Chương 75
rong buồng lái như đang chực vỡ òa vì vui sướng. Rassoulis, Vance và Tess nhìn chằm chằm ra bên ngoài, càng lúc càng lo ngại vì các cơn bão ở trước mặt đang tiến lại. Gió đã lên đến ba mươi hải lý, con sóng cồn quanh chiếc Savarona đã biến thành những con sóng vỡ, mặt biển sôi sùng sục hợp cùng những đám mây đen kịt trở thành một mối đe dọa đáng sợ đối với họ.
Phía dưới đài chỉ huy, chiếc ROV được một cái cần cẩu nhỏ hạ xuống boong giữa. Attal và hai thủy thủ đứng ở đó, họ có vẻ như không màng đến thời tiết khi đợi buộc chặt chiếc ROV vào boong tàu.
Tess gạt mớ tóc gió thổi che lấp gương mặt. “Không phải chúng ta nên quay về sao?” nàng hỏi Rassoulis.
Vance nhảy vào ngay, nói một cách quả quyết. “Bậy bạ nào. Thời tiết đâu có tệ hại lắm đâu. Tôi chắc rằng chúng ta còn đủ thời gian để đưa chiếc ROV xuống khảo sát thêm lần nữa,” anh ta quay qua Rassoulis, cười vẻ quyết đoán, “anh không đồng ý à?”
Tess nhìn viên thuyền trưởng trong khi ông ta quan sát bầu trời tím bầm, giận dữ chực chờ đổ ập xuống đầu họ. Ở hướng Nam, những tia chớp xé rách màn mây, thậm chí ngay từ khoảng cách này họ đã nhìn thấy những màn mưa đang quét khắp mặt biển. “Tôi không thích việc này lắm. Một cơn bão thì chúng ta còn đối phó được, nhưng hai… Chúng ta có thể thoát khỏi chúng nếu rời khỏi đây ngay bây giờ.” Ông ta quay qua Vance. “Đừng lo. Những cơn bão ở ngoài này không kéo dài quá lâu đâu, vả lại thiết bị định vị GPS của chúng ta chính xác đến từng mét một. Chúng ta sẽ quay lại khi cơn bão qua đi, có thể chỉ sáng mai thôi.”
Vance nhăn nhó với chính mình. “Tôi thực sự chẳng muốn rời khỏi nơi đây với hai bàn tay không,” anh ta nói tiếp với vẻ bình thản. “Phải lấy được cái gì đó, như cái hình chạm chim ưng chẳng hạn. Chắc chắn là chúng ta có đủ thời gian để lấy lại nó trước khi rời khỏi nơi đây, đúng không nào?” Rassoulis nhíu mày lo lắng, rõ ràng ông ta chẳng thích thú cái ý tưởng kia chút nào. “Tôi chỉ ngại rằng cơn bão sẽ kéo dài hơn anh dự kiến,” Vance tiếp tục nài ép, “và lúc đó, cái hợp đồng đã kí kết kia của anh thì sao, có thể phải mất cả mấy tháng chúng ta mới quay trở lại được và ai mà biết chuyện quái quỷ gì xảy ra trong thời gian đó.”
Rassoulis cau mày nhìn những cơn bão tụ lại, rõ ràng viên thuyền trưởng đang cân nhắc xem chiếc Savarona có thể chịu đựng nổi không khi neo lại hiện trường chiếc tàu đắm.
“Tôi sẽ đền công anh xứng đáng,” Vance nhấn mạnh. “Anh hãy mang con chim ưng lên và tôi xong việc ở đây. Anh có thể lấy hết những thứ còn lại ở dưới đó.”
Rassoulis nhướn hàng lông mày, vẻ ngạc nhiên. “Đó là tất cả những gì anh muốn? C chim ưng?” Viên thuyền trưởng ngưng lại, nhìn Vance với vẻ soi mói. Tess nhìn ông ta và có cảm giác như đang tham dự vào một ván bài nguy hiểm. “Tại sao?”
Vance nhún vai, và rồi vẻ mặt anh ta trở nên xa cách. “Chỉ là chuyện cá nhân. Hãy xem việc đó như là chuyện đã… kết thúc.” Ánh mắt Vance đanh lại, nhìn thẳng vào Rassoulis. “Chúng ta đang lãng phí thời gian. Tôi chắc chắn là nếu nhanh lên chúng ta sẽ làm được việc đó. Và sau đó, tất cả là của anh.”
Tay thuyền trưởng dường như chỉ mất vài giây để cân nhắc những chọn lựa của mình, ông ta gật đầu và bước đi, hét to ra lệnh cho Attal và các thủy thủ khác.
Vance quay sang Tess, vẻ mặt bồn chồn căng thẳng. “Gần tới nơi rồi,” anh ta thì thầm. “Chúng ta gần tới nơi rồi.”
“Còn bao xa nữa?” de Angelis gào to về phía tay thuyền trưởng.
Reilly có thể cảm nhận âm thanh bị dội lại trong đài chỉ huy chiếc Karadeniz rất chát chúa, chát chúa nhiều hơn bình thường. Đã hơn một giờ đồng hồ, họ cắt xéo qua những con sóng đang đập dồn dập vào mạn phải và thân chiếc tàu tuần tra, càng lúc càng ác liệt hơn. Giữa những tiếng gió rú rít, tiếng động cơ gầm rú cùng với tiếng sóng biển, họ phải gào to lên mới nghe được nhau.
“Chưa đến hai mươi hải lý.” Karakas trả lời.
“Thế còn chiếc trực thăng?”
Viên thuyền trưởng hỏi tay kỹ thuật viên rađa rồi lại hét to lên. “Thời điểm tiếp xúc ước lượng chưa tới năm phút nữa.”
De Angelis phì phò thở ra, sôi lên vì nôn nóng. “Cái đồ chết tiệt mày không chạy nhanh hơn được sao?”
“Không phải trong vùng biển này.” Karakas trả lời cộc lốc.
Reilly bước gần hơn đến chỗ viên thuyền trưởng. “Thời tiết sẽ xấu như thế nào khi chúng ta đến chỗ họ?”
Karakas lắc đầu, mặt đanh lại. Ông ta không hét to câu trả lời nhưng dù sao Reilly vẫn nghe được.
“Có Chúa mới biết,” viên thuyền trưởng nhún vai.
Tess chăm chú nhìn những ngón tay của Attal khéo léo điều khiển cánh tay máy của chiếc Dori sợi dây đai cuối cùng vào cái hình chạm chim ưng. Bất chấp những điều kiện khó khăn, thủy thủ đoàn đã làm việc rất nhanh và chính xác theo kiểu nhà binh, trang bị cho chiếc ROV những thiết bị cần thiết trước khi thả nó lại cái mặt biển đang sôi sục kia. Attal như biểu diễn ảo thuật với chiếc cần gạt của mình khi điều khiển chiếc ROV lặn xuống và định vị chiếc lưới thu hồi với mức độ hiệu quả đáng kinh ngạc. Tất cả việc còn lại là phải kéo nó lên, sử dụng hệ thống điều khiển từ xa kích hoạt bơm căng cùng lúc ba cái túi nặng, và trông chừng để cái hình chạm nhẹ nhàng nổi lên trên mặt nước.
Attal gật đầu ra hiệu sẵn sàng. “Chúng ta có thể đưa nó lên được rồi, nhưng…” Anh ta nhún vai một cái đặc sệt kiểu Pháp, liếc mắt về phía kính chắn gió đang đưa mình chịu đựng những cơn gió gầm rít.
Rassoulis cau mày, nhìn chăm chăm vào vũng nước xoáy cuồn cuộn xung quanh. “Tôi biết. Việc đưa nó lên boong khi nó nổi lên chẳng dễ dàng lắm đâu.” Viên thuyền trưởng quay qua Vance, vẻ mặt rất cương quyết. “Chúng tôi không thể đưa chiếc Zodiac xuống trong tình trạng biển cả như thế này, tôi cũng không muốn mạo hiểm đưa thợ lặn xuống bây giờ, thu hồi lại chiếc ROV cũng là việc khó khăn rồi, nhưng ít ra nó còn cơ động và có cáp kết nối.” Viên thuyền trưởng ngừng lại, dường như để đánh giá những điều kiện đang xấu đi nhanh chóng trước khi quyết định. “Hôm nay chúng ta không thể đưa nó lên được. Chúng ta sẽ để những cái phao ở lại dưới đó và quay lại khi bão tan.”
Vance tỏ vẻ ngờ vực. “Chúng ta phải đưa nó lên ngay bây giờ,” anh ta gằn giọng. “Có thể chúng ta không còn cơ hội khác đâu.”
“Anh nói cái gì vậy?” Rassoulis vặc lại. “Chẳng ai ra đến đây để đánh cắp nó khỏi tay chúng ta trong cái thời tiết như thế này. Chúng ta sẽ quay lại ngay khi thời tiết cho phép.”
“Không!” Vance hét to một cách giận dữ. “Chúng ta phải đưa nó lên ngay bây giờ!”.
Rassoulis ngã ngửa ra sau, ngạc nhiên vì giọng nói giận dữ của Vance. “Nghe này, tôi sẽ không hy sinh mạng sống của bất kỳ ai vì việc này. Chúng ta sẽ trở về, và chỉ vậy thôi.” Ông ta nhìn xoáy vào Vance bằng ánh mắt sắc lạnh trước khi quay qua Attal. “Đưa Dori lên càng nhanh càng tốt,” viên thuyền trưởng quát lên. Nhưng trước khi kịp đưa ra những mệnh lệnh khác, có cái gì đó làm Rassoulis chú ý. Đó là âm thanh đùng đục quen thuộc của cánh quạt trực thăng. Tess cũng nghe thấy nó, và qua cái quắc mắt cau có của Vance, rõ ràng anh cũng thế.
Họ khoác vội áo gió và bước ra khoảng boong nhỏ hẹp bên ngoài đài chỉ huy. Gió đã biến thành cuồng phong, những màn mưa quét theo từng cơn gió giật. Tess dùng tay che mắt, nhìn lên bầu trời quay cuồng bên trên, và nhanh chóng phát hiện ra chiếc trực thăng
“Kia kìa.” Tess gào lên và chỉ tay vào chiếc trực thăng.
Nó đang lượn là là sát mặt nước, hướng thẳng về phía họ. Chỉ trong vài giây, chiếc trực thăng đã ở phía trên đầu họ trước khi lao vụt lên và lượn thêm một vòng. Chiếc trực thăng giảm tốc độ khi đến gần chiếc tàu, rồi treo lơ lửng trong gió, các cánh quạt trực thăng làm đảo điên mặt biển, cuốn lên một cột nước xoáy trên đầu những ngọn sóng ngầu bọt. Tess có thể nhận ra rõ ràng các dấu hiệu của Đội Bảo vệ Bờ biển Thổ Nhĩ Kỳ trên thân máy bay và thấy người phi công đang nói vào chiếc micrô trong khi đảo mắt nhìn xuống chiếc tàu.
Sau đó, anh ta chỉ vào bộ ống nghe điện đài của mình, ra hiệu thúc giục họ bật điện đài lên.
Trên đài chỉ huy chiếc Karadeniz. Reilly nhìn thấy gương mặt de Angelis sáng bùng lên. Báo cáo từ chiếc trực thăng khẳng định cái điểm sáng đó là một tàu lặn. Bất chấp điều kiện thời thiết đang xấu đi một cách trầm trọng, chiếc tàu vẫn ở yên tại chỗ. Viên phi công có thể nhận ra hoạt động trên boong tàu quanh chiếc cần cẩu, cho thấy sắp có việc thu hồi lại một thứ tàu lặn gì đó. Anh ta cũng phát hiện hai người trên boong và những mô tả về họ rõ ràng đã quét sạch mọi nghi ngờ trong đầu vị khâm sứ Tòa Thánh.
“Tôi vừa mới yêu cầu anh ta thiết lập liên lạc với họ bằng điện đài.” Karakas báo với de Angelis. “Ông muốn tôi nói gì với họ?”
De Angelis trả lời không chút do dự. “Nói với chúng là chúng sắp gặp một cơn bão có tầm cỡ như trong Kinh Thánh.” Ông ta trả lời một cách dứt khoát. “Báo với chúng là nên cút khỏi đó ngay nếu chúng muốn sống.”
Reilly quan sát khuôn mặt de Angelis, và nó chỉ càng khẳng định sự đe dọa không thể nào thỏa hiệp mà anh đã đọc thấy trong câu trả lời của ông cha cố. Ông ta đã hạ quyết tâm không để cho họ thoát với những gì mà họ phát hiện bằng bất cứ giá nào. Ông ta lộ rõ sự nhẫn tâm xem thường mạng sống con người của mình khi phải bảo vệ cái bí mật sống còn của Giáo hội. Tất cả mọi người đều có thể là con tốt thí. Ông ta đã không ngần ngại tuyên bố như vậy, lúc còn ở Thổ Nhĩ Kỳ.
Reilly phải can thiệp vào. “Ưu tiên hàng đầu của chúng ta là sự an toàn của họ,” anh lên tiếng phản đối. “Còn có cả một đội thợ lặn ngoài đó.”
“Quan điểm của tôi, chính xác là như vậy.” de Angelis bình thản đáp trả.
“Họ không có nhiều chọn lựa đâu,” Karakas chỉ tay ra ngoàiiên thuyền trưởng quan sát màn hình rađa, nhiều đốm sáng đang chạy ra khỏi khu vực đó. Những cơn bão từ hướng Nam và Bắc đã kẹp họ vào giữa. Họ chỉ có thể hoặc chạy về hướng Đông, ở đó đã có hai tàu tuần tra chờ sẵn để hốt họ, hoặc chạy về hướng Tây và gặp chúng ta. Dù theo đường nào, chúng ta cũng sẽ bắt được họ. Tôi cho rằng họ không có đủ may mắn thoát khỏi chúng ta trong tình huống này.” Nụ cười của Karakas xem ra chẳng có gì là hài hước cả. Reilly chợt nghĩ Karakas có thể thực sự hứng thú với một cuộc săn đuổi như thế này và quả là chẳng báo trước điều gì tốt lành khi kết hợp điều này với cái thiên hướng ưa giết chóc của de Angelis.
Reilly liếc về phía mũi tàu và khẩu đại bác tự động 23 li sừng sững ở đó, trong lòng trào dâng một cảm giác bất an. Anh phải báo động cho Tess và những người đang ở bên nàng về những gì mà họ sắp phải đối phó.
“Để tôi nói chuyện với họ,” Reilly thốt lên.
De Angelis nhìn Reilly, lộ vẻ lúng túng vì yêu cầu của anh.
“Ông muốn tôi giúp kia mà.” Reilly tiếp tục dồn ép. “Họ không biết chúng ta đang ở ngoài này. Càng có thể họ không ý thức đầy đủ về quy mô của cơn bão sắp ập vào họ. Để tôi nói chuyện với họ, thuyết phục họ theo chúng ta vào bờ.”
Karakas trông không có vẻ như là quan tâm lắm đến việc này, tay thuyền trưởng nhìn de Angelis chờ lệnh.
Ông khâm sứ Tòa Thánh đón nhận ánh mắt trừng trừng của Reilly bằng đôi mắt lạnh tanh, đầy toan tính, rồi gật đầu đồng ý. “Đưa micro cho anh ta,” de Angelis ra lệnh.
Tess cảm thấy như tim mình bị bóp nghẹt khi nghe giọng Reilly trên điện đài. Nàng chộp cái micrô từ tay Rassoulis.
“Sean, Tess đây.” Nàng hổn hển, hai bên thái dương giật giật. “Anh đang ở đâu?”
Chiếc trực thăng đã tách ra, bay ngược trở lại rồi nhanh chóng biến mất trong bầu trời tối đen và mưa như trút.
“Bọn anh không ở xa lắm,” giọng Relly lại vang lên. “Anh đang ở trên một tàu tuần tra, cách em mười lăm hải lý về hướng Tây. Bọn anh có hai tàu khác ở hướng Đông. Nghe anh đây Tess. Em cần phải ngưng ngay mọi việc em đang làm và ra khỏi đó ngay. Hai cơn bão sắp va chạm nhau ngay trên đầu em. Em phải chạy về hướng Tây ngay tức khắc, theo hướng,” Reilly ngưng lại, dường như để chờ đợi lấy thông tin, rồi lại nói tiếp, “hai bảy không. Hướng hai, bảy, không. Bọn anh sẽ đón em và hộ tống em về Marmaris.
Tess nhận thấy Rassoulis đang nhìn Vance vẻ như dò hỏi, giờ rõ ràng anh chàng giáo sư đang nổi cáu. Trước khi Tess kịp trả lời Reilly, viên thuyền trưởng lấy lại micrô trên tay nàng. “Đây là George Rassoulis, thuyền trưởng tàu Savarona. Tôi đang tiếp chuyện với ai?”
Kế tiếp là vài âm thanh nhiễu tĩnh điện, rồi giọng của Reilly lại vang lên. “Tôi là Sean Reilly. Tôi là nhân viên FBI.”
Tess thấy vẻ mặt Rassoulis tối sầm lại khi ném về phía tay giáo sư một cái nhìn không tin cậy. Vance chỉ đứng đó, bất động, rồi quay người bước vài bước về phía sau đài chỉ huy.
Vẫn không rời mắt khỏi Vance, viên thuyền trưởng cất tiếng hỏi. “Chuyện quái quỷ gì mà FBI phải cảnh báo một chiếc tàu lặn Hy Lạp về cơn bão ở giữa Địa Trung Hải như thế này?”
Vẫn đứng xoay lưng lại, Vance trả lời. “Họ đến đây là vì tôi,” anh ta nói với vẻ dửng dưng đáng ngạc nhiên. Khi Vance quay lại, Tess thấy anh ta đang cầm khẩu súng ngắm chĩa thẳng vào Rassoulis. “Tôi nghĩ chúng ta đã nghe mấy ông bạn FBI đủ rồi đó.” Nói xong câu đó, anh ta nã hai phát vào điện đài. Tess thét lên khi ánh lửa và những mảnh vụn điện đài văng tung tóe. Âm thanh rè rè phát ra từ những chiếc micrô tắt hẳn.
“Nào,” Vance rít lên, đôi mắt long sòng sọc giận dữ, “tất cả chúng ta quay lại với công việc trước mắt được chưa?”
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa