Trái Tim Hoàng Gia epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 71
enôit, gã trai phụ bếp ở Foy, là một thằng xảo trá, đúng như Alex nói. Nhưng tôi cần gã. Phòng của Orléans đã bị khóa và niêm phong. Có một lối vào qua lối đi dưới tầng hầm và gã canh cái lối đi đó. “Lâu lắm rồi tao không gặp mày. Tưởng mày đi luôn rồi. Hoặc là bị giết. Sao mày lại về đây?” Gã cũng nghĩ tôi là Alex.
Như Fauvel. Chắc trông tôi giống cô. “Tao bỏ quên một thứ. Tao cần lấy lại,” tôi bảo gã. “Trả tiền tao trước,” gã nói. “Không, đưa tao vào phòng của Orléans đã.” “Trả tiền tao trước.” “Nghe đây, tao không có đồng nào. Cho tao vào rồi tao sẽ lấy cho mày một ít.” Benôit đứng đó, gãi cổ.
Gã tìm thấy con gì bò bò trên đó rồi dùng hai ngón tay nghiến nó. “Vậy được rồi.” Gã cầm giỏ khoai tây lên và đưa cho tôi. “Vác lên vai. Như thế này. Để che mặt mày đi. Theo tao và đừng có mở miệng ra.” Gã dẫn tôi vào trong bếp của nhà Foy và đảo vội mắt nhìn quanh. Đầu bếp đang quát tháo một đứa phụ bếp.
Hai gã đang nhào bột. Mấy đứa khác thì gỡ hàu. Băm rau. Nhổ lông gà. “Mày nhanh chân lên được không?” Benôit quát tôi, vờ như tôi là đứa đưa hàng. “Không! Không phải ở đó! Lối này, đồ đầu đất!” Không ai để mắt đến bọn tôi khi gã dẫn tôi tới cuối bếp, rồi rẽ phải và đi xuống cầu thang đá.
Tôi lê bước theo sau gã cho tới khi bọn tôi tới một cái phòng lớn, lạnh, rộng rãi. Trong phòng đầy hoa quả và rau. “Đặt xuống kia,” gã nói, cầm lấy một cái đèn lồng từ trên tường. “Nhanh lên. Tao phải quay lại.” Gã đưa cái đèn cho tôi. “Nếu mày không có tiền khi quay lại thì tao gọi lính đấy.
Báo với bọn nó là tao thấy mày lẻn vào nơi đã được quốc gia niêm phong. Mày bị sẽ bị tống vào tù.” Tôi không nghi ngờ lấy một giây xem gã có nói thật không. Ngay khi tôi tiếp cận gã, ở sân sau nhà Foy, gã hỏi tôi sẽ trả cho gã bao nhiêu. “Một đồng Louis vàng,” gã nói. Tôi hy vọng mình tìm được một đồng.
“Mày có một tiếng. Tao sẽ đợi mày,” gã bảo tôi, biến mất lên cầu thang đá. Tôi bỏ giỏ khoai tây xuống và đi xuống sâu hơn vào trong hầm tối, qua những thùng rượu lớn và các chai bám bụi. Tôi không hề biết mình đang đi đâu. Nhưng tôi không thể nói cho Benôit biết điều đó. Gã nghĩ tôi là Alex và Alex sẽ phải biết đường.
Tôi thấy một cầu thang khác và theo nó xuống một cái hầm rộng hơn và lạnh hơn, nơi có các giỏ đựng đầy táo, lê, cà chua và cà rốt. Tôi đi qua các sọt đựng cá, hàu và trai đặt trên những tảng đá lớn, những giỏ trứng, những con vật đã bị chặt ra. Lại có một cầu thang khác – cái này đi lên.
Ở trên cùng có một cánh cửa. Tôi huých vai mở nó ra, bước qua và nhìn quanh. Có vẻ như tôi đang ở trong nhà kho. Các bức tường bằng đá và có những cái móc trông rất ghê thõng từ trần nhà xuống. Tôi bước sang một nơi chắc hẳn là bếp, chỉ có điều tôi không tin đây lại là bếp vì nó to hơn cả hầu hết nhà của người khác.
Nó có trần nhà bằng đá vòm. Bàn bếp dài cả dặm. Lò nướng to bằng xe ô tô. Chắc hẳn là nó đông đúc ồn ào khi Orléans còn sống, nhưng lúc này nó vắng lặng và trống không. Tiếng bước chân của tôi vang vọng khi tôi đi qua bếp. Một cung điện được thu nhỏ – Alex miêu tả nhà của ông ta như vậy.
Hết phòng này tới phòng khác, tầng này sang tầng khác, mà tôi chỉ có một tiếng để tìm cái mình muốn tìm – tiền, trang sức và đồ nữ trang rẻ tiền mà cô đã ăn cắp. Tôi cần nó bởi vì hôm nay là ngày Fauvel bảo ông ta sẽ gặp lại tôi. Ông sẽ ta mang theo pháo hoa. Và ông ta sẽ không đưa chúng cho tôi nếu tôi không trả tiền cho ông ta.
Tôi không chịu nghe lời khuyên của Amadé – thôi mạo hiểm. Tôi đã mạo hiểm rất nhiều. Tôi bắn nửa số pháo hoa của Fauvel hai đêm trước và nửa số còn lại đêm qua. “Được rồi, Alex… Tôi phải đi đâu? Tôi còn năm mươi lăm phút cho tới khi Benno gọi lính gác và chúng sẽ đánh tôi bầm dập.
Tôi cần gì đó. Tiền mặt. Vàng bạc đá quý. Thứ gì đó. Đi đâu đây?” Dĩ nhiên là không có câu trả lời. Vì thế tôi tiếp tục đi. Qua bếp, lên cầu thang vào phòng ăn. Nơi này hồi xưa chắc đẹp lắm, nhưng giờ thì hết rồi. Bàn bị khoét thủng. Gương thì vỡ. Các bức tranh đều bị rạch nát.
Tôi đi tiếp, hết phòng trống này đến phòng trống khác. Vào rồi ra các hành lang. Nhìn dưới đồ đạc. Trên các bệ lò sưởi. Sau các bức tượng và tranh. Một cái phòng cực lớn, và choáng ngợp đến độ – với những bệ lò sưởi cao vút mạ vàng và các bức vẽ nữ thần trên trần nhà – tôi quyết định đây chắc hẳn là phòng khiêu vũ của Orléans.
Tôi bước qua nó và thấy một cái nơ màu xanh nhạt trên sàn, hoa hồng trên một bệ lò sưởi, một cái đàn cello bị gãy dựng ở một góc. Tôi nheo mắt lại và trong một giây tôi có thể nhìn thấy họ – công tước và giới của ông ta. Tất cả phụ nữ đều mặc váy bằng lụa và đính đăng ten, mặt đánh phấn và môi tô đỏ.
Đàn ông thì đội tóc giả đi tất trắng. Họ khiêu vũ và cười đùa. Ánh nến lung linh lóe lên trên chén rượu bằng pha lê, hoa tai kim cương, nhẫn hồng ngọc. Có những bát hoa hồng. Nước hoa. Kẹo bi. Rồi đột nhiên nhạc dừng lại và cùng một lúc tất cả quay về phía tôi, mắt hấp háy, mặt sáng rực lên.
Và rồi họ mỉm cười. Không phải nụ cười vui vẻ hay hiền lành – mà nụ cười đói khát. Một người cúi đầu với tôi. Tôi mở mắt to ra và họ biến mất và chỉ còn bụi – lớp bụi dày trên bệ lò sưởi, bay lơ lửng dưới ánh sáng của một cái cửa sổ không rèm. Tôi tiếp tục đi, sang một phòng ăn khác – phòng này nhỏ.
Và tôi nhận ra mình biết căn phòng này. Đây chính là nơi Orléans đã đưa Alex tới sau khi cô định ăn cắp cái ví của ông ta. Đây là nơi ông ta cho cô ăn và cho cô uống rượu. Nơi ông ta cắt tóc cô và biến cô thành sở hữu của ông ta. “Cô cần phải giúp tôi,” tôi nói lớn. “Chỗ này lớn quá.
Phải mất đến một tuần mới tìm được mất. Giúp tôi đi.” Và rồi tôi ngửi thấy nó – mùi đinh hương. Rất nồng. Trong một căn phòng trống có cửa chớp. Cô ấy ở đây. Tôi biết cô ở đây. Cô là cái bóng trong gương. Tro tàn trong lò sưởi. Tôi có thể cảm nhận được tinh thần hoạt boát của cô – nhanh nhẹn và vui vẻ – vụt qua tôi.
Tôi theo cô ra khỏi phòng, xuống hành lang, vòng qua góc, lên cầu thang, cho tới khi tôi tới một căn gác xép. Nó xám xịt, rèm đã bợt màu, một cái giường bừa bộn không được dọn, một cái bàn và ghế, và một cái lò sưởi nhỏ. Đây là phòng của cô. Tôi vội bắt tay vào việc ngay. Tôi tìm khắp mọi nơi.
Dưới giường. Sau rèm. Tôi kéo cái nệm mỏng và rạch ra. Tôi quỳ xuống và cố nạy sàn nhà lên. Tôi kiểm tra chỗ lò sưởi xem có viên gạch bị lỏng nào không. Nhưng tôi không tìm thấy gì cả. “Cô để nó ở đâu, Alex?” Câu trả lời duy nhất tôi nhận được là tiếng chim lít rít bên trong ống khói.
Chắc chúng xây tổ trong đó. Có tiếng lạo xạo. Chói tai hơn. Bồ hóng rơi xuống lòng lò sưởi. Và rồi có thứ bay vụt ra từ lò sưởi. Tôi cảm thấy tiếng cánh đạp trên mặt mình, những cái vuốt nhỏ trên tóc mình. Tôi hét lên và xua con chim đi. Nó bay lên trên cao, rồi đậu xuống bệ lò sưởi.
Một con chim sẻ. Một con sẻ nâu. Mắt nó đen và sáng. Tôi có thể thấy trái tim nhỏ xíu của nó đang đập trong lồng ngực. Nó kêu lên một tiếng. Rồi một tiếng khác. “Này. Bình tĩnh đi,” tôi bảo nó. Cử động thật chậm để không làm nó sợ, tôi đi qua phòng và mở cửa sổ ra. Con chim vẫy cánh đập chỗ bồ hóng dính trên lông nó.
Gật đầu với tôi. Nhưng không chịu dịch chuyển. “Đi đi,” tôi bảo nó. “Bay đi.” Nó vẫn không chịu dịch chuyển. “Vỗ cánh đi. Đi đi, sẻ con.” Sẻ. Tôi đang thực sự chui vào lò sưởi. Tôi kéo tấm lưới ra, quỳ xuống, và cố nhét đầu tôi lên ống khói. Tôi có thể thấy chút ánh sáng phía trên mình, nhưng không gì khác.
Tôi bò lại xuống, lấy đèn pin trong túi ra, và thử lần nữa. Ánh đèn yếu hơn, nhưng nó vẫn đủ sáng để rọi vào bên trong ống khói. Tôi thấy rất nhiều bồ hóng, không gì khác. Nhưng tôi tiếp tục tìm và rồi tôi thấy một thứ kỳ quặc – một khoảng nhỏ, cao bên trên, dường như đen hơn phần còn lại của tường ống khói.
Như một không gian rỗng. Một cái lỗ hõm. Tôi với tay lên, nhưng không tới. Tôi bị kẹt. Vai tôi quá rộng. Tôi bỏ đèn pin xuống, giơ cả hai tay lên đầu như thợ lặn và thử lại lần nữa. Gần tới. Tôi có thể cảm thấy cái mép đầu lỗ hõm bằng ngón tay. Tôi nhón chân lên và duỗi hết từng đường cơ thớ thịt ở cánh tay, và rồi tôi chạm được thứ gì đó.
Một thứ cứng. Một cái hộp, tôi nghĩ. Tôi cố cầm lấy nó, nhưng cuối cùng toàn đẩy nó vào sâu hơn. Tôi lại tụt xuống, lấy tấm lưới, và đứng lên đó. Không có đèn pin tôi chả thấy gì. Tôi gần như không cử động được. Một ý nghĩ khủng khiếp nảy ra với tôi: Nếu tôi bị kẹt thì sao? Sẽ không ai nghe tiếng tôi hét xin cứu.
Chỉ cao hơn một chút thôi, tôi tự nhủ. Tôi rướn ngón chân cao hết mức có thể, và sờ sẫm tìm cái lỗ hõm. Tay tôi chụp được cái hộp. Tôi lôi nó ra. Bồ hóng rơi xuống đầu tôi. Và rồi tới lượt cái hộp. Tôi cầm nó bò ra khỏi ống khói. Nó to bằng hộp kẹo. Trên đó có vẽ hoa và rồng.
Một tờ nhãn ghi địa chỉ một tiệm trà ở Paris. Tôi mở nắp ra. Có mười hai đồng tiền vàng bên trong. Hai cái nhẫn kim cương. Ba cái lắc ngọc lục bảo trông như đồ giả. Một cái đồng hồ bỏ túi bằng vàng. Một cái hộp đựng thuốc lá hít bằng bạc. Nửa chục khuy áo bằng hồng ngọc.
Một túi nhỏ đinh hương. Không phải kho báu của Ali Baba, nhưng thế là được rồi. Tôi xem đống tiền, giơ một cái nhẫn lên ánh sáng, mở hộp thuốc lá ra. Tôi quên béng con chim. Cho tới khi nó bắt đầu rít lên với tôi. “Cái gì?” tôi hỏi nó. Nó nháy mắt với tôi, rồi đậu xuống cửa sổ, và bay mất.
Tôi cũng nên làm thế. Benôit chỉ cho tôi một tiếng. Tôi phải quay lại hầm trước khi gã gọi lính tới. Tôi lấy một đồng vàng từ trong hộp ra và nhét mọi thứ khác vào mọi nơi có thể. Trong túi áo khoác. Xuống giày. Vào trong quần lót. Rồi tôi xé một mảnh vải từ cái rèm tả tơi, cuộn quanh cái hộp và gút lại.
Tôi đã bị ăn cắp tiền ăn trưa ở ngoài đường ở Brooklyn không biết bao lần rồi. Trang sức và một cái iPod nữa. Nhìn thằng nào du côn là tôi biết ngay, và Benôit là một thằng du côn. Tôi nhét cái hộp vào nách và bắt đầu chạy. Ra khỏi phòng Alex, xuống cầu thang và hành lang, chạy qua bếp, qua cánh cửa bí mật, và rồi vào hầm của nhà Foy.
Benôit đang đợi tôi. “Mày đã đi đâu?” gã rít lên, đứng chặn giữa tôi và lối ra. Tôi đặt một đồng tiền vàng vào tay gã. Đôi mắt tham lam của gã mở to, rồi sục sạo dò khắp người tôi, nhìn đống bồ hóng trên mặt và quần áo tôi. “Đưa tao số còn lại,” gã nói. “Còn lại cái gì?” “Chỗ vàng còn lại.
Và bất cứ thứ gì mày có trong cái hộp đó.” “Trong cái hộp này không có gì. Chỉ có giấy tờ thôi.” Gã tóm lấy cái hộp. “Trả lại đâyyyy” tôi hét lên, giả vờ tóm lấy gã. Gã đẩy tôi qua một bên, rồi bỏ đi, xoay lưng lại chặn tôi. Đúng như tôi hy vọng. Tôi chạy vụt qua gã khi gã lần mò mở cái nút gút bằng vải và chạy lên cầu thang.
Trong bếp, bếp trưởng vẫn đang quát mắng. Một gã đang làm cá nhìn tôi, nhưng tôi đã đi, ra khỏi bếp và ra khỏi cửa, trước khi hắn kịp nói một tiếng. Trên phố tôi không còn khiến ai để ý tới mình nữa. Có lẽ bởi vì giờ đây tôi bẩn thỉu và bốc mùi như mọi người. Tôi đi chậm lại và đánh liều liếc nhìn lại nhà Foy.
Không ai đuổi theo tôi cả. Tôi nhìn lên cái nhà hàng, nhìn những khung cửa sổ cao nhất của Cung điện Hoàng gia. Benôit tối nay sẽ lên đó, tôi chắc chắn, chọc gậy lên tất cả các ống khói của căn nhà. Nhưng kho báu đã biến mất rồi. Cả con chim sẻ nhỏ nữa. Và tôi sẽ đứng ở dưới dãy cột.
Trái Tim Hoàng Gia Trái Tim Hoàng Gia - Jennifer Donnelly Trái Tim Hoàng Gia