Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 67
ha bực mình khi Ranov rất miễn cưỡng đưa chúng ta đếnRila, nhưng khi gã tỏ vẻ nhiệt tình đưa chúng ta đến Bachkhôngvo thì cha còn thấybực hơn. Trong suốt chuyến đi, gã chỉ trỏ đủ loại cảnh đẹp này nọ, nhiều thắngcảnh thật sự thú vị, bất chấp những lời bình luận lung tung của gã. Helen vàcha cố không nhìn nhau, nhưng cha chắc chắn cô cũng chung một nỗi lo như cha.Giờ thì chúng ta lại có thêm József để mà lo lắng. Con đườngtừ Plovdiv hẹp hẳn lại, quanh co giữa một bên là một dòng suối lởmchởm đá còn bên kia là những vách đá dựng đứng. Chúng ta lại đang tiến dần vàovùng núi non - ở Bungari, người ta không thể nào xa cách những ngọn núi được.Cha nói với Helen nhận xét đó, cô đang nhìn đăm đăm ra ngoài cửa xe đối diện ởghế sau, và cô gật đầu. ‘Balkan trong tiếng Thổ Nhĩ Kỳ có nghĩa là núi.’ "
"Tu viện không có đường vào rộng rãi - xe chúng ta tấp vàomột bãi đất bụi mù, từ đó đi bộ một quãng ngắn đến cổng tu viện. Bachkhôngvskimanastir nằm giữa vùng đồi cao, cằn cỗi, một phần là rừng một phần là đá, gầnmột dòng sông nhỏ; quang cảnh khô cằn dù mới chỉ đầu hè, nên cha dễ dàng hìnhdung các tu sĩ ở đây quý trọng nguồn nước gần đó như thế nào. Tường ngoài xâybằng đá nâu xám cùng màu với những ngọn đồi xung quanh. Các mái vòm lợp ngói đỏcó rãnh giống căn nhà cũ kỹ của Stoichev và hàng trăm nhà ở và nhà thờ khácchúng ta nhìn thấy dọc đường. Cổng vào tu viện là một lối đi rộng dài có vòmmái, tối thui như một cái hang trong lòng đất. ‘Chúng ta cứ thế bước vào thôià?’ cha hỏi Ranov.
"Gã lắc đầu, ý là đúng thế, vậy là chúng ta bước vào bóngtối mát lạnh của cái cổng tò vò kia. Phải mất một lúc dò dẫm bước đi chúng tamới lọt vào khoảnh sân trong ngập nắng, và suốt những giây phút ở bên trong bứctường dài hun hút của tu viện, cha không nghe thấy gì khác ngoài tiếng bướcchân của chính chúng ta.
"Có lẽ cha đã mong nhìn thấy một khoảng không gian rộng lớnnhư ở Rila; nhưng sự cách biệt và vẻ đẹp của sân chính tu viện Bachkhôngvo đã làmcha bật lên một tiếng xuýt xoa, và Helen cũng trầm trồ gì đó. Nhà thờ của tuviện với những ngọn tháp góc cạnh màu đỏ theo phong cách Byzantine chiếm khánhiều diện tích của sân trong. Ở đây không có những mái vòm bằng vàng, chỉ cóvẻ thanh nhã cổ kính - những vật liệu đơn sơ nhất được sắp đặt thành những hìnhthể hài hòa, cân đối. Dây leo bò quanh các ngọn tháp; đám cây cối cũng áp sátvào nhà thờ; một cây bách đứng sừng sững như một tháp chuông. Ba tu sĩ mặc áochùng và mũ trùm đen đứng trò chuyện bên ngoài nhà thờ. Một cơn gió nhẹ lướtqua làm lay động những cành lá của hàng cây đang đổ bóng râm rải rác trênkhoảnh sân rực nắng. Cha ngạc nhiên khi thấy lũ gà chạy khắp nơi, cào bới mặtsân lát đá cũ kỹ, và một con mèo vằn đang đuổi theo cái gì đó ở khe nứt tường.
"Giống như ở Rila, phía trong tu viện là những hành lang dàicó ban công, xây bằng gỗ và đá. Bức tường đá phía dưới vài hành lang, giống nhưcổng nhà thờ, phủ đầy những bức bích họa đã phai màu. Không còn ai hay cái gìtrong tầm mắt ngoài ba vị tu sĩ, lũ gà và con mèo. Chỉ có chúng ta đơn độc ởđó, lẻ loi giữa một không gian đậm màu sắc Byzantine.
"Ranov bước đến bắt chuyện với các tu sĩ, Helen và cha nánlại phía sau một chút. Một lát sau gã quay trở lại. ‘Tu viện trưởng đi vắng,nhưng ông thủ thư ở đây và có thể giúp chúng ta.’ Cha không nói gì dù chẳngthích cái cách gã xưng chúng ta chút nào. ‘Các bạn có thể tham quan nhà thờtrong lúc tôi đi tìm ông ta.’
" ‘Chúng tôi sẽ cùng đi với anh,’ Helen nói, giọng quảquyết, và cả ba người chúng ta đi theo một tu sĩ vào dãy hành lang. Người thủthư đang làm việc trong một phòng ở tầng trệt; ông ta đứng dậy chào khi chúngta bước vào. Căn phòng trống trải, không có gì ngoài một lò sưởi bằng sắt vàtấm thảm màu sáng trên nền nhà. Cha thầm hỏi sách vở và các loại bản thảo để ởđâu. Ngoại trừ một vài cuốn sách trên cái bàn gỗ, cha chẳng nhìn thấy ở đây dấuhiệu gì của một thư viện.
" ‘Đây là Sư huynh Ivan,’ Ranov giới thiệu. Ông thầy tunghiêng người chào nhưng không đưa tay để bắt tay chúng ta; thực ra, hai bàntay ông ta khoanh trước ngực và nằm khuất trong cánh tay áo dài thậm thượt. Chachợt nhận ra ông ta không muốn chạm vào Helen. Chắc hẳn Helen cũng có ý nghĩnhư vậy, vì cô lùi lại và hầu như đứng khuất sau lưng cha. Ranov trao đổi vớiông ta vài lời. ‘Sư huynh Ivan mời các bạn ngồi.’ Chúng ta ngoan ngoãn ngồixuống. Khuôn mặt dài, nghiêm nghị và rậm rịt râu của Ivan chăm chú quan sátchúng ta một lúc. ‘Các bạn có thể hỏi han ông ta,’ Ranov nói, giọng khuyếnkhích.
"Cha hắng giọng. Không còn cách nào khác; chúng ta sắp phảihỏi han này nọ trước mặt Ranov. Cha sẽ phải cố gắng nêu ra những câu hỏi có vẻnhư chỉ liên quan đến học thuật. ‘Anh vui lòng hỏi hộ chúng tôi liệu ông ấy cóbiết gì về những người hành hương đến đây từ xứ Wallachia không?’
"Ranov dịch câu hỏi cho ông thầy tu, mặt ông ta sáng lênngay lúc nghe cái từ Wallachia. ‘Ông ấy nói tu viện này đã có mối liên hệ mậtthiết với xứ Wallachia vào cuối thế kỷ mười lăm.’
"Tim cha bắt đầu đập rộn lên, dù cha vẫn cố gắng ngồi yên.‘Vậy à? Mối liên hệ gì vậy?’
"Họ lại trao đổi thêm một lúc, Sư huynh Ivan khoát tay vềhướng cửa. Ranov gật đầu. ‘Ông ấy nói khoảng thời gian đó, các ông hoàng xứWallachia và Moldova đã tài trợ cho tu viện này rất nhiều. Thư viện ở đây cònlưu lại những bản thảo kể về sự ủng hộ đó.’
" ‘Ông ấy có biết nguyên cớ vì sao các ông hoàng kia lại làmnhư vậy hay không?’ Helen hỏi khẽ.
"Ranov lại hỏi ông thầy tu. ‘Không,’ gã quay lại chúng ta.‘Ông ấy chỉ biết các bản viết tay này ghi chép về sự giúp đỡ đó.’
" ‘Xin hãy hỏi ông ấy,’ cha tiếp tục, ‘liệu ông ấy có biếtmột nhóm người hành hương nào từ Wallachia đến đây vào khoảng thời gian đó.’
"Sư huynh Ivan giờ mới thực sự nở nụ cười. ‘Có,’ Ranov dịchlại. ‘Rất nhiều. Đây là một điểm dừng chân quan trọng trong lộ trình hành hươngtừ Wallachia. Từ đây, nhiều người hành hương đi tiếp đến Athos hoặcConstantinople.’
"Có thể cha đã nghiến răng. ‘Nhưng một nhóm người hành hươngđặc biệt từ Wallachia, mang theo một… một loại thánh tích, hoặc tìm kiếm mộtthánh tích nào đó, liệu ông ta có biết chuyện nào như vậy không?’
"Có vẻ như Ranov đang cố kìm lại một nụ cười đắc thắng.‘Không,’ gã trả lời. ‘Ông ấy chẳng thấy ghi chép nào về những người hành hươngnhư vậy. Có rất nhiều nhóm hành hương trong suốt thế kỷ đó. Bachkhôngvski manastirthời ấy có vai trò rất quan trọng. Khi đế chế Ottoman xâm chiếm đất nước này,giáo trưởng Bungari đã bị đẩy ra khỏi phòng làm việc ở Velikhông Trnovo và lưu đàyđến đây. Ông ta mất năm 1404 và được chôn cất ở đây. Khu vực lâu đời nhất củatu viện và cũng là khu vực duy nhất giữ được nguyên sơ như lúc ban đầu là khuchứa hài cốt.’
"Helen lại lên tiếng. ‘Anh làm ơn hỏi xem ông ấy có biết mộttu sĩ ở đây từng có tên là Pondev không?’
"Ranov chuyển tiếp câu hỏi, Ivan có vẻ như bối rối, rồi cảnhgiác. ‘Ông ta nói chắc hẳn đó là Sư huynh già Angel. Ông ấy vốn tên là VasilPondev, và là một nhà sử học. Nhưng hiện nay ông ta không còn… minh mẫn nữa.Các bạn sẽ chẳng biết được gì khi nói chuyện với ông ấy đâu. Hiện nay cha tuviện trưởng là học giả uyên thâm nhất ở đây, nhưng đáng tiếc lúc các bạn đếnthì ông ấy lại đi vắng.’
" ‘Chúng tôi vẫn mong được nói chuyện với Sư huynh Angel,’cha nói với Ranov. Và mong ước ấy cũng được thu xếp, dù có kèm theo vẻ cau cócủa ông thủ thư, ông ta dẫn chúng ta trở ra khoảnh sân rực nắng và bước vào mộtlối đi có mái vòm thứ hai. Lối đi này lại dẫn đến một khoảnh sân khác mà ngaychính giữa là một tòa nhà rất cũ kỹ. Khoảnh sân này không được chăm sóc kỹlưỡng bằng mảnh sân thứ nhất, các công trình và mặt sân lát đá có vẻ như bị bỏhoang phế và đang trong quá trình đổ nát. Dưới chân mọc đầy cỏ dại, và cha để ýthấy trên góc mái nhà còn mọc lên một cái cây; nếu người ta cứ để nguyên nhưvậy, sẽ có lúc cái cây kia đủ lớn để phá hủy nguyên cả góc tòa nhà đó. Cha cóthể dễ dàng hình dung việc tu tạo lại ngôi nhà của Chúa này không phải là ưutiên hàng đầu của chính quyền Bungari. Họ đã có Rila với một lịch sử ‘thuầntúy’ Bungari và liên quan đến sự nổi dậy chống lại đế chế Ottoman để mà trưngbày với thiên hạ rồi. Dù đẹp đẽ nhưng chốn cổ kính này lại có nguồn gốc từ thờiByzantine, cũng là một kẻ xâm lược, một kẻ chiếm đóng như đế chế Ottoman saunày, rồi sau đó nó lại thuộc về Armenia, Georgia, Hy Lạp - hình như chúng tacòn nghe nói nơi này, không như các tu viện Bungari khác, giữ được sự độc lậpdưới thời đế chế Ottoman thì phải? Vậy nên cũng chẳng có gì phải ngạc nhiên khichính quyền để cho cây cối mọc cả trên mái tu viện.
"Ông thủ thư đưa chúng ta vào một phòng nằm trong góc. ‘Bệnhxá,’ Ranov giải thích. Cái thái độ hợp tác này của Ranov càng lúc càng làm chalo lắng. Ông thủ thư mở một cánh cửa gỗ ọp ẹp, bên trong là một cảnh tượng nãolòng mà cha thực sự chẳng muốn nhớ lại chút nào. Trong phòng là hai ông thầy tugià lọm khọm. Căn phòng chỉ được trang bị hai giường xếp, một ghế gỗ và một lòsưởi bằng sắt mà chắc hẳn không đủ để chống chọi với cái lạnh buốt người củamùa đông vùng núi. Nền phòng bằng đá, tường quét vôi trắng, trống trơn ngoạitrừ một bàn thờ trong góc: một ngọn đèn treo, một giá chạm khắc công phu, mộtbức ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh đã xỉn màu.
"Một trong hai ông lão đang nằm trên giường và thậm chíkhông thèm liếc mắt khi chúng ta bước vào. Sau một lúc, cha nhận ra đôi mắt ônglão nhắm tịt, đỏ tấy và sưng húp, thỉnh thoảng ông ta xoay cái cằm tuồng như cốgắng nhìn mọi vật bằng cái cằm đó. Ông ta trùm gần kín người bằng một tấm mềntrắng, một tay lần mò mép giường, tựa như để tìm kiếm giới hạn của không giantrên giường, cái điểm mà ông có thể bị rơi xuống nếu bất cẩn, trong lúc tay kiasờ soạng lớp da thịt lùng nhùng trên cổ.
"Cư dân năng động hơn của căn phòng ngồi ngay ngắn trênchiếc ghế độc nhất, một cây ba toong dựa vào bức tường cạnh ông ta, như thể từchiếc giường đến chỗ ngồi kia là một hành trình dài đằng đẵng. Ông lão mặc áochùng đen, bụng lồi ra dưới lớp áo không có thắt lưng. Đôi mắt mở thao láo,xanh kỳ lạ, phóng ra một tia nhìn cảnh giác khi chúng ta bước vào. Râu tóc ôngta bờm xờm như cỏ dại trắng phau, nhưng ông ta để đầu trần. Chính cái đầu trầntrong một thế giới mà tất cả tu sĩ thường xuyên trùm kín đầu trong những chiếcmũ cao màu đen khiến ông ta trông càng ốm yếu và dị thường hơn. Ông thầy tu đầutrần này có thể là minh họa cho một vị tiên tri trong cuốn Kinh Thánh của thếkỷ mười chín, chỉ có điều vẻ mặt ông ta chẳng hư ảo chút nào. Ông ta nhăn mũilại tựa như chúng ta bốc mùi khó ngửi, mép miệng nhếch lên nhếch xuống, đôi mắtlúc nheo lại lúc mở to. Cha không thể xác định liệu ông ta trông như đang sợhãi, đang giễu cợt, hay đang thích thú ranh mãnh, bởi vẻ mặt ông ta thay đổiliên tục. Cả thân thể và đôi tay ông ta im lìm trong chiếc ghế tồi tàn, tuồngnhư tất cả các cử động của chúng đều dồn hết vào gương mặt nhăn nheo. Changoảnh nhìn đi nơi khác.
"Ranov nói chuyện với ông thủ thư, ông này đang chỉ trỏquanh phòng. ‘Ông lão ngồi trên ghế là Pondev,’ Ranov nói. ‘Ông thủ thư báotrước là chúng ta sẽ chẳng nghe được mấy lời tỉnh táo của ông lão đâu.’ Ranovthận trọng đến gần, tuồng như gã nghĩ ông thầy tu già Angel này có thể cắnmình, rồi săm soi mặt ông lão. Sư huynh Angel - Pondev - xoay đầu nhìn gã, cửchỉ không khác gì một con thú trong chuồng ở vườn thú. Có vẻ như Ranov đang thửgiới thiệu, và một lát sau đôi mắt xanh kỳ lạ của Sư huynh Angel lướt đến mặtchúng ta. Gương mặt ông ta nhăn nheo và co rúm lại. Rồi ông ta lên tiếng, nhữnglời nói ào ạt tuôn ra, nối tiếp bởi tiếng gầm gừ, tiếng nghiến răng ken két.Ông ta đưa một tay lên cao, làm dấu trông như một nửa dấu thánh, nhưng cũng cóthể là cố gắng không cho chúng ta đến gần.
" ‘Ông ấy nói gì vậy?’ cha hỏi nhỏ Ranov.
" ‘Chẳng có ý nghĩa gì cả,’ Ranov trả lời, vẻ thích thú.‘Tôi chưa bao giờ nghe cái gì giống như vậy. Có vẻ như vừa giống kinh cầunguyện - một thứ mê tín trong nghi lễ của bọn họ - vừa như nói về hệ thống xeđiện ở Sofia.’
" ‘Anh thử hỏi ông ấy một câu xem? Bảo ông ấy chúng tôi cũnglà sử gia giống ông ấy, và chúng tôi muốn biết liệu có hay không một nhóm ngườihành hương từ Wallachia đến đây qua ngả Constantinople vào cuối thế kỷ mườilăm, mang theo một thánh tích.’
"Ranov nhún vai nhưng cũng cố gắng thử, và ông thầy tu Angellắc đầu, đáp lại bằng một chuỗi âm thanh. Cái lắc đầu ấy nghĩa là có hay không?‘Càng tào lao hơn,’ Ranov nhận xét. ‘Lần này có vẻ như gì đó về cuộc xâm lăngConstantinople của bọn Thổ, như vậy ít nhất ông ta cũng còn hiểu được chút ít.’
"Đột nhiên, đôi mắt ông lão sáng lên, tựa như đến giờ cáitâm điểm sáng như pha lê của đôi mắt mới thực sự nhận ra chúng ta. Giữa dòng âmthanh lạ lẫm mà ông ta tuôn ra - phải chăng là ngôn ngữ? - cha nghe được rõràng cái tên Atanas Angelov.
" ‘Angelov!’ cha kêu lên, nói trực tiếp với ông thầy tu già.‘Ông biết Atanas Angelov chứ? Ông nhớ đã cùng làm việc với ông ấy chứ?’
"Ranov cẩn thận lắng nghe. ‘Phần lớn vẫn vô nghĩa, nhưng tôisẽ cố dịch lại những gì ông ta nói. Nghe cho kỹ nhé.’ Gã bắt đầu dịch, nhanh vàbình thản; dù rất ghét gã cha vẫn phải nể phục khả năng của gã. ‘ "Tôi đã làmviệc với Atanas Angelov. Nhiều năm trước, có lẽ hàng thế kỷ rồi. Ông ấy là mộtkẻ điên. Tắt cái đèn đằng kia đi… nó làm cái chân tôi đau quá. Ông ấy muốn biếttất cả mọi điều trong quá khứ, nhưng quá khứ đâu có muốn người ta biết nàng.Nàng cứ nói không không không. Nàng cứ nhảy dựng lên và làm tổn thương ngườita. Tôi muốn lấy số mười một, nhưng nó đâu còn đi đến khu nhà của chúng tôinữa. Dù sao chăng nữa, đồng chí Dimitrov đã xóa bỏ khoản tiền lương mà chúngtôi sắp nhận, vì lợi ích của nhân dân. Nhân dân tốt đẹp." ’
"Ranov dừng lại lấy hơi, chắc gã phải bỏ lỡ vài điều tronglúc nghỉ như vậy, vì ông thầy tu già vẫn tiếp tục tuôn ra một tràng. Phần thânthể từ cổ ông lão trở xuống vẫn bất động trong chiếc ghế dựa, nhưng cái đầu cứlúc lắc và gương mặt rúm ró lại. ‘ "Angelov phát hiện ra một nơi nguy hiểm, mộtnơi tên là Sveti Georgi, ông ấy nghe có tiếng hát. Đó là nơi người ta chôn mộtvị thánh và nhảy múa trên nấm mồ ngài. Tôi có thể mời các bạn uống cà phê,nhưng chỉ là lúa mì xay, lúa mì và đất. Thậm chí chúng tôi chẳng có chút bánhmì nào cả." ’
"Cha quỳ xuống cầm tay ông thầy tu già, dù Helen có vẻ nhưmuốn ngăn cha lại. Bàn tay ông ta mềm oặt như một con cá chết, trắng nhợt vàphù nề, móng tay vàng ệch và dài kỳ quặc. ‘Sveti Georgi nằm ở đâu?’ cha khẩnkhoản. Cha cảm thấy như chỉ một phút nữa thôi là mình có thể bật khóc ngaytrước mặt Ranov, Helen và hai sinh vật đang khô héo trong cái nhà tù này.
"Ranov cúi xuống bên cha, cố dõi theo ánh mắt đờ đẫn của ôngthầy tu. ‘K’de e Sveti Georgi?’ 1 _ Nhưng ánh mắt đăm đăm của Sư huynh Angel đãlại chìm vào một thế giới xa xăm. ‘ "Angelov đến Athos và thấy cuốn typikhôngn,ông ta vào vùng núi và phát hiện ra cái chốn kinh khủng kia. Tôi mang số mườimột đến căn hộ của ông ấy. Ông ấy bảo, Đến đây nhanh lên, tôi đã tìm ra một cáigì đó rồi. Tôi sẽ quay trở lại nơi đó để đào bới cái quá khứ kia lên.’ Tôi sẽmời các bạn cà phê, nhưng nó chỉ là đất cát. Ôi, ôi, ông ấy chết trong phòngmình, nhưng xác ông ấy không còn ở nhà xác." ’ Sư huynh Angel chợt bật cười, nụcười làm cha giật mình thối lui. Lợi ông ta lởm chởm và chỉ còn trơ lại haichiếc răng. Hơi thở phả ra từ miệng ông ta có thể làm ma quỷ cũng phải bỏ chạy.Ông ta bắt đầu cất tiếng hát, giọng the thé run run.
Con rồng xuống thung lũng chúng ta.
Đốt cháy mùa màng rồi bắt các thôn nữ.
Làm kinh sợ bọn Thổ vô đạo và bảo vệ làng mạc.
Chúng ta băng qua những dòng sông đã khô cạn vì hơi thởRồng.
"Khi Ranov dịch xong, Sư huynh Ivan, người thủ thư, hào hứnglên tiếng. Tay ông ta vẫn giấu trong ống tay áo, nhưng gương mặt sáng lên lộ vẻthích thú. ‘Ông ta nói gì?’ cha hỏi ngay.
"Ranov lắc đầu. ‘Ông ta nói đã từng nghe bài hát này rồi.Ông ta sưu tập bài hát từ một bà lão ở làng Dimovo, Baba Yanka, một ca sĩ tuyệtvời ở đó, nơi có dòng sông đã khô cạn từ lâu. Dân làng ấy có vài ngày hội hè,đó là dịp để người ta hát những bài ca cổ xưa, và Baba Yanka là người lĩnhxướng. Hai ngày nữa là một trong các ngày hội đó, ngày lễ Thánh Petkhông, và có lẽcác bạn sẽ muốn nghe bà ta hát.’
" ‘Lại dân ca,’ cha rền rĩ. ‘Làm ơn hỏi ông Pondev - Sưhuynh Angel - liệu ông ta có biết ý nghĩa bài hát đó không.’
"Ranov lặp lại câu hỏi với sự kiên nhẫn đáng ngạc nhiên,nhưng Sư huynh Ivan chỉ ngồi nhăn nhó rúm ró lại, lặng yên không nói gì. Mộtlúc sau, sự yên lặng làm cha nổi cáu. ‘Hỏi xem ông ta có biết gì về VladDracula hay không!’ cha hét lên. ‘Vlad Ţepeş ấy! Có phải hắn được chôn cất ởvùng này không? Ông ta từng nghe nói đến cái tên đó chưa? Cái tên Dracula ấy?’Helen dằn cánh tay cha lại, nhưng lúc đó cha đã mất tự chủ. Ông thủ thư nhìncha chằm chằm, dù có vẻ như không cảm thấy kinh sợ gì, và nếu bận tâm để ý kỹhơn thì hẳn cha sẽ thấy Ranov nhìn mình bằng một ánh mắt có thể gọi là thươnghại.
"Nhưng tác động đối với Pondev thật kinh hoàng. Mặt ông tabỗng tái nhợt, mắt trợn ngược giống như những viên bi xanh biếc. Sư huynh Ivanlao đến đỡ lấy Pondev trước khi ông lão sụm nhào khỏi ghế, rồi loay loay cùngRanov đưa ông ta lên giường. Pondev trông như một đống thịt thảm hại, bàn chântrắng phù nề chòi ra khỏi bộ quần áo ngủ, đôi tay lòng thòng quanh cổ Ivan vàRanov. Khi đã đặt Pondev nằm yên vị, ông thủ thư lấy một bình nước và vẩy vàigiọt lên mặt ông lão khốn khổ. Cha đứng lặng câm trong nỗi kinh hoàng, cha đâucó ý gây ra nỗi đau đớn như vậy, và có lẽ giờ đây cha đã giết chết một trongnhững nguồn tin duy nhất còn lại của chúng ta. Sau khoảnh khắc tưởng chừng nhưbất tận đó, Sư huynh Angel bắt đầu cựa quậy và mở mắt, nhưng lúc này đó là đôimắt hoang dại, đầy cảnh giác của một con thú bị săn đuổi, khiếp sợ đảo quanhphòng tựa như hoàn toàn không nhìn thấy chúng ta. Ông thủ thư vỗ nhẹ lên ngựcPondev và cố xoay trở để ông lão nằm ở tư thế thoải mái hơn, nhưng ông thầy tugià gạt tay Ivan ra, tiếp tục run rẩy. ‘Để ông ấy yên,’ Ranov nói, vẻ ủ rũ. ‘Ítra thì ông ta sẽ không chết… vì chuyện này đâu.’ Theo chân ông thủ thư ra khỏicăn phòng, tất cả chúng ta đều im lặng và day dứt.
" ‘Tôi xin lỗi,’ cha lên tiếng khi chúng ta đứng giữa sân,trong ánh nắng rực rỡ làm yên lòng trở lại.
"Helen quay qua Ranov. ‘Anh làm ơn hỏi ông thủ thư xem ôngta có biết gì thêm về bài hát đó, hoặc nó xuất phát từ thung lũng nào haykhông?’
"Ranov và Ivan lại trao đổi với nhau, ông thủ thư liếc nhìnchúng ta. ‘Ông ta nói bài hát đó xuất phát từ Krasna Polyana, thung lũng nằm ởsườn bên kia dãy núi này, về hướng Đông Bắc. Các bạn có thể đi cùng với ông ấyhai ngày nữa vào dịp lễ thánh, nếu các bạn muốn ở lại đây. Bà ca sĩ già kia cóthể biết gì đó về bài hát - ít nhất bà ta cũng có thể cho các bạn biết bà ta đãhọc được nó ở đâu.’
" ‘Em nghĩ liệu việc đó có ích lợi gì không?’ cha thì thầmhỏi Helen.
"Cô nhìn cha bằng ánh mắt buồn bã. ‘Em cũng chẳng biết,nhưng đó là tất cả những gì chúng ta có. Chúng ta nên bám theo bài hát đó, bởinó đề cập đến một con rồng. Trong thời gian chờ đợi, chúng ta có thể thăm thúBachkhôngvo kỹ lưỡng hơn, và có lẽ sẽ sử dụng thư viện nếu ông thủ thư sẵn sànggiúp chúng ta.’
"Cha mệt mỏi ngồi xuống một chiếc ghế đá dài bên rìa dãyhành lang. ‘Đành vậy thôi,’ cha nói."
Chú thích
1 Tiếng Bungari trong nguyên bản, nghĩa là "SvetiGeorgi ở đâu?"
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula