Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 79
hách sạn ở Les Bains rất tự hào về căn phòng khách có trầncao vút, được trang bị lò sưởi của mình, và tay quản lý khách sạn đã cho đốtlửa lò sưởi và nhất quyết đóng cửa phòng khách không cho những vị khách khácvào. "Chuyến đi đến tu viện đã làm các bạn mệt mỏi," ông ta chỉ nói vậy khi đặtchai rượu cô nhắc gần bên cha, kèm ly - năm chiếc, tôi chú ý, tựa như người bạnvắng mặt của chúng tôi vẫn hiện diện ở đấy để cùng uống vậy - nhưng tôi nhận ratừ ánh mắt mà cha trao đổi với ông ấy rằng họ trao đổi nhiều hơn thế.
Suốt buổi chiều viên quản lý khách sạn đã gọi điện liên tụcvà bằng cách nào đó đã dàn xếp ổn thỏa với cảnh sát, bọn họ chỉ thẩm vấn chúngtôi tại khách sạn rồi để chúng tôi tự do ngay trước ánh mắt hiền từ của ông ấy.Tôi nghĩ ông ấy cũng đã lo liệu việc gọi một nhà xác hoặc một nhà đòn, bất kỳnơi nào người ta hay gọi đến ở một làng quê Pháp. Bây giờ, khi mọi viên chứcđều đã ra về, tôi ngồi với Helen trên chiếc trường kỹ thô kệch bọc lụa Đa- mát,cứ vài phút là mẹ lại đưa tay vuốt tóc tôi, còn tôi chỉ cố không hình dung rahình hài cứng ngắc và gương mặt nhân từ của thầy James đang nằm im lìm dưới tấmvải phủ. Cha ngồi trên một ghế bành gần bên lò sưởi và đăm đăm nhìn mẹ, nhìnchúng tôi. Barley gác đôi chân dài ngoẵng lên chiếc ghế dài bọc đệm và đang cốgắng, tôi nghĩ, đừng nhìn chăm chăm vào chai rượu cô nhắc cho đến khi cha nhưchợt tỉnh lại và rót cho chúng tôi mỗi người một ly. Đôi mắt Barley đỏ lên vìkhóc thầm, nhưng có vẻ anh muốn được yên tĩnh một mình. Khi ngắm nhìn anh, bấtgiác mắt tôi cũng ứa đầy nước mắt.
Cha nhìn sang Barley, và trong một thoáng tôi đã nghĩ chắchẳn cha cũng sắp khóc. "Ông ấy rất can đảm," cha nói, giọng từ tốn. "Anh nênbiết chính sự tấn công của ông ấy đã tạo cơ hội cho Helen có thể bắn được nhưvậy. Cô ấy không thể bắn chính xác vào tim hắn nếu như tên quái vật đó không bịlàm cho mất tập trung. Tôi nghĩ thầy James, trong những khoảnh khắc sau cùng kiacũng nhận ra sự khác biệt do mình tạo ra. Và ông ấy đã trả được thù cho ngườiông thương yêu nhất - cũng như cho nhiều người khác." Barley gật đầu nhưng vẫnchưa thể nói gì, một khoảng lặng ngắn ngủi giữa chúng tôi.
"Em đã hứa sẽ nói hết mọi chuyện khi chúng ta có thể ngồiyên ổn với nhau," cuối cùng Helen cũng đặt ly rượu của mình xuống và lên tiếng.
"Cô chú chắc là không muốn cháu để gia đình cô chú ở lại vớinhau chứ?" Barley hỏi, vẻ miễn cưỡng.
Helen bật cười, tôi ngạc nhiên vì âm điệu tiếng cười của mẹ,khác hẳn với giọng nói của bà. Ngay trong gian phòng này, nơi gần như đong đầykhổ đau, tiếng cười ấy dường như vẫn không hề lạc điệu. "Hẳn rồi, cháu yêu ạ,"mẹ nói với Barley. "Chúng ta không thể nói chuyện mà không có cháu." Tôi thíchgiọng nói tiếng Anh của mẹ, nghe hơi lơ lớ nhưng ngọt ngào, một giọng nói tôinghĩ mình đã quen thuộc từ lâu đến nỗi không nhớ nổi từ lúc nào. Mẹ cao ráo,thanh mảnh, trong chiếc đầm màu đen lỗi mốt, một vòng tóc đã ngả bạc vấn gọnquanh đầu. Gương mặt bà thật ấn tượng - mệt mỏi, hằn vết năm tháng, chỉ còn đôimắt vẫn trẻ trung. Lần nào quay lại thấy mẹ tôi cũng xúc động vô bờ - không chỉvì mẹ đang ở đó, bằng xương bằng thịt, mà còn vì tôi chỉ luôn mường tượng hìnhảnh một Helen tươi trẻ. Trong tưởng tượng của mình, tôi chưa bao giờ tính đếnnhững năm tháng mẹ xa cách chúng tôi.
"Kể lại sẽ lâu, rất lâu đấy," mẹ nhẹ nhàng nói, "nhưng bâygiờ, ít nhất tôi có thể nói một vài điều. Trước tiên, anh Paul, em muốn nói lờixin lỗi, vì em đã gây ra nỗi đau khổ nhường vậy cho anh, em biết." Qua ánh lửa,ánh mắt mẹ nhìn cha tha thiết. Barley cựa quậy, vẻ lúng túng, nhưng mẹ đã trấnan anh bằng một cử chỉ cương quyết. "Em cũng gây ra cho chính mình một nỗi khổđau không kém. Thứ hai, em nên nói với anh từ lâu rồi, nhưng bây giờ, có con gáicủa chúng ta" - nụ cười của mẹ ngọt ngào cùng những giọt nước mắt long lanhtrong mắt - "con gái chúng ta và những người bạn của chúng ta làm chứng, em mớinói: Em vẫn còn sống, không phải là ma cà rồng. Hắn chưa bao giờ chạm được vàoem lần thứ ba."
Tôi muốn nhìn cha, nhưng thậm chí không thể xoay nổi cáiđầu. Đó là khoảnh khắc riêng tư của cha. Dù vậy, tôi vẫn nghe tiếng cha khẽ nứcnở.
Mẹ dừng lại, có vẻ như để lấy hơi. "Anh Paul, khi chúng tathăm tu viện Thánh Matthieu và em biết được về tục lệ của họ - chuyện cha tuviện trưởng sống dậy sau khi chết và Sư huynh Kiril phải canh chừng ông ta - emđã tràn đầy tuyệt vọng, nhưng cũng nổi cơn hiếu kỳ kinh khủng. Em cảm thấy việcmình muốn đến thăm nơi này, khát khao được tới đó, không chỉ là sự trùng hợp.Trước khi chúng ta đi Pháp, em đã nghiên cứu thêm ở New York - mà không cho anhbiết, anh Paul ạ - với hy vọng tìm thấy địa điểm bí mật thứ hai của Dracula vàtrả thù cho cái chết của cha em. Nhưng em đã không tìm thấy bất cứ chi tiết nàovề tu viện Thánh Matthieu. Nỗi khao khát muốn đến đó của em chỉ bắt đầu sau khiđọc về nó trong cuốn cẩm nang hướng dẫn của anh. Chỉ là sự khao khát, không dựatrên cơ sở khoa học nào."
Mẹ nhìn quanh chúng tôi một lượt, gương mặt xinh đẹp nhìnnghiêng trông ủ rũ. "Em lại tiếp tục nghiên cứu ở New York vì cảm thấy mình lànguyên nhân gây nên cái chết của cha em - chỉ vì cái ước vọng muốn vượt trộihơn ông ấy, muốn lật tẩy sự phản bội của ông ấy với mẹ em - và em đã không thểchịu đựng nổi ý nghĩ đó. Rồi sau đó em bắt đầu cảm thấy đó là do dòng máu ácđộc của em - dòng dõi Dracula - đã khiến em hành động như vậy, và em nhận rarằng mình đã truyền dòng máu đó cho con mình, ngay cả khi có vẻ như em đã hồiphục sau khi bị ma cà rồng cắn."
Mẹ dừng lại vuốt lên má tôi, ấp tay tôi trong tay mẹ. Tôirun lên khi mẹ chạm vào mình, run lên bởi sự gần gũi với người phụ nữ kỳ lạnhưng thân thiết đang tựa vai vào tôi trên chiếc trường kỷ này. "Càng lúc emcàng cảm thấy mình không xứng đáng, và đến khi nghe lời giải thích của Sư huynhKiril về truyền thuyết tại tu viện Thánh Matthieu, em cảm thấy mình không thểbình yên cho đến khi biết được nhiều hơn nữa. Em tin là nếu tìm được Dracula vàhủy diệt được hắn, em có thể lành mạnh hoàn toàn, trở thành một người mẹ tốt,một con người với một cuộc sống mới.
"Anh Paul, sau khi anh ngủ say, em đã ra ngoài khu hànhlang. Em nghĩ đến việc trở xuống khu hầm mộ kia với khẩu súng của mình, cố mởcỗ quan tài đó ra, nhưng em nghĩ mình không thể làm việc đó một mình. Trong khiphân vân không biết có nên đánh thức anh dậy xin anh giúp một tay hay không, emngồi trên chiếc ghế băng dài nhìn qua vách đá. Em biết mình không nên ở đó mộtmình, nhưng em cứ bị lôi kéo đến chỗ đó. Ánh trăng rất đẹp và sương mù đã trườnlên dọc theo vách núi."
Đôi mắt Helen bỗng mở to một cách kỳ lạ. "Khi ngồi đó, emcảm thấy gai ốc nổi trên lưng mình, tựa như có một cái gì đó đứng ngay saulưng. Em quay phắt lại, và bên kia dãy hành lang, nơi ánh trăng không chiếuđến, em dường như thấy một bóng người đen kịt. Mặt hắn chìm trong bóng tối,nhưng em có thể cảm thấy, hơn là nhìn thấy, ánh mắt dữ dội như đang chụp lênngười em. Đó chỉ là việc xảy ra chỉ một khoảnh khắc trước khi hắn xòe cánh ravà bay đến bên em, mà em thì hoàn toàn đơn độc bên cái lan can đó. Đột nhiên,dường như em nghe có giọng nói, những lời thống khổ trong chính đầu óc em bảorằng em không bao giờ có thể đánh bại được Dracula, rằng đây là thế giới củahắn, không phải của em. Chúng bảo em rằng hãy nhảy xuống trong khi vẫn còn đượclà chính mình, vậy là em đứng dậy như một người đang mơ và nhảy xuống."
Lúc này mẹ đã ngồi rất thẳng, nhìn vào ngọn lửa, cha đưa tayche mặt. "Em muốn để mình rơi tự do xuống, như Lucifer, như một thiên thần,nhưng em không ngờ đến những tảng đá kia. Em đã rơi vào chúng, đầu và tay chânbị trầy xước, nhưng ở đó cũng có một thảm cỏ nên cú rơi đã không làm em mấtmạng hoặc gãy mất cái xương nào. Một vài giờ sau, em nghĩ vậy, em đã tỉnh dậygiữa trời đêm lạnh giá, và cảm thấy máu đang rỉ ra khắp mặt khắp cổ, thấy trênđầu mình mảnh trăng đang lặng lờ đứng yên còn bên dưới là vách đá dựng đứng.Lạy Chúa, nếu em mà lăn xuống thay vì ngất đi thì..." Mẹ bỏ dở câu nói. "Embiết em không thể giải thích với anh những gì em cố thực hiện, và nỗi xấu hổ vìviệc mình làm đã choán lấy em gần như một cơn điên. Sau sự việc đó, em cảm thấymình không bao giờ có thể xứng đáng với anh, với con gái chúng ta. Khi có thểgượng dậy, em đứng lên và nhận thấy mình đã không chảy máu quá nhiều. Dù vậy,em thấy rất đau nhức, em không bị gãy vỡ bất kỳ bộ phận nào và có thể thấy hắnđã không nhào xuống vồ lấy em - chắc hẳn khi em nhảy xuống hắn đã từ bỏ em vìmất dấu. Em thấy mình yếu kinh khủng và đi lại rất khó khăn, nhưng trong bóngtối em đã lần mò quanh những bức tường tu viện rồi xuống được con đường."
Tôi nghĩ có thể cha sẽ lại rơi nước mắt, nhưng cha vẫn trầmlặng, ánh mắt chưa bao giờ rời khỏi đôi mắt mẹ.
"Em đã trở về với thế giới. Đó không phải là một việc khókhăn. Em đã mang theo cái xách tay của mình - một thói quen, em nghĩ vậy, chỉbởi vì trong đó có khẩu súng và những viên đạn bạc. Em nhớ mình đã suýt bậtcười khi nhận ra chiếc xách tay vẫn còn trên tay, trên vách đá cheo leo đó. Emcũng cất tiền trong đó, rất nhiều tiền trong lớp vải lót, và em đã sử dụng sốtiền đó rất thận trọng. Mẹ em bao giờ cũng mang theo bên mình tất cả tiền bạccủa bà. Em nghĩ đó là thói quen của những người nông dân trong làng bà ở. Bàchẳng bao giờ tin tưởng ngân hàng. Mãi sau này, khi cần nhiều hơn, em mới rútmột số từ tài khoản của chúng ta và chuyển sang một ngân hàng Thụy Sĩ. Sau đó,em đã rời Thụy Sĩ ngay để phòng anh sẽ cố lần ra dấu vết của em, anh Paul, hãytha thứ cho em." Mẹ bất chợt khóc òa, siết chặt các ngón tay tôi, và tôi biếtmẹ có ý muốn nói đến sự trốn chạy của mình chứ không phải là số tiền kia.
Cha đan hai bàn tay vào nhau. "Lần rút tiền đó đã khiến anhhy vọng vài tháng, hay ít nhất cũng đặt một dấu hỏi trong đầu, nhưng ngân hàngđã không thể lần ra dấu vết. Anh đã được nhận lại đúng số tiền ấy." Nhưng vẫnkhông thể tìm ra em, cha đã không nói dù hẳn cha có thể nói thêm như vậy. Mặtcha bừng lên, vừa mệt mỏi vừa hạnh phúc.
Mẹ nhắm mắt. "Dù thế nào chăng nữa, em đã tìm được một chỗđể trú ngụ vài ngày, cách xa Les Bains, cho đến khi những vết thương lành lại.Em đã giấu mình cho đến lúc có thể trở lại với thế giới."
Những ngón tay mẹ vô tình đưa lên cổ và tôi nhận ra vết sẹonhỏ màu trắng mình đã nhiều lần để ý. "Từ trong thâm tâm em biết Dracula vẫnchưa quên em, và có thể hắn lại đang lùng sục. Em bỏ tỏi đầy túi và cố giữ vữngtinh thần. Em mang kè kè theo người súng, dao găm, thánh giá. Đi đâu em cũngdừng chân ở nhà thờ để xin được ban phước lành, mặc dù đôi khi bước vào cửa nhàthờ thôi cũng đã khiến vết thương cũ ở cổ em giần giật. Bao giờ em cũng thậntrọng che kín cổ lại. Sau cùng, em đã cắt ngắn và nhuộm tóc, thay đổi trangphục, đeo kính râm. Một thời gian dài, em đã trú tại những nơi cách xa thànhphố, và dần dần bắt đầu đến những trung tâm lưu trữ tư liệu, em vẫn luôn muốnnghiên cứu ở những nơi đó.
"Em rất tỉ mỉ. Em đã phát hiện hắn ở khắp nơi mình đến - ởRome vào thập niên 1620, ở Florence dưới thời Medici 1, ở Madrid, ở Parissuốt thời kỳ Cách mạng. Đôi khi là bản báo cáo về một bệnh dịch quái lạ, thỉnhthoảng là một cuộc bùng phát hiện tượng ma cà rồng hút máu trong một nghĩatrang lớn - như tại nghĩa trang Cha Lachaise chẳng hạn. Có vẻ như bao giờ hắncũng ưa chuộng các học giả chuyên về tôn giáo, các chuyên viên lưu trữ văn thư,quản thủ thư viện, các nhà sử học - bất kỳ ai nghiên cứu, đụng chạm đến quá khứqua sách vở. Em đã cố suy luận địa điểm hầm mộ mới của hắn từ những hoạt độngcủa hắn, nơi hắn đã giấu mình sau khi chúng ta khui mở hầm mộ của hắn ở SvetiGeorgi, nhưng em đã không phát hiện được bất kỳ quy luật nào. Em nghĩ khi đãtiêu diệt được hắn, em sẽ quay về mà nói với anh là thế giới đã trở nên an toànbiết bao. Em sẽ giành lại anh. Em đã sống trong nỗi sợ hãi là hắn sẽ tìm thấyem trước khi em có thể phát hiện ra hắn. Và đi đến bất kỳ nơi đâu em cũng nhớđến anh - ôi, em đã cô đơn biết bao."
Mẹ lại cầm lấy và vuốt ve tay tôi như một người xem bói, vàtôi chợt cảm thấy, dù không muốn, trào dâng một cơn giận dỗi - về tất cả nhữngtháng năm thiếu vắng mẹ. "Cuối cùng, em nghĩ cho dù em không xứng đáng, em vẫnmuốn được trông thấy anh một chốc lát. Cả anh và con. Paul ạ, em đã đọc trênbáo về quỹ tài trợ của anh và biết anh ở Amsterdam. Cũng chẳng khó khăn gì đểtìm thấy anh, hoặc ngồi trong một quán cà phê gần văn phòng anh, hoặc dõi theoanh trong một hai chuyến đi - rất cẩn thận - rất, rất thận trọng. Em không baogiờ để mình phải mặt đối mặt hoặc với anh hoặc với con, vì sợ anh và con sẽnhận ra em. Em chỉ đến rồi đi. Nếu việc nghiên cứu êm trôi, em lại cho phépmình về thăm Amsterdam và từ đó dõi theo anh. Rồi một ngày kia - ở Ý, tạiMonteperduto - em nhìn thấy hắn trên quảng trường. Hắn cũng đang theo dõi, dòmchừng anh. Đó là lúc em nhận ra hắn đã đủ mạnh để thỉnh thoảng xuất hiện giữaánh sáng ban ngày. Em biết anh đang gặp nguy hiểm, nhưng em nghĩ nếu em đến gặpvà cảnh báo với anh, có thể em sẽ mang mối nguy hiểm kia đến gần hơn. Xét cho cùng,có thể hắn đang lùng sục em chứ không phải anh, hoặc có thể hắn đang cố gắnglần ra em qua anh. Thực là một sự khổ tâm. Em biết chắc hẳn anh lại đang tiếnhành nghiên cứu một cái gì đó - chắc hẳn anh lại đang quan tâm đến hắn, Paul ạ- để lôi kéo sự chú ý của hắn. Em không biết phải quyết định thế nào."
"Đó là do con - lỗi của con," tôi thì thầm, siết chặt bàntay bình dị và hằn vết nhăn của mẹ. "Con tìm thấy cuốn sách đó."
Mẹ nhìn xuống tôi giây lát, đầu nghiêng sang bên. "Con lànhà sử học," một lát sau mẹ thốt lên. Đó không phải là một câu hỏi. Rồi mẹ thởdài. "Trong vài năm, mẹ viết bưu thiếp cho con, con gái ạ - mà không gửi, tấtnhiên là vậy. Một ngày nọ, mẹ bỗng nghĩ mẹ có thể liên lạc với cha và con từxa, để con và cha biết mẹ còn sống mà không để bất kỳ ai khác nhìn thấy mẹ. Mẹđã gửi các tấm bưu thiếp về Amsterdam, đến nhà của cha và con, trong một bưukiện đề tên cha."
Lần này tôi quay sang cha với vẻ ngạc nhiên pha lẫn giậndỗi. Cha nói với tôi, giọng buồn rầu. "Cha cảm thấy chưa thể đưa chúng cho con,không thể làm con xáo động mà lại không thể tìm ra mẹ cho con. Con có thể hìnhdung đối với cha thời kỳ ấy tồi tệ thế nào." Tôi chợt nhớ lại vẻ mệt mỏi khủngkhiếp của cha ở Athens, buổi tối mà tôi nhìn thấy cha vật vờ gần như đã chếttrong phòng làm việc. Nhưng giờ cha đang cười với chúng tôi, tôi nhận ra giờđây có lẽ cha sẽ mỉm cười hàng này.
"Ra vậy," mẹ cũng mỉm cười. Tôi nhìn thấy có những nếp nhănhằn sâu quanh miệng mẹ, những vết chân chim đầy ở khóe mắt.
"Và anh bắt đầu tìm kiếm em - cả hắn nữa." Nụ cười của chabỗng trở nên nghiêm trang.
Mẹ nhìn cha đăm đăm. "Và rồi em nhận ra là em phải dừng việcnghiên cứu lại để chỉ chuyên tâm theo dõi hắn trong khi hắn đang theo dõi anh.Em đã thấy anh vài lần, đã thấy anh lại lao vào nghiên cứu - đã thấy anh vàorồi ra các thư viện, em ước gì có thể nói hết với anh những gì chính em đãbiết. Rồi sau đó anh đến Oxford. Trong quá trình nghiên cứu của mình em chưatừng đến Oxford, dù đã đọc và biết là ở đấy đã có một đợt bùng phát nạn ma càrồng hút máu vào thời Trung cổ. Và ở Oxford anh đã để mở một cuốn sách..."
"Cha đã gấp sách lại khi nhìn thấy con kia mà," tôi ngắt lờimẹ.
"Và cháu nữa," Barley lên tiếng với nụ cười tươi rói. Đếnlúc đó anh mới chịu góp lời, tôi cảm thấy nhẹ người khi trông anh vẫn còn cóthể vui vẻ.
"Chà, lần đầu tiên xem cuốn sách kia, cha đã quên gấp nólại." Mẹ gần như nháy mắt với chúng tôi.
"Em nói đúng," cha tiếp lời. "Ừ, nghĩ lại thì đúng là anh đãquên thật."
Mẹ quay sang cha cùng với nụ cười thật dễ thương. "Anh cóbiết trước đó em chưa bao giờ nhìn thấy cuốn sách đó không? Cuốn Ma cà rồngthời Trung cổ phải không?"
"Một tác phẩm kinh điển," cha trả lời. "Nhưng lại là mộtcuốn sách rất hiếm."
"Cháu nghĩ thầy James hẳn cũng đã xem cuốn đó," Barley chậmrãi xen vào. "Cô chú biết đấy, cháu thấy thầy ấy ở đó sau khi bất ngờ nhìn thấychú đang đọc cuốn sách." Cha có vẻ như vẫn chưa hiểu. "Vâng," Barley tiếp tục."Cháu đã bỏ quên áo mưa ở sảnh chính thư viện và khoảng gần một tiếng sau mớitrở lại lấy. Và cháu đã nhìn thấy thầy James bước ra khỏi hốc tường trên bancông đó, nhưng thầy ấy không nhìn thấy cháu. Cháu nghĩ thầy trông có vẻ cực kỳlo lắng, giống như đang phải chịu một nỗi thống khổ và quẫn trí nào đó. Cháunhớ đến điều đó và đã quyết định gọi cho thầy ấy."
"Anh gọi cho thầy James?" Tôi ngạc nhiên, nhưng ngay lập tứccảm thấy tức giận. "Lúc nào? Tại sao anh làm vậy?"
"Anh đã gọi cho thầy ấy tại Paris bởi chợt nhớ lại mộtchuyện," Barley trả lời gọn bâng, duỗi thẳng cặp giò. Tôi chợt muốn nhào qua ômchoàng quanh cổ anh, nhưng đó là lúc không có cha mẹ kia. Barley cũng nhìn tôi."Trên tàu hỏa, anh đã nói với em là anh đang cố nhớ lại một chuyện, một chuyệnliên quan đến thầy James, và khi đến Paris thì anh nhớ ra. Có lần, anh đã nhìnthấy trên bàn làm việc của thầy James một lá thư, trong lúc ông ấy loại bỏ bớtmột số giấy tờ - thực ra là một bì thư, anh thích con tem trên bì thư đó nên đãnhìn kỹ hơn một chút.
"Lá thư gửi từ Thổ Nhĩ Kỳ, trông rất cũ kỹ - chi tiết đókhiến anh nhìn đến con tem - chậc, dấu bưu điện cả hai mươi năm trước, ngườigửi là một ông giáo sư Bora nào đó, và anh thầm nghĩ một ngày nào đó mình cũngsẽ có một cái bàn làm việc bự như vậy và nhận thư từ khắp nơi trên thế giới.Cái tên Bora cứ ám ảnh anh, thậm chí đến bây giờ - nó nghe có vẻ kỳ cục làm saoấy. Dĩ nhiên, anh đâu có mở và đọc lá thư đó," Barley vội nói thêm. "Anh chẳngbao giờ làm vậy."
"Dĩ nhiên là không rồi." Cha hừ mũi, nhưng tôi nghĩ mắt chađang ngời lên vẻ trìu mến.
"Vâng. Khi xuống tàu ở Paris, anh đã nhìn thấy một ông lãotrên sân ga, một người Hồi giáo, anh đoán vậy, đội một chiếc mũ màu đỏ sậm cómột quả núm tua dài, mặc áo thụng dài, giống như một ông tổng trấn Ottoman, vàanh chợt nhớ đến lá thư đó. Rồi anh lại chợt nhớ đến câu chuyện của cha em - embiết đấy, cái tên của ông giáo sư Thổ Nhĩ Kỳ" - anh nhìn tôi với ánh mắt ảm đạm- "và đã đến buồng điện thoại. Anh nhận ra là theo một cách nào đó, thầy Jamesvẫn còn đang theo đuổi cuộc săn lùng này."
"Thế lúc đó em ở đâu?" tôi hỏi, không giấu nổi sự ganh tị.
"Trong phòng tắm, chắc thế. Các cô gái bao giờ chẳng ở trongphòng tắm." Có thể lúc đó anh cũng muốn gửi cho tôi một nụ hôn gió, nhưng phảikhông có mặt người khác kia. "Qua điện thoại, thầy James có vẻ rất sôi nổi vớianh, nhưng lúc anh kể những chuyện đang xảy ra thì thầy ấy bảo thầy sẽ nhớ ơnanh mãi mãi." Đôi môi đỏ thắm của Barley khẽ run run. "Anh đã không dám hỏithầy có ý muốn nói gì, nhưng giờ thì anh đã biết vì sao."
"Phải, chúng ta đã biết," cha buồn rầu lặp lại. "Chắc hẳnông ấy cũng tính toán từ cuốn sách cổ kia, và luận ra được đã mười sáu năm kểtừ tuần lễ Dracula thăm viếng tu viện Thánh Matthieu lần sau cùng. Sau đó, chắchẳn ông ấy nhận ra ta đang đi đâu. Thực ra có thể khi lên cái hốc tường chứasách quý hiếm đó, ông ấy chỉ có ý xem ta có ổn không - ở Oxford đã nhiều lầnông ấy theo bên ta, yêu cầu ta cho ông biết ta có gặp rắc rối gì không, tỏ ralo lắng cho sức khỏe và tinh thần của ta. Ta không muốn lôi kéo ông ấy vàochuyện này, vì đã biết nguy hiểm như thế nào."
Mẹ gật đầu. "Phải đấy. Em nghĩ chắc hẳn em đã có mặt ở đóngay trước khi ông ấy đến. Em tìm thấy cuốn sách để mở và tự tính toán lấy, rồinghe thấy có ai đó trên cầu thang nên đã lẻn ra theo hướng khác. Paul ạ, nhưngười bạn của chúng ta, em hiểu ra rằng anh sẽ đến tu viện Thánh Matthieu để cốtìm em và con quỷ kia, nên đã lập tức đi theo càng nhanh càng tốt. Nhưng emkhông biết anh đi chuyến tàu nào, và đương nhiên em cũng không ngờ rằng con gáicủa chúng ta cũng cố đi theo anh."
"Con đã nhìn thấy mẹ," tôi sững sờ thốt lên. Mẹ nhìn tôichằm chằm, và chúng tôi để mặc giây phút đó trôi qua trong im lặng. Sẽ có nhiềuthời gian hơn để trò chuyện. Tôi có thể nhận thấy mẹ đã mệt, tất cả chúng tôiđều đã mệt nhừ tận xương cốt, thậm chí trong buổi tối này chúng tôi còn chưathể nói được với nhau chiến thắng này có ý nghĩa ra sao. Liệu thế giới đã bìnhyên hơn bởi chúng tôi đã đoàn tụ bên nhau, hay bởi vì cuối cùng hắn đã biếnkhỏi trái đất này? Tôi nhìn vào một tương lai mà trước đây mình chưa bao giờbiết tới. Mẹ Helen sẽ sống với chúng tôi, sẽ là người thổi tắt nến trong phòngăn. Mẹ sẽ đến dự lễ tốt nghiệp trung học và ngày đầu tiên học đại học của tôi,sẽ giúp tôi mặc áo cưới trong ngày hôn lễ, nếu tôi lấy chồng. Sau bữa cơm tối,mẹ sẽ đọc truyện cho chúng tôi nghe trong căn phòng tiền sảnh, sẽ hòa nhập lạivới thế giới và sẽ đi dạy học lại, mẹ sẽ dẫn tôi mua sắm giày và quần áo, sẽquàng lấy hông tôi và cùng bước đi.
Khi ấy tôi đã không thể nào biết được rồi đây đôi lúc mẹ sẽphiêu du khỏi chúng tôi, không nói gì hàng tiếng đồng hồ, mân mê ngón tay lêncổ, và một cơn bạo bệnh sẽ mang mẹ ra đi mãi mãi chín năm sau đó - quá sớm, khichúng tôi còn chưa kịp quen với sự trở lại của mẹ, dù có thể chúng tôi sẽ chẳngbao giờ quen thuộc sự trở lại ấy, chẳng bao giờ thấy chán sự có mặt muộn màngcủa mẹ. Tôi đã không thể thấy trước rằng món quà cuối cùng dành cho chúng tôilà biết chắc được mẹ đã an nghỉ, trong khi chuyện có thể xảy ra theo hướngkhác, và rằng sự chắc chắn ấy sẽ khiến tâm can chúng tôi vừa tan nát vừa nguôingoai. Nếu như tôi đoán trước được chút nào trong tất cả những điều này, có thểtôi đã biết rằng cha sẽ biến mất nguyên cả ngày hôm sau tang lễ của mẹ, cùngvới lưỡi dao găm nhỏ vẫn để trong chiếc tủ ở phòng khách, và rằng tôi sẽ khôngbao giờ, không bao giờ hỏi cha về việc đó.
Nhưng bên cạnh cái lò sưởi ở thị trấn Les Bains kia, nhữngnăm tháng mà chúng tôi sẽ sống với mẹ vẫn đang trải dài phía trước trong niềmhạnh phúc vô tận. Những năm tháng đó chỉ bắt đầu vài phút sau đó khi cha đứngdậy hôn từ giã tôi, nồng nhiệt bắt tay Barley tuy chỉ là cái bắt tay ngắn ngủi,và đỡ mẹ đứng lên khỏi trường kỷ. "Đi nào," cha nói, mẹ dựa vào cha, câu chuyệncủa mẹ giờ đã qua, gương mặt mẹ vừa mệt mỏi vừa tươi vui. Cha nắm lấy tay mẹ."Đi ngủ thôi."
Chú thích
1 Tên đầy đủ Cosimo I dé Medici (1519 - 1574), Đệ nhất Côngtước xứ Tuscany, trở thành lãnh chúa cai trị vùng Florence và Tuscany bằng mộtchính sách tàn bạo, chuyên quyền độc đoán.
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula