Chương 57
ng lão giờ đã ngồi thoải mái hơn trong xe, Reilly cẩn thận lái chiếc Pajero chạy xuống con đường mòn mấp mô và lởm chởm sỏi đá cho đến khi họ đến bên mép hồ.
Hồ nước thật rộng, mặt hồ phẳng lặng và óng ánh như gương. Ở bờ bên kia là một hàng cột trụ, đường dây điện và điện thoại. Reilly phỏng đoán, và có lẽ còn có một con đường dẫn vào. Từ chỗ con đập, Reilly có thể nhìn thấy một hàng cột điện cao thế nối tiếp nhau chạy về phương Bắc qua dãy núi, hướng về phía thế giới văn minh. Con đập và cái hồ nhân tạo như tách biệt hẳn ra, thế giới văn minh chưa chạm đến nơi này. Những vùng rừng xung quanh và những đỉnh núi càng cao càng hoang vắng, tong mắt Reilly chẳng có chút thân thiện nào cả, và có lẽ các Hiệp sĩ Đền Thánh, những người đã đi ngang qua đây vào bảy trăn năm trước cũng cảm thấy như vậy.
Họ đến con đập, cảm thấy nhẹ nhõm khi rời khỏi con đường mòn gồ ghề kia, và giờ cũng háo hức như Tess khi đến được cái đích của họ. Reilly cho xe bon nhanh trên con đường bêtông chạy suốt trên đỉnh của cái cấu trúc bêtông khổng lồ. Phía bên trái, Reilly thấy một vách dựng đứng cao ít ra phải sáu mươi mét. Tít tận đầu bên kia có một trạm điều hành, đó là nơi ông lão đang dẫn họ đến.
Khi lái ngang qua con đường bêtông, Reilly quan sát thật kỹ hai bên bờ hồ và vùng đất ở phía trên. Không có dấu hiệu của sự sống, dù anh không chắc lắm; cây cối bao phủ dày đặc, bóng râm che phủ kín mít đủ để che giấu bất kỳ ai không muốn bị nhìn thấy. Reilly đã cẩn thận để mắt đến bất kỳ dấu hiệu nào của Vance kể từ khi họ bước vào những giai đoạn cuối của cuộc hành trình và chẳng thấy có dấu hiệu gì cho thấy có người lạ trong vùng. Có lẽ đây là tình trạng bất thường trong giai đoạn cao điểm của mùa du lịch hè, nhưng ngay lúc này, dường như chỉ có một mình họ.
Chẳng có điều gì trong chuyện đó làm Reilly cảm thấy thoải mái hơn. Vance đã chứng tỏ bản thân hắn là một tay có nghề khi đi trước họ một bước, và hắn cũng thể hiện sự kiên trì và quyết tâm ngoan cố trong việc theo đuổi mục tiêu của mình.
Hắn đang ở ngoài kia. Đâu đó.
Trong lúc chạy xe xuống, Reilly đã tranh thủ hỏi ông lão xem gần đây có ai khác hỏi thăm về ngôi làng không. Phải mất một lúc lâu, sau vài động tác múa tay múa chân kỳ dị của ông lão, anh mới hiểu được rằng theo như ông lão biết thì không có ai hỏi han gì về ngôi làng. Có lẽ mình đang chạy trước hắn, Reilly thầm nghĩ khi quan sát khoảnh đất trước mặt, nhìn xem có điều gì khác thường không trước khi dừng chiếc SUV bên cạnh một nơi có vẻ như là trạm bảo dưỡng nhỏ.
Một chiếc Fiat trắng hoen gỉ đậu bên ngoài. Từ vị trí này, Reilly có thể nhìn thấy cái có vẻ như là con đường dẫn vào từ đầu kia. Nó có vẻ bằng phẳng và khá mới. “Nếu con đường đó đúng như anh nghĩ,” Reilly nói với Tess, “chúng ta có thể có một chuyến đi thoải mái và tiết kiệm được nửa thời gian.”
“Tốt thôi, khi nào chúng ta xong việc ở đây,” Tess cười hớn hở, “có lẽ chúng ta sẽ có chuyến trở về êm ái và nhanh chóng.” Tâm trạng Tess đã thay đổi không thể lường được, nàng nhoẻn miệng cười với Reilly trước khi nhảy ra khỏi xe và bước theo ông lão, ông ta đang chào hỏi một người đàn ông trẻ vừa hiện ra từ căn nhà nhỏ.
Reilly đợi một lát, ngắm nhìn Tess sải đôi chân dài bước về phía hai người đàn ông địa phương. Nàng đúng là người không thể thay đổi được. Cái gì vậy kìa, Reilly băn khoăn tự hỏi, mình đang dính vào người phụ nữ này hay sao? Reilly đã đề nghị là họ sẽ thông báo về phát hiện của mình và chờ đợi một toán chuyên gia đến xử lý vấn đề, anh cũng cả quyết với Tess là sẽ hết sức đảm bảo những gì được tìm thấy sẽ là của nàng. Tess bác bỏ ngay đề nghị của Reilly và van nài anh hoãn việc đó lại. Dù thấy vậy là ngu ngốc nhưng Reilly vẫn phải xuôi theo, nhượng bộ trước nhiệt tình sôi sục của Tess. Nàng đã hoàn toàn bị cuốn vào chuyện này, và thậm chí nàng còn khăng khăng là giờ Reilly không được sờ đến cái điện thoại vệ tinh nữa, ít ra cho đến khi nàng có cơ hội được tự mắt trông thấy cái khám phá đó.
Tess đang trao đổi gì đó với người đàn ông trẻ, một kỹ sư tên Okan. Anh ta nhỏ con và mảnh khảnh, có mái tóc đen dày và hàng ria rậm, và qua nụ cười nhăn nhỏ trên gương mặt anh ta, Reilly có thể nhận thấy vẻ quyết rũ của Tess đã lấn át bất kỳ sự miễn cưỡng nào của anh chàng kia để anh ta sẵn sàng giúp đỡ họ. Okan nói được một ít tiếng Anh, điều này quả thực là có ích cho họ. Reilly chăm chú nhìn Tess giải thích rằng họ là những nhà khảo cổ quan tâm đến các nhà thờ cổ, đặc biệt là nhà thờ dưới đáy hồ này. Anh chàng kỹ sư giải thích là thung lũng đã bị ngập năm 1973 – hai năm sau khi tấm bản đồ của Tess được phác thảo ra. Hiện tại, đập nước này đang cung cấp phần lớn điện năng cho cả vùng duyên hải thịng vượng trải dài về phía Nam này.
Câu hỏi kế tiếp của Tess làm Reilly phải dừng sự quan sát của mình lại vì ngạc nhiên. “Anh hẳn phải có đồ lặn ở đây chứ? Để kiểm tra con đập ấy mà.”
Okan tỏ vẻ ngạc nhiên chẳng kém gì Reilly. “Vâng, có chứ,” anh ta lắp bắp. “Thì sao?”
Tess nói thẳng. “Chúng tôi muốn mượn chúng.”
“Cô muốn lặn xuống tìm cái nhà thờ chứ gì?” anh ta hỏi, mặt lộ vẻ bối rối.
“Đúng vậy,” Tess trả lời một cách sôi nổi, dang rộng hai tay ra. “Hôm nay đúng là một ngày tuyệt vời để làm việc đó, không phải sao?
Anh chàng kỹ sư liếc nhìn Reilly và ông lão, không biết phải làm thế nào. “Chúng tôi có vài thiết bị, vâng, nhưng mỗi năm chỉ sử dụng một hai lần,” anh ta ngần ngại nói. “Cần phải kiểm tra lại, tôi không biết nếu...”
Tess nhảy vào ngay “Anh bạn tôi và tôi có thể kiểm tra chúng. Chúng tôi vẫn làm vậy mà. Chúng tôi sẽ đi theo anh, được chứ?” Reilly nhìn nàng, vẻ không chắc lắm. Tess nhìn lại anh với ánh mắt hoàn toàn tự tin. Reilly vẫn cảm thấy e dè vì sự liều lĩnh của Tess khi nàng nói cả hai đều là thợ lặn lão luyện. Reilly không biết Tess thì sao, nhưng về phần mình, anh chẳng biết gì nhiều hơn những huấn luyện cơ bản sơ đẳng nhất về hoạt động dưới nước. Tuy vậy, Reilly không muốn làm Tess cụt hứng – nhất là tại đây, trước mặt hai người lạ. Reilly tò mò muốn thấy lòng quyết tâm của Tess sẽ dẫn đến đâu.
Okan rõ ràng không cảm thấy thoải mái với ý tưởng đó. “Tôi không chắc. Tôi – tôi không có thẩm quyền làm bất cứ việc gì đại loại như thế.”
“Ồ, tôi chắc chắn là sẽ ổn mà.” Nàng lại nở nụ cười tươi tắn. “Dĩ nhiên, chúng tôi sẽ ký một giấy cam kết,” Ts trấn an anh ta. “Chúng tôi hoàn toàn chịu hết mọi trách nhiệm. Và, dĩ nhiên, chúng tôi rất hân hạnh được trả một khoản phí cho... công ty – về việc sử dụng các thiết bị.” Khoảng dừng trước khi nàng nói “công ty” hoàn toàn đúng lúc. Không quá ngắn để Okan không nghe được nó; cũng không quá dài để anh ta có thể cảm thấy bị xúc phạm vì một sự hối lộ được gợi ý vụng về như vậy.
Anh chàng kỹ sư nhỏ con quan sát Tess một lát, bộ ria mép rung rung, rồi anh ta nhún vai. “Thôi được. Đi theo tôi. Tôi sẽ chỉ cho cô những thứ chúng tôi có.”
Một cầu thang hẹp dẫn từ văn phòng xuống nhà kho bụi bặm, chất bừa bãi thiết bị và được chiếu sáng lờ mờ nhờ cái đèn huỳnh quang nhập nhòe và kêu o o. Dưới ánh sáng màu xanh dương, Reilly có thể nhận thấy một máy hàn hồ quang, các bình khí butan, và, trong góc xa, một đống thiết bị lặn.
Anh ta để cho Tess nhìn qua chúng, và có vẻ như nàng biết mình đang làm gì khi nhấc lên ước lượng trọng lượng của từng thiết bị.
“Không phải là loại tối tân, nhưng cũng dùng được.” Nàng nhún vai.
Tess không tìm thấy chiếc đồng hồ lặn đâu, dù vậycó nó thì cũng chả sao. Nàng hỏi Okan hồ sâu bao nhiêu khi thấy một biểu đồ lặn trên tường. Okan bảo nàng, theo anh thì có lẽ từ ba mươi đến ba mươi sáu mét. Tess tham khảo lại biểu đồ và cau mày. “Chúng ta không có nhiều thời gian đến thế ở đáy hồ đâu. Chúng ta cần bắt đầu lặn ngay phía trên ngôi làng.” Lại quay sang Okan, Tess hỏi anh ta có bất cứ cái gì giúp chỉ ra ngôi làng không.
Lông mày anh chàng nhỏ con cong lên, trầm tư suy nghĩ.“Cô phải hỏi ông Rũstem,” rốt cuộc anh ta lên tiếng. “Trước khi ngôi làng bị nhấn chìm, ông ta sống ở đó, và chưa bao giờ rời khỏi vùng này. Ngoài ông ta ra chẳng ai biết cái nhà thờ đó đâu.”
Reilly chờ Okan bước ra khỏi phòng một lát rồi mới quay sang Tess. “Thật là điên khùng. Chúng ta nên gọi vài thợ lặn chuyên nghiệp.”
“Anh quên mất một điều rồi. Em là dân chuyên nghiệp đây,” nàng khăng khăng. “Em làm việc này cả trăm lần rồi.”
“Ừ, nhưng không phải như thế này. Vả lại, anh chẳng thấy sung sướng gì khi cả hai chúng mình ở dưới đó mà chẳng có ai canh chừng phía trên này.”
“Chúng ta cứ thử một lần xem sao. Thôi nào anh cứ lo lắng vớ vẩn. Đâu có ai ở quanh đây.Chúng ta đã qua mặt Vance trong chuyện này.” Tess dựa vào Reilly, mặt nàng ngời lên vẻ mong đợi. “Giờ chúng ta không thể dừng lại được. Nhất là khi chúng ta đã tiến gần đến thế này.”
“Một lần thôi.” Reilly nhượng bộ. “Rồi chúng ta sẽ gọi dân chuyên nghiệp.”
Tess đã bước ra cửa. “Vậy là được rồi.”
Họ mang đồ lên tầng trên rồi nhét mọi thứ vào cốp chiếc Pajero. Okan mời Tess lên chiếc Fiat trắng gỉ sét của anh ta, yêu cầu Reilly lái theo sau cùng với ông lão chủ quán. Reilly nhìn Tess, nàng nháy mắt đồng loã với vẻ thích thú ra mặt của anh chàng kỹ sư trước khi bước lên xe.
Chiếc Pajero chạy theo xe Okan suốt con đường nhựa dài gần một cây số cho đến lúc anh chàng kỹ sư cho xe rời khỏi đường và dừng lại bên cạnh một khu đất rào kín, bên trong chất đầy những khối bêtông, ống nước và hàng chục phuy dầu trống rỗng; tất cả những thứ thông thường còn lại khi kết thúc bất kỳ một dự án xây dựng nào. Bên trong khu đất, một người đàn ông lớn tuổi đội mũ trùm đầu và mặc váy truyền thống đang đi thu dọn các thứ linh tinh. Reilly đoán chừng một công ty tư nhân khá nhỏ đang hoạt động ở đây, và chẳng ngạc nhiên chút nào khi Okan giới thiệu người đi thu dọn các lại vật tư phế liệu đó là ông lão Rũstem, chú của anh ta.
Ông Rũstem nhe hàm răng đã rụng gần hết ra cười với họ, rồi chăm chú lắng nghe người cháu liến thoắng một vài câu hỏi trước khi trả lời bằng vô số cái khoát tay gật đầu nhiệt tình.
Okay quay sang Tess và Reilly. “Chú tôi nhớ rất kỹ những tàn tích còn lại của ngôi làng. Đã nhiều năm qua, ông vẫn dẫn bầy dê của mình đến nơi này. Ông bảo chỉ có những phần của nhà thờ là còn đứng vững.” Anh ta nhún vai, tự ý chêm vào một câu bình luận của riêng mình. “Ít ra, nó là như vậy trước khi thung lũng bị nhấn chìm. Có một cái giếng cạnh nhà thờ, và ông nhớ là có…” Okan cau mày, tìm từ thích hợp. “Cái rễ chết của một cái cây rất lớn.”
“Một gốc cây,” Tess tiếp lời.
“Vâng, đúng rồi, gốc cây. Một gốc liễu.”
Tess quay sang Reilly, mắt nàng ngời lên vẻ mong đợi.
“Vậy em nghĩ thế nào? Có đáng để xem qua một cái không?” Reilly ngây mặt ra hỏi.
“Nếu anh cứ khăng khăng muốn xem,” Tess cười toe toét.
Họ cảm ơn Okan và ông lão trước khi Okan lái xe đi, anh chàng kỹ sư nhìn Tess bằng ánh mắt chia tay bất đắc dĩ và ngay sau đó, nàng và Reilly mặc đồ lặn vào rồi kéo đống đồ ra mép nước, ông Rũstem để ở đó hai chiếc thuyền chèo nhỏ. Họ leo lên thuyền, Rũstem đẩy họ ra khỏi bè rồi nhảy tót lên sau. Nhặt mái chèo lên, ông lão bắt đầu chèo với những chuyển động dễ dàng của một tay chèo lão luyện.
Tranh thủ thời gian ông lão Rũstem chèo ra giữa hồ, Tess nhắc Reilly về những thủ tục thường lệ mà anh chỉ nhớ lại mang máng từ lần lặn duy nhất trước đây, trong kỳ nghỉ ngắn ngủi ở quần đảo Cayman bốn năm trước. Ông Rũstem ngừng chèo khi họ ra gần giữa bờ Đông và bờ Tây của hồ nước, cách con đập khoảng hơn một cây số. Lẩm bẩm một mình, thoạt tiên ông lão nheo mắt nhìn về đỉnh đồi gần đó, rồi một đỉnh khác và một đỉnh nữa, ông dùng mái chèo như một thanh gỗ thực hiện một loạt những động tác xác định vị trí hết sức cẩn thận. Trong lúc đó, Reilly nghiêng về một bên mạn thuyền, quậy hai chiếc mặt nạ dưới nước.
“Em nghĩ cái gì ở dưới này?” Reilly hỏi.
“Em không biết.” Tess nhìn xuống nước, vẻ căng thẳng. “Ngay bây giờ, em chỉ hy vọng là nó ở dưới đó.”
Cả hai im lặng nhìn nhau chằm chằm, rồi chợt nhận ra là ông lão đã dừng lại và đang nhe hàm nhe lợi khoe nụ cười đắc thắng. Ông trỏ xuống phía dưới và nói với họ. “Kilise suyun altinda”. Những từ này nghe gần giống với những từ mà ông lão ốm yếu ở nhà hàng sử dụng.
“Sũkran,” Tess tiếp lời.
“Ông ta nói gì vậy?
“Có giời mới biết,” nàng đáp lại lúc leo lên mạn thuyền, rồi nói thêm, “nhưng em chắc chắn rằng từ kilise có nghĩa là nhà thờ, vì thế em đoán hẳn đúng là nó”. Tess hất đầu về phía Reilly. “Anh xuống không?”
Trước khi Reilly kịp trả lời, nàng đã kéo mặt nạ xuống, lộn người ngã về phía sau, rơi tõm xuống hồ. Sau khi liếc nhìn Rũstem đang giơ ngón tay cái lên ra hiệu kiểu hiện đại, Reilly phóng theo nàng, kém điệu nghệ hơn nhiều, vào trong làn nước đen thẫm.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa