Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 61
ếu ấn tượng đầu tiên khi nhìn ngôi nhà của Stoichev đã bấtchợt làm dâng lên trong cha nỗi thất vọng, thì ấn tượng ban đầu khi thấy tuviện Rila lại làm cha choáng ngợp nỗi kinh sợ. Tu viện nằm trong một thung lũngsâu hút - vào thời điểm đó gần như chiếm cả thung lũng - còn trên các bức tườngvà mái vòm là những ngọn núi trong dãy Rila, sừng sững vút lên, dựng đứng vàphủ dày những cánh rừng vân sam. Ranov dừng xe trong bóng râm phía ngoài cổngchính, và chúng ta đi vào cùng vài nhóm khách du lịch khác. Đó là một ngày hanhnóng; mùa hè vùng Balkan dường như đang đến gần, bụi bặm từ nền đất cuộn lênquanh mắt cá chân chúng ta. Cánh cửa gỗ lớn của cổng chính để mở, chúng ta bướcvào và nhìn thấy một cảnh tượng mà cha chưa bao giờ quên được. Chung quanhchúng ta lù lù hiện ra những bức tường của pháo đài tu viện, với những sọc đen,đỏ trên nền thạch cao trắng và những tầng hành lang gỗ dài. Chiếm một phần bakhu vực bên trong là một nhà thờ thanh nhã, cổng vòm đầy những bức bích họa,các mái vòm màu xanh lục nhạt sáng bừng lên dưới nắng ban trưa. Bên cạnh nhàthờ là một ngọn tháp đá xám vuông vắn, đồ sộ, rõ ràng cổ xưa hơn mọi thứ kháctrong tầm mắt. Stoichev cho chúng ta biết đó là tháp Hrelyo, do một nhà quý tộcthời Trung cổ xây dựng làm nơi ẩn náu khỏi các đối thủ chính trị. Đó là phầncòn lại duy nhất của tu viện nguyên thủy vốn đã bị quân Thổ phóng hỏa tiêu hủy,công trình tráng lệ với những sọc đen đỏ hiện nay mãi tới nhiều thế kỷ sau mớiđược xây dựng. Khi chúng ta đang đứng đó, chuông nhà thờ bỗng ngân vang, khiếnmột bầy chim sợ hãi bay lên. Những con chim giật mình vút lên cao, cha dõi theochúng và lại nhìn thấy những đỉnh núi cao đến khó tưởng tượng nổi phía bên trên- ít nhất cũng phải một ngày leo núi. Cha nín thở; liệu thầy Rossi có đang ởđâu đó trong chốn cổ xưa này?
"Đứng sát bên với một chiếc khăn nhỏ buộc trên tóc, Helenquàng tay vào tay cha, và cha chợt nhớ lại khoảnh khắc ở thánh đường HagiaSophia, khi cô chợt nắm chặt tay cha, buổi chiều đó ở Istanbul có vẻ như đãtrôi qua lâu lắm rồi dù thực sự chỉ mới vài ngày trước đây. Đế chế Ottoman đãchinh phục vùng đất này rất lâu trước khi chiếm Constantinople; đúng ra, chúngta nên bắt đầu cuộc hành trình tìm ở đây chứ không phải ở Hagia Sophia. Mặtkhác, ngay cả trước khi vùng đất này bị chinh phục, những học thuyết của ngườiByzantine cũng như nghệ thuật và kiến trúc tao nhã của họ đã được truyền bá từConstantinople sang để làm phong phú thêm nền văn hóa Bungari. Ngày nay HagiaSophia là một viện bảo tàng giữa các nhà thờ Hồi giáo, trong khi cái thung lũnghẻo lánh này lại đầy ắp những đặc trưng của nền văn hóa Byzantine.
"Đứng bên cạnh chúng ta, Stoichev rõ ràng đang khoái trá tậnhưởng sự ngạc nhiên của Helen và cha. Dưới chiếc mũ rộng vành, Irina ôm cứngtay ông cậu mình. Chỉ mình Ranov đứng lẻ loi, nhìn quang cảnh đẹp tuyệt vời nàybằng ánh mắt cau có, gã nghi ngờ quay đầu lại khi một nhóm tu sĩ đội mũ trùmđen đi ngang qua chúng ta để vào nhà thờ. Chúng ta phải vất vả lắm mới thuyếtphục được gã đồng ý đón Stoichev và Irina đi cùng xe; gã nói muốn dành choStoichev cái vinh dự được chỉ dẫn chúng ta ở Rila, nhưng Stoichev không có lýgì mà không thể sử dụng xe buýt như những người dân Bungari khác. Cha đã cốkiềm chế không huỵch toẹt ra là chính gã, Ranov, cũng đâu có vẻ mặn mà lắm nếubản thân phải sử dụng xe buýt. Cuối cùng chúng ta cũng thuyết phục được gã, dùđiều này cũng không thể ngăn gã càu nhàu về Stoichev suốt trên đường từ Sofiađến nhà vị giáo sư già. Nào là Stoichev đã sử dụng danh tiếng của mình để raotruyền sự mê tín dị đoan và những ý tưởng đi ngược lại với tinh thần yêu nước;tất cả mọi người đều biết ông ta đã không chịu từ bỏ lòng trung thành mù quáng,thiếu cơ sở khoa học đối với giáo hội Chính Thống giáo; ông ta còn có một ngườicon trai đang học ở Tây Đức cũng phản động không kém gì cha mình. Nhưng chúngta đã thắng cuộc, Stoichev được đi cùng xe với chúng ta, và trong lúc dừng lạiăn trưa tại một quán rượu miền núi Irina thì thầm với vẻ biết ơn rằng cô sẽngăn không cho ông cậu đi nếu họ phải đi bằng xe buýt; ông sẽ không chịu nổimột chuyến đi khó nhọc như vậy trong thời tiết nóng bức này.
" ‘Đây là cánh bên nơi các tu sĩ ở,’ Stoichev lên tiếng. ‘Vàở đằng kia, dọc theo cánh đó, là khu nhà trọ nơi chúng ta sẽ qua đêm. Mặc dùban ngày tấp nập du khách, nhưng các bạn sẽ cảm nhận được sự tĩnh mịch vô cùngcủa nơi này vào ban đêm. Đây là một trong những kho báu tuyệt vời nhất của đấtnước chúng tôi, có rất nhiều người đến đây tham quan, đặc biệt là vào mùa hè.Nhưng đến đêm thì cảnh vật lại trở nên tĩnh lặng. Nào,’ ông tiếp tục, ‘chúng tasẽ vào trong để gặp cha tu viện trưởng. Tôi đã gọi cho ông ấy hôm qua, có lẽông ấy đang mong chúng ta.’ Stoichev dẫn đường với vẻ hăng hái bất ngờ, hăm hởnhìn quanh, tựa như nơi này đã thổi vào ông một luồng sinh khí mới.
"Chúng ta đến dãy phòng tiếp khách của cha tu viện trưởng ởtầng trệt bên một cánh tu viện. Một tu sĩ mặc áo chùng đen có bộ râu dài màunâu mở cửa cho chúng ta, Stoichev bỏ mũ ra và bước vào trước tiên. Cha tu việntrưởng đứng lên khỏi chiếc ghế băng dài đặt sát tường và bước ra đón chúng ta.Ông và Stoichev chào hỏi nhau rất thân mật, Stoichev hôn tay ông, còn ông thìlàm dấu ban phước lành cho vị giáo sư già. Cha tu viện trưởng khoảng sáu mươi,gầy gò nhưng dáng người vẫn thẳng, râu đã chớm bạc và mắt xanh trầm tĩnh - chakhá ngạc nhiên khi nhận ra có những người Bungari mắt xanh như vậy. Bằng kiểucách rất hiện đại, ông bắt tay chúng ta và cả Ranov, gã chào lại với vẻ khinhkhỉnh ra mặt. Sau đó, ông ra hiệu mời tất cả chúng ta ngồi xuống, một tu sĩbưng vào một khay đầy ly - nhưng ở đây thì đó không phải là những ly đầy rakiyamà là nước mát, cùng với những đĩa nhỏ bột tinh chất hoa hồng mà chúng ta đãtừng gặp ở Istanbul. Cha để ý thấy Ranov không thèm đụng đến ly nước của mình,tựa như gã nghi ngờ có thuốc độc.
"Cha tu viện trưởng rõ ràng rất vui khi gặp Stoichev, changhĩ cuộc thăm viếng này hẳn khiến cho cả hai vô cùng mãn nguyện. Thông quaStoichev, ông hỏi chúng ta ở vùng nào tại Mỹ, ông có thể làm gì giúp chúng ta,chúng ta có thể ở lại bao lâu. Stoichev nói chuyện với ông một lúc lâu, đồngthời ân cần dịch lại để chúng ta có thể trả lời những câu hỏi của tu việntrưởng. Cha tu viện trưởng tuyên bố chúng ta có thể sử dụng thư viện bao lâutùy thích; chúng ta có thể ngủ ở khu nhà trọ; chúng ta nên tham gia các buổi lễtrong nhà thờ; chúng ta có thể đi bất cứ đâu ngoại trừ khu vực của các tu sĩ - ông nói câu này với một cái gật đầu tế nhị hướng về Helen và Irina - và sẽkhông có chuyện bạn bè giáo sư Stoichev phải trả tiền trọ. Chúng ta nồng nhiệtcảm ơn ông, rồi Stoichev đứng dậy. ‘Nào,’ ông nói, ‘vì đã được cha tu việntrưởng cho phép, chúng ta sẽ đến thư viện ngay.’ Chưa dứt lời ông đã bước racửa một cách thận trọng, không quên hôn tay và cúi chào cha tu viện trưởng.
" ‘Cậu tôi rất xúc động,’ Irina thì thầm với chúng ta. ‘Ôngnói lá thư của các bạn là một phát hiện lớn đối với lịch sử Bungari.’ Cha tựhỏi cô có biết nghiên cứu này khó khăn nhiều như thế nào, những thế lực vô hìnhnào chặn ngang đường chúng ta, nhưng cha không thể đoán được gì qua nét mặtIrina. Cô gái giúp ông cậu của mình bước qua cửa, và chúng ta theo ông đi dọcnhững hành lang gỗ mênh mông ở khu sân trong, Ranov theo đuôi chúng ta, điếu thuốckẹp trong tay.
"Thư viện là một gian phòng dài ở tầng trệt, gần như đốidiện với các căn phòng của cha tu viện trưởng. Một tu sĩ râu đen đón ở cửa vàdẫn chúng ta vào; ông ta cao, nét mặt u ám, và cha thấy dường như ông ta chămchú nhìn Stoichev một lúc trước khi gật đầu chào chúng ta. ‘Đây là Sư huynhRumen,’ Stoichev giới thiệu. ‘Hiện ông ấy là tu sĩ thủ thư. Ông ấy sẽ tìm chochúng ta thứ chúng ta cần.’
"Một vài cuốn sách và bản thảo viết tay được đặt trong hộpkính, dán nhãn và trưng bày cho du khách; cha rất muốn dừng lại xem, nhưngchúng ta vẫn đi tiếp vào một khu ở sâu bên trong, lối vào khu này ở cuối phòng.Không khí mát lạnh kỳ lạ khi vào sâu trong tu viện, và những bóng đèn trần ítỏi không đủ xua đi bóng tối thăm thẳm trong các ngóc ngách. Tại khu riêng biệtnội bộ này, tủ gỗ kệ gỗ chất đầy những hộp và khay sách. Trong góc là một ngainhỏ đặt bức hình Đức Mẹ Đồng Trinh, Chúa Hài Đồng cùng các thiên thần cánh đỏchầu hai bên, một ngọn đèn bằng vàng khảm ngọc quý đong đưa phía trước bức ảnhthánh. Những bức tường cổ kính trát vữa, quét vôi trắng, và một mùi quen thuộctràn ngập xung quanh chúng ta: mùi của giấy da và lớp lông nhung đang dần phânhủy. Cha mừng là Ranov ít nhất cũng biết điều mà tắt điếu thuốc trước khi theochúng ta bước vào kho báu này.
"Tiếng bước chân Stoichev gõ cồm cộp trên nền đá như muốnđánh thức những linh hồn đang còn lẩn quất đâu đây. ‘Ở đây,’ ông nói, ‘các bạnđang nhìn vào trái tim của dân tộc Bungari - đây là nơi hàng trăm năm qua cáctu sĩ đã gìn giữ di sản của chúng tôi, thường là trong bí mật. Nhiều thế hệ tusĩ trung thành đã bỏ công sao chép các bản thảo này hoặc cất giấu chúng khi tuviện bị những kẻ vô đạo tấn công. Đây chỉ là một phần nhỏ trong di sản của dântộc chúng tôi - dĩ nhiên phần lớn đã bị phá hủy. Nhưng chúng tôi vẫn rất tự hàovề những gì còn lại ở đây.’
"Stoichev quay qua nói gì đó với người thủ thư, ông này bắtđầu thận trọng dò tìm những chiếc hộp có gắn nhãn tên. Một lúc sau, ông ta nhấcxuống một hộp gỗ và lôi ra vài cuốn sách. Cuốn trên cùng trang trí một bứctranh Chúa Jesus trông rất ấn tượng - ít nhất cha cho đó là Chúa Jesus - mộttay cầm quả cầu cắm thánh giá còn tay kia cầm vương trượng, gương mặt bao phủnỗi u sầu của người Byzantine. Cha thấy khá thất vọng vì những lá thư của Sưhuynh Kiril không nằm trong cuốn sách được đóng bìa lộng lẫy này mà ở trongcuốn sách đơn sơ hơn bên dưới, trông rất cổ xưa. Người thủ thư mang cuốn sáchđến một chiếc bàn, Stoichev nôn nóng ngồi xuống, mở cuốn sách ra với vẻ hàohứng. Helen và cha rút sổ ghi chép ra, còn Ranov thì dạo quanh các kệ sách thưviện, vẻ như quá chán không thể ở yên một chỗ.
" ‘Theo như tôi nhớ,’ Stoichev lên tiếng, ‘ở đây có hai láthư, và không rõ liệu có còn lá thư nào khác hay không - liệu Sư huynh Kiril cóviết những lá thư khác nhưng chúng không còn tồn tại hay không.’ Ông trỏ vàotrang sách đầu tiên. Trang giấy da rất cũ, hầu như đã ngả màu nâu, chi chítnhững con chữ viết tay đẹp đẽ, tròn trịa và sít rịt bên nhau. Stoichev quaysang người thủ thư hỏi gì đó. ‘Đúng vậy,’ ông lại quay qua nói với chúng ta, vẻhài lòng. ‘Cũng như với các tài liệu quý hiếm cùng thời kỳ, họ đã cho đánh máynhững lá thư này qua tiếng Bungari.’ Người thủ thư đặt trước mặt ông một tậptài liệu, Stoichev ngồi lặng yên một lúc, xem xét các trang đánh máy và lật luitrang sách có chữ viết đẹp đẽ cổ kính kia. ‘Họ đã làm rất tốt,’ sau cùng ôngcũng thốt lên. ‘Tôi sẽ cố gắng hết sức dịch ra để các bạn ghi lại.’ Rồi ông đọccho chúng ta bản dịch các lá thư, với đôi chỗ còn hơi ngắc ngứ.
Thưa Đức cha tu viện trưởng Eupraxius,
Cho đến lúc này chúng tôi đã đi được ba ngày trên những conlộ chính từ Laota hướng về Vin. Chúng tôi đã trải qua một đêm trong chuồng giasúc của một nông dân tốt bụng, và một đêm tại viện tu khổ hạnh Thánh Mikhail,nơi đó dù hiện không còn tu sĩ nào sống nhưng ít nhất cũng cho chúng tôi mộtchỗ tá túc khô ráo. Đêm qua, lần đầu tiên chúng tôi buộc phải cắm trại trongrừng, trải chăn mền lên mặt đất gồ ghề, chúng tôi nằm xuống trong vòng tròngiữa toa xe và lũ ngựa. Trong đêm, lũ chó sói lảng vảng gần đến độ chúng tôinghe được tiếng tru của chúng, lũ ngựa lồng lên vì sợ hãi. Phải rất khó khănmới làm chúng dịu lại. Giờ tôi thấy mừng vô cùng vì có hai đạo hữu cao lớn khỏemạnh là Sư huynh Ivan và Theodosius, cầu Chúa ban phước cho Đức cha đã sáng suốtcử họ đi cùng chúng tôi.
Đêm nay, chúng tôi được đón vào ở nhà một người chủ chăn cừukhá giàu và rất mộ đạo; ông ta cho biết mình nuôi ba ngàn con cừu trong khu vựcnày, chúng tôi được mời ngủ trên những tấm nệm da cừu êm ái, dù vậy riêng tôivẫn chọn ngủ dưới nền nhà vì lòng mộ đạo. Lúc này chúng tôi đã ra khỏi khu vựcrừng rậm, lọt vào giữa vùng đồi trải rộng bốn bề, nơi chúng tôi có thể thongdong bước đi dù là giữa nắng nôi mưa gió. Ông chủ nhà tốt bụng kể rằng đã hailần bị những kẻ vô đạo bên kia sông cướp bóc, con sông cách đây chỉ vài ngày đibộ nếu Sư huynh Angelus có thể bình phục và theo kịp chúng tôi. Tôi nghĩ sẽ đểSư huynh Angelus trên lưng ngựa, mặc dù cái gánh nặng thiêng liêng mà lũ ngựađang ra sức kéo cũng đã quá nặng nề. May mắn là chúng tôi không còn nhìn thấydấu vết của đám quân vô đạo trên đường.
Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài
Sư huynh Kiril
Tháng Tư, năm của Chúa 6985
Thưa Đức cha tu viện trưởng Eupraxius,
Chúng tôi đã bỏ thành phố lại sau lưng mấy tuần rồi và bâygiờ đang công khai đi giữa lãnh thổ của quân vô đạo. Tôi không dám viết ra vịtrí của chúng tôi, vì sợ sẽ bị bắt. Xét cho cùng, có lẽ chúng tôi nên chọnđường biển, nhưng Chúa sẽ là Đấng Che chở trên con đường chúng tôi đã chọn.Chúng tôi đã nhìn thấy những tàn tích của hai tu viện và một nhà thờ bị phónghỏa. Ngôi nhà thờ vẫn còn đang bốc khói. Năm tu sĩ ở đó bị treo cổ vì tội âmmưu làm phản, các sư huynh còn sống sót đã chạy trốn tán loạn vào những tu việnkhác. Chúng tôi chỉ biết có vậy bởi không thể trò chuyện lâu với những ngườidân ra cung nghinh đoàn chúng tôi. Tuy vậy, không có lý gì để cho rằng mộttrong các tu viện này là tu viện chúng ta tìm kiếm. Dấu hiệu ở đó đã rõ ràng,ác quỷ ngang hàng với thánh thần. Thưa Đức cha, nếu thư này được giao đến tayngài, cầu cho nó đến càng sớm càng tốt.
Kẻ tôi tớ hèn mọn của ngài
Sư huynh Kiril
Tháng Sáu, năm của Chúa 6985
"Khi Stoichev dừng lời, chúng ta ngồi lặng yên. Helen vẫnđang hí hoáy ghi chép, vẻ mặt chăm chú, Irina ngồi chắp hai tay vào nhau, Ranovđứng dựa vào một cái tủ, tay gãi sồn sột lên cổ, vẻ lơ đễnh. Cha thì đã bỏkhông cố ghi lại những sự kiện tả trong hai lá thư nữa; dù sao Helen cũng sẽghi lại được tất cả thôi. Trong các lá thư này chẳng có chứng cứ rõ ràng về mộtđích đến cụ thể, chẳng đề cập đến ngôi mộ hoặc cảnh chôn cất nào - cha cảm thấythất vọng đến nghẹt thở.
"Nhưng Stoichev có vẻ như chẳng chán nản chút nào. ‘Thú vịthật,’ ông thốt lên, sau một lúc trầm ngâm. ‘Thú vị thật. Các bạn thấy không,tính theo trình tự thời gian thì lá thư ở Istanbul của các bạn chắc là ở giữahai lá thư này. Trong hai lá thư đầu tiên, họ đi từ Wallachia hướng về sôngDanube - căn cứ vào các địa danh thì đó là điều rõ ràng. Rồi đến lá thư của cácbạn, lá thư Sư huynh Kiril viết tại Constantinople, có lẽ ông ta hy vọng gửi nócùng các lá thư trước từ thành phố đó. Nhưng ông ta đã không thể gửi hoặc sợkhông dám gửi - trừ phi đây chỉ là những bản sao - điều mà chúng ta không cáchnào biết được. Và lá thư cuối cùng được viết vào tháng Sáu. Họ đi bằng đườngbộ, giống như con đường được mô tả trong "Biên niên ký" của Zacharias. Thực ra,hai lộ trình chắc chỉ là một, từ Constantinople qua Edirne và Haskhôngvo, bởi đócũng là con đường chính từ Tsarigrad vào Bungari.
"Helen ngẩng lên. ‘Nhưng liệu chúng ta có chắc lá thư cuốicùng mô tả Bungari không?’
" ‘Chúng ta không thể đoan chắc tuyệt đối được,’ Stoichevthừa nhận. ‘Tuy nhiên, tôi tin rất có thể là như vậy. Nếu họ đi từ Tsarigrad - tức là Constantinople - vào một đất nước mà các tu viện và nhà thờ bị đốt cháyvào cuối thế kỷ mười lăm, thì rất có khả năng đất nước đó là Bungari. Hơn nữa,lá thư Istanbul của các bạn cũng nói rõ là họ định đi Bungari.’
"Cha không thể không nói lên nỗi thất vọng của mình. ‘Nhưngđâu có thêm thông tin gì về vị trí cái tu viện họ đang tìm kiếm. Ngay cả khi thừanhận đó là tu viện Sveti Georgi.’ Ranov đã ngồi vào bàn với chúng ta và đangsăm soi ngón tay cái của mình; cha tự hỏi có nên giấu gã mối quan tâm của chúngta về Sveti Georgi hay không, nhưng liệu có còn cách nào khác để hỏi Stoichevvề tu viện ấy?
" ‘Chẳng có gì cả.’ Stoichev gật đầu. ‘Sư huynh Kiril chắcchắn đã không viết tên đích đến của họ trong các lá thư, cũng như không nêu têntu viện Snagov trong chức danh của cha tu viện trưởng Eupraxius. Nếu bọn họ bịbắt, những tu viện này cũng sẽ bị khủng bố theo, hoặc ít nhất là bị lục soát.’
" ‘Trong lá thư có một dòng thú vị.’ Helen đã ghi chép xong.‘Ông có thể đọc lại dòng đó chứ - về dấu hiệu để họ tìm được trong tu viện ácquỷ ngang hàng với thánh thần ấy? Ông nghĩ câu đó có ý gì?’
"Cha liếc nhanh qua Stoichev; câu đó cũng làm cha ngạcnhiên. Ông thở dài. ‘Có thể câu ấy đề cập đến một bức bích họa hoặc một ảnhthánh ở tu viện - ở Sveti Georgi, nếu quả thực đó là đích đến của họ. Thật khóhình dung hình ảnh ấy có thể là cái gì. Và ngay cả nếu chúng ta có tìm thấy tuviện Sveti Georgi thì cũng rất ít hy vọng một ảnh thánh đã có từ thế kỷ mườilăm vẫn còn ở đó, nhất là vì tu viện có thể đã bị phóng hỏa ít nhất một lần.Tôi không hiểu câu đó có ý gì. Thậm chí nó có thể là một ám chỉ về khía cạnhthần học mà cha tu viện trưởng hiểu được còn chúng ta thì không, hoặc có thể nóđề cập đến một bí mật riêng giữa hai người bọn họ. Tuy nhiên, chúng ta phải ghinhớ câu đó trong đầu bởi Sư huynh Kiril đã nói rõ đó là dấu hiệu báo rằng họ đãđến đúng chỗ.’
"Cha vẫn đang phải chiến đấu với nỗi thất vọng của mình; lúcấy cha nhận ra mình đã mong những con chữ đã phai nhòa theo năm tháng trong cáclá thư kia nắm giữ chìa khóa quyết định đối với cuộc tìm kiếm của chúng ta,hoặc ít nhất soi rọi được điều gì đó lên các tấm bản đồ mà cha vẫn hy vọng sẽdùng đến.
" ‘Có một vấn đề quan trọng hơn và cũng rất lạ lùng.’Stoichev đưa tay vuốt cằm. ‘Lá thư viết ở Istanbul cho biết vật báu mà họ tìmkiếm - có lẽ là một thánh tích ở Tsarigrad - nằm trong một tu viện nhất định ởBungari, và đây là lý do vì sao họ phải đến đó. Phiền anh đọc lại đoạn thư ấycho tôi.’
"Cha đã để sẵn lá thư Istanbul bên cạnh trong lúc nghiên cứucác lá thư khác của Sư huynh Kiril. ‘Lá thư viết, "… thứ chúng ta tìm kiếm đãđược chuyển ra khỏi thành phố, đến một nơi an toàn trong vùng lãnh thổ bị chiếmđóng của Bungari." ’
" ‘Chính đoạn thư đó,’ Stoichev xác nhận. ‘Vấn đề là’ - ônggõ gõ ngón tay dài lên mặt bàn trước mặt - ‘tại sao người ta lại phải lén lútchuyển một thánh tích, cứ cho là vậy đi, ra khỏi Constantinople vào năm 1477?Thành phố này đã thuộc về người Ottoman từ năm 1453 và hầu hết các thánh tíchđều đã bị phá hủy trong cuộc xâm chiếm đó. Tại sao hai mươi bốn năm sau tu việnPanachrantos lại phải gửi một thánh tích còn lại đến Bungari, và tại sao các tusĩ này phải đến Constantinople để tìm cái thánh tích đặc biệt đó?’
" ‘Chà,’ cha nhắc ông, ‘từ lá thư chúng ta biết được vệ binhhoàng gia cũng đang tìm kiếm thánh tích kia, điều này chứng tỏ nó cũng có giátrị nào đó đối với Quốc vương Hồi giáo.’
"Stoichev nói, giọng cân nhắc. ‘Đúng vậy, nhưng vệ binhhoàng gia chỉ tìm kiếm sau khi thứ đó đã được đưa ra khỏi tu viện.’
" ‘Chắc hẳn nó là một vật thiêng có quyền lực chính trị đốivới người Thổ, và đồng thời cũng là vật báu tâm linh đối với các tu sĩ Snagov.’Helen cau mày, gõ gõ cây viết lên gò má. ‘Một cuốn sách chăng?’
" ‘Đúng rồi,’ cha thốt lên, giọng đầy phấn khích. ‘Nếu làmột cuốn sách chứa đựng thông tin nào đó mà người Thổ muốn và các tu sĩ cần thìsao nhỉ?’ Ranov, ở bên kia bàn, đột nhiên nhìn cha chăm chú.
"Stoichev chậm rãi gật đầu, nhưng một lát sau cha nhớ ra cáigật đó có nghĩa là không đồng tình. ‘Sách vở thời kỳ đó thường không chứa cácthông tin chính trị - chúng thường là các văn bản tôn giáo, được chép lại thànhnhiều bản để sử dụng trong các tu viện hoặc cho các trường học và nhà thờ Hồigiáo. Khó có khả năng các tu sĩ phải thực hiện một cuộc hành trình nguy hiểmnhư vậy chỉ vì một bản cuốn kinh phúc âm. Họ đã có vô khối những cuốn sách nhưvậy tại Snagov.’
" ‘Chờ đã.’ Mắt Helen mở lớn, đầy tư lự. ‘Hượm đã. Chắc hẳnphải là một vật liên quan đến các nhu cầu của tu viện Snagov, hoặc Giáo đoànRồng, hoặc có thể là lễ thức canh Vlad Dracula - mọi người nhớ chi tiết ở "Biênniên ký" chứ? Cha tu viện trưởng muốn an táng Dracula tại một nơi khác.’
" ‘Đúng vậy,’ Stoichev trầm ngâm. ‘Ông ta muốn đưa thi hàiDracula đến Tsarigrad, thậm chí đánh liều cả tính mạng của các tu sĩ.’
" ‘Phải,’ cha lên tiếng. Cha đang sắp nói một điều gì đó đểloại bớt những nghi vấn không cần thiết thì đột nhiên Helen quay sang lắc lắctay cha.
" ‘Gì vậy em?’ cha hỏi, nhưng Helen đã kịp trấn tĩnh lạingay.
" ‘Không có gì,’ cô khẽ nói, tránh không nhìn cha và Ranov.Cha cầu Chúa cho gã đứng dậy ra ngoài hút thuốc hoặc chán ngấy cuộc trò chuyệncủa chúng ta để Helen có thể nói ra thoải mái. Stoichev liếc nhìn Helen bằngánh mắt đầy thâm ý, và lát sau, bằng một giọng đều đều ông bắt đầu giải thíchcách các bản thảo thời Trung cổ được làm ra và sao chép - thực ra đôi khi docác tu sĩ mù chữ tiến hành, tạo nên những lỗi vụn vặt lưu truyền hàng thế hệ - và cách những kiểu chữ viết tay khác nhau được các học giả hiện đại giải mã.Mặc dù vẫn rất chú tâm đến những gì ông nói nhưng cha vẫn không hiểu vì sao ôngphải dài dòng như vậy. May mắn là cha im lặng suốt bài giảng lê thê của Stoichev,vì một lát sau Ranov thực sự bắt đầu ngáp ngắn ngáp dài. Cuối cùng, gã đứng dậybước ra khỏi thư viện, lôi trong túi áo khoác ra một gói thuốc. Ngay lúc gãbiến đi, Helen lại chộp lấy cánh tay cha. Stoichev chăm chú nhìn cô.
" ‘Anh Paul,’ Helen thốt lên, vẻ mặt kỳ lạ đến độ cha phảiquàng tay ôm lấy vai cô, nghĩ rằng cô sắp ngất đi. ‘Cái đầu của hắn! Anh khôngnhận ra sao? Dracula quay trở lại Constantinople để lấy lại cái đầu của mình!’
"Stoichev húng hắng để báo hiệu, nhưng đã quá trễ. Ngaykhoảnh khắc đó, cha liếc nhìn quanh và thấy khuôn mặt giơ xương của Sư huynhRumen sau rìa một kệ sách. Ông ta đã âm thầm trở lại phòng, và mặc dù quay lưnglại chúng ta để cất một thứ gì đó, ông ta vẫn để tai lắng nghe. Một lát sau,ông ta lại yên lặng bỏ ra ngoài, chúng ta vẫn ngồi lặng thinh. Helen và chaliếc nhìn nhau vẻ bất lực, cha đứng dậy kiểm tra lại căn phòng. Người thủ thưđã đi, nhưng có lẽ chẳng mấy chốc một người nào khác - như Ranov chẳng hạn - sẽđược nghe kể về những lời Helen đã thốt lên. Và Ranov có thể sử dụng thông tinđó để làm gì nhỉ?"
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula