tại đây đ/c tham mưu trưởng sư đoàn căng ngay tấm bản đồ quân sự CPC với 7 mũi tên đỏ to tướng từ hướng biên giới VN chọc thẳng lên các vị trí then chốt… Đó là 7 mũi tiến quân của quân khu 5, 7, 9, quân đoàn 2, 3, 4, thủy quân lục chiến của QĐNDVN đang chuẩn bị giáng cho bè lũ Pôn Pốt một đòn đích đáng!
Anh Bảy Gương chính ủy sư đoàn điểm lại tội ác của quân Pôn Pốt từ năm 1975-1978. Trên toàn tuyến biên giới Việt Nam chúng thường xuyên đưa quân gây hấn và đánh sâu vào nội địa của ta có chỗ tới 10km. Chúng đi tới đâu là thực hiện phá sạch, đốt sạch, giết sạch và vụ thảm sát gần nhất là ngày 17/4/ 1978 tại Ba Chúc -Tri Tôn - An Giang (chỉ cách chỗ chúng tôi đang ngồi họp với đường chim bay chưa tới 10km), chúng đã hành quyết 3157 người dân Việt Nam vô tội đa số là người già, phụ nữ, trẻ em. Đau xót hơn nữa là chúng xé xác trẻ em ném vào đống lửa. Một tội ác dã man và rùng rợn nhất chưa từng thấy trong lịch sử loài người!
Trên đất nước CPC chúng đã thực hiện chính sách diệt chủng rất lạnh lùng và tàn khốc, gần 3 triệu người chiếm hơn 40% dân số đã bị chúng hành quyết (mà chủ yếu chúng đập đầu bằng cuốc).
Với lòng mong đợi của nhân dân 2 nước VN – CPC, được Mặt trận dân tộc cứu nước CPC yêu cầu, Bộ chính trị và trung ương quyết định đưa quân đội Việt Nam tổ chức tổng phản công tiêu diệt kẻ thù man rợ nhất của 2 dân tộc VN-CPC.
Anh ba Thu Sơn (chủ nhiệm chính trị sư đoàn) phổ biến 9 điều quy định của chính phủ VN cho các lực lượng khi làm nhiệm vụ trên đất nước CPC và yêu cầu đảng ủy BCH các cấp phải thật thông suốt, tuyên truyền giáo dục cho cán bộ và chiến sĩ quán triệt và nghiêm chỉnh chấp hành. Lúc này chúng tôi cũng được giải thích vì sao ngưng trận đánh tại Hồng Ngự. Trung đoàn 320 + tiểu đoàn 502 đã được lệnh mở trận địa phòng ngự chốt, bao vây và ngăn chặn sư đoàn 805 ở Gò Chùa và cũng từ giờ phút này các trung đoàn chính thức đổi tên: E8 = 156, E9 = 157, E10 = 158, E11 = 159(lúc đó trung đoàn 14 chưa bổ sung về)
Chưa được phổ biến chính xác ngày, giờ mở chiến dịch nhưng chúng tôi hiểu rất rõ nhiệm vụ đang rất khẩn trương khi thấy hàng đoàn xe tăng và xe kéo pháo của ta cứ ầm ì tiến về hướng biên giới, ban đêm các xe đều mở đèn sáng rực cả con lộ từ Núi Sam đi cửa khẩu Tịnh Biên mà không cần giữ bí mật.
7h sáng ngày 28/12/1978, Đảng ủy và BCH trung đoàn mở hội nghị quân chính quán triệt nhiệm vụ cho các tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc…
Tôi được BCH trung đoàn phân công xuống giúp tiểu đoàn 3 và các C trực thuộc, quán triệt 9 điều quy định của Chính Phủ. Anh Nguyễn Lộc Nhu chịu trách nhiệm tiểu đoàn 1+2.
Ngày 29 + 30/12, tôi đã hoàn thành nhiệm vụ được giao ở 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần và các đơn vị trực thuộc, vì địa bàn đóng quân gần nhau nên cũng rất thuận tiện.
Sáng ngày 31/12/1978, anh út Đậu (chính ủy trung đoàn) giao nhiệm vụ cho tôi làm đặc phái viên dài hạn ở tiểu đoàn 3. Cũng có nguyên do trong BCH tiểu đoàn giữa cán bộ quân sự và cán bộ chính trị nhiều lúc “quan điểm chưa đồng nhất…”. Đúng 12h trưa cùng ngày, tôi đã có mặt.
BCH tiểu đoàn 3 (đính chính lại ở bài trước là tiểu đoàn 2) lúc này đ/c Toán (còn gọi là Toán xồm) quê Ninh Bình làm tiểu đoàn trưởng; Đ/c Miên quê Hà Bắc làm chính trị viên; đ/c Sáu Niên quê Tiền Giang làm tiểu đoàn phó; Đ/c Thái quê Bến Tre làm chính trị viên phó.
Cả 4 đ/c đều ở độ tuổi tôi. Riêng đ/c Toán có bộ râu quai nón rất “hì hợm” nên nhìn thấy già trước tuổi, người cao to trông rất oai vệ… Nghe đâu tính tình đ/c này nóng như lửa và quân hàm nhỏ hơn tôi 1 cấp.
Tôi nhanh chóng gặp các đ/c trong BCH tiểu đoàn để trao đổi công việc, đồng thời cùng các đ/c nắm tình hình tư tưởng của cán bộ chiến sĩ, công tác chuẩn bị của bộ đội cho chiến dịch. Sáng nay, đ/c Miên chính trị viên tiểu đoàn đã thay tôi quán triệt “9 điều quy định” cho bộ đội, anh em rất phấn khởi và đang ở tư thế sẵn sàng nhận nhiệm vụ…
Đúng 0h ngày 2/1/1979, trọng pháo tầm xa 130ly, 122 ly của Quân khu và Bộ được lệnh nã đạn vào căn cứ Tà Lập. CHIẾN DỊCH TỔNG PHẢN CÔNG BẮT ĐẦU.
Tà Lập là 1 căn cứ quân sự của quân Pôn Pốt do sư đoàn 210 đảm nhiệm nằm trên đường số 2 từ Tịnh Biên đi Tà Keo, cách biên giới VIệt Nam khoảng 7km. Con kênh Vĩnh Tế rộng khoảng 100m là sông nằm sát biên giới VN- CPC. Các mũi tiến công của ta được lệnh vượt kênh Vĩnh Tế bằng hệ thống cầu dã chiến do công binh trung đoàn lắp ghép bằng xuồng ba lá, hành tiến thẳng hướng các căn cứ quân sự của quân Pôn Pốt. Tôi theo chân tiểu đoàn 3 cùng với trung đoàn như 1 mũi tên dài hành quân cặp bên phải lộ số 2 cách khoảng 2km tiến về căn cứ Tà Lập. Thời gian lúc này cũng mới bắt đầu vào mùa khô nên đường tiến quân của chúng tôi vẫn gặp rất nhiều khó khăn, chúng tôi phải lặn lội trên đồng cỏ (lúc này ruộng đất cặp biên giới 2 bên đều bỏ hoang và địch gài rất nhiều mìn), còn rất nhiều sình lầy và vũng nước, nhiều chỗ tới tận đầu gối, lưng quần…
Khoảng 1h sáng, lữ đoàn công binh của quân khu được lệnh vượt lên bắc cầu phao trên kênh Vĩnh Tế. Với những chiếc xe chuyên dùng và đội ngũ cán bộ chiến sĩ thuần thục về kỹ thuật, chỉ sau khoảng 4h đồng hồ, chiếc cầu phao với trọng tải hàng trăm tấn đã hoàn thành, đủ sức cho các xe tăng hạng nặng của ta vượt qua.
4h sáng, chúng tôi đã áp sát căn cứ Tà Lập, chỉ còn cách độ 700m, bộ đội ta được lệnh lợi dụng địa hình, địa vật đào công sự. Hỏa lực DKZ75 và cối 82 bắt đầu bắn phá căn cứ Tà Lập, các khẩu đội 12ly8 hạ càng trước tiền duyên, tất cả đã sẵn sàng cho tình huống địch nống ra phản kích.
5h, trời sáng khá rõ, 2 bên ta và địch đều đã nhìn thấy nhau. Các loại hỏa lực của địch ở căn cứ Tà Lập từ các hướng ầm ầm tuôn đạn vào trận địa ta. Nằm sau bụi cây Thốt Nốt với chiếc hầm lộ thiên nông choẹt, ban chỉ huy tiểu đoàn 3 bị hàng chục quả đạn cối 82 nổ rất gần chỉ cách không đầy 100m, bụi đất tung lên, mảnh đạn bay vèo vèo. Một quả cối 82 đã rơi trúng hầm máy thông tin 2 oát, 2 đ/c chiến sĩ C20 tăng cường đã hi sinh ngay tại chỗ, chiếc máy 2 oát vỡ tan tành…
5h pháo binh ta từ hướng biên giới lại cấp tập dội hàng trăm quả đạn trọng pháo 130, 122, 155, 105 vào căn cứ địch với thời gian khoảng 1 giờ. Cả một vệt dài hàng km cặp quốc lộ số 2 mịt mù khói lửa.
6 giờ sáng ta đã hoàn thành xong cửa mở ở biên giới Tịnh Biên địch tháo chạy bỏ lại rất nhiều xác chết (những tên lính Pôn Pốt đã từng gây tội ác với nhân dân VN giờ chúng đã phải đền tội) công binh quân khu tiến hành dò mìn chống tăng trên đường QL2, 7h 30, xe tăng và thiết giáp của ta đã vượt cầu phao và chỉ còn cách căn cứ Tà Lập khoảng 2km. Đạn pháo 105, DKZ75 của địch và cối pháo đủ các cỡ từ trong căn cứ Tà Lập chuyển hướng, bắn vào đoàn xe. Xe tăng của ta đã nhanh chóng tản ra 2 bên vệ đường, dùng pháo tự hành khạc đạn đáp trả.
8h30, 2 biên đội không quân, gồm 6 chiếc F5E và 4 chiếc A37 từ hướng biên giới lao sang, chúc đầu cắt bom xuống căn cứ quân sự Tà Lập, cả 1 vùng đất trước mặt chúng tôi rung chuyển, mịt mù khói lửa. Tôi nhìn rất rõ đất bụi và những vật dụng tung lên trời, rơi lả tả theo những loạt bom.
9h30, trong căn cứ địch đã im tiếng súng, bộ đội ta được lệnh thoát li khỏi công sự tiến vào căn cứ địch. Địch đã tháo chạy về hướng Tây (hướng Tà Keo), “tặng lại” 5 khẩu pháo 105 ly cho quân đội nhân dân Việt Nam cùng rất nhiều vũ khí, đạn dược, khí tài và phương tiện chiến tranh.
10h sáng ngày 2/1/1979, căn cứ quân sự Tà Lập, nơi sư đoàn 210 quân Pôn Pốt đồn trú đã lọt vào tay trung đoàn 156 – sư đoàn 339 và các đơn vị trong toàn quân khu tham chiến. Bộ đội được lệnh dừng chân, củng cố lại lực lượng, sẵn sàng nhận nhiệm vụ cho các trận đánh tiếp theo…
Sư đoàn 210 thuộc quân khu Tây Nam của quân Pôn Pốt là một sư đoàn đã từng gây hấn, xâm lược, sát hại nhân dân Việt Nam tại Ba Chúc – Tri Tôn, biên giới Việt Nam thuộc tỉnh An Giang. Sư đoàn này đồn trú tại Tà Lập, lập phòng tuyến kéo dài đến khu cửa mở gần biên giới, và đã bị trung đoàn 156 - F339 cùng các lực lượng trong quân khu 9 giáng cho một đòn chí tử ngay ngày đầu mở chiến dịch tổng phản công. Không chịu nổi trước làn hỏa lực pháo binh và không quân cùng với sức tiến công mạnh như vũ bão của ta, chúng đã tháo chạy khỏi căn cứ bỏ lại rất nhiều xác chết…
Tôi lại theo chân tiểu đoàn 3 nhanh chóng tiến vào căn cứ địch. Trận địa pháo 105 của chúng vẫn còn khét lẹt mùi thuốc súng và vỏ đạn nằm la liệt, văng vãi khắp nơi. Rất nhiều thùng đạn vẫn còn nguyên vẹn chưa kịp mở nắp mang nhãn hiệu “Made in China”. Cách vài trăm mét là những hố bom sâu hoắm, nhà cửa, lán trại của quân Pôn Pốt tan hoang…
Chẳng ai bảo ai, lính ta tự động tìm kiếm đạn và vũ khí để tự bổ sung cho cơ số của mình. Nhìn thấy một đống đạn cối 82, đ/c Toán tiểu đoàn trưởng ra lệnh “chủ động trưng dụng”… Vậy là mỗi cán bộ chiến sĩ tiểu đoàn bộ đ/c nào cũng có một quả đạn cối trên vai: “Chiến lợi phẩm” mà. Thấy các đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn “vác đạn”, tôi cũng “chơi” một quả vì nghĩ rằng hành trang của mình còn nhẹ hơn rất nhiều so với các chiến sĩ.
12h, chúng tôi được lệnh dừng chân tại một khu vực trong căn cứ của quân Pôn Pốt. Một khu nhà lán xen lẫn hầm hào bằng đất. Từ nhà hầm này sang nhà hầm kia có giao thông hào, nắp hầm được lát bằng những cây thốt nốt to bằng cây dừa trên đổ một lớp đất dày. Sau khi được bộ phận trinh sát kiểm tra kỹ càng, ban chỉ huy tiểu đoàn 3 “hạ trại”. Xung quanh là bộ phận trực thuộc và các đại đội bộ binh.
Vì hành quân chiến đấu suốt đêm nên khi được lệnh dừng chân là chúng tôi tranh thủ tìm chỗ ngả lưng. Cũng nhờ có cái lán cột tre, lợp bằng tàu lá thốt nốt nên tôi và các đ/c ban chỉ huy tiểu đoàn không phải nằm đất. Võng của tôi và đ/c Miên (chính trị viên tiểu đoàn) nằm sát nhau, cách khoảng 2m là võng của mấy cậu liên lạc tiểu đoàn. Nhìn những khuôn mặt bơ phờ, hốc hác của cán bộ chiến sĩ… tim tôi như thắt lại. Thương đồng đội tôi quá! Bao năm rồi chiến trận không ngừng nghỉ... Rồi tôi cũng chẳng cưỡng lại được do thiếu ngủ, tôi thiếp đi từ lúc nào…
Khoảng 15h chúng tôi được anh nuôi đánh thức. Trong lúc chúng tôi ngủ, các đ/c nuôi quân đã đào bếp vo gạo… Bữa cơm dã chiến được dọn ngay dưới nền đất. Cũng chỉ có ít thịt heo kho mặn mang từ Việt Nam sang và nồi canh “hầm bà lằng” đủ các loại rau do anh nuôi tự kiếm xung quanh vị trí đóng quân, nấu với bột ngọt.
Bữa cơm ngay giữa doanh trại của quân Pôn Pốt làm chúng tôi cảm thấy ngon hơn, tự hào và kiêu hãnh hơn. Hơn chục người của tiểu đoàn bộ ngồi chồm hổm xung quanh thau cơm với cái dĩa 2 ngăn đựng thức ăn. Khói cơm nghi ngút. Miệng đ/c nào cũng nhai ngấu nghiến. Vì sáng nay toàn ăn cơm nắm. Cậu liên lạc tiểu đoàn (lâu quá tôi không nhớ tên) nháy nháy mắt nhìn tôi và đ/c Miên: “Thủ trưởng ơi! Em thấy ngoài kia có mấy con gà mập lắm. Chắc là của lính Pôn Pốt”. Đ/c Toán vội vã hưởng ứng: “Đêm nay cho chúng mày bắt làm thịt”. Đ/c Miên nhìn tôi có ý thăm dò rồi nhìn đ/c Toán lên tiếng: “ông học thuộc 9 điều quy định chưa?”. Tôi chỉ cười. Trong bụng thì suy nghĩ, gà ở đây không phải của lính Pôn Pốt thì còn của ai! Và chắc mẩm đêm nay thế nào cũng được chén một bữa thịt gà thỏa thích.
Cơm đang ngon miệng, bỗng nghe tiếng “Rắc” từ trong miệng đ/c Toán. Tay phải liệng đôi đũa, tay trái ném bát cơm ra ngoài cách độ 2 mét. Đ/c Toán mặt hầm hầm về võng nằm. Đ/c anh nuôi và mấy cậu liên lạc “xanh mặt”.
Thì ra đ/c Toán cắn phải cục sạn, chắc là răng bị mẻ, đau nên nổi quạo… Đ/c Miên coi bộ không vui, nhìn tôi và nói: “Kệ nó! Anh em mình cứ ăn cơm đi…”. Lúc này tôi mới thấm lời anh út Đậu căn dặn khi giao nhiệm vụ cho tôi làm đặc phái viên của tiểu đoàn này: “Cậu nhớ làm trung gian đoàn kết cho ban chỉ huy tiểu đoàn. Thằng Toán tính nó như Trương Phi, được cái đánh giặc giỏi!...” Tôi mỉm cười và nói thật lớn, cốt để cho đ/c Toán nghe rõ: “Không ăn nữa thì đói bụng ráng chịu, ở đây không phải như bên Việt Nam đâu mà ra chợ kiếm được quà bánh…”. Một lát sau, đ/c Toán lồm cồm ngồi dậy đi nhặt bát (may mà cái bát chưa bị bể), kéo vạt áo lau đất bụi, bới cơm chén tiếp, vừa ăn Toán vừa nói: “Tôi xin lỗi anh Kiên và các đ/c, tại cục sạn nó làm tôi đau quá…!”. Anh em ai cũng vui cười. Đ/c anh nuôi cũng cười.
16h tôi nhận được điện của anh út Đậu “trở về ban chính trị thay cho anh Nguyễn Lộc Nhu có công việc phải xuống công tác tại tiểu đoàn 2”. Lúc này C20 đã tăng cường máy 2W, cộng với 3 máy dự phòng của tiểu đoàn nên việc liên lạc giữa trung đoàn và tiểu đoàn rất thuận tiện, nhanh chóng. Vừa đánh giặc, vừa hành tiến nên thông tin vô tuyến điện trở thành phương tiện chủ lực.
Anh út Đậu tên thật là Nguyễn Minh Đậu, bí danh là Nguyễn Minh Hồng lớn hơn tôi 7 tuổi, quê ở Thoại Sơn – An Giang. Là Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân thời kỳ đánh Mỹ, gia đình có 2 anh em trai (người anh ruột là Nguyễn Minh Đường) đều tham gia cách mạng từ phong trào học sinh, sinh viên rồi vào quân đội. Anh út Đậu dáng người vừa vặn, khuôn mặt lúc nào cũng vui, nhìn rất phúc hậu. Tính tình của anh mềm dẻo, nhã nhặn nhưng trong công việc lại rất kiên quyết. Anh là người luôn chú ý và thường xuyên quan tâm đến tôi. Mỗi lần được anh giao nhiệm vụ tôi đều cảm thấy hài lòng và ấm áp vô cùng… Sau này anh được phong quân hàm đại tá về làm chỉ huy trưởng bộ chỉ huy quân sự tỉnh An Giang, là đại biểu Quốc hội. (Anh từ trần cuối năm 93 do bị tai biến mạch máu não khi đang cùng đoàn đại biểu quốc hội tiếp xúc cử tri). Vợ anh là một chiến sĩ biệt động thành, bị địch bắt và bỏ tù tại Phú Quốc và được trao trả năm 1973. Hiện nay chị vẫn cùng các con sống tại Long Xuyên – An Giang.
Được 2 chiến sĩ của tiểu đoàn hộ tống về ban chính trị, anh ba Nhu đã gặp tôi trao đổi công việc… rồi khoác ba lô đi công tác ngay. Chỉ ít phút sau chúng tôi được lệnh hành quân.
Trung đoàn bộ gồm sở chỉ huy và ban tham mưu, chính trị, hậu cần hành quân bộ từ vị trí đóng quân ra tới quốc lộ số 2. Đoạn đường này khoảng 1km. Khi còn cách mặt lộ 50m chúng tôi dừng chân.
Quốc lộ số 2 lúc này đã dày đặc những đoàn xe quân sự đang ầm ầm tiến về phía tiền duyên (hướng Tà Keo). Đan xen trong đoàn xe là các xe vận tải quân sự cỡ lớn (GMC + ZIN 3 CẦU), Những chiếc xe tăng T54 đồ sộ với tháp pháo dài ngạo nghễ được cắm lá ngụy trang chẳng khác gì những bụi cây di động. Phía sau mỗi xe đều “cõng” thêm thùng dầu phụ dự phòng đủ sức cho các con “chiến mã” của ta “phi” trên chặng đường gần 200km tới thủ đô Phnom Pênh. Rồi đoàn xe thiết giáp M113 hùng dũng lăn xích sắt trên mặt đường nhựa. Nối tiếp là đoàn xe kéo pháo dài hút tầm con mắt về hướng biên giới đang sẵn sàng chờ lệnh nổ máy khởi hành…Chỉ nhìn quang cảnh trên đường hành quân cũng cảm nhận được sức mạnh của những đòn phản công sắp tới của quân đội ta giáng trả bè lũ Pôn Pốt mạnh tới nhường nào.
Khoảng 19h, trung đoàn bộ được hơn chục xe vận tải quân sự đến đón và ban chính trị có quân số hơn 20 người (chủ yếu là sỹ quan) được 1 xe GMC chuyên chở. Đ/c lái xe tên là Thắng, (không có lái phụ). Bộ phận hậu cần cấp ngay cho gạo sấy (chỉ đổ nước sôi vào sau 5 phút sẽ thành cơm, nếu là nước lạnh thì 30 phút), cộng thêm thịt hộp, cá hộp… Ngoài ra cứ 3 người còn có 1 can nhựa đựng 30 lít nước đem theo xe, Tất nhiên ai cũng có một bình tông nước luôn luôn đeo bên mình.
20h, xe của chúng tôi khởi hành, bám theo đoàn xe tăng và xe bọc thép trên đường quốc lộ tiến thẳng về phía Tà Keo. Trời đêm nay không có trăng nhưng rất nhiều sao nên không tối lắm. Các xe chỉ mở đèn gầm, xe này cách xe kia độ 40 – 50 mét. Xe chạy chậm, tốc độ tối đa chưa tới 20km/h, nhiều lúc còn dừng lại chờ cả tiếng đồng hồ mới tiếp tục “nhúc nhích”. Bộ đội ta ở trên xe đã bắt đầu ngủ gà ngủ gật. Nhiều đồng chí đã nằm đại xuống sàn xe, kê ba lô làm gối ngáy o o… Lính mà! Đã suốt đêm trước mất ngủ, ngày nay mới chợp mắt được tý tẹo. Hai con mắt tôi lúc này cũng muốn nhíu lại… Ngồi trên ca bin với đ/c Liễu, chúng tôi thay nhau chuyện trò với đồng chí Thắng lái xe. Tôi ghé tai nói nhỏ với đ/c Liễu: “Tài xế nó mà ngủ gật thì mấy chục mạng con người trên xe này chỉ có toi đời”. Đ/c Liễu còn lo xa: “Đi đứng kiểu này Pôn Pốt nếu nó phục kích 2 bên vệ đường, Cho một quả B40 thì chỉ còn có nước hốt xương”. Tôi trấn an đ/c Liễu và quả quyết: “Yên tâm đi, cấp trên đã đưa các đơn vị trinh sát và bộ binh đi trước bám địch, cảnh giới và bảo vệ. Xe của ta mới dám long nhong trên lộ như thế này chứ…”. Thế rồi, mệt quá, tôi thiếp đi …
Bỗng nhiên người tôi bị rung, nhảy tưng lên, đầu chúi về phía trước. Giật mình mở mắt ra thì do xe vấp phải ổ gà, tài xế thắng gấp. Anh em ngồi phía sau xe la chí chóe… đ/c lái xe mắt vẫn sáng ngời, tỉnh bơ nói: “Đường này xấu quá các anh ạ”. Nghe câu nói nghĩ mà thương quá!
Nhìn đồng hồ… tôi biết mình đã chợp mắt được gần 1h, chỉ thương cho đ/c lái xe và đ/c Liễu vì an toàn cho tính mạng của anh em đã cố gắng vượt qua cơn đói ngủ… Khoảng 2h sáng chúng tôi được lệnh dừng xe. Hai bên vệ đường là một cánh đồng xen lẫn rất nhiều cây thốt nốt. Không phải đào công sự, nên bộ đội ta trải đại tấm ni lon trên mặt ruộng, chỉ một lát sau là mọi người đã thiếp đi vào giấc ngủ mà gần như suốt đêm nay cứ chập chà chập chờn trên những chiếc xe tải lắc lư. Các xe vận tải cũng được tấp vào 2 bên lề đường, tràn cả xuống ruộng… Cấp trên phổ biến “xe đi với bộ phận nào là bộ phận đó tự quản lý để khi có lệnh hành quân là di chuyển được ngay”. Do vậy đ/c Thắng luôn luôn được tôi và Đ/c Liễu bám sát và giành cho đ/c một sự ưu ái đặc biệt.
Trải tấm ni lon trên mặt ruộng, tôi, đ/c Liễu, đ/c Trưng nằm sát bên nhau, cũng chỉ ít phút sau là chúng tôi cũng “yên bề”.
Khoảng 5h sáng, tôi thấy nhột nhạt và động đậy dưới chân, nhưng do mệt quá tôi mặc kệ, không cần biết có chuyện gì xảy ra. Tôi lại tiếp tục chìm vào giấc ngủ… Bỗng đ/c Trưng la toáng lên làm tôi và đ/c Liễu giật mình tỉnh giấc. Trời đã mờ sáng nên chúng tôi còn kịp nhìn thấy con rắn to bằng cổ tay đang trườn qua người đ/c Trưng, rồi bò vào mấy bụi cây gần đó. Lúc này tôi mới thật hoảng… thì ra con rắn này đã leo qua chân mình… Bò qua đ/c Liễu… rồi đến “thăm” đ/c Trưng. Cũng may nó chưa cắn ai, nếu không thì 3 chúng tôi giờ này không biết sẽ xảy ra chuyện gì…
Suốt ngày hôm đó, chúng tôi được dừng chân chờ lệnh... Tiếng súng ở phía trước vẫn nổ đì đùng… Trên bầu trời nhiều tốp máy bay của không quân ta cứ bay qua, bay lại có cả những chiếc trực thăng (có lẽ là của các tướng lãnh đi thị sát chiến trường). Cấp trên thông báo, ta đang ở tọa độ cách thị xã Tà Keo khoảng 10 km. Trinh sát được tung ra bám địch, các tiểu đoàn bộ binh cũng được giãn đội hình tạo thành các chốt điểm đề phòng quân địch quay lại phản kích.
2h sáng ngày 5/1/1979. Sư đoàn 330 đã đánh chiếm xong thị xã Tà Keo. Các trung đoàn bộ binh được lệnh hành quân áp sát, truy quét tàn quân địch từ trong thị xã bỏ chạy ra ngoài.
5h sáng chúng tôi đã có mặt tại một góc hướng Đông Nam của thị xã Tà Keo, khi sư đoàn 330 đã vượt qua và đang tiếp tục hành tiến về hướng PhnomPenh.
Tại khu vực chúng tôi tiếp quản, nhà cửa đều hoang vắng, lỗ chỗ trên tường còn nhiều vết đạn, chắc là của sư đoàn 330 và các đơn vị đi trước giao tranh với quân Pôn Pốt để lại. Tôi leo lên tòa nhà 2 tầng xây theo kiểu biệt thự của Pháp đã cũ kỹ, lớp vôi quét trên tường và lan can theo kiểu lục bình đã hoen ố. Vào bên trong nhà nồng nặc một mùi hôi tanh từ các bữa ăn của quân Pôn-Pốt còn vương lại. (Mà món nào cũng có mắm bọ-hóoc). Vài 3 chiếc bàn ghế và đống giấy tờ viết bằng chữ Miên vứt ngổn ngang. Đây chính là nơi sở chỉ huy của quân khu Tây-Nam Pôn-Pốt đồn trú, lúc này đã lọt vào tay Quân đội nhân dân Việt nam, mũi tiến quân số 3 (quân khu 9) trong đó có trung đoàn 156, sư đoàn 339 của chiến dịch tổng phản công trên chiến trường CPC.
9h sáng ngày 5/1/1979, chúng tôi được lệnh rút ra ngoài nhường chỗ cho sư đoàn bộ sư đoàn 339 vào tiếp quản, rồi sau đó bàn giao cho trung đoàn bộ binh tỉnh An Giang đảm nhiệm. Và ngay chiều hôm đó tôi đã nhận được tin, đ/c Nhượng phó ban tuyên huấn sư đoàn 339 hi sinh tại thị xã Tà Keo. Sau này tôi được anh Xuân Tư, trưởng ban tuyên huấn sư đoàn kể lại cặn kẽ giây phút hi sinh của anh Nhượng.
Khi E bộ 156 rút khỏi Tà Keo là xe của cơ quan sư đoàn bộ 339 tiến vào và Sở chỉ huy sư đoàn quyết định tạm đóng tại đây để chỉ huy các mũi tiến quân tiếp tục tiến về phía trước, đ/c Nhượng đã vướng phải quả lựu đạn gài của quân Pôn pốt để lại và hi sinh ngay, thi thể đ/c Nhượng được gói bằng ni lon rồi chuyển ngay về phía sau (có lẽ được mai táng tại nghĩa trang biên giới, Tịnh Biên Nhà Bàng). Nghe đến đây tôi không cầm được nước mắt vì nhớ thương người đồng đội mà tôi đã “hoán đổi vị trí” chỉ cách đây hơn nửa tháng. Hình ảnh của anh Nhượng, anh Tư Tường, anh ba Thu Sơn khi chúng tôi trao đổi công việc tại phòng chính trị sư đoàn 339 vẫn còn như in trong tâm trí tôi. Viết tới đây, tôi bồi hồi nhớ lại vào cuối năm 1972 khi còn ở E207. Đ/c Thoại về thay chỗ cho tôi (Tại cơ quan tuyên huấn thuộc ban chính trị) để tôi xuống đơn vị chiến đấu, chỉ 2 năm sau đến cuối năm 1974 đ/c Thoại đã hi sinh tại vùng 4 Kiến Tường. Vậy là trong đời binh nghiệp của tôi đã có 2 đồng đội “thế chỗ… thế mạng…” để cho tôi còn sống sót đến tận bây giờ.
11h ngày 5/1/1979, chúng tôi được lệnh lên xe tiếp tục hành quân tiến về phía tiền duyên, đánh chiếm thị xã Koom Pông Xư Pư. Vậy là đội hình hành quân gồm đủ các loại xe cơ giới (xe tăng, thiết giáp, xe chở quân, xe kéo pháo… ầm ầm chuyển động). Tôi nhìn rất rõ anh Sáu Lưỡng trung đoàn trưởng đội chiếc mũ sắt ngồi trên nóc chiếc xe thiết giáp M113 rất oai vệ, chiếc xe lúc nhập vào đoàn quân… có lúc lại tách ra vượt lên phía trước…
Anh Sáu Lưỡng tên thật là Nguyễn Văn Lưỡng lớn hơn tôi 4 tuổi quê ở xã Trung An, huyện Châu Thành, tỉnh Tiền Giang. Nhà anh ở cập quốc lộ số 1 cách đường rẽ vào Đồng Tâm khoảng 2 km, cách ngã 3 Trung Lương khoảng 2, 5 km. Thời gian đánh Mỹ anh đã từng là tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn 2009. Rất nhiều lần anh đã chỉ huy đơn vị chiến đấu bảo vệ an toàn cho tỉnh ủy tỉnh Định Tường (nay là Tiền Giang) thoát khỏi vòng vây của địch, nên được tỉnh ủy rất mến mộ và coi anh thuộc loại “con cưng” nhất. Sau 1975, anh giữ chức tham mưu phó tỉnh đội Tiền Giang và được điều về làm E trưởng E8 (156) khi thành lập sư đoàn 339. Sau này anh được phong quân hàm thiếu tướng, giữ chức tư lệnh phó quân khu 9. Hiện anh đã về hưu và đang sinh sống tại quê nhà.
Đoàn xe vượt một chặng đường khoảng 10km trên quốc lộ số 2 (qua khỏi thị xã Tà Keo) thì rẽ trái tiến vào một con đường đất rộng khoảng 5 -6m, hướng thẳng về thị xã Kom Pong Sư Pư.
Thị xã Kom Pong Sư Pư là tỉnh lỵ của tỉnh Kom Pong Sư Pư nằm trên quốc lộ số 4, từ cảng Kom Pong Som đi Phnompenh và cách thủ đô Phnompenh khoảng 50 km. Nơi đây được quân Pôn Pốt chọn làm căn cứ hậu cần quân sự. Chịu trách nhiệm tiếp ứng đạn dược, vũ khí… cho quân khu Tây Nam và các nơi khác, nên nó có tầm quan trọng đặc biệt và được chúng bố phòng rất chặt chẽ.
Bộ chỉ huy chiến dịch và quân khu, sư đoàn 339 quyết định giao cho trung đoàn 156 làm mũi đột kích, đánh chiếm và giải phóng thị xã Kom Pong Sư Pư. 16h ngày 5/1 sở chỉ huy chỉ còn cách thị xã độ chừng 5km và được lệnh dừng chân.
Trung đoàn bộ (trong đó có sở chỉ huy trung đoàn) đóng quân ngay bên phải con đường đất có rất nhiều bụi tre, lác đác là những nhà dân đan xen với những cây xoài trĩu quả. Nhìn những cây xoài quả còn non nhưng mật độ của nó bao trùm kín vòm cây, rũ xuống tới gần mặt đất, cứ tưởng chừng như cây không có lá. Phong cảnh ở đây làm tôi chợt nhớ lại thời kỳ năm 70-71, khi trung đoàn 207 tiến đánh bọn Lon Non ở Kom Pong Thom và Kom Pong Chàm, tôi đã ở và gặp nhiều miền quê, lúc đó cũng có những cây xoài trĩu quả, giống hệt như những cây xoài ở đây. Nhân dân ở vùng này bị bọn Pôn Pốt ép buộc đã bỏ chạy vào rừng nên các phum sóc chẳng thấy một bóng người. Ngoài những cây xoài còn rất nhiều loại cây khác như dừa, sapoche, chuối, đu đủ… nhan nhản ngay trước mặt, nhưng bộ đội ta không ai đụng chạm đến vì trong 9 điều của chính phủ và kỷ luật quân đội có QUY ĐỊNH: “Không được đụng đến cái kim, sợi chỉ của dân” mà! Lúc này anh Nguyễn Lộc Nhu đi công tác dưới tiểu đoàn 2 vẫn chưa về nên mọi công việc của Ban Chính trị đều do tôi quán xuyến. Tôi đã yêu cầu anh em trong cơ quan khẩn trương đào công sự đề phòng khi ta nổ súng địch sẽ phản pháo. Cứ 3 người một hầm, chẳng mấy chốc ban chính trị đã có gần chục chiếc hầm lộ thiên, sâu độ 80 phân, chủ yếu để tránh mảnh, còn pháo của địch nó mà rơi trúng hầm thì kể như “toi”.
Tôi trải tấm ny lon xuống hầm rồi balo, súng đạn, tất tần tật cũng được bỏ xuống… Nằm ngả lưng sau gần 1 ngày hành quân bằng cơ giới “thật sảng khoái” làm tôi lại thấy chạnh lòng nhớ lại những năm tháng còn ở E207, bộ đội ta phải hành quân, lội đồng giữa mùa nước. Rồi máy bay của quân thù xả đạn, phóng rốc két chỉ sau mấy tiếng đồng hồ hàng trăm chiến sĩ ta hi sinh (trận mùng 3/10/1973 tại Rạch Đá Biên tỉnh Long An)…
Đang suy nghĩ miên man và thiu thiu đi vào giấc ngủ, tôi được đồng chí liên lạc của ban chính trị đánh thức và thông báo có điện của sở chỉ huy trung đoàn mời họp. Cũng chỉ đi bộ chưa tới 100m, tôi đã có mặt tại sở chỉ huy cùng với các đồng chí bên ban tham mưu, hậu cần. Dưới một gốc cây me chua to tướng. Bên cạnh là một chiếc hầm kiên cố giành cho sở chỉ huy được bộ phận công binh vừa mới hoàn thành. Ở đây chúng tôi được anh Út Đậu (chính ủy) quán triệt cặn kẽ những nhiệm vụ… và yêu cầu… đặc biệt anh nhắc đi nhắc lại 9 điều quy định, chính sách dân vận… Đ/c trung đoàn trưởng, đ/c tham mưu trưởng, trưởng ban tác chiến vẫn đang vùi đầu vào tấm bản đồ quân sự được trải ngay trên nền đất…
Trưởng ban tác chiến tên thật là Nguyễn Văn Chỉnh quê ở Hành Thiện, xã Xuân Ngọc, huyện Xuân Trường, tỉnh Nam Định (cùng quê với bác Trường Chinh) là một miền quê có truyền thống cách mạng và hiếu học, qua thống kê đã có mấy trăm tiến sỹ qua các thời kỳ... Đ/c Chỉnh trạc tuổi tôi, cũng tốt nghiệp trường Sỹ quan lục quân trước khi vào chiến trường, rất vui tính, nói chuyện hài hước thật có duyên và hiện nay đã về hưu, đang sinh sống tại thành phố Mỹ Tho, là một chủ tiệm mua bán đồng hồ và chúng tôi vẫn thường gặp nhau. Sau cuộc họp chớp nhoáng do ban chỉ huy trung đoàn triệu tập, tôi trở về vị trí đóng quân. Anh em trong ban chính trị đã ăn cơm xong (bữa cơm tối do anh nuôi nấu vội), rồi để phần lại. Tôi là người cuối cùng sẽ ăn bữa cơm ngay giữa chiến trường.
Phần cơm còn lại của tôi được đựng trong chiếc thau nhôm, trên là chiếc dĩa 2 ngăn chứa một ít thức ăn. Trời đã nhá nhem tối nên cậu liên lạc sơ ý vấp ngã, vậy là cơm cùng dĩa thức ăn (tiêu chuẩn bữa tối của tôi) “toi đời”, vung vãi đầy trên mặt đất. Không còn cách nào gom được số cơm ít ỏi này để đưa nó vào cái dạ dày đang trống rỗng. Giá như giờ này có được mấy con gà để nó thu dọn “chiến trường” thì là thượng sách. Cậu liên lạc vội vã chạy đến gặp đồng chí anh nuôi “năn nỉ” bắc bếp. Tôi ngăn lại và lấy bịch gạo sấy đổ nước lạnh vào. Khoảng 30 phút sau đã có một bịch cơm nhạt ăn với thịt kho mặn (anh nuôi còn để dự phòng). Vẫn còn sướng chán so với những ngày ở chiến trường miền Tây Nam bộ.
Khoảng 19h anh Nguyễn Lộc Nhu đi công tác trở về ban chính trị. Tôi vội trao đổi công việc và nội dung cuộc họp do ban chỉ huy trung đoàn mới triệu tập, sau đó, anh Nguyễn Lộc Nhu mời các đồng chí trợ lý trong ban chính trị hội ý ngay!
Xác định là một cơ quan then chốt trong việc chấp hành các chính sách, chủ trương của Đảng, Nhà nước, Quân đội, đồng thời có trách nhiệm giám sát việc thực hiện của các đơn vị, tất cả các đồng chí của ban đều cùng hứa quyết tâm hoàn thành nhiệm vụ trọng trách được giao. Ngay trong đêm đó, hầu hết các đồng chí trợ lý được tung xuống các tiểu đoàn bộ binh và các C trực thuộc.
Để đưa các đồng chí trợ lý trong ban chính trị và một số của ban tham mưu xuống các tiểu đoàn, ban chỉ huy trung đoàn đã điều động một A trinh sát và lực lượng vệ binh làm nhiệm vụ hộ tống, dẫn đường. Lúc này, 3 tiểu đoàn bộ binh 1, 2, 3 đã áp sát rất gần thị xã Kom Pong Sư Pư. Nhìn đồng đội (Liễu, Trưng, Kỷ, Cúc, Huyền, Hoa…) cứ lần lượt khoác ba lô rời khỏi đơn vị trong đêm tối thực thi nhiệm vụ, tôi và anh ba Nhu vừa mừng, vừa thương anh em vô hạn.
Tại sở chỉ huy trung đoàn và 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần đêm nay dường như chúng tôi không ngủ. Các đ/c thông tin viên vẫn đi lại như con thoi để chuyển nhanh các bức điện, mệnh lệnh từ bộ chỉ huy chiến dịch cho sở chỉ huy trung đoàn rồi mệnh lệnh từ sở chỉ huy cho các đơn vị phía trước…
Khoảng 24h, tôi và đ/c Chỉnh (trưởng ban tác chiến), cùng anh Tám Tính (trung đoàn phó) được ban chỉ huy trung đoàn giao nhiệm vụ đến thăm và kiểm tra đơn vị thiết giáp, trận địa pháo 105 của sư đoàn, quân khu tăng cường. Chúng tôi được gần chục chiến sĩ vệ binh (trong đó có đ/c Xuân quê ở Vĩnh Long làm trung đội trưởng) đi hộ tống, dẫn đường. Khoảng 2h sáng ngày 6/1/1979, chúng tôi có mặt tại xe chỉ huy của tiểu đoàn thiết giáp M113 lúc này đã áp sát thị xã Kom Pong Sư Pư, cách độ 3km.
Đ/c tiểu đoàn trưởng và chính trị viên tiểu đoàn đã hướng dẫn chúng tôi đến thăm trận địa, trên một diện tích khoảng 10 hecta nằm dọc 2 bên vệ đường có gần 20 chiếc xe bọc thép, chiến lợi phẩm thu được của quân đội Mỹ và quân Ngụy Sài Gòn, đã được xóa bỏ chữ USA và thay vào đó là ngôi sao vàng năm cánh. Các chiến sĩ của bộ đội tăng, thiết giáp vẫn trực trên xe và sẵn sàng xuất kích khi có lệnh. Nhìn những con “cua sắt” lù lù, hùng dũng đang hướng nòng khẩu trọng liên 12 ly7 về phía trước, trong lòng chúng tôi cảm thấy lâng lâng… một niềm tin tất thắng! Một niềm tin sẽ sớm hoàn thành nghĩa vụ Quốc tế và được trở về Tổ Quốc thân yêu, được gặp lại những người thân!
Thăm và thị sát trận địa của đơn vị tăng thiết giáp xong. Anh Tám Tính quyết định đến ngay đơn vị pháo 105 (tiểu đoàn pháo mặt đất do sư đoàn tăng cường), có nhiệm vụ mở màn, dội bão lửa xuống nơi đồn trú của quân pôn pốt đang đồn trú tại thị xã Kom Pong Sư Pư. Ngược con đường đất trở về phía sau, qua khỏi sở chỉ huy trung đoàn chừng 1km là gặp ngay trận địa pháo (cũng là pháo thu được của quân đội Mỹ và quân lực Việt Nam cộng hòa, bây giờ được biên chế cho lực lượng pháo binh của quân đội ta). Chúng tôi được các đồng chí trong ban chỉ huy tiểu đoàn pháo binh kể lại:
Những ngày đầu tháng 5/1975, đơn vị tiếp nhận rất nhiều pháo 105 + 155 của quân Ngụy Sài Gòn tại căn cứ Đồng Tâm, Mỹ Tho và các nơi khác…. Chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, do nhu cầu phải đưa pháo lên biên giới để ngăn chặn quân Pôn Pốt, cấp trên đã cho phép lưu dụng một số xạ thủ pháo binh của quân đội Việt Nam cộng hòa. Lúc đó mỗi khẩu đội có tới ¼ quân số lưu dụng (chủ yếu là Trắc thủ kỹ thuật) vừa trực tiếp khai hỏa khi có yêu cầu, vừa hướng dẫn kỹ thuật cho các tân binh của ta. Chỉ trong thời gian rất ngắn, các chiến sĩ pháo binh của quân đội nhân dân VN đã sử dụng thành thạo súng, pháo chiến lợi phẩm do Mỹ sản xuất. Và đến bây giờ 100% cán bộ chiến sĩ đã được đào tạo bài bản ở các trường chính quy có trình độ kỹ thuật cao sẵn sàng nhận nhiệm vụ dội bão lửa xuống kẻ thù. Nghe tới đây, chúng tôi rất vui và yên lòng… riêng đồng chí Chỉnh có tiếng là lính tếu táo hay đùa dỡn nói: “Có thật không mấy ông! Đừng có mà đấm vào lưng bộ binh chúng tôi đấy nhé!”. Các đ/c trong ban chỉ huy tiểu đoàn pháo binh và chúng tôi cùng cười vui vẻ… Sau đó đồng chí tiểu đoàn trưởng dẫn chúng tôi đi thăm trận địa.
Trận địa pháo 105 được bố trí nằm dọc theo 2 bên con đường đất, chỗ nào xa quá chưa tới 100m, mỗi khẩu pháo cách nhau khoảng chừng 30 - 50m, nòng đang hướng về phía trước (hướng thị xã Kom Pong Sư Pư). Các đ/c khẩu đội trưởng cho biết đã lấy xong phần tử, hướng, tầm, cự ly… đang ở chế độ sẵn sàng khai hỏa. Nhìn những quả đạn nằm xếp lớp đã được lắp ngòi nổ, trong lòng chúng tôi lại thấy trào dâng cảm xúc tự hào trước sức mạnh của quân đội ta đã được nhân lên gấp bội so với thời kỳ đánh Mỹ. Và chẳng bao lâu nữa, đến giờ G, những quả đạn kia lại xé gió lao vào nổ tan tành nơi đồn trú của quân Pôn Pốt, một quân đội khát máu và dã man nhất đã từng gieo bao nhiêu tang tóc, đau thương cho nhân dân Việt nam. Những chiếc xe vận tải kéo pháo vẫn được túc trực ngay bên cạnh để khi có lệnh là lại tiếp tục hành tiến được ngay. Trên mỗi chiếc xe còn chất nhiều thùng đạn dự phòng cho chiến dịch và các trận đánh sắp tới… 5h sáng, chúng tôi đã trở về sở chỉ huy trung đoàn. Anh Tám Tính vào hội ý và báo cáo với sở chỉ huy …
7h sáng ngày 6/1/1979, pháo binh ta được lệnh khai hỏa. Những quả đạn xé gió bay sát trên đầu chúng tôi lao vào thị xã Kom Pong Sư Pư, lúc đầu còn thưa thớt (chờ trinh sát pháo binh…) khoảng 15 phút sau, pháo ta được lệnh bắn cấp tập... cả một vùng trong căn cứ địch mịt mù khói lửa… Pháo ta vừa ngưng, chiến xa M113 được lệnh xuất kích, chi viện hỏa lực cho bộ binh…
8h, trong thị xã Kom Pong Sư Pư bất ngờ vang lên những tiếng nổ long trời của các loại đạn pháo, cối. Xen kẽ là những tiếng nổ của đạn nhọn. Chỉ ít phút sau chúng tôi đã xác định, pháo binh ta đã bắn trúng kho đạn của địch. Sở chỉ huy trung đoàn lệnh cho đơn vị thiết giáp và các tiểu đoàn bộ binh ngưng hành tiến …
Tiếng nổ trong kho đạn của địch, càng về sau càng liên hồi… làm tôi liên tưởng tới những ngày Tết cổ truyền của dân tộc trước đây nhất là vào thời khắc giao thừa, tiếng pháo kim… pháo tiểu… pháo trung… pháo đại… tạo thành một âm thanh tưng bừng khắp nơi nơi…
Kho đạn của địch trong căn cứ thị xã Kom Pong Sư Pư trúng đạn, làm cho sự tiến công của quân ta bị sựng lại. Các công điện từ ngoài trận địa liên tục chuyển về… Sở chỉ huy trung đoàn thì “vui như ngày hội” bởi ta đã phá hủy được phương tiện chiến tranh làm cho sức chiến đấu của quân Pôn Pốt yếu đi…. Riêng tôi thì lại suy nghĩ: “Giá như kho đạn, vũ khí của Pôn Pốt được “bình yên”, nó sẽ được tăng cường bổ sung cho các đơn vị của ta đang chiến đấu để đỡ phải vận chuyển đạn dược từ VN sang, sẽ giúp cho mũi tiến công của chúng tôi thuận lợi hơn rất nhiều”. Sau này lại có nguồn tin, kho đạn của địch không phải do trúng đạn pháo mà quân địch đã phá hủy trước khi chúng tháo chạy...
14h ngày 6/1/1979, tiếng nổ trong kho đạn địch mới hoàn toàn chấm dứt. Các mũi tiến quân của ta được lệnh tiếp tục áp sát và đã tiến vào thị xã Kom Pong Sư Pư không gặp một sự kháng cự nào. Quân địch đã bỏ thị xã tháo chạy về hướng Đông Nam (có dãy núi Tượng Lăng hùng vĩ) Thị xã Kom Pong Sư Pư nơi đặt căn cứ hậu cần của quân Pôn Pốt đã lọt vào tay trung đoàn 156 và sư đoàn 339 cùng các đơn vị tham chiến lúc 15h ngày 6/1/1979, trong đợt tổng phản công trên chiến trường CPC.
16h, ngày 6/1/1979, xe của cơ quan trung đoàn bộ lần lượt tiến vào thị xã Kom Pong Xư Pư. Khi còn cách khoảng 1km thì sở chỉ huy trung đoàn dừng chân. Tiểu đoàn pháo mặt đất cũng bám sau lưng trung đoàn bộ. Các tiểu đoàn bộ binh và đơn vị thiết giáp đã làm chủ hoàn toàn thị xã, được lệnh truy quét quân địch bỏ chạy. Bộ phận trinh sát tiếp tục bám dấu vết quân đich để giúp sở chỉ huy trung đoàn ra những mệnh lệnh kịp thời…
16h30, tôi lại theo anh Tám Tính (trung đoàn phó) cùng một số đồng chí bên ban tham mưu “mò” đến kho đạn mới nổ của quân Pôn Pốt xem nó thực hư như thế nào, may ra có thể tìm kiếm thêm được chút vũ khí cho bộ đội. Khi còn cách vị trí kho đạn khoảng 100m thì chúng tôi dừng lại. Trước mặt chúng tôi là một khoảng đất rộng mấy hecta đã bị san phẳng. Hệ thống kho tàng được xây bằng bê tông cốt thép nát vụn. Gạch đá nằm chồng chất lên nhau, lòi cả những cốt thép do sức công phá của hàng ngàn tấn thuốc nổ. Trên mặt đất nằm la liệt vỏ đạn đủ các loại đạn nhọn: AK, đại liên, 12ly8… Xen lẫn trong đống vỏ đạn đó còn có nhiều quả đạn cối 61, 82, B40, B41… bị cháy xám xịt và rất may nó không bị “tan tành xác pháo” do chưa được lắp ngòi nổ.
Nhìn kho vũ khí của địch mà chúng tôi thầm tiếc. Đáng lẽ ra giờ này đã trở thành kho vũ khí của ta, thành trung tâm hậu cần cung cấp đạn dược cho những cánh quân.
Chẳng còn tìm đâu ra một chút hy vọng…, chúng tôi tiu nghỉu trở về vị trí đóng quân. Lúc này trời cũng đã nhá nhem tối, nhưng nhờ có các đồng chí trinh sát và vệ binh đi hộ tống dẫn đường nên chỉ một thời gian rất ngắn, chúng tôi lại có mặt tại sở chỉ huy trung đoàn. Anh Tám Tính báo cáo tóm tắt chuyến thị sát cho ban chỉ huy rồi cùng đồng chí trung đoàn trưởng, chính ủy chăm chú vào tấm bản đồ quân sự.
Chỉ ít phút sau, tôi đã có mặt tại ban chính trị nơi dừng chân tạm thời cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng trên 100m. Có vài nhà dân nằm cập bên con đường đất. Thấy anh em trong ban đang túm tụm lại trước sân một nhà dân. Được đ/c Cúc (trợ lý địch vận) báo lại: “Vệ binh trung đoàn mới giao 3 tên tù binh cho bộ phận địch vận quản lý và khai thác”. Đây là 3 tên tù binh bắt được đầu tiên kể từ khi mở đợt tổng phản công qua chiến trường CPC do đơn vị trinh sát tóm được khi bọn này đang tìm cách tháo chạy khỏi thị xã Kom Pong Xư Pư hồi chiều. Chấp hành tốt chính sách tù hàng binh, bộ phận trinh sát đã dẫn ngay về giao nộp cho ban tham mưu, sau đó chúng được chuyển sang cơ quan địch vận. Có mỗi việc khai thác tù binh người CPC mà từ chiều đến giờ, từ trinh sát, vệ binh, tham mưu, địch vận vẫn chưa thể thực hiện được. Vì lính ta thì hỏi bằng tiếng Việt… mấy tên tù binh trả lời bằng tiếng Miên…nên mạnh ai nấy nói…mạnh ai nấy nghe… Ta cứ như “vịt nghe sấm”…chẳng hiểu gì. Cũng bởi thời kỳ này chưa có phiên dịch. Vậy là có dịp cho tôi được “trổ tài”.
Do tôi có ít kiến thức, nghe nói được tiếng CPC từ thời kỳ đánh bọn Lon Non 1970-1971 nên lập tức được giao nhiệm vụ đặc biệt: Cán bộ hỏi cung…!
Hình như cả trung đoàn, tôi là người duy nhất, lần này là lần thứ hai thành quân tình nguyện Việt Nam trên chiến trường CPC.
Sau gần 30 phút hỏi, đáp, tôi đã giúp bộ phận địch vận cơ bản biết được một số chi tiết về tình hình ở đây (hỏi theo kiểu do mình chủ động, câu nào nhớ thì nói, không biết thì thôi. Cụ thể chúng tôi đã biết được tên, tuổi, quê quán, đơn vị, hướng bọn địch rút chạy…). Cái chiêu cuối cùng của tôi là: “Bọn mày đã ăn uống gì chưa?”. Đây là những câu, từ tiếng CPC mà sau gần 9 năm (1970-1979) và cho đến tận bây giờ tôi vẫn không quên
Thời gian làm việc kết thúc, anh nuôi cho 3 tên tù binh ăn cơm rồi chúng tôi quyết định phóng thích ngay, hướng dẫn cho chúng tự tìm về quê cũ sinh sống, làm ăn. Ba tên tù binh mừng rơn, hai tay chắp lại “xá xá” rồi từ biệt bọn tôi. Tất cả chúng tôi đều chung quan điểm: “giữ chúng mày ở lại chỉ tổ thêm vướng bận…”
Tại Sở chỉ huy trung đoàn, đêm nay, mùng 6/1 vẫn không ai có thể chợp mắt bởi những tin tức chiến thắng của các đơn vị bạn, của các cánh quân… thông qua mạng vô tuyến điện từ sư đoàn và quân khu dồn dập chuyển xuống. Các cụm máy 2W và 15W vẫn thực hiện hết công suất để nhận mệnh lệnh của bộ chỉ huy chiến dịch. 3 tiểu đoàn bộ binh được lệnh giãn đội hình quanh thị xã Kom Pong Xư Pư lập tuyến phòng thủ đề phòng quân địch quay lại phản kích. Trận địa pháo và đơn vị xe thiết giáp cũng được các đơn vị trực thuộc đóng quân xung quanh, bảo vệ rất nghiêm ngặt.
Khoảng 2h ngày 7/1/1979, tôi và anh Nguyễn Lộc Nhu được đ/c liên lạc mời ăn cháo gà. Trong chiếc thau nhôm đựng khoảng 4-5 bát cháo mà các đ/c phục vụ đã dày công chuẩn bị. Anh em trong ban đã ăn trước. Số còn lại là để phần cho 2 “thằng” tôi, bởi chúng tôi cứ lúc thì náo nức, lúc thì căng thẳng, đi đi lại lại tại sở chỉ huy trung đoàn chưa ăn uống gì…Đang đói bụng gặp được cháo là tôi mừng húm. Tính múc ra bát “khợp” ngay, ai ngờ bị anh Nguyễn Lộc Nhu ngăn lại. Anh bảo đ/c liên lạc đến mời đ/c anh nuôi. Ngồi cạnh thau cháo gà, đ/c anh nuôi và đ/c liên lạc bị anh Nhu chất vấn: “Gà ở đâu ra? Đ/c nào bắt gà? Ai chủ trương cho làm thịt?…”
Đ/c anh nuôi ú ớ trả lời:
- Em không biết nguồn gốc con gà, chính đ/c QT (liên lạc) giao cho em con gà trống nặng độ 3 ký bảo em làm thịt nấu cháo. Em tưởng đây là lệnh của các anh nên em phải chấp hành…
Tới phiên đ/c liên lạc cậu ta khai thật:
- Gà này do bộ phận trinh sát bắt được cùng lúc với mấy tên tù binh đem biếu ban ta, em chắc chắn là của lính Pôn Pốt nên em đã thay mặt các anh bảo anh nuôi làm thịt nấu cháo… Anh Nguyễn Lộc Nhu tỏ vẻ không hài lòng, mặt vẫn thừ ra, đăm chiêu suy nghĩ, Tôi thì đã rõ “nguồn gốc ngọn ngành” nên chẳng còn ngại gì nữa, nhanh tay múc cháo từ trong thau ra bát, mới làm cái “xoạt” 2 -3 “phát” đã gần hết nửa bát cháo (cũng may là cháo đã nguội, chứ không thì bỏng mồm, bỏng lưỡi là cái chắc). Thấy kiểu cách ăn uống “như chết đói” của tôi, anh Nhu cũng “tỉnh ngộ” vội vàng múc cháo ăn… Đ/c liên lạc và đ/c anh nuôi nhìn thấy cái cảnh 2 “thằng” tôi húp cháo ngon lành, vui quá…tít mắt cười… Thấy những nụ cười thoải mái trên gương mặt của các đ/c phục vụ, tôi chợt thấy sao mà đáng yêu, đáng quý đến thế, tôi thầm cảm ơn tất cả mọi người…
Ăn cháo xong tôi và anh Ba Nhu lại vội vã đến sở chỉ huy trung đoàn để nắm bắt tình hình… Anh Út Đậu cung cấp cho chúng tôi một số thông tin… rồi bảo chúng tôi cứ về nghỉ, khi cần anh cho người gọi.
Lúc này là 3h sáng, tôi và anh Nhu trở về ban chính trị. Đoạn đường không xa nên đi bộ chỉ mất vài phút. Hai chúng tôi vội đến chỗ để balo tính lấy võng ra giăng…Balo của tôi và anh Nhu để sát nhau ngay gốc me chua. Cách khoảng 7m là đống balo của các đ/c phục vụ (quản lý, y tá, anh nuôi, liên lạc…). Vừa chạm vào chiếc balo thì nghe tiếng sột soạt bên dưới. Linh tính…làm tôi nổi da gà…Tôi lùi ra xa khoảng 2m. Anh Nhu chẳng hiểu gì, định nhào vào chỗ đặt balo, tôi vội ngăn anh lại. Trời tối mờ nên chúng tôi không thể đoán được gì. Vội gỡ chiếc đèn pin màu bạc luôn mang theo bên mình (thời gian trước 30/4/1975, tôi có chiếc đèn nghéo do Mỹ sản xuất, tôi đã tặng lại cho một người bạn ở quê nhà). Bật công tắc lên, ánh sáng rọi thẳng vào 2 chiếc balo, chúng tôi nhìn rất rõ cái đuôi con rắn cạp nong ló ra ngoài. Tôi hết hồn… Hồi nãy mình không lanh trí thì bị nó cắn rồi chứ chẳng chơi.
Trong lúc đang viết bài này tôi chợt nhớ đến cách đây vài tháng, đọc trên báo có một đ/c phó công an xã bị con rắn này cắn (con rắn có màu khúc đen, khúc vàng còn gọi là rắn Mai Gầm hay rắn Cạp Nong) nọc của nó rất độc, đã giết chết đ/c phó công an xã trong vòng 1 tiếng đồng hồ, giờ ngồi nghĩ lại vẫn thấy tim đập chân run.
Khi đã phát hiện ra con rắn, anh Nhu tiến tới, bình tĩnh nắm đuôi con rắn lôi ra… Con rắn chưa kịp cong người đã bị anh quay mấy vòng đập đầu vào gốc cây me. Ném con rắn xuống đất, nó đã nằm im không còn động đậy. Tôi thật phục cách đập chết rắn của anh, phải thật mạo hiểm và can đảm mới dám làm kiểu này. Nếu không có anh, chắc chắn tôi đã la toáng lên để nhờ anh em đồng đội tiếp sức và điều đầu tiên là đi tìm khúc cây dài ít nhất 2m làm “vũ khí” để chiến đấu với con rắn. Nhưng trong lúc này khúc cây kiếm ở đâu ra!
8h ngày 7/1/1979, chúng tôi được lệnh lên xe tiến về thủ đô Phnompenh.(Để lại một bộ phận chốt chặn thị xã Kom Pong Xư Pư chờ cho trung đoàn 10 vào tiếp quản).
Đoàn xe lại đủ các thành phần (thiết giáp, vận tải chở quân, xe kéo pháo…) ầm ầm di chuyển. Sáng hôm nay trời se lạnh, trong veo không một gợn mây. Trên thông báo các mũi tiến quân của ta giờ này cũng đang tiến vào hợp điểm nơi cơ quan đầu não trung ương của bọn diệt chủng, nơi trung tâm hành chính kinh tế văn hóa… bao đời nay của đất nước Ăng co chùa tháp mà bọn lãnh đạo cầm quyền tàn ác và man rợ nhất trong lịch sử loài người đang chiếm ngự… Trên nóc mỗi chiếc xe lúc này đã được cắm cờ đỏ sao vàng (đại diện cho quân tình nguyện VN) và cờ đỏ 5 tháp (đại diện cho quân đội Mặt trận cứu nước CPC) tung bay phần phật.
Quốc lộ số 4 từ thị xã Kom Pong Xư Pư đến thủ đô Phnom Pênh khoảng 50km, mặt đường trải nhựa rộng, tương đối bằng phẳng, hai bên là những cánh đồng bạt ngàn xen lẫn phum sóc và cây thốt nốt. Xe vẫn hành tiến với tốc độ trung bình, ruộng đồng phum sóc cứ lùi lại sau lưng. Khoảng 10h sáng thì trước mặt chúng tôi đã hiện ra những khu nhà cao tầng, báo hiệu đoàn xe của chúng tôi bắt đầu “chạm vào”thủ đô Phnom Pênh. Trên trời nhiều tốp máy bay của không quân ta cứ bay qua, bay lại để sẵn sàng chi viện hỏa lực cho các mũi tiến quân khi gặp địch kháng cự và khống chế sân bay của bọn Pôn Pốt đã được Trung Quốc đầu tư trang bị để chống lại nhân dân CPC và gây tội ác với nhân dân VN.
10h30, xe chúng tôi đã chính thức vào thành phố, bên trái đường là những ngôi nhà cao tầng, bên phải cách độ vài km là sân bay Pô Chen Tông, lúc này đã được các đơn vị bạn của ta vào chiếm giữ.
12h, chúng tôi tiếp quản khu cố vấn Trung Quốc nằm ven sân bay. Tôi leo lên một dãy nhà sàn bằng gỗ được xây dựng rất hiện đại, có từng căn phòng riêng biệt đầy đủ các tiện nghi, dưới sàn nhà được trải thảm, có cả những bình nấu nước bằng điện, nhiều chiếc bình nước vẫn còn nóng hổi, chứng tỏ bọn cố vấn mới bỏ chạy cách đây không lâu.
14h, xe của chúng tôi lại tiếp tục “diễu hành” trên hầu hết các đường chính trong nội ô thành phố. Thủ đô Phnom Pênh được kiến thiết vào thời kỳ Xihanuc còn trị vì nên rất đẹp và trang nhã, nhà cửa không cao lắm, không có những ngôi nhà chọc trời như ở Sài Gòn và cũng không có những khu nhà ổ chuột như ở một số thành phố khác… Kiểu kiến trúc ở đây hầu hết theo kiểu người Pháp “nhà cao, cửa rộng”, hai bên vỉa hè rộng nên rất thuận tiện cho người đi bộ.
Chúng tôi “long nhong” trong thành phố gần 3 tiếng đồng hồ vậy mà chỉ mới gặp được 2 người dân, thành phố vắng vẻ, xơ xác. Hình như những người dân gốc ở đây đã bị di dời từ năm 1975, số khác bị sát hại do Pôn Pốt cho là phẩn tử trí thức. Sau này khi xây dựng chính quyền bạn đã tổng kết hơn 90% đội ngũ trí thức gồm (văn, nghệ sỹ, bác sỹ, kỹ sư, giáo sư, giáo viên…) đã bị quân Pôn Pốt hành quyết, số sống sót rất ít nhờ chạy vào rừng hoặc chạy sang Việt Nam.
17h, chúng tôi dừng chân tại một khu phố gần khu Chợ Mới. Ở đây đa số nhà chỉ cao từ 2-3 tầng, có cả 1 khu nhà cấp 4 giống như nhà kho đan xen… 19h, lính trinh sát báo về phát hiện 1 kho thuốc của địch nằm cách vị trí đóng quân khoảng 300m. Ban chỉ huy trung đoàn đã điều động bộ phận quân y đến thu chiến lợi phẩm để bổ sung cho cơ số thuốc khi cần dùng đến. Một số chiến sĩ thuộc 3 cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần cũng mò đến “tham quan”. Sau đó tôi được các đ/c cho biết:
Phát hiện ra kho thuốc chắc chắn đã có một đơn vị nào đó đến trước… nên cả một nhà kho rộng tới hàng ngàn mét vuông chất đầy những thùng thuốc tây, thuốc tàu, dụng cụ y tế… bị khui nằm la liệt ngổn ngang… Các đ/c quân y có kiến thức nên biết thuốc nào là thuốc tốt dùng để chữa trị bệnh hoặc cấp cứu cho thương binh, họ chỉ thu lượm các loại kháng sinh như Nycoxin, Peniciline… (những loại thuốc này rất đắt tiền và vào thời kỳ đó quân đội ta vẫn còn thiếu thốn). Một đ/c chiến sĩ trong ban đã tặng tôi 2 hộp thuốc bổ sâm và kể lại:
- Bọn em vào “lục” chủ yếu để tìm thuốc bổ, đặc biệt là các hộp thuốc bổ sâm (loại hộp bằng sắt hình chữ nhật trong đó có gần chục củ Hồng Sâm to bằng ngón tay)
Tôi dạm hỏi:
- Hộp thuốc này trên nhãn in toàn chữ Trung Quốc, bộ cậu đọc được chữ TQ hay sao?
- Dạ hồi đi học em chỉ học tiếng Nga thôi ạ.
- Vậy sao cậu biết nó là thuốc bổ?
- Dạ! báo cáo thủ trưởng, em cứ nhìn thấy cái hộp nào có in hình củ sâm giống như hình người, có rễ lòng thòng thì em biết ngay nó là thuốc bổ sâm ạ.
Tôi thầm phục trí thông minh của cậu ta và yên tâm cất 2 hộp vào đáy balo, phòng khi sức khỏe có vấn đề sẽ đem ra làm “bùa hộ mệnh”…Viết đến đây tôi lại bồi hồi nhớ lại, vào thời kỳ cuối năm 1969, đầu năm 1970, khi còn hành quân trên rừng Trường Sơn. “Loại” sỹ quan cấp úy 1 gạch - không sao (chuẩn úy) như tôi chỉ được phát 1 củ sâm khô to bằng ngón tay út. 1 gạch 3 sao (cán bộ cấp tiểu đoàn trở lên) thì được 2 củ. Lúc đó, tụi tôi quý nó hơn vàng, khi nào quá mệt mới cắt một lát thật mỏng “như tờ giấy” bỏ vào miệng…
Như vậy lúc 17 giờ ngày 7/1/1979, thành phố Phnom Pênh đã hoàn toàn được quân tình nguyện Việt Nam giải phóng gồm cánh quân số 3 (quân khu 9) và cánh quân số 6 (Quân đoàn 4), trong đó có trung đoàn 156 sư đoàn 339. Cơ quan đầu não của bọn Pôn Pốt và bọn cố vấn Trung Quốc đã kịp tẩu thoát vào rừng, một số chạy theo đường số 5 sang biên giới Thái Lan. Cũng vì lẽ đó cuộc chiến vẫn chưa dừng lại, đồng đội của chúng tôi vẫn tiếp tục đổ máu hi sinh sau này, khi thủ đô Phnom Pênh đã sạch bóng quân thù.
Chiến dịch tổng phản công trên chiến trường CPC đến ngày 7/1/1979 đã cơ bản hoàn thành, nó gần giống như ngày 30/4/1975 khi ta tiến vào giải phóng Sài Gòn, chỉ có điều là cơ quan đầu não của bọn diệt chủng Pôn Pốt ở đây rất ngoan cố và xảo quyệt cộng với lực lượng chủ lực của địch chưa bị tiêu diệt nên chúng vẫn còn rất mạnh. Chúng thực hiện chiến thuật “ bèo dạt” bước đầu rút khỏi thủ đô Phnom Pênh và một số thành phố khác. Chuyển quân về vùng nông thôn và rừng núi, tạo thời cơ quay lại phản công…
Sáng ngày 8/1/1979, Ban chính trị chúng tôi rất vui mừng khi quân khu và sư đoàn cùng một lúc bổ sung tăng cường thêm 2 sĩ quan, đó là anh Thiệp, đ/c Thơ.
Anh Nguyễn Ngọc Thiệp quê ở Hà Bắc được chính thức điều về giữ chức chủ nhiệm chính trị (lúc này anh Ba Nhu vẫn còn tạm quyền). Anh Thiệp có nước da sạm, rắn chắc, người cao, khuôn mặt rất hiền hậu, khi nói chuyện hay bị cà lăm (nói lắp), tính tình vui vẻ, hòa nhã, rất thương cán bộ cấp dưới và đồng đội.
Đ/c Thơ được bổ sung cho bộ phận dân vận, hiện nay là nhà doanh nghiệp đang sinh sống tại quận Thủ Đức – Tp Hồ CHí Minh.
Cũng thời gian này Ban chỉ huy trung đoàn quyết định điều động đ/c Hiệp từ cơ quan tài vụ sang tăng cường cho ban chính trị và được bổ sung cho cơ quan tuyên huấn (Đ/c Hiệp quê Vĩnh Phú về xây dựng trung đoàn ngay từ khi thành lập đã từng tham gia chiến đấu ở biên giới Đồng Tháp, An Giang. Sau này chuyền về công tác tại Tổng cục chính trị Quân Đội Nhân Dân Việt Nam và hiện nay đang sinh sống tại Hà Nội)
16h ngày 8/1/1979, chúng tôi được lệnh hành quân. Đội hình hành quân gồm đủ các loại xe cơ giới, lại ầm ầm dũng mãnh lăn bánh trên đường số 5.
Đường số 5 bắt nguồn từ Phnom Pênh qua U Đông đi Kom Pong Chi Năng đi Pô Xát, đi Bat Tam Băng rồi qua Thái Lan. Đoạn đường này mặt rộng cũng giống như đường số 4 có điều không được bằng phẳng, rất nhiều ổ gà, ổ voi… nhiều chỗ bề mặt lớp nhựa đã bị tróc hết, lòi lên một lớp đá xô bồn, khi xe chạy qua là cả một lớp bụi cuốn lên, lan tỏa mù mịt, rất tội nghiệp cho những chiếc xe chạy sau. Có lẽ con đường này từ thời chế độ Lon Non (1970-1975) cho đến thời Pôn Pốt (1975-1979) không được tu sửa nên nó mới xuống cấp một cách tồi tệ đến như vậy.
Đoàn xe dài hút tầm mắt, mỗi xe cách nhau độ 30m. Chiếc xe GMC chở ban chính trị cứ lắc lư dữ dội, lúc nghiêng bên này, lúc ngả bên kia nên lính ta ngồi 2 bên phải bám vào thành xe cho thật chắc, cố để không bị văng xuống đất.
Khoảng 20h, đoàn xe dừng lại. Các đơn vị trinh sát và bộ binh được lệnh lùng sục… Xa xa vẫn có những tiếng súng nổ lẹt đẹt. Khả năng bộ phận đi đầu đã có chạm trán với địch. Chúng tôi nhanh chóng xuống xe, tản ra 2 bên vệ đường. Các đ/c phục vụ được trang bị AK đã lên đạn sẵn sàng chiến đấu. Gần 20 sĩ quan của Ban chính trị mang toàn súng ngắn, cũng đã rút súng ra khỏi vỏ. Tôi kiểm tra lại vũ khí mang theo bên mình. Một khẩu K54 với 3 băng đạn, mỗi băng 8 viên, trong đó 1 băng đã nạp vào súng. “Giời ơi là giời!”, tôi thầm nghĩ! Nếu lính Pôn Pốt mà ập đến thì không biết phải chiến đấu bằng cách nào? Sờ vội lại túi cóc ở ba lô, thấy còn 1 bọc đạn gói trong chiếc vớ (bít tất) đã cũ, có lẽ cũng phải gần trăm viên… Do vậy tôi cũng tạm yên lòng! Nhưng có một điều làm tôi thực sự tin tưởng là ở phía trước, phía sau, bên phải, bên trái, đều có những đơn vị xe tăng, thiết giáp, bộ binh án ngữ. Nếu mà bọn lính Pôn Pốt tới được vị trí này thì chắc chắn phải bước qua xác của những người lính đơn vị nêu trên!
22h, chúng tôi lại lên xe tiếp tục hành tiến. Xe chạy rất chậm (chỉ gấp vài lần người đi bộ) Khoảng 23h, anh Thiệp bảo tài xế cho xe dừng lại khi phát hiện một tốp lính ta đang bu lại bên vệ đường. Khi xe dừng hẳn, tôi và anh nhanh chóng xuống xe, trời tối mờ tuy không nhìn rõ mặt người nhưng tôi biết chắc chắn tốp lính này thuộc đơn vị trinh sát của trung đoàn.
Khoảng 5 -6 đ/c chiến sĩ trinh sát đang túm tụm vây quanh một thứ gì đó. Tôi nghe “các lính” bàn tán xôn xao, người bảo đây là vàng. người khác lại bảo đây là đồng, cãi nhau chí chóe. Anh Thiệp bước lại, lấy 1 miếng đưa cho tôi. Bật đèn pin lên, tôi nhìn rất rõ 2 chữ Kim Thanh (loại vàng này tôi rất rành, khi còn ở nhà đã được mẹ cho xem. nó là loại vàng Đông Dương có từ rất lâu đời, 1 lá bằng 1 lượng. Ước chừng “đống” vàng khoảng độ trên 2 ký do anh em trinh sát gom được). Không cần biết xuất xứ từ đâu… Anh Thiệp dặn các đ/c trinh sát gói lại đem giao nộp cho ban chỉ huy đại đội trinh sát.Chờ ý kiến của trung đoàn. (Lúc này đại đội trinh sát do đ/c Bình quê Vĩnh Long đang làm chính trị viên trưởng).
Giải quyết xong tình huống bất ngờ… tôi và anh Thiệp lại lên xe. Tốc độ của xe lúc này chạy nhanh hơn vượt lên một đoạn khá xa. Ngồi trên xe tôi suy nghĩ: “Đúng là lính mình tụi nó quá thật thà, đến ngay vàng – đồng cũng không phân biệt được và số vàng kia chẳng bao lâu ban chỉ huy đại đội trinh sát sẽ phải đem giao nộp đủ cho chính quyền làm tài sản kiến tạo lại đất nước CPC”. Nghĩ xong rồi lại thương vô cùng những người lính của mình, khi chiến đấu thì dũng mánh phi thường, mà trong đời thường thì quá đỗi hiền lành, bình dị và chất phác!
Khoảng 2h sáng ngày 9/1/1979, chúng tôi được lệnh dừng chân, hai bên là cánh đồng tương đối bằng phẳng có rất nhiều cây Thốt Nốt mọc thành từng cụm đan xen. Không phải đào công sự nên bộ đội ta đã trải tấm nilon ngay trên mặt ruộng rồi nhanh chóng đi vào giấc ngủ…bởi mọi người ai cũng đã thấm mệt…suốt thời gian qua, triền miên vừa đánh giặc, vừa hành tiến nên trong thời gian hành quân, chúng tôi không tài nào chợp mắt.
6h, chúng tôi thức giấc, vội lấy bát rót nước từ những chiếc can nhựa đem theo xe nhanh chóng súc miệng, rửa mặt rồi ăn cơm sáng. Trên thông báo, lúc này chúng tôi đã vượt qua thị trấn U Đông khoảng 10km, làm tôi hình dung đến khu vực tôi và anh Thiệp đã gặp các đ/c trinh sát hồi đêm.
Thị trấn U Đông nằm cách thủ đô Phnom Pênh khoảng trên 40km, án ngữ trên quốc lộ số 5. Khi Phnom Pênh thất thủ, bọn Pôn Pốt đã tháo chạy và co cụm về đây. Lúc bị quân ta truy đuổi, chúng đã tản ra và tháo chạy vào rừng, củng cố lực lượng để chờ cơ hội phản công lại… Cũng chính vì lẽ đó mà sau này, nơi đây đã diễn ra một cuộc chiến đẫm máu vô cùng khốc liệt giữa trung đoàn 156 F339 và các đơn vị tham chiến với tàn quân giặc!
Cả ngày hôm đó mùng 9/1/1979, chúng tôi được dừng chân chờ lệnh… Đơn vị trinh sát và các đơn vị bộ binh được giãn ra truy quét tàn quân địch vẫn còn lảng vảng rất gần. Nhưng bọn địch biết chắc, lúc này lực lượng của ta vẫn còn rất sung sức nên chúng chưa dám “xuất đầu lộ diện”.
5h sáng ngày 10/1/1979, chúng tôi lại lên xe tiến về phía trước (hướng biên giới Thái Lan). Giao U Đông lại cho E157 tiếp quản và sau đó là E158. Bởi có F330 đi trước mở đường nên không đầy 3 giờ đồng hồ đoàn xe của chúng tôi đã đến sát thị xã Kom Pông Chi Năng.
Thị xã Kom Pông Chi Năng nằm cách Phnom Pênh gần 100km về hướng Tây, ngay trên trục lộ số 5 đi Pô Xát. Từ thị xã rẽ phải có con đường đi ra Biển Hồ và một sân bay cũ đã bị bỏ hoang từ trước năm 1975. Rẽ trái là con đường tiến đến sân bay mới. 9h, đoàn xe đã đưa chúng tôi đến đúng vị trí tập kết, rồi tất cả được lệnh hành quân bộ. Lúc này chúng tôi chỉ còn cách sân bay Kom Pông Chi Năng khoảng 7km.
Trên thông báo, một đơn vị của ta đã vượt qua Kom Pông Chi Năng và đang tiến về Pô Xát. Trung đoàn lệnh cho các đơn vị bộ binh giãn đội hình hai bên lộ. Có chỗ sâu vào 1km lập thành tuyến phòng thủ bảo vệ thị xã Kom Pông Chi Năng.
9h30. Trên quốc lộ số 5 vẫn ầm ầm những đoàn xe cơ giới đang tiến vào thị xã. Đây là cơ quan sư đoàn bộ 339 và tiền phương của quân khu 9 vẫn bám sát các mũi tiến quân để chỉ huy các đơn vị tiếp tục truy quét quân Pôn Pốt và giải phóng các vùng đất còn lại.
Sở chỉ huy trung đoàn đóng tại một phum nhỏ, dân đã bị lính Pôn pốt ép buộc chạy theo chúng. Gọi là phum sóc nhưng nhà cửa ở đây rất tuềnh toàng, xung quanh là những vạt rừng thưa gồm đủ các loại cây tạp nham. Chúng tôi gặp một nhà chứa lúa vẫn còn nghi ngút khói. Nhà chứa lúa này đã bị lính Pôn Pốt đốt khi chúng lùa dân chạy vào rừng. Trong lúc tạm dừng chân, các đ/c nuôi quân cũng vội vã bắc bếp và được lệnh nấu thêm suất cơm nắm cho buổi chiều. Do đó, chúng tôi biết chắc không dừng lại nơi này lâu…
Quả như dự đoán, 12h ngày 10/1/1979, trung đoàn bộ trong đó có sở chỉ huy trung đoàn, lại vội vã hành quân. Lúc này, các xe vận tải cơ giới, xe thiết giáp, xe kéo pháo đã tách ra khỏi đội hình của trung đoàn. Trung đoàn 156 có nhiệm vụ hành quân đánh chiếm sân bay Kom Pông Chi Năng. Đây là một sân bay quân sự mới được bọn Pôn Pốt mở rộng và nâng cấp. Một số hạng mục công trình vẫn còn dang dở nên số lượng máy bay đậu tại đây không nhiều. Mặc dù vậy bọn Pôn Pốt vẫn cho một lực lượng lớn đồn trú vòng ngoài để bảo vệ sân bay. Chúng tôi hành quân theo đội hình hàng dọc. Lúc này đơn vị trinh sát và các tiểu đoàn bộ binh đã áp sát rất gần sân bay. Thỉnh thoảng vẫn nghe tiếng súng nổ đì đùng phía trước do đụng độ giữa bộ binh ta với quân địch. Mỗi lần như vậy, sở chỉ huy trung đoàn lại tạm dừng chân để nắm bắt tình hình đồng thời ra những mệnh lênh kịp thời. Cối 82, DKZ75, 12ly8 được tăng cường trực tiếp cho các tiểu đoàn bộ binh để khi gặp địch là kịp thời chi viện hỏa lực…
14h, trung đoàn bộ chỉ còn cách sân bay khoảng 2, 5km. Những bức điện thông qua máy 2w vẫn liên tục từ các tiểu đoàn bộ binh phía trước báo về… Lúc này chúng tôi đang dừng chân tại một vạt rừng thưa (một loại cây không cao lắm đan xen trên cỏ…). Trên trời không một gợn mây và nắng chiếu xuống như đổ lửa. Với sức nóng ghê gớm, nên khi có lệnh dừng chân là chúng tôi nhanh chóng tìm bóng cây làm nơi trú ngụ. Tôi và anh Thiệp cùng cậu liên lạc xông thẳng vào một lùm cây có tán cao và gặp ngay mấy chiếc xe bò. 5, 6 con bò cũng được cột gần đó. Khi nhìn thấy chúng tôi, nó hốt hoảng, ngơ ngác, rồi rống lên những tiếng ò…ò… Cậu liên lạc vội tháo khẩu súng AK ra khỏi người lăm lăm trong tay lên đạn… Tôi và anh Thiệp cũng vội vàng “moi” 2 khẩu súng ngắn… Chúng tôi tiến sâu mấy chục bước nữa thì gặp một tốp người dân (khoảng từ 4-5 gia đình đang thu mình khúm núm trong lùm cây). Nhìn thấy chúng tôi, mấy người già tỏ ra rất sợ sệt. Hai tay chắp lại xá xá. Tội nghiệp nhất khi thấy những cụ ông, cụ bà đều đáng tuổi cha mẹ chúng tôi, quỳ mọp dưới đất …
Trong đầu óc tôi bỗng lại bừng hiện những hình ảnh của năm 1970, khi tiến quân đánh bọn Lon Non, gặp bộ đội chúng tôi nhân dân CPC cứ nghĩ giống như bọn lính Lon Non, để an toàn cho tính mạng của họ, nên họ cũng có những động tác… y hệt… Và những người dân này ở một vùng đất cách xa thủ đô Phnom Pênh về hướng biên giới Thái Lan.Có lẽ đây là lần đầu tiên họ gặp những người lính của quân đội nhân dân Việt Nam.
Tôi vội tra súng vào vỏ đến đỡ các cụ già rồi ra hiệu cho họ ngồi xuống. Câu đầu tiên tôi nói bằng tiếng CPC: “Dương khơ nhôm coong tóp prochichuôn Việt Nam” (Chúng tôi là quân đội nhân dân VIệt Nam). “Vay coong tóp PonPot” (Đánh quân Pôn Pôt). “Pro chi chuôn Cam Pu Chia ot ay tê” (Nhân dân CPC không có sao đâu). Rồi tôi tiếp tục hỏi …bằng tiếng CPC. Tôi đã biết được tốp người này nhà ở phum gần đường số 5, mới chạy vào đây cách mấy tiếng đồng hồ. Mà theo lời tuyên truyền của chính quyền Pôn Pốt: Gặp bộ đội Việt Nam họ sẽ bị “cap duon tùng o” (giết sạch)”. Giống như bọn lính Pôn Pốt đã giết sạch nhân dân ta khi chúng tràn xuống lãnh thổ Việt Nam. Những người dân này họ còn cho chúng tôi biết thêm: dân họ sợ chạy đi đông lắm… vào tận trong rừng sâu. Mấy gia đình này có nhiều người già và trẻ em bị ốm, cộng với mấy con bò kéo xe cũng đã già yếu không đi xa được nên đành phải ở lại đây!
Nghe những lời tâm sự của những người dân hiền lành, chất phác, chân thực, chúng tôi thật đau lòng… Tôi giảng giải cho họ ít điều rồi khuyên họ trở về quê cũ làm ăn sinh sống (Tuy rằng với kiến thức “nói tiếng CPC ít ỏi” của tôi chẳng biết họ có hiểu hết không? Chỉ thấy trên miệng họ phát ra những tiếng pa…pa… giống như tiếng Việt Nam của mình dạ …dạ…)
20h ngày 10/1/1979, một bộ phận của ta đã tiến vào kiểm soát sân bay Kom Pông Chi Năng. Quân địch ở đây đã tháo chạy vào rừng. Các đơn vị bộ binh được lệnh tản ra xung quanh truy quét tàn quân địch và lập hệ thống phòng thủ sẵn sàng chiến đấu đề phòng quân địch quay lại phản kích.
Trung đoàn bộ trong đó có sở chỉ huy trung đoàn quyết định đóng quân ngay cạnh đập nước. Đây là một khu nhà tuy nhỏ nhưng được xây dựng rất kiên cố, xung quanh tường được xây bằng đá loại cỡ 30x40, nên rất thuận tiện cho việc tránh đạn nhọn hoặc mảnh pháo của địch. Lúc này chúng tôi mới có cơ hội được tắm giặt để giữ gìn sức khỏe chuẩn bị tinh thần cho những trận đánh rất khốc liệt đang chờ ở phía trước…
Trung đoàn bộ trong đó có Sở chỉ huy trung đoàn quyết định dừng chân bên cạnh một đập nước.
Đập nước này nằm chắn ngang một dòng sông nhỏ (không biết tên) nhằm mục đích khai thác nguồn cá. Dưới dòng sông còn rất nhiều lưới chắn ngang (có lẽ là của một đơn vị khai thác cá giống như những tập đoàn, hợp tác xã của ta ngày xưa). Trên bờ là một dãy nhà kho trong đó có rất nhiều loại cá sau khi được đánh bắt:
- Cá lóc đã được phơi khô để vào những nhà kho riêng…
- Cá nheo (một loại cá da trơn) hoặc cá lóc… còn tươi thì được ướp muối trong các bể chứa xây bằng xi măng mỗi cạnh khoảng 4 – 5m, cao độ 1m.
Tại khu vực này không thấy một bóng người nên việc quản lý khu kho chắc là phó thác hết cho “ông giời”…
Xác định đây là tài sản của quân Pôn Pốt để lại nên lính ta cứ tha hồ mà chén cá… Cá được nướng ăn với cơm lúc đầu thấy ngon nhưng càng về sau càng ngán. Vậy là anh nuôi đã tự sáng chế ngâm cá khô vào nước lạnh cho mềm và lạt bớt muối. Bỏ thêm tý mỡ, ít đường thốt nốt rồi rim lên. Ăn miếng cá vừa béo, vừa mềm, vừa ngọt. Lúc đó cái món ăn này thuộc loại khoái khẩu ở trên chiến trường CPC khi ta không có điều kiện chở thực phẩm từ Việt Nam sang.
17h ngày 19/1/1979, chúng tôi được lệnh hành quân. Đội hình trung đoàn bộ gồm Sở chỉ huy trung đoàn, cơ quan tham mưu, chính trị, hậu cần lại thành một hàng dọc trên con lộ đất từ đập nước ra đường số 5. Khoảng 21h, chúng tôi đã ra tới thị xã Kom Pông Chi Năng.
Thị xã Kom Pông Chi Năng lúc này dân vẫn còn rất thưa thớt. Nhà cửa không cao lắm. Hai bên con đường tuyến chính chúng tôi đi qua có một loại cây cao độ 3m, lá giống như lá phượng, nhưng chưa thấy trổ bông nên chịu chẳng biết đó là loại cây gì. Sau khi dừng chân độ 15 phút, chúng tôi lại tiếp tục hành quân và thật bất ngờ khi chạm đường số 5 thì chúng tôi được lệnh rẽ phải, Quay về hướng thủ đô Phnom Pênh. Chưa đoán trước được điều gì nhưng trong lòng mỗi chúng tôi ai cũng phấn khích vì lại được về gần đất mẹ. Nơi đất nước Việt Nam thân yêu, đang có bao người thân mong chờ, trông ngóng từng phút, từng giây…
2h sáng ngày 20/1/1979, đoàn quân đã vượt qua thị xã Kom Pông Chi Năng độ 10 km và được lệnh giãn ra 2 bên vệ đường dừng chân. Ban chính trị và sở chỉ huy trung đoàn đóng quân tại một phum cách đường số 5 độ 200m, có một số nhà dân (nhưng họ đã bỏ đi). Vừa đặt ba lô xuống là chúng tôi nhanh chóng lấy võng ra giăng vào những cái cột dưới gầm nhà sàn. Ỷ có lực lượng vệ binh canh gác bảo vệ vòng ngoài nên chúng tôi yên tâm lao vào giấc ngủ. Có lẽ đó là giấc ngủ ngon nhất và bình yên nhất kể từ lúc mở đợt tổng phản công trên chiến trường CPC đến giờ.
Đêm nay chúng tôi phải hành quân bộ xa nhất làm tôi cứ thắc mắc: “Cả bãi xe vận tải quân sự vẫn nằm chính ình trong thị xã Kom Pong Chi Năng mà không thấy một chiếc xe nào bén mảng đến giúp chúng tôi vượt qua chặng đường gần 3h đồng hồ trên mặt đường nhựa”. Nếu có “nó” giúp, chúng tôi chỉ đi mất 20 phút là cùng. Sau này chúng tôi mới hiểu ra, lúc này ta cần tiết kiệm xăng dầu để phục vụ cho những đoàn xe trực tiếp tham gia chiến đấu (xe tăng, thiết giáp, kéo pháo…).
17h ngày 20/1/1975, chúng tôi lại tiếp tục hành quân. Sau hơn 6h hành quân bộ, chúng tôi chỉ còn cách U Đông độ 15km. Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân ngay trên một khoảnh đất rộng nằm sát cạnh đường sô 5, có khoảng vài chục ngôi nhà của dân.
1h sáng ngày 21/1/1979, mở ra một cuộc họp bất thường gồm các đồng chí tiểu đoàn trưởng, chính trị viên tiểu đoàn, các đại đội trực thuộc, có cả đồng chí chính trị viên, tiểu đoàn trưởng tiểu đoàn thiết giáp được quân khu tăng cường.
Anh Út Đậu (chính ủy trung đoàn) tóm tắt tình hình chiến sự trên chiến trường:
- Sau khi ta mở đợt tổng phản công trên chiến trường CPC: Về mặt cơ bản ta đã giải phóng hầu hết đất nước CPC, chủ yếu là các thành phố, thị trấn, thị xã trong đó có thủ đô Phnom pênh và các trục lộ chính … nhưng lực lượng chủ lực của địch chưa bị tiêu diệt nên chúng vẫn còn rất mạnh… Vì thế trong vòng 3 ngày trở lại đây quân Pôn Pốt đã đồng loạt quay lại phản công. Ở hướng địa bàn quân khu 9 đảm nhiệm, tại hướng Tà Keo địch đã cắt đứt đường số 2, nên việc vận chuyển của ta bằng đường bộ đã hoàn toàn bế tắc. Ta đã lập cầu hàng không từ sân bay Trà Nóc, Cần Thơ và sân bay Tân Sơn Nhất để vận chuyển đạn, vũ khí, lương thực cho những cánh quân… Trên đường số 5, địch phản kích chiếm lại U Đông, cắt đứt hoàn toàn con đường bộ từ thủ đô Phnom Pênh với Kom Pông Chi Năng, uy hiếp nghiêm trọng thủ đô Phnom Pênh. Tuy đã có một số đơn vị về ứng cứu U Đông nhưng đều bị mắc kẹt tại đây và các đơn vị này đang bị địch dùng lực lượng lớn vây hãm…
Bộ chỉ huy chiến dịch và sư đoàn 339 quyết định sử dụng trung đoàn 156 giải tỏa U Đông và cứu nguy cho thủ đô Phnom Pênh (thiếu tiểu đoàn 1 lúc này vẫn còn đang truy quét tàn quân địch và bảo vệ sân bay Kom Pông Chi Năng).
Viết tới đây tôi bỗng nhớ lại chỉ cách đây ít ngày khi ra Hà Nội, đến thăm phi công Nguyễn Doãn Thuấn (chồng của Hiền Lương) được Thuấn tâm sự:
- Tháng 1/1979: em “cháu” thuộc Trung đoàn Không quân 916 từ Hà Nội tăng cường vào chiến trường K, mang máy bay vào “ở nhờ” Trung đoàn Không quân 917 đóng tại sân bay Tân sơn Nhất, ngày nào cũng được lệnh bay để chi viện hỏa lực cho bộ binh. Có một lần máy bay của em đã bắn hết 4000 viên đạn nhọn và phóng hết 142 quả rốc két vào đội hình lính Pôn Pốt tại khu vực Pua Sát thì máy bay bị trục trặc. Đáng lẽ em phải hạ cánh ngay (để đảm bảo an toàn tính mạng) nhưng em biết rõ nếu đáp xuống thì cả chiếc máy bay và tổ lái sẽ làm mồi cho lính Pôn Pốt ảnh hưởng không nhỏ tới cục diện chiến trường lúc ấy. Chỉ còn 10% “may rủi” em đã cố gắng điều khiển chiếc máy bay trực thăng vũ trang đang bị sự cố, lắc lư bay như “rùa bò” về tới sân bay Kom Pông Chi Năng hạ cánh và được một đơn vị bộ binh của ta bảo vệ an toàn …(đơn vị bộ binh ngày ấy đã bảo vệ tổ lái của Thuấn và chiếc máy bay giữa vòng vây quân Pôn Pốt lại chính là đơn vị chúng tôi)! Thế mới biết trong chiến trận có nhiều điều rất thú vị và bất ngờ. Mấy chục năm sau ngồi trò chuyện cùng người phi công đầy dũng cảm, tài năng đã cùng chúng tôi chiến đấu tiêu diệt quân Pôn Pốt trên chiến trường CPC đầy gian khổ và khốc liệt …Chúng tôi đã hỗ trợ cho nhau và cuối cùng đều thoát khỏi cái chết để tồn tại, và đến tận bây giờ mới gặp được nhau …!
Trên tấm bản đồ quân sự, đồng chí trung đoàn trưởng giao nhiệm vụ cụ thể cho từng đơn vị…Ngoài lực lượng của trung đoàn còn có tiểu đoàn pháo mặt đất, tiểu đoàn pháo cao xạ, tiểu đoàn thiết giáp M113. Cuộc họp gấp rút hợp đồng tác chiến kết thúc vào lúc 3h sáng ngày 21/1/1979. Cán bộ chỉ huy các đơn vị nhanh chóng trở về vị trí của mình… Lúc này đơn vị thiết giáp và các tiểu đoàn bộ binh đang ở trước trung đoàn bộ cách độ 1km. Tiểu đoàn pháo mặt đất và tiểu đoàn pháo cao xạ đã lập trận địa ngay sau lưng trung đoàn bộ.
6h sáng ngày 21/1/1979, 2 mũi tiến quân của ta từ vị trí tập kết được lệnh hành tiến về phía U Đông. Thiết giáp M113 có bộ binh đi kèm cứ ép sát 2 bên lộ đường số 5 hành tiến rất chậm. Hỏa lực cối 82, DKZ75 và 12ly 8 của trung đoàn cũng được tăng cường cho các tiểu đoàn bộ binh để có thể chi viện hỏa lực kịp thời… Khoảng 8h30 đã nghe tiếng súng nổ đì đùng…, các đơn vị báo về đã có chạm trán với quân Pôn Pốt ở phía trước.
Tại sở chỉ huy trung đoàn các cỗ máy thông tin 2w được lệnh mở tần số làm việc hết công suất nhận thông tin từ ngoài trận địa chuyển về và chuyển đi những mệnh lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn.
9h sáng đã có nhiều công điện từ các đơn vị phía trước. Ta đã chiếm được cây cầu nằm trên đường số 5 cách vị trí U Đông trên 10 km. Tôi nhìn rất rõ trên nét mặt của tất cả cán bộ chiến sĩ tại sở chỉ huy trung đoàn đều rạng rỡ hẳn lên… Lúc này tôi mới thấy các đồng chí trong ban chỉ huy trung đoàn dùng bữa cơm sáng mà các đồng chí phục vụ đã chuẩn bị sẵn từ lâu. Tôi và anh Thiệp cũng nhanh chóng trở về ban chính trị, đóng cách sở chỉ huy trung đoàn chưa tới 100m để kiếm chút gì lót dạ vì hầu như suốt đêm nay chúng tôi không ngủ bụng đói cồn cào.
Chúng tôi ăn vội vã vài bát cơm đã nguội, trong khi các đồng chí trong ban chính trị vẫn còn giăng võng ngủ. Cảm nhận được sự mệt mỏi của đồng đội qua một đêm hành quân, anh Thiệp nói với tôi: “Cứ kệ để cho chúng nó ngủ, khi nào có công việc hãy đánh thức chúng dậy”.
10h, tôi và anh Thiệp lại có mặt tại sở chỉ huy trung đoàn, tin tức ngoài trận địa cứ dồn dập báo về, nhìn trên nét mặt của các đồng chí chỉ huy đã cảm thấy căng thẳng kèm theo sự lo âu…
Bộ đội ta vẫn đang nổ súng. Chiến sự trở nên vô cùng khốc liệt… 10h30, tiếng súng ngoài trận địa rền vang hơn lúc nào. Chúng tôi nhìn rất rõ 2 cột khói đen bốc lên từ hướng trận địa. Do sở chỉ huy nằm trên địa hình tương đối cao, phía trước lại trống trải nên chỉ nhìn bằng mắt thường chúng tôi cũng có thể thấy được 2 cột khói đen ngùn ngụt bốc lên trời mỗi lúc một cao. Kinh nghiệm cho chúng tôi biết đây chính là những đám cháy bằng dầu. (mới có khói đen) nếu cháy nhà hoặc các vật dụng khác sẽ có (khói trắng). Còn đang phân vân suy đoán thì đồng chí thông tin báo cáo nhận được tin qua máy bộ đàm, 2 xe thiết giáp M113 của ta đã trúng đạn địch. Cả sở chỉ huy lẫn chúng tôi… đều chùng xuống… mắt ai cũng đượm vẻ buồn lo. Lúc này tại sở chỉ huy trung đoàn cũng chưa thể ra những mệnh lệnh gì đành phải phó thác cho sự linh hoạt của những người chỉ huy ngoài trận địa và tinh thần chiến đấu dũng cảm của bộ đội đang trực tiếp giáp mặt với quân thù…
11h thêm một cột khói đen thứ 3 từ mặt đất ngoài trận địa bốc lên, chúng tôi cảm nhận được rằng sự thiệt hại của các đơn vị phía trước đang được tính bằng từng phút, từng giây…
11h20 thêm một cột khói thứ tư và đến 12h ngày 21/1/1979 đã có 7 cột khói đen nghi ngút. Đối ứng với 7 xe thiết giáp của ta đã bị trúng đạn của quân Pôn Pốt.
Lúc này không tài nào liên lạc được với ban chỉ huy tiểu đoàn thiết giáp. Các tiểu đoàn bộ binh vẫn có công điện báo về sở chỉ huy. Sau khi bị ta dùng hỏa lực mạnh, quân địch đã bỏ vị trí chốt chặn ở đầu cầu tạt ra 2 bên. Thiết giáp của ta đã nhanh chóng vượt qua cầu và lọt vào trận địa phục kích bên kia cầu của địch. Địch dùng nhiều loại hỏa lực bằng súng chống tăng như DKZ75, B40, B41 mà chủ yếu chúng bố trí ở hướng nam đường. Đây là địa hình rừng núi liên hoàn vào đến tận Am Len (căn cứ cố thủ chiến lược của chúng).
Không khí vô cùng căng thẳng bao trùm khắp sở chỉ huy! Ngoài trận địa lại có những công điện cấp báo về: Giữa bộ binh ta và xe thiết giáp mất liên lạc. Đơn vị thiết giáp vẫn đang nằm trong vòng vây của quân Pôn Pốt, các đơn vị bộ binh vẫn chưa thể tiếp cận vì gặp phải làn hỏa lực dày đặc của địch.
Một quy luật là:Trong tác chiến hợp đồng binh chủng thì xe tăng, thiết giáp không thể tách xa bộ binh, mặc dù tăng, thiết giáp có hỏa lực mạnh nhưng nó chỉ phát huy ở tầm xa, nếu để cho đối phương áp sát thì các con “cua sắt” hoàn toàn mất khả năng chiến đấu. Chỉ làm mồi cho các loại súng chống tăng tầm ngắn như B40 hoặc B41…
12h 30, lại thêm 2 cột khói đen ùn ùn bốc lên ngoài trận địa, đồng chí trung đoàn trưởng bắc ống nhòm quan sát rồi chúng tôi thay nhau nhìn qua ống kính… Trận địa trước mặt được thu lại rất gần. 9 cột khói đen hiện ra ngay trước mặt chúng tôi. Đã xác định được tọa độ trận địa phục kích của địch, lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn cho pháo 105+155 khai hỏa. Chỉ ít phút sau, hàng trăm quả đạn từ sau lưng trung đoàn bộ ào ào rẽ gió bay qua đầu chúng tôi trút bão lửa vào trận địa của quân Pôn Pốt. Nhờ có máy thông tin dẫn đường của các tiểu đoàn bộ binh nên pháo binh ta bắn rất chính xác ngay từ những loạt đạn đầu. Trận địa của địch chi cách trận địa của ta trong gang tấc mịt mù khói lửa.
13h, bất ngờ có một chiếc xe M113 của ta từ hướng trận địa chạy thục mạng về sở chỉ huy trung đoàn. Khi chiếc xe dừng hẳn, chúng tôi vội vàng đến tiếp cận thì một cảnh vô cùng đau thương diễn ra ngay trước mắt. Chiếc xe thiết giáp của ta đã lãnh trọn một quả đạn B40. Với sức nóng ghê gớm mấy ngàn độ xuyên vào lòng xe nên cả 3 chiến sĩ trong xe không còn ai sống sót. 3 thi thể anh em nằm co quắp, mặt mũi cháy đen thui, không thể nào nhìn ra hình dạng… đồng chí lái xe ngồi ở phía trước nên chỉ bị bỏng nặng, cũng may thùng chứa dầu vẫn còn nguyên vẹn nên chiếc xe không bị bốc cháy và chiến sĩ lái xe đầy dũng cảm đã đưa chiếc xe bị trọng thương vượt qua vòng vây quân thù trở về, đồng chí lái xe chỉ ú ớ được mấy câu “xe của chúng em lọt vào trận đ0ịa phục kích của địch…chúng em bị bao vây…rất nhiều xe bị trúng đạn” rồi ngất đi… Băng ca của đội phẫu thuật đã có mặt kịp thời để chuyển ngay đồng chí đến trạm cấp cứu trung đoàn!
13h30 lại thêm 2 cột khói bốc lên ngoài trận địa. Pháo mặt đất của ta vẫn cấp tập bắn phá trận địa địch. Từ ngoài trận địa báo về, bọn địch vẫn “đeo bám” đoàn xe thiết giáp. Các tiểu đoàn bộ binh vẫn còn dậm chân tại chỗ chưa nhích thêm được một bước nào do gặp phải sức kháng cự điên cuồng và những làn hỏa lực dày đặc.
Lệnh từ sở chỉ huy trung đoàn cho pháo cao xạ tham chiến… Đoàn xe kéo pháo 37, 40 ly ầm ầm vượt qua sở chỉ huy tiến ra phía tiền duyên. Đúng 14h30 ngày 21/1/1979, hơn chục khẩu cao xạ đã hạ nòng khạc đạn vào trận địa địch, phối hợp nhịp nhàng với pháo mặt đất tạo nên sức hủy diệt ghê gớm. Nhiều công sự của địch bị pháo ta thổi bay…Các đơn vị bộ binh của ta được lệnh tiến công …
17h, ngoài trận địa báo về, quân ta đã làm chủ hoàn toàn trận địa, bọn địch lớp chết, lớp bị thương, số sống sót đã bỏ chạy vào rừng, các đơn vị bộ binh của ta đã bắt tay được với đơn vị bạn và được lệnh tản ra xung quanh lập thành tuyến phòng ngự, sẵn sàng chiến đấu đề phòng quân địch quay lại phản kích.
Khoảng 18 giờ tiểu đoàn 1 (tiểu đoàn chủ công của trung đoàn) đã được xe vận tải quân sự gấp rút chuyển từ sân bay Kom Pông Chi Năng về tới nhập vào đội hình trung đoàn (nơi trận địa diễn ra ác liệt hồi chiều) đã tăng thêm sức mạnh đáng kể cho khu vực này!
Cũng 18 giờ trung đoàn bộ, trong đó có sở chỉ huy trung đoàn được lệnh “nhổ neo” hành quân về hướng trận địa. 21 giờ chúng tôi chỉ còn cách trận địa khoảng 1km và được lệnh dừng chân, ém quân trong một vạt rừng thưa nằm sát bên vệ đường số 5 về hướng bắc. Mặc dù từ chiều đến giờ cả ban chính trị chưa ai có một hột cơm vào bụng nhưng anh Thiệp vẫn quyết định hội ý và phân công ngay các đồng chí trợ lý xuống các tiểu đoàn bộ binh giúp giải quyết chính sách thương binh, liệt sỹ.
Đồng chí Trưng + Hiệp xuống D2,
Đồng chí Huyền + Cúc xuống D3,
Đồng chí Kỷ và các đồng chí còn lại hỗ trợ các đơn vị trực thuộc, trong đó có các đồng chí hi sinh tại trạm phẫu thuật trung đoàn. Tất cả chúng tôi đều đổ nước lạnh vào bịch gạo sấy, chờ cho nó thành cơm rồi ăn tạm lúc đi đường. Suốt đêm hôm đó toàn bộ trung đoàn không ai chợp mắt. Các đồng chí cán bộ sư đoàn và quân khu cũng nườm nượp xuống để giúp chúng tôi khắc phục hậu quả…
7h sáng 22/1/1979 tôi, anh Thiệp và một số đ/c bên ban tham mưu đã có mặt tại trận địa chiều qua. Hướng nam đường số 5 là trận địa phục kích của quân Pôn Pốt, rất nhiều công sự tan hoang và hàng trăm xác địch vẫn còn nằm chết chổng queo bên mép công sự. Gần chục khẩu DKZ75 của địch bị pháo ta phá hủy nằm trơ nòng bên các ổ đề kháng. Ta thu rất nhiều vũ khí bộ binh AK, RPD, B40, B41.
Tại hướng Bắc đường trong một phạm vi rất hẹp, 11 chiếc xe thiết giáp M113 của ta bị trúng đạn địch. Nằm rải rác không có hàng ngũ gì. Tuy xe bị cháy nhưng vẫn còn lòi ra những lớp sơn xanh hoen ố và nhiều xe vẫn còn nhìn rõ ngôi sao vàng 5 cánh. Bộ phận quân giới của ta quyết định dùng dầu hắc sơn đen ngôi sao của những chiếc xe xấu số kia… Toàn bộ số liệt sỹ của đơn vị thiết giáp đã được đồng đội di dời ngay trong đêm ở một nơi quy định…
Đây là một trận đánh khốc liệt nhất của trung đoàn 156, sư đoàn 339 và các đơn vị tham chiến kể từ khi ta mở chiến dịch tổng phản công trên chiến trường CPC. Để giải tỏa cho đơn vị bạn đang bị bao vây ở U Đông và cứu nguy cho thành phố Phnom Pênh, hàng trăm cán bộ chiến sĩ của trung đoàn và đơn vị tham chiến đã ngã xuống!
9h sáng ngày 22/1/1979, chúng tôi lại trở về Sở chỉ huy trung đoàn. Sở chỉ huy trung đoàn quyết định dừng chân tại chỗ và lệnh cho các tiểu đoàn bộ binh tiếp tục củng cố công sự, nhận bổ sung vũ khí đạn dược chuẩn bị cho các trận đánh tiếp theo…
Ngày 24/1/1979, trung đoàn bộ lại được lệnh hành quân rời vị trí. 18h xuất phát mới 20h đã đến nơi quy định. Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân phía nam đường số 5, các tiểu đoàn bộ binh tiếp tục giãn ra tạo thành một trận địa liên hoàn phòng thủ bảo vệ cho U Đông vừa mới được quân ta lấy lại từ tay quân Pôn Pốt cách đây ít ngày.
Vị trí trung đoàn bộ đóng quân là một khu đất đồi tương đối bằng phẳng. Có lẽ đây là một tổ hợp tác xã sản xuất nông nghiệp loại cây ngắn ngày mà đan xen rất nhiều loại cây, trong đó, chủ yếu là cây khoai mì và khoai lang. Nhà cửa thưa thớt theo kiểu lán trại lợp bằng lá. Bởi xác định đây là trận địa phòng thủ, nên bộ đội được yêu cầu đào công sự có nắp, nối với những dãy thông hào, vừa để tránh pháo cối địch, vừa để cho bộ đội cơ động khi có tác chiến xảy ra.
Trên thông báo tuyến đường số 2 từ PhnomPenh về Việt nam vẫn còn tắc nghẽn, việc đi lại rất hạn chế kể cả ban ngày cũng như ban đêm dù cho các đơn vị bạn đã tổ chức chốt trên tuyến QL2, từ Nông Pênh đi Tà keo. Việc vận chuyển của ta đều phải sử dụng bằng đường không. Mặc dù đường số 5 từ kom Pong Chi Năng về PhnomPenh đã được khai thông nhưng xe vận tải quân sự của ta đi lại rất ít, phần vì sợ bọn địch tổ chức phục kích theo những toán nhỏ lẻ, phần vì để tiết kiệm xăng dầu bây giờ đã rất cạn kiệt.
Lúc này là gần cuối tháng 1 dương lịch nên tính theo ngày âm chỉ còn mấy ngày nữa là đã bước sang năm mới, tết cổ truyền của dân tộc, làm tôi nhớ tới những ngày còn ở trên đất Việt Nam. Những ngày này, trên bàn thờ gia đình đã có rất nhiều bánh chưng, bánh tét. Và chỉ cách đây 1 năm, tại quê nhà má nấu nồi bánh to bằng chiếc nồi quân dụng, ngoài bánh tét còn có cả bánh ú, bánh ích, con cháu cứ tha hồ ăn thỏa thích…Giờ đây, trên đất bạn còn ám màu chết chóc, dù là người lính đã qua bao trận chiến, dạn dày bom đạn và mất mát, nỗi nhớ quê nhà vẫn dâng lên da diết!
Tại trung đoàn bộ trong đó có sở chỉ huy trung đoàn đến giờ phút này cũng chưa thấy gì gọi là Tết. Cán bộ chiến sĩ vẫn căng cái đầu cho những tình huống và phương án tác chiến. Quyết tâm bằng mọi giá phải làm giảm bớt thương vong cho bộ đội khi có chiến trận xảy ra (mà đa phần việc chủ động đều nghiêng về phía quân địch).
Sáng, trưa, chiều mỗi bữa cũng chỉ vài ba bát cơm ăn với cá khô mang từ tận đập nước về. Gạo cũng đã cạn dần nên các bếp đều độn thêm sắn, khoai lang của quân Pôn Pốt để lại.
Hàng ngày vẫn có những chuyến trực thăng vận tải quân sự (loại MI-8 do Liên Xô sản xuất) đáp xuống gần sở chỉ huy để tiếp tế đạn dược, lương thực, khi quay về Việt Nam thì chuyên chở thương binh, bệnh binh, liệt sỹ. Cũng nhờ có những chuyến bay như vậy nên bọn tôi thường gửi thư: “quá giang” về sân bay Trà Nóc, Cần Thơ hoặc sân bay Tân Sơn Nhất, mà tôi là người siêng viết thư về nhà nhất. Cũng bởi lúc này bà xã tôi đang mang bầu, cũng phải hơn 7 tháng rồi và ở tại hậu phương chắc gia đình tôi cũng đang mong ngóng tin tôi từng giờ, từng phút. Thương đứa con vẫn còn trong bụng mẹ, mà chẳng biết người cha như tôi có thể còn có ngày được trở về nhìn thấy mặt con, vậy là tôi biên thư sẵn, rất nhiều… và hầu như chuyến bay nào về Việt Nam cũng có những cánh thư của tôi. Được cái là các đồng chí lái máy bay rất nhiệt tình và thật thông cảm cho những người lính đang chịu trận ngoài chiến trường, anh em phi công lái MI luôn vui vẻ khi nhận thư của chúng tôi và hứa sẽ đem về VN, dán thêm tem vào (vì lúc này ở CPC chưa có tem), rồi bỏ vào thùng thư dân sự với thời gian sớm nhất…
Việc vận chuyển thương binh của ta lúc này đều do không quân đảm nhiệm nên tôi bỗng nhớ lại lời kể của phi công Nguyễn Doãn Thuấn (chồng của Hiền Lương):
- Do yêu cầu của chiến dịch, máy bay lại thiếu nên không ngày nào máy bay của em được nghỉ. Ngoài việc dùng hỏa lực để chi viện cho bộ binh nhiều lúc máy bay chiến đấu của trung đoàn không quân 916 còn đảm nhiệm việc vận chuyển thương binh nữa. Thường là sau khi bay tập kích quân Pôn Pốt, chúng em được lệnh bay qua các vị trí “đã có hợp đồng” nhận thương binh, rồi nhanh chóng đáp xuống. Một lần máy bay của em chở 2 cô y tá tên là Bưởi, Lược (đều là người Hà Nội) đến nhận thương binh từ một khu vực trong rừng (CPC), do thời gian chờ đợi chuyển thương quá dài, nhiều vết thương của thương binh đã có dòi, hàng trăm con dòi rớt ra sàn máy bay, bò lúc nhúc … Đặc biệt có một thương binh bị thương sọ não băng kín đầu, khi máy bay cất cánh, lúc lắc mạnh, đ/c thương binh đó chịu không nổi, vật vã vài lần rồi tắt thở. Hai cô y tá khóc ầm lên. Em cố gắng gạt nước mắt để giữ tay lái đưa máy bay về tới hậu cứ …
Hôm nay đã là ngày mồng 1 tết, ngóng mãi mà chẳng thấy hậu cần cấp phát thêm gì. Trên thông báo ở tại sân bay Trà Nóc, Cần Thơ quân khu đã chuẩn bị rất nhiều nhu yếu phẩm nhưng không tài nào chuyên chở sang chiến trường CPC được. Bởi các xe vận tải quân sự đến giờ phút này vẫn “nằm chơi xơi nước”. Máy bay vận tải quân sự của Không quân ta thì có hạn nên ưu tiên hàng đầu là chở đạn, kế đến là gạo. Chúng tôi hiểu rõ 2 thứ này là điều kiện sống còn của những người lính đang ngoài mặt trận. Những thứ khác chẳng nhằm nhò gì! Vậy là anh nuôi của ban chính trị sáng kiến: Lấy gạo rang lên…rồi cho ít đường thốt nốt vào ngào thành kẹo, chừa lại một ít rang thêm chút nữa cho nó hơi đen đổ nước sôi vào làm thành nước trà. Vậy là đã có đủ “kẹo, trà” đón tết. Anh Ba Nhu và một số đồng chí khác ghiền thuốc. Không có thuốc lá, đồng đội tôi bứt lá khoai mì khô. vò ra, quấn vào giấy hít vài hơi cho… có khói… nó đỡ ghiền…
Vậy là đầu năm 1979, trên chiến trường CPC, chúng tôi đón tết như thế đấy…!
Sau cái Tết Nguyên đán của ta, tức cuối tháng 1 năm 1979, tình hình địch ở đây vẫn chưa có động tĩnh gì. Nhưng nhân dân CPC từ trong rừng cứ ùn ùn kéo về bởi họ đã biết rằng cứ theo bọn Pôn Pốt vào sâu trong rừng thì sẽ vô cùng khốn khổ. Hơn nữa, nhiều người họ đã thực tế gặp bộ đội Việt Nam không giống như bọn lính Pôn Pốt tuyên truyền, nhiều người đã tình nguyện quay vào trong rừng kêu gọi thân nhân trở lại quê cũ. Lúc này nhân dân vẫn còn có ít lương thực dự trữ nên ta chưa phải giúp họ. Chúng tôi hướng dẫn cho họ vào khai thác khoai mì, khoai lang để họ có thêm lương thực…
Ngày 2/2/1979, trung đoàn bộ về đóng quân tại 1 phum phía bắc đường số 5. Sở chỉ huy trung đoàn đóng quân trong một căn nhà xây rất to đã bỏ hoang từ lâu. Ngay chiều hôm đó, một số người dân biết tiếng Việt từ trong rừng trở về đã tập hợp khoảng 300 người dân CPC làm mít tinh chào mừng quân tình nguyện Việt Nam sang giúp nhân dân CPC. Để bảo vệ cho cuộc mít tinh, trung đoàn đã cử đại đội trinh sát và lực lượng vệ binh đến hỗ trợ. Cơ quan dân vận của ban chính trị cũng được phái đến. Và thật bất ngờ, với lòng căm thù quân Pôn Pốt và chính quyền Khơ me đỏ cao độ, nhân dân đã mật báo cho ta: có 7 tên lính ác ôn trà trộn vào trong đám đông dự mít tinh. Ngay lập tức, 7 tên ác ôn “được” lực lượng vệ binh và trinh sát “mời” về trung đoàn bộ, lực lượng vệ binh chịu trách nhiệm canh giữ.
8h sáng ngày hôm sau, tôi và bộ phận địch vận đã có mặt tại trung đội vệ binh để thẩm vấn 7 tên này… Khi đồng chí Xuân, trung đội trưởng vệ binh dẫn chúng tôi đến nơi giam giữ thì thấy bàn tay của 7 tên lính đều sưng vếu… Thì ra, do sợ những tên lính này bỏ trốn (nghe đồn chúng nó có bùa tàng hình) cánh lính vệ binh của ta đã trói chúng quá chặt… lại còn thêm một sợi dây quàng vào cổ “cho chắc ăn”, thế nên, 7 tên lính kia vẫn còn nguyên vẹn qua một đêm “được” ta giam giữ. (Tôi vừa thương anh em vừa buồn cười về sự ngây thơ của những người lính trận còn quá trẻ!)
Chúng tôi phải trưng dụng 2 người dân CPC gốc Việt làm phiên dịch hỏi cung… Sau 3 tiếng đồng hồ làm việc, 7 tên kia đã thừa nhận: chúng là lính của Khét (tỉnh), chúng đã được lệnh đập đầu trên dưới 1000 người dân CPC (bình quân mỗi tên đã giết hơn 100 người vô tội). Chúng tôi thật kinh hoàng… Nhưng những người dân gốc Việt họ nói với chúng tôi: “Bọn nó thú nhận rất ít. Thực tế ra tội ác của 7 tên này còn lớn hơn rất nhiều…” 16h cùng ngày, chúng tôi quyết định cử vệ binh dẫn giải 7 tên ác ôn về ban địch vận sư đoàn. Tuy nhiên nỗi ám ảnh về sự tàn ác của chúng thì cứ day dứt mãi!
Mấy ngày tiếp theo, trung đoàn bộ vẫn đứng chân tại chỗ, nhân dân ở trong rừng vẫn tiếp tục trở về ngày càng đông, lúc này chính quyền bạn chưa hình thành nên tất cả công tác đón dân đều do quân tình nguyện Việt Nam đảm nhận…Thông qua những người biết tiếng Việt, cơ quân dân vận của ta hướng dẫn cho nhân dân CPC nhà của ai người ấy ở, ai không có nhà hoặc bị cháy thì ta sắp xếp họ ở chung với nhà hàng xóm, đùm bọc nhau, giúp đỡ nhau trong cuộc sống, chờ thành lập chính quyền sẽ có những chính sách cụ thể…
12h ngày 4/2/1979, chúng tôi được lệnh tiếp tục hành quân, chưa rõ đi đâu nhưng ban chính trị lại được 1 xe GMC đến chuyên chở rồi nhập vào đoàn xe của trung đoàn. Lúc này, mặt trời đã đứng bóng, nên sức nóng của nó thật ghê gớm. Không cần phải cảnh giác với lũ máy bay của địch như trong thời gian đánh Mỹ, nhưng tất cả những chiếc xe vận tải quân sự của ta đều rợp bóng cành lá ngụy trang. Chiếc xe chuyên chở chúng tôi cũng được anh em phục vụ “trồng” 4 cây to tướng ngay 4 góc xe chủ yếu lấy bóng để tránh nắng.
Khoảng 15h, đoàn xe lại tiến vào rồi vượt qua thủ đô PhnomPenh ngược về đường số 4 rồi qua thị xã Kom Pong Sư Pư, hướng về biên giới thuộc 3 tỉnh Cam Pốt, Cô Koong, Tà Keo.
17h, đoàn xe đã chở chúng tôi tới đúng vị trí quy định. Sau đó chúng tôi tiếp tục hành quân bộ vào khu làng hoang vắng có rất nhiều Chùa mà chúng tôi cũng không rõ tên là gì.
19 giờ ngày 5/2/1979 toàn trung đoàn được xe quân sự từ Nông Pênh vận chuyển về hướng Tà Keo, các đơn vị bộ binh đi trước, bộ phận hậu cần của trung đoàn đi sau cùng, cũng vì thế mới xảy ra chuyện…
Khi các đơn vị tác chiến đi hết, một xe hậu cần loại Vọt Tiến 4 bánh 2 cầu (của TQ viện trợ cho Pôn Pốt ta đã thu được và biên chế thuộc trung đoàn 156) đã bị địch phục kích bằng cách từ xa bắn B41, tuy không trúng đạn nhưng không hiểu lý do gì (có thể gọi là lạc tay lái như bây giờ hay nói) mà chiếc xe lật ngang ngay trên mặt đường, không có hi sinh nhưng cũng khoảng 10 người bị thương mà chủ yếu là lính hậu cần các tiểu đoàn, cũng may bộ đội của một đơn vị bạn gần đó nghe súng nổ liền tổ chức vận động lên đánh trả vì thế Khơ me đỏ cũng không dám tràn lên. Đến bây giờ chúng tôi cũng không hiểu bằng cách nào mà bộ đội của các đơn vị bằng sức người đã dựng được chiếc xe đứng dậy và đi tiếp.
22h, trung đoàn bộ dừng chân tại một khu rừng thưa. Bộ đội thuộc trung đoàn bộ được lệnh khẩn trương đào công sự vì ở đây rất gần địch. Cùng lúc đó các đơn vị bộ binh bắt đầu tiềm nhập chiếm lĩnh trận địa. Khoảng 5h sáng ngày hôm sau các mũi tiến quân đi đầu đã phát hiện các chốt cảnh giới của địch, địch cũng không chống trả mà rút chạy ngay khi vừa chạm với quân ta. Trung đoàn lệnh cho tiểu đoàn 3 đánh mũi trực diện, tiểu đoàn 2 đánh mũi vu hồi bên cánh trái, tiểu đoàn 1 làm dự bị và bảo vệ phía sau trung đoàn bộ, các đơn vị trực thuộc như các C 21 trinh sát, các C hỏa lực khác nằm bên phải trung đoàn bộ chi viện hỏa lực cho các tiểu đoàn bộ binh và sẵn sàng đánh địch ở mạn bên phải.
Đúng 6h sáng ngày 6/2/1979 khi trời vừa sáng rõ, sở chỉ huy trung đoàn hạ lệnh cho các tiểu đoàn bộ binh đánh chiếm căn cứ thuộc địa phận Mo Núp và trận giao chiến diễn ra rất ác liệt ngay tại khu vực bờ đê mà thực chất là một con đập ngăn nước giữa hai quả đồi thấp tạo nên cái hồ khá lớn dài khoảng gần 1km. Địch ở trên cao bờ đập, ta ở phía dưới là các cánh đồng khô cằn khá trống trải, địch đã dùng hỏa lực chống trả quyết liệt, có thể nói có lúc là các đợt pháo ĐKZ các cỡ, cối 60, 81 của ta và địch cùng khai hỏa tạo nên một hỗn hợp âm thanh chói tai, long óc… Khoảng 8h sáng tiểu đoàn 3 đã đánh bật địch ra khỏi bờ đập và vận động lên phía quả đồi thấp bên trái khoảng 700m, bàn giao lại bờ đập cho tiểu đoàn 1. Tiểu đoàn 2 đánh mũi vu hồi bên trái nhưng phát triển rất khó khăn. Khoảng 14 giờ địch tổ chức phản kích tại vị trí tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 2, chúng đã cắt đứt đội hình giữa tiểu đoàn 3 và tiểu đoàn 1 mà thực chất là đã bao vây tiểu đoàn 3. Tiểu đoàn 1, lúc này do đồng chí Hoàng Anh làm tiểu đoàn trưởng đã tổ chức đột kích nhiều lần vẫn chưa chọc thủng hệ thống phòng ngự của địch để bắt tay với tiểu đoàn 3 và đồng chí Hoàng Anh đã anh dũng hi sinh ngay tại bờ đập!
17 giờ cùng ngày, tiểu đoàn 1 và tiểu đoàn 2 đã phối hợp nhịp nhàng dũng mãnh tấn công với những tay súng thiện chiến và quả cảm nhất buộc địch phải bỏ chạy nối liên lạc được với tiểu đoàn 3.
Cùng thời gian trên sở chỉ huy trung đoàn đã hạ lệnh cho các đơn vị rút ra để vào thay thế cho trung đoàn 157 (E9) tại khu vực Núi Đất. Tiểu đoàn 1 làm nhiệm vụ chốt chặn cho trung đoàn bộ và các đơn vị còn lại rút ra. Tiểu đoàn 3 rút ra sau cùng đã bị địch bu bám vây hãm và cuộc chiến đấu lại trở lên gay go, khốc liệt và cán bộ chiến sĩ chịu nhiều thương vong (do tiểu đoàn 3 ở mũi chính diện). Được lệnh của sở chi huy trung đoàn tiểu đoàn 1 đã liên tục vận động đánh phá vây để tiểu đoàn 3 rút ra. Và tiểu đoàn 1 lại lọt vào vòng vây của địch, địch dùng hỏa lực cối, ĐKZ, đại liên 12, 7mm bắn phá đội hình tiểu đoàn 1. Ban chỉ huy tiểu đoàn lệnh cho các đại đội bố trí đội hình thành vòng cung, đào công sự để đề phòng đêm tối địch tập kích, tuy bộ đội chưa kịp ăn uống gì sau một ngày chiến đấu, nhưng chiến trường là vậy.
Khoảng 21 giờ đích thân đồng chí trung đoàn trưởng cùng một số trinh sát trung đoàn vào bờ đập để đón tiểu đoàn 1 vì lúc này thực tế tiểu đoàn 1 cũng chưa xác định được hướng rút vì xung quanh quân địch khá dày đặc. Theo chân đ/c trung đoàn trưởng có trinh sát dẫn đường, tiểu đoàn 1 hành quân ra QL. Một đơn vị bạn đang hành quân ngược chiều vào thay thế vị trí của trung đoàn 156.
Sau khi đã được bổ sung thêm vũ khí đạn dược… lúc 0 giờ trung đoàn lại được lệnh hành quân vào Núi Đất thay vị trí trung đoàn 157 về Tà Keo giải vây cho trung đoàn 158-F339. Hai hàng quân cứ lầm lũi xuyên đêm đi ngược chiều nhau nhưng không nói gì vì đói và mệt và vì họ đều hiểu ngày mai trận chiến sẽ ác liệt hơn cả hôm nay.
3 giờ sáng ngày 7/2, cơ quan trung đoàn bộ dừng chân tại 1 ngôi chùa đã bỏ hoang bên cạnh con đường đất nối ra QL, đây cũng là nơi trung đoàn bộ trung đoàn 9/F339 đã đóng quân.
Ngôi chùa này (không biết tên) khuôn viên của nó rất rộng, khoảng 4-5ha và có rất nhiều hạng mục công trình. Phía trước mặt là một quả đồi thấp, các đơn vị hỏa lực của trung đoàn đóng quân trên đó, đơn vị trinh sát và công binh trung đoàn đóng quân bên tay phải của chân quả đồi thấp. Sau lưng chùa chính là một hồ nước trồng đầy sen. Mọi vật dụng ở đây đều bám đầy bụi và nước dưới hồ sen cũng trở nên hôi bẩn. Chúng tôi bắt gặp những con chuột cống lang to bằng con mèo, mình mẩy của nó rụng hết lông lòi ra một lớp da trắng hồng (giống như người bị bệnh bạch tạng). Lũ chuột này chúng chẳng sợ người, ngay cả ban ngày mà chúng cứ chạy lung tung để kiếm thức ăn. Nhiều con lăn cả xuống hồ nước chết nổi phình. Tuy vậy hồ nước này vừa làm nước tắm giặt, vừa làm nước ăn uống của trung đoàn bộ. Qua hồ nước này cách khoảng 50m là đại đội quân y trung đoàn, gần đó là đại đội thông tin, phía sau nữa là đại đôi pháo 105 của sư đoàn (đơn vị này đi cùng trung đoàn 9, ở lại phối thuộc với trung đoàn 8(156)), qua con đường đất là đại đội vận tải.
Phía trước quả đồi thấp, cách khoảng 1km là trận địa của TĐ 1 (mũi chính diện) sát ngay ngã tư đường đá, TĐ 2 bên tay phải của quả đồi thấp, cách TĐ 1 khoảng 1km, bên trái lộ đất là TĐ 3, trận địa nằm ven rừng thốt nốt kéo dài từ trung đoàn bộ đến TĐ 1 cách lộ đất khoảng 500m.
Từ đường số 4 vào vị trí đóng quân của chúng tôi là một con đường đất đỏ nhỏ bề ngang chỉ độ 3m nên việc vận chuyển bằng cơ giới của ta gặp nhiều khó khăn và khi màn đêm buông xuống là bọn địch thường xuyên tổ chức phục kích, chúng gài mìn đủ các loại (mìn đạp nổ, mìn chống tăng…) do vậy về đêm đoạn đường này hoàn toàn bị cắt đứt. Khi ta có nhu cầu vận chuyển bằng cơ giới thì phải có lực lượng bộ binh đi bảo vệ 2 bên sườn và được công binh dò phá mìn rất chu đáo. Đến giai đoạn cuối của chiến dịch này địch vẫn còn ngăn chặn quyết liệt nên hầu như trung đoàn không thể liên lạc được với sư đoàn, mọi sự tiếp tế đạn dược, lương thực và thuốc men hay vận chuyển thương binh, liệt sĩ đều không thể thực hiện.
Ngày 11/2 tôi được phân công xuống công tác tại ban chỉ huy tiểu đoàn 3 đóng cách sở chỉ huy trung đoàn khoảng 2km, được 2 đồng chí vệ binh đi hộ tống, chúng tôi vượt qua một con đường nhỏ dùng cho người đi bộ và xe 2 bánh, 2 bên đường cây cối mọc xanh rờn và có nhiều loại cây ăn quả như chuối, dừa…Khi còn cách ban chỉ huy tiểu đoàn khoảng 500m, thì chúng tôi phát hiện một đám khói ngay sau bụi chuối cách đường đi bộ khoảng 30m. Chúng tôi biết đây là khu vực an toàn và người dân ở khu vực này vẫn còn rất vắng vẻ nên 2 đồng chí vệ binh cùng tôi đã sục ngay vào… Thật bất ngờ, chúng tôi gặp 3 đồng chí lính trinh sát của tiểu đoàn đang nướng thịt bò.
Một đống lửa được đốt lên từ những cành cây khô đang cháy ngùn ngụt, bên trên là những xiên thịt bò, miếng nào miếng nấy to bằng bàn tay, tỏa ra một mùi thơm phức. Hình như các chiến sĩ trinh sát này đã biết mặt tôi (bởi tôi đã nhiều lần xuống công tác tại đơn vị này). Một đồng chí, chắc là tổ trưởng, vừa tỏ ra lo âu và cố niềm nở mời chúng tôi cùng ăn thịt bò nướng. Riêng tôi thì suy nghĩ, chẳng biết cái đống thịt bò này xuất xứ từ đâu nhưng anh em chiến sĩ của ta đã quá vất vả, thiếu thốn đủ điều nên kệ… Tôi vui vẻ nhận lời rồi cùng 2 đồng chí vệ binh ngồi xuống vây quanh đống thịt bò lúc này cũng đã vừa chín tới.
Ăn thịt bò nướng, chấm với ít muối mà các đồng chí trinh sát đã chuẩn bị sẵn, bọn tôi được một bữa phủ phê…
Khi “tiệc” đã tàn, tôi mới dạm hỏi các đồng chí trinh sát.
- Thịt này kiếm ở đâu ra?
Một đồng chí ngập ngừng trả lời:
- Cách đây độ 200m thủ trưởng ạ! Con bò của lính Pôn Pốt bị chết do trúng đạn, bọn em phát hiện được và xẻo thịt. Tôi theo chân các đồng chí trinh sát đến tận nơi.
Nhìn thật kỹ tôi nhận ra đây là con nghé chứ không phải là con bò, thảo nào thịt nó vừa mềm, vừa ngọt, nó nặng chắc chỉ hơn 1 trăm ký, bị 2 phát đạn trúng vào đầu, máu của nó vẫn còn tươi, chứng tỏ nó mới bị bắn cách đây chưa lâu. Tôi nhìn vào mắt của các đồng chí trinh sát, gặp ánh mắt tôi, các đồng chí lại nhìn đi chỗ khác… Thấy tội quá, tôi nhỏ nhẹ nói với anh em: “Thôi nhé, đây là lần cuối nhé” và căn dặn anh em về báo cho đơn vị ra lấy thịt cho bộ đội ăn kẻo phí.
11h30, ngày 11/2/1979, tôi và 2 chiến sĩ vệ binh đã có mặt tại ban chỉ huy tiểu đoàn 3, đồng chí Miên chính trị viên tiểu đoàn và đồng chí Toán tiểu đoàn trưởng tiếp đón tôi rất niềm nở. Tôi quyết định ở lại ban chỉ huy tiểu đoàn 3 thêm 1 thời gian, nên bảo 2 đồng chí vệ binh quay trở về trung đoàn bộ và không quên căn dặn 2 đồng chí “kín miệng” cái vụ gặp 3 đồng chí trinh sát…
Đêm hôm đó, 11/2, tôi ngủ cùng hầm với BCH tiểu đoàn 3, 1 cái hầm lộ thiên sâu khoảng 80 phân ngay dưới gầm sàn nhà của một hộ dân bỏ hoang. Từ hầm ban chỉ huy tiểu đoàn có một ngách thông hào, nối liền với chiếc hầm của cụm đài 2w và máy thông tin hữu tuyến. Trận địa phòng thủ hình vòng cung có các đại đội bộ binh đang ở phía trước (hướng rừng sâu) là căn cứ của bọn Pôn Pốt, lực lượng của chúng lúc này vẫn còn rất mạnh, có thể bất cứ lúc nào mở đợt phản công nhằm chiếm lại những vùng đất đã được quân tình nguyện Việt nam giải phóng, trong đó có trung đoàn 156, sư 339. Vì vậy, lúc này hơn bao giờ hết bộ đội ta vẫn nâng cao tinh thần cảnh giác, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
Và các trận đánh vô cùng khốc liệt và khó khăn nhất vẫn đang ở phía trước với thời gian 21 ngày đêm đã đi vào lịch sử trung đoàn 8(e156) …
Với nhiều người đều nghĩ, chiến tranh sau ngày 7/1/1979 đã không còn nữa, bây giờ người lính tình nguyện chỉ còn đi truy quét tàn quân PP. Tuy nhiên ở đây lại là điều ngược lại, cuộc chiến ác liệt diễn ra hằng ngày, hằng đêm trong thời gian 21 ngày tại núi đất. Với đội hình bố trí của trung đoàn 156 sư đoàn 339 có hình như một tam giác cân với đỉnh của tam giác là tiểu đoàn1 (d1), các đơn vị d2, d3 là 2 cạnh bên của tam giác, các đơn vị trực thuộc trung đoàn và trung đoàn bộ như cạnh đáy của tam giác cân này.Trong đó hầu như các cạnh bên, và đỉnh tam giác cân đều bị địch phản công suốt đêm ngày, lương thực và đạn dược phải tiết kiệm tới mức tối đa, có lúc cơ số đạn AK chỉ còn vài chục viên vì việc tiếp tế của trung đoàn từ cạnh đáy của tam giác cân này rất khó khăn, nhều lúc không thể liên lạc được với phía sau. Thương binh không thể chuyển được, Tại đây đã có lúc quân y phải vận dụng dùng nước trong các trái dừa để truyền cho thương binh.
7h sáng ngày 13/2, Ban chỉ huy tiểu đoàn 3 họp mở rộng tới các đồng chí chính trị viên. Tôi được mời tham dự và truyền đạt một số nội dung chỉ đạo của Ban chỉ huy trung đoàn mà trước khi đi anh Út Đậu đã giao nhiệm vụ cho tôi:
Ngay trong gầm nhà sàn của người dân CPC, khoảng hơn chục cán bộ chủ chốt lắng nghe nhiệm vụ do đồng chí Miên (chính trị viên tiểu đoàn) phổ biến thực hiện tốt quy định của Chính phủ về việc thu chiến lợi phẩm:
Chính sách quy định rõ, các đơn vị tham chiến được thu lượm tất cả các phương tiện thuộc lĩnh vực quân sự như vũ khí, đạn dược, xe cộ… Để bổ sung và tự trang bị cho đơn vị mình phục vụ trực tiếp cho chiến đấu. Riêng các tài sản quý hiếm như kim cương, vàng bạc… thì có trách nhiệm thu lượm sau đó giao nộp về trên để chuyển giao cho chính quyền bạn kiến tạo lại đất nước CPC, lúc này đã được hình thành ở Trung Ương và cấp tỉnh.
Cuộc họp kết thúc các đồng chí chính trị viên đã trở về nhanh chóng triển khai cho đơn vị mình và ngay chiều hôm đó, tổ chính trị của tiểu đoàn đã nhận được hơn 10 lạng vàng (đủ các loại: nhẫn, lắc, dây chuyền..) từ các nơi gửi về. Buồn cười và ấn tượng nhất có một đồng chí lính trinh sát của tiểu đoàn (không nhớ tên), tự mang một nửa chiếc lắc nặng khoảng 5 chỉ vàng đến giao nộp, tôi và đ/c Miên cũng có mặt tại đó, tôi mới dạm hỏi:
- Khúc vàng này đồng chí nhặt được ở đâu?
- Dạ, em tháo trên tay của một thằng lính Pôn Pốt bị chết ạ!
Chẳng cần suy nghĩ, tôi liền nói với đồng chí trinh sát:
- Đây mới là một nửa cái lắc, còn một nửa cái nữa đồng chí còn giấu đúng không?
Hình như cậu ta giác ngộ ngay được việc mình làm nên nheo nheo đôi mắt cười rồi trả lời:
- Để em về lấy giao nộp nốt ạ!
Đồng chí chiến sĩ trinh sát đi rồi, tôi ngồi lại suy nghĩ mông lung: Cái công việc mà chúng tôi đang làm cũng chỉ là bất đắc dĩ…”Thực hiện chính sách và kỷ luật của quân đội mà!” Trong lúc bộ đội ta vẫn còn đối mặt giữa cái sống, cái chết với quân thù bất kỳ lúc nào… Mà thực ra chúng tôi cũng đâu có ép buộc chiến sĩ của mình phải thật thà đến mức như vậy đâu cơ chứ…!
Ngày 14/2/1979, tình hình chiến sự quanh khu vực này vẫn còn yên ổn, sau khi đã ăn bữa cơm sáng do anh nuôi nấu từ đêm, đồng chí Toán (tiểu đoàn trưởng) cùng đ/c Thái (chính trị viên phó tiểu đoàn) xuống thăm và kiểm tra trận địa chốt của các đại đội bộ binh. Đ/c Miên, đồng chí sáu Niên (tiểu đoàn phó)cùng tôi ở lại BCH tiểu đoàn. Khoảng 10h cùng ngày, đ/c Toán, Thái đã trở về BCH báo cáo tóm tắt tình hình ở phía trước: Bộ đội ta đã củng cố công sự rất chu đáo và đang ở tư thế sẵn sàng chiến đấu. Toán còn hớn hở báo lại với chúng tôi “Trước khi về đây, Toán đã ghé trung đội trinh sát và phạt cho lính trinh sát một trận…” Chẳng hiểu tay tiểu đoàn trưởng này phạt bộ đội về cái tội gì, tôi liền ngoắc cậu liên lạc đi cùng với đ/c Toán và được cậu ta kể lại:
- Sau khi đã đi kiểm tra trận địa của các đại đội bộ binh, trên đường về đây, thủ trưởng Toán, Thái ghé nơi đóng quân của trung đội trinh sát và bắt gặp lính trinh sát đang cạo lông một con heo. Chắc không phải là của lính Pôn Pốt, thủ trưởng giận quá, tập hợp cả trung đội trinh sát lại khoảng hơn 20 người, đứng thành 2 hàng dọc. Lấy một khúc gỗ, để con heo lên trước mặt 2 hàng quân, yêu cầu đồng chí trung đội trưởng + trung đội phó đứng trước 2 hàng quân “kính cẩn” xá con heo 3 xá (con heo cạo lông vẫn còn đang dang dở) và xin thề từ nay trở đi không dám tái phạm nữa. Sau đó lần lượt hơn 20 lính trinh sát đều phải xá con heo rồi xin thề… Thi thể con heo được mang đi an táng vào một lỗ sâu khoảng 40 phân gần đó, cách chỗ chúng tôi đang ngồi độ 200m.
Nghe cậu liên lạc thuật lại… Chúng tôi không thể nhịn được cười… Đ/c Thái(chính trị viên phó tiểu đoàn) cũng đồng ý với cách xử lý như vậy… nheo nheo mắt. Riêng đồng chí Toán thì khuôn mặt vẫn rất hình sự: “Mình phải nghiêm khắc với đám lính vi phạm 9 điều quy định chứ…”. Sau khi đồng chí Toán và đ/c Thái đi tắm, tôi trao đổi với đồng chí Miên rồi ngoắc đồng chí liên lạc của Ban chỉ huy tiểu đoàn đến căn dặn “Em trở lại nói với đồng chí trung đội trưởng trinh sát: “chuyện đã lỡ rồi, cho nhà bếp đào mộ con heo lên làm thịt để bồi dưỡng cho bộ đội”.
Cậu liên lạc đi mới mấy phút đã quay trở lại thông tin: “Báo cáo các thủ trưởng, khi em xuống tới thì nhà bếp trinh sát đã xẻ thịt xong con heo rồi ạ!” Chúng tôi cùng cười.
24 giờ, ngày 14/2, bọn Pôn Pốt bất ngờ dùng một lực lượng lớn tập kích đánh vào đội hình D3. Quả như dự đoán … Các đồng chí thông tin viên được phân công thay nhau túc trực 24/24 để nhận những công điện của các đại đội bộ binh báo về. Cũng phải nói thêm là cái đám lính Pôn Pốt này chúng rất thiện chiến về đêm. Ban ngày chúng chỉ cho một vài tốp nhỏ phục kích, thăm dò lực lượng, hoặc trà trộn vào dân nắm tin tức, khi màn đêm buông xuống là chúng bước vào hành động…
1 giờ sáng ngày 15/2/1979, tiếng súng ngoài trận địa rền vang, địch dùng cối 61, cối 82, DKZ75 bắn phá dữ dội, có quả chỉ nổ cách hầm chúng tôi chưa tới 300m. Trận địa cối 82 của tiểu đoàn cũng được lệnh khai hỏa chi viện cho bộ binh. Ở các chốt phía trước, bộ đội ta vẫn đang nổ súng giằng co với quân địch. Sau 30 phút cối ta khai hỏa, có lẽ đã bắn trúng trận địa cối pháo của địch, nên pháo binh địch đã giảm cường độ bắn phá. Tiếng đạn nhọn ngoài trận địa vẫn tiếp tục nổ thỉnh thoảng mới nghe tiếng súng B40 hoặc tiếng lựu đạn…
Tại hầm ban chỉ huy tiểu đoàn đ/c Toán trực tiếp cầm tổ hợp ra mệnh lệnh cho các đại đội bộ binh đang ở phía trước. Giọng nói ồm ồm, nhát gừng nhưng trong đó ẩn chứa tinh thần của người chỉ huy quyết giữ vững trận địa. Các bộ phận phía sau của tiểu đoàn bộ cũng được lệnh sẵn sàng chiến đấu.
Khoảng 5 giờ sáng ngày 15/2, đã có các công điện từ ngoài trận địa báo về: Trận địa đã được giữ vững, địch đã rút quân, bộ đội ta có thương vong nhưng không đáng kể (1 hi sinh và 3 bị thương), BCH tiểu đoàn tiếp tục lệnh cho các đại đội nâng cao cảnh giác đề phòng quân địch quay lại tập kích đợt 2.
6h sáng ngày 15/2, đ/c Toán tổng hợp tình hình qua trận đánh, ước tính có vài tiểu đoàn của quân Pôn Pốt tập kích vào trận địa D3 khi chúng rút khỏi trận địa đã bỏ lại khoảng 50 xác chết, ta thu nhiều vũ khí bộ binh có cả B40, B41 và súng phóng lựu….Tôi yêu cầu đ/c Miên báo cáo nhanh bằng điện thoại về Sở chỉ huy trung đoàn. Anh Út Đậu đang chờ máy ở đầu dây bên kia.
Lúc 9 giờ cùng ngày, tôi được BCH tiểu đoàn 3, cử 2 chiến sĩ đi hộ tống đưa tôi về Sở chỉ huy trung đoàn.
4h sáng ngày 17/2/1979, anh Thiệp đánh thức tôi dậy, cả cơ quan chính trị cũng bừng tỉnh và bồn chồn nghe bản tin thời sự được phát trên đài tiếng nói Việt nam. Chúng tôi thật đau lòng khi nghe tin lúc 0h, chỉ cách đây mấy tiếng đồng hồ, quân Trung Quốc đã đồng loạt tiến công vào 6 tỉnh phía bắc của ta. Và từ đó chiếc đài Panasonic đưa từ Việt Nam sang, được tôi luôn mang theo bên mình để cập nhật thông tin từ mặt trận phía Bắc. Những bức điện từ bộ chỉ huy chiến dịch và bộ chỉ huy sư đoàn thông qua đài 15w cũng được liên tục chuyển xuống. Chúng tôi nhận định chắc chắn sẽ có những đơn vị được điều ra phía Bắc để bảo vệ thủ đô Hà Nội và ai cũng mong muốn trong đó có đơn vị mình.
Khoảng 8h, ngày 17/2, anh Út Đậu, mời anh Thiệp, anh Ba Nhu và tôi đến Sở chỉ huy trung đoàn, anh nói tóm tắt nội dung bức điện của quân ủy trung ương và bộ chính trị: “Chiến tranh biên giới phía Bắc nổ ra, đây là ý đồ của Trung Quốc muốn căng kéo quân chủ lực của ta hòng cứu nguy cho quân Pôn Pốt. Các đơn vị ở chiến trường CPC cứ yên tâm hoàn thành nhiệm vụ của mình đã được giao, mặt trận phía Bắc sẽ có Trung Ương…”
Ngay sau đó tôi được giao nhiệm vụ viết một bài “giống như tài liệu học tập trong tình hình mới” rồi gửi xuống các tiểu đoàn bộ binh và các C trực thuộc quán triệt để bộ đội yên tâm chiến đấu.
12 giờ cùng ngày, điện từ BCH các tiểu đoàn bộ binh báo về, địch đã mở nhiều đợt tấn công vào trận địa ta. Tiếng súng nổ rất dữ dội và rất gần, nhiều đạn cối 82 và DKZ75 của quân Pôn Pốt nổ chỉ còn cách Sở chỉ huy trung đoàn dộ 500 m.
16 giờ, ban chính trị được lệnh cử người đi nhận thêm vũ khí, cả ban được cấp thêm 2 thùng đạn nhọn, và được đổi 3 khẩu k59 mới toanh. Anh Thiệp 1 khẩu, anh ba Nhu 1 khẩu, tôi cũng có tiêu chuẩn nhưng tôi không chịu vì tôi biết thừa: giữ K59 nó chỉ được cái “oai”và nhẹ, nhưng khi chiến đấu thì nó kém xa súng K54, với lại lúc này đạn K59 hiếm lắm… vậy là khẩu K54 được trang bị từ lúc ở trung đoàn 207 tiếp tục theo tôi đi suốt cuộc chiến… Kiểm tra lại số vũ khí mới nhận từ quân giới về trong đó có 3 thùng lựu đạn (loại cán gỗ), lựu đạn này của Trung Quốc trang bị cho lính Pôn Pốt, khi chúng tháo chạy “tặng” lại cho ta, tôi liền “đớp” ngay 8 quả cho vào 2 bao xe, mỗi bao 4 quả đeo vào người. Các đ/c sỹ quan khác cũng đều yêu cầu được trang bị thêm vũ khí. Ngay sau đó chúng tôi củng cố lại công sự, cả trung đoàn bộ đều hối hả, khẩn trương chuẩn bị chiến đấu.
Chiến sự vẫn liên tiếp xảy ra qua các ngày 18, 19, 20, 21… Có lẽ quân Trung Quốc mở mặt trận phía Bắc đã tiếp thêm tinh thần cho bọn Pôn Pốt. Trên thông báo, Tà Mốc một tên lãnh đạo ác ôn của Pôn Pốt, đã tập hợp được mấy sư đoàn của quân khu Tây Nam, trở lại phản công hầu hết ở Tà Keo, Kom Pong Sư Pư, bước đầu đã gây cho ta nhiều thiệt hại. Hướng trung đoàn 156 đảm nhiệm cũng không ngày nào được yên ổn, chúng thường xuyên pháo kích và cho xung lực đánh vào các trận địa chốt của ta kể cả ngày lẫn đêm và cả trung đoàn bộ cũng không ngoại lệ.
8 giờ sáng ngày 22/2, bất ngờ một loạt đạn DKZ75 và cối 82 nổ rất gần và một quả đạn DKZ đã rơi trúng Sở chỉ huy trung đoàn. Anh Tám Tính trúng ngay một mảnh đạn vào đầu máu chảy lênh láng. Anh được băng bó và chuyển sang đội phẫu thuật trung đoàn, sau này được chuyển về Phnom Pênh rồi đưa về Việt Nam điều trị, vết thương khỏi lại trở lại chiến trường chiến đấu.
Anh Nguyễn Trung Tính, thường gọi là Tám Tính quê ở Kiên Giang là bộ đội kháng chiến chống Mỹ (cùng đơn vị với Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng) được điều về làm trung đoàn phó 156 khi thành lập sư đoàn 339. Sau này được bổ nhiệm làm sư đoàn phó. Rút quân về nước anh được điều về làm tỉnh đội trưởng tỉnh Minh Hải, hiện đã nghỉ hưu và đang sinh sống tại quê nhà!
Những ngày tiếp theo, các tiểu đoàn bộ binh và các đơn vị trực thuộc vẫn liên tục chiến đấu để ngăn chặn những đợt phản kích liều lĩnh của địch. Tại cơ quan trung đoàn bộ, tinh thần sẵn sàng chiến đấu của bộ dội được nâng lên đến mức cao độ hơn bất cứ lúc nào. Chúng tôi xác định đối với một địa bàn quá rộng, mà chỉ có 3 tiểu đoàn án ngữ vòng ngoài thì cơ quan trung đoàn bộ và sở chỉ huy Trung Đoàn sẽ trở thành “điểm hẹn” của quân Pôn pốt bất cứ lúc nào, bộ đội ta kể cả sỹ quan được thay nhau canh gác đêm ngày nhất là về đêm.
Không thể cứ phòng thủ một chỗ giữ đất, mặc cho quân địch hoành hành. Bộ chỉ huy chiến dịch quyết định mở chiến dịch truy quét đánh sâu vào căn cứ chiến lược của địch là nơi đồn trú quân khu Tây Nam quân Pôn Pốt ở chân núi Tượng Lăng. Chiến dịch này được giao cho sư đoàn 339 làm mũi chủ yếu. Đây là một vùng rừng núi liên hoàn giáp ranh tỉnh Tà Keo, Kom Pông Sư Pư, Kô Kong.
Ngày 28/2/1979, 3 tiểu đoàn bộ binh được lệnh hành quân phát triển về hướng đã qui định… Trung đoàn bộ tiếp tục bám gót rút ra khỏi núi đất sau 21 ngày đêm với bao vất vả, gian truân, nhiều lúc cái chết chỉ ở cận kề trong gang tấc.
Xuất phát từ lúc 6 giờ sáng, đúng 14 giờ trung đoàn bộ đã dừng chân tại một vạt rừng thưa gần cơ quan sư đoàn bộ. Một điều bất ngờ là tôi đã gặp đồng chí Phan Xuân Thi tại đây sau một thời gian xa cách… Niềm vui không thể nói hết bằng lời. Hai chúng tôi ôm lấy nhau… Phan Xuân Thi kể cho tôi nhiều câu chuyện về trung đoàn 207 sau khi tôi rời khỏi trung đoàn. Cuối cùng Thi được điều về công tác tại phòng tuyên huấn quân khu 9, sau đó lại tăng cường cho chiến trường CPC và được bổ sung về phòng chính trị sư đoàn. Cùng đợt này có anh Hồ Minh Sanh, An Xuân Triển… Vậy là từ nay, lính trung đoàn 207 đã có gần chục sỹ quan tại sư đoàn 339 tiếp tục kề vai sát cánh bên nhau chiến đấu trên chiến trường CPC với nhiều trận đánh vô cùng khốc liệt…
(Vì nhiều lý do, tác giả đã không đăng. Nên bài viết tạm dừng ở đây)
Hồi Ký Chiến Trường Hồi Ký Chiến Trường - Hồi Ký Chiến Trường