Chương 84
ài ngày kế tiếp trôi qua trong tình trạng mê mụ. Tess dành thời gian buổi sáng ở bên Reilly trước khi ra ngoài đi dạo, rồi trở về vào giờ ăn trưa. Đến cuối chiều, nàng lại thang thang bên ngoài, thường là đến khu tàn tích của lâu đài, nơi Tess có thể nhìn ngắm mặt trời chìm dần vào sóng nước lung linh của biển Egé. Tess yêu thích khoảng thời gian này trong ngày nhất. Ngồi ở đó, trầm ngâm suy tư trong tĩnh lặng, cùng với hương ngải đắng và hoa cúc dại thoang thoảng từ lưng chừng đồi, Tess cảm thấy khung cảnh hoang dã giữa những tảng đá vô tri vô giác phần nào mang lại cho nàng chút bình tâm, một khoảnh khắc nhẹ lòng ngắn ngủi quên đi cái gói nhỏ trong phòng, vốn lúc nào cũng ám ảnh tâm trí nàng.
Trong những lần đi dạo, Tess gặp rất nhiều người dân địa phương, họ luôn mỉm cười và lúc nào cũng có thời gian để trò tuyện cùng nàng. Đến ngày thứ ba, nàng đã thông thạo hầu hết các đường ngang lối dọc của thị trấn và bắt đầu lang thang xa hơn. Lần theo những âm thanh của đồng nội như tiếng lừa kêu, tiếng chuông của những con dê, Tess sục sạo khắp các xó xỉnh bị che giấu của hòn đảo. Sau một quãng đi bộ thật xa, nàng đến hòn đảo nhỏ San Emilianos, ở đó Tess thơ thẩn giữa các biểu tượng trong ngôi nhà thờ quét vôi trắng và lang thang dọc theo bờ biển đầy đá cuội, cô đơn ngắm nhìn những con nhím biển đang xếp những viên đá dọc theo mép nước. Tess cũng đến thăm tu viện ở Panormitis, ở đấy nàng ngạc nhiên khi gặp ba doanh nhân người Athens khoảng trên bốn mươi đang ở trong những phòng khách trống trải; họ thổ lộ với Tess là họ ở đây vài ngày để nghỉ ngơi, suy tưởng, và làm cái mà họ gọi là “làm mới lại bản thân”. Trên thực tế, hầu như không thể thoát khỏi sự hiện diện của Giáo hội trên hòn đảo này. Nhà thờ là điểm tập trung của các ngôi làng, và giống như tất cả những hòn đảo của Hy Lạp, Symi có hàng chục nhà thờ rải rác gần như khắp các đỉnh núi. Dù ở bất cứ nơi đâu, luôn luôn có cái gì đó nhắc nhở đến ảnh hưởng của Giáo hội ở trong tầm mắt, tuy nhiên điều kỳ lại là Tess không có cảm giác ngột ngạt. Ngược lại là khác. Dường như đó là một phần nội tại hữu cơ gắn liền với cuộc sống của hòn đảo, một khối nam châm kéo các cư dân trên đảo gần gũi với nhau hơn, ban tặng cho họ sức mạnh và nguồn an ủi trong cuộc sống.
Tình trạng sức khỏe của Reilly đang không ngừng cải thiện. Hơi thở của anh đã bớt nặng nhọc, môi và vùng quanh mắt cũng bớt sưng, màu xanh tái cũng biến mất trên hai má. Bây giờ Reilly đã đi được quanh nhà, và sáng hôm đó anh đã nói là họ không thể lẩn tránh thế giới mãi được. Lúc này, Reilly đã đủ sức, anh cần thu xếp cho sự trở lại của họ. Ra khỏi nhà với cảm giác như thế giới nặng trĩu trên vai, Tess biết rằng mình sẽ sớm phải đối mặt với vấn đề và thảo luận với Reilly về điều nàng đã phát hiện.
Tess đã dành thời gian còn lại của buổi sáng để trở lại bãi biển Marathounda, lấy và mang chiếc tráp đựng cuốn kinh về, và giờ đang trên đường trở về nhà ông bác sĩ thì bất ngờ gặp hai phụ nữ đã mang quần áo và thức ăn đến cho nàng. Cả hai vừa mới ra khỏi nhà thờ và rõ ràng rất vui mừng khi gặp lại Tess. Họ nói với nàng là đã được nghe kể về sự hồi phục của Reilly và nồng nhiệt ôm lấy Tess, họ vừa khoa chân múa tay vừa gật đầu biểu lộ sự vui mừng chân thành. Hai anh chồng cũng ở đó. Hai người đàn ông bắt tay nàng, mặt rạng rỡ vẻ đồng cảm như đã trút được nỗi lo lắng, rồi cả bốn người vừa lướt đi, vừa ngoái lại tươi cười vẫy tay chào. Tess đứng đó, nhìn theo, miên man suy nghĩ.
Và chính lúc ấy, nó đã đến. Cái ý thức kêu gào trong sâu thẳm tâm can nàng từ bao ngày qua, cái cảm giác lẫn lộn đã vượt qua những bản năng của hoài nghi, nhưng nàng vẫn đang phủ nhận nó. Cho đến tận bây giờ.
Mình không thể hành động như vậy với họ được.
Không thể với họ, không thể với hàng triệu người khác như họ. Cái ý nghĩ đã ngày đêm giày vò tâm trí nàng, từ lúc tìm được bản kinh viết tay. Những con người mà nàng đã gặp trong vài ngày qua, tất cả những con người đã trao tặng cho nàng không khác gì ngoài lòng tốt và sự hào hiệp. Họ là như vậy. Tất cả họ, và vô số những người khác nữa trên thế giới này.
Hành động này có thể làm tan vỡ cuộc sống của họ.
Ý nghĩ đó bỗng làm Tess cảm thấy đau nhói trong lòng. Nàng nghĩ, nếu Giáo hội có thể khơi gợi con người sống như thế kia, dâng hiến thế nọ, nhất là trong thời buổi hiện nay, trong thời đại này, chắc hẳn Giáo hội đang làm một điều đúng đắn. Giáo hội xứng đáng được duy trì. Có gì là nghiêm trọng nếu Giáo hội được xây dựng dựa trên một câu chuyện thêm mắm giặm muối? Tess băn khoăn tự hỏi liệu còn có thể sáng tạo ra điều gì đó với khả năng khơi gợi phi thường như vậy, mà không đi lạc khỏi những giới hạn khắt khe của thế giới thực hay không?
Nàng đứng đó, dõi mắt theo hai cặp vợ chồng bước đi và hòa vào cuộc sống của họ, Tess không tin mình có thể suy tính đến bất kỳ một lựa chọn nào khác.
Tess biết mình không thể làm việc đó.
Nhưng nàng cũng biết là không thể né tránh việc thổ lộ với Reilly lâu hơn nữa.
Chiều hôm đó, sau khi tránh mặt anh hầu như suốt buổi chiều, Tess dẫn Reilly đến khu phế tích lâu đài. Nàng cầm tay anh trong bàn tay đẫm mồ hôi, tay kia kẹp chặt một gói nhỏ được quấn trong chiếc áo len. Mặt trời gần như đã lặn, bầu trời chỉ còn le lói một ít ánh mờ mờ màu hồng, níu kéo những tia nắng cuối cùng trong ngày.
Tess đặt gói áo len lên một bức tường đã sụp đổ một phần và quay sang Reilly. Nàng cảm thấy khó khăn khi nhìn vào mắt anh, miệng nàng khô khốc.
“Em…” Đột nhiên, Tess cảm thấy nh hẳn sự tự tin. Điều gì sẽ xảy ra nếu nàng cứ che giấu, lờ nó đi, và chẳng bao giờ đề cập chuyện đó với Reilly nữa. Sẽ tốt hơn chăng nếu Reilly không hay biết gì, nhất là sau chuyện đã xảy ra với cha anh? Phải chăng sẽ tốt hơn cho anh nếu nàng không bao giờ nói ra sự thật là mình đã tìm được, đã thấy, đã chạm tay vào nó?
Không. Tuy rất muốn làm như vậy nhưng Tess biết hành động đó sẽ là một sai lầm. Nàng không muốn phải giả dối với Reilly lần nữa. Suốt cả đời, nàng đã làm đủ mọi điều tệ hại rồi. Trong thâm tâm, Tess vẫn hy vọng là, bất chấp mọi điều đã xảy ra, nàng và Reilly sẽ có một tương lai gắn bó cùng nhau, và Tess cũng biết rằng nàng và Reilly sẽ không thể nào trở nên thân thiết với nhau hơn khi vẫn còn một điều dối trá to lớn như vậy chưa được nói ra giữa hai người.
Tess chợt nhận ra sự im lặng nặng nề bao trùm xung quanh. Tiếng chim sẻ cũng ngưng bặt như muốn hòa vào sự tĩnh lặng. Nàng trấn tĩnh và cố thử lại lần nữa. “Mấy ngày nay, em muốn nói với anh một chuyện, em thật sự rất muốn, nhưng lại phải chờ cho anh khỏe lại.”
Reilly ngập ngừng nhìn Tess, Tess biết vẻ lo lắng đang hiện rõ trên mặt mình. “Chuyện gì vậy?”
Tess có cảm giác gan ruột quặn thắt lại và chỉ nói gọn lỏn, “Em cần cho anh xem cái này.” Rồi nàng quay lại, mở những lớp áo len, bày ra bản kinh chép tay giấu trong đó.
Thoáng ngạc nhiên hiện lên trên mặt Reilly, anh đưa mắt nhìn Tess vẻ dò hỏi. Sau khoảnh khắc mà Tess tưởng chừng như dài vô tận, Reilly hỏi, “Em tìm thấy nó ở đây vậy?”
Tess không thể trả lời ngay dù cảm thấy nhẹ lòng vì rút cuộc đã trút được tâm tư nặng trĩu trong lòng, “Con chim ưng bị cuốn trôi dạt lên một bãi biển, cách nơi người ta tìm thấy chúng ta một hai cái vịnh. Những chiếc áo phao nâng vẫn còn dính với nó.”
Reilly quan sát tấm bìa da và thận trọng cầm cuốn kinh lên, liếc nhìn vào một trang bên trong. “Lạ thật. Trông nó có vẻ… đơn sơ quá.” Anh quay qua Tess. “Ngôn ngữ. Em đọc được không?”
“Không. Em chỉ có thể nói đó là tiếng Xyri.”
“Anh cũng đoán chừng là như vậy, chỉ có thể là thứ ngôn ngữ đó thôi.”
Nàng bối rối gật đầu. “Đúng vậy.”
Reilly lơ đãng nhìn tấm bìa sách cũ kỹ, tâm trí miên man suy nghĩ, ánh mắt rà soát từng chỗ trên tấm bìa. “Vậy em nghĩ gì? Nó là thật chứ?”
“Em không biết. Trông nó dứt khoát là sách thật rồi, nhưng không thể kết luận thực sự khi không gửi đến phòng thí nghiệm – có nhiều thí nghiệm cần phải thực hiện: xác định niên đại bằng phương pháp các bon, phân tích thành phần cấu tạo của giấy và mực, kiểm tra tự dạng…” Tess dừng lại, hít một hơi dài đầy vẻ lo lắng. “Sean, ở đây, vấn đề là thế này. Em không nghĩ là chúng mình nên gửi nó đến phòng thí nghiệm. Em không nghĩ chúng ta nên để ai đó làm thử nghiệm này nọ với nó.”
Reilly nghiêng đầu, sửng sốt. “Ý em là?”
“Em nghĩ là chúng ta nên quên là chúng ta đã tìm thấy cuốn kinh,” Tess tuyên bố, giọng dứt khoát. “Chúng ta nên đốt cuốn sách quái quỷ này đi và chỉ…”
“… và chỉ cái gì?” Reilly vặc lại. “Cư xử như nó chưa từng tồn tại chứ gì? Chúng ta không thể làm chuyện đó. Nếu nó không phải là cuốn kinh thật, nếu nó là thứ đồ giả mạo của các Hiệp sĩ Đền Thánh, hoặc chỉ là một trò lừa thì chẳng có gì phải lo lắng. Nếu nó là thật, vậy thì sau đó…” anh cau mày, bỏ lửng câu nói.
“Thì không ai nên biết đến nó,” Tess nhấn mạnh. “Lạy Chúa, ước gì em không kể chuyện này với anh.”
Reilly nhìn nàng, vẻ bối rối. “Anh có quên điều gì ở đây không nhỉ? Vậy chuyện gì đã xảy ra với cái quan điểm ‘mọi người xứng đáng được biết’ vậy?”
“Em đã sai. Em không còn cho đó là điều quan trọng nữa.” Tess buông một tiếng thở dài nặng nề. “Anh biết đấy, theo những gì em còn nhớ thì từ trước tới nay em chỉ thấy những điều sai trái của Giáo hội. Lịch sử đẫm máu, lòng tham, những giáo điều hủ lậu, tính không khoan dung, những vụ tai tiếng vì lạm dụng… Bao nhiêu thứ đó đã làm Giáo hội trở thành một trò hề. Em vẫn nghĩ mà không một chút hoài nghi là có vô số những điều quái quỷ mà rõ ràng Giáo hội cần phải chấn chỉnh. Thế nhưng, không có gì là hoàn hảo, đúng không? Nếu anh nhìn vào những gì Giáo hội thực hiện được, khi anh nghĩ đến tình thương, lòng trắc ẩn và sự độ lượng mà nó khơi gợi lên… Đó chính là nơi phép màu đích thực ngự trị.”
Tiếng vỗ tay chậm rãi nhịp nhàng đột ngột vang lên xung quanh khu phế tích hoang vắng, Tess giật mình.
Quay về nơi phát ra tiếng vỗ tay, nàng thấy Vance bước ra từ phía sau một bức tường đá. Hắn vẫn tiếp tục vỗ tay, mỗi tiếng vỗ tách biệt dứt khoát với tiếng vỗ kế tiếp, mắt hắn dán chặt vào nàng, miệng ngoác ra một nụ cười nhăn nhở đáng sợ.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa