Chương 54 - Phi Đội Cường Kích Vfa-228, Marauders Vịnh Bengal Thứ Tư, 3 Tháng 12, 00:54 Giờ Địa Phương
iếng nói của viên sĩ quan Kiểm Soát Không Lưu thật thấp, nhưng rõ ràng trong máy đeo tai trong mũ bay của Rob Monkman. “Hammer, Bandits (*) ba-một-không, ở 80, Angels hai-không.”
(* bandit: kẻ cướp, tiếng lóng Không quân Mỹ dùng để chỉ máy bay địch)
Chỉ ngắn gọn như vậy nhưng thông tin trong câu nói ấy thật là đầy đủ. Viên Kiểm Soát Không Lưu vừa báo cho phi công chỉ huy phi đội Hammer rằng máy bay địch đã bị phát hiện cách vị trí của phi đội Hammer 80 hải lý, hướng bay ba-một-không (310 độ), bay ở cao độ 20.000 bộ (bộ = foot = 0,3 m; tức là 6.000 m)
Hai từ ‘nóng’ và ‘lạnh’ bị bỏ sót cho thấy là máy bay địch không có tiếp cận hay bay xa khỏi phi đội Hammer. Không có hai từ phụ ấy có nghĩa là bản tin này chỉ là cập nhật đơn giản, cho người nhận hiểu thêm tình hình tổng quát thôi. Không phải làm hành động gì, nhưng chú ý đến đối phương.
Lời đáp của phi công chỉ huy phi đội còn ngắn ngủi hơn nữa. “Hammer.” Nghĩa là: ‘Đây là chỉ huy phi đội Hammer. Đã nghe và hiểu.’
Monk kiểm tra màn ảnh ra-đa AN/APG-79 để xem có thấy máy bay địch hay không. Màn ảnh một màu xanh lục dường như sáng lên trong cặp kính nhìn trong đêm của gã, nhưng không có dấu hiệu kẻ địch nào cả. Ra-đa trên máy bay của gã chưa phát hiện được mục tiêu. Cái đó cũng không phải là điều gì đáng ngạc nhiên cả, xét vì khoảng cách xa như thế.
Gã ngẩng đầu lên và tiếp tục nhìn quanh bầu trời màu xanh lục qua cặp kính nhìn đêm của gã. Ra-đa APG-79 rất xuất sắc trong không chiến, nhưng không có được tầm xa như giàn ra-đa APS-145 khổng lồ mà chiếc E-2D Hawkeye mang trên lưng.
Theo phương thức hành quân thông thường, chiếc E-2D đang bay ở phía sau, cách xa khu vực chiến đấu, để cung cấp Cảnh Báo Sớm cho các máy bay tiêm kích. Với các cảm biến ra-đa mạnh mẽ và số nhân viên kiểm soát không lưu, chiếc Hawkeye có thể hướng dẫn phi công tiêm kích Mỹ bay đến mục tiêu và cung cấp chiến thuật cần thiết trong thời gian thực, khiến cho sự phối hợp tác chiến được nâng lên với một tốc độ và mức chính xác mà phần đông các quốc gia khác không thể nào bắt chước nổi.
Phi đội Hammer là một trong ba phi đội được giao cho nhiệm vụ càn quét máy bay địch trong chiến dịch này. Mỗi phi đội gồm có bốn chiếc F/A-18E Super Hornet có khả năng chiến đấu như một đơn vị, hay tách ra thành hai nhóm độc lập để giao chiến với các lực lượng địch khác nhau.
Monk là đội viên của Đại Úy Dan Coffee (tên gọi vô tuyến là Grinder), đội trưởng phi đội Hammer Flight. Nhiệm vụ của gã là không rời khỏi Grinder, tuân theo lệnh của viên phi công trưởng đội và im lặng trừ phi người ta hỏi đến mình.
Monk cũng không phiền hà gì. Bọn họ sẽ nhận được lệnh giao chiến bất cứ lúc nào và khi ấy là tới lúc cho bọn phi công Trung quốc nếm thử thứ mà chúng đã ban tặng cho Poker.
Ở đâu đó phía sau, cách họ khoảng 160 km, là một nhóm cường kích: một số máy bay vừa Hornet lẫn Super Hornet được trang bị cho hành động chống tàu trên mặt nước. Nhiệm vụ của nhóm này là hạ gục chiến tàu sân bay Trung quốc bằng phi đạn Harpoon và tên lửa Maverick (45).
Monk không nghĩ ngợi gì đến nhóm cường kích. Thật ra, gã cũng không nghĩ ngợi gì về nhiệm vụ này cả. Gã chỉ cứ mãi nhìn thấy cảnh quả tên lửa không-đối-không Trung quốc nổ nát buồng lái của Poker thôi. Không cảnh báo. Không khiêu chiến. Chỉ bắn một phát vào mặt. Và chiếc tiêm kích của Poker rơi rụng trong cụm khói lửa xuống đại dương.
Tiếng của nhân viên Kiểm Soát Không Lưu lại vang lên trong máy đeo tai của Monk. “Hammer, Bandits ba-không-năm, ở 60, Angels hai-không.”
Một giây sau, Grinder ứng thanh đáp lời. “Hammer.”
Monk lại liếc nhìn ra-đa. Vẫn chưa thấy bóng dáng quân địch, nhưng màn ảnh bây giờ lại có thêm 8 phù hiệu máy bay địch, được chuyển qua hệ thống tác chiến của gã từ hệ thống thông tin của chiếc Hawkeye.
Các lóng tay của Monk trắng bệch trên cần lái. Sẽ không còn bao lâu nữa.
Gã cảm thấy môi mình chuyển động và nghe được tiếng thì thầm của mình, nhưng phải mất vài giây gã mới ý thức ra mình đang nói gì. Lời của gã nghe như một bài kinh kệ. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến. Giờ đền tội…”
Gã cắt ngang và lại bắt đầu đảo mắt nhìn quanh bầu trời đêm. Chỉ vài giây sau, bài kinh kệ lại tiếp tục vang lên, như có một sức sống riêng vậy. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến…”
“Hammer, Bandits ba-không-không, ở 40, Angels hai-hai, nóng. Tiến hành!”
Monk nhe răng cười. Chính là cái chữ huyền bí ấy, ‘tiến hành’. Chìa khóa vào thiên đường. ‘Tiến đến kẻ địch và tiêu diệt chúng.’
Grinder đáp trả vẫn lạnh lùng như mọi khi. “Hammer.”
Nửa giây sau, Grinder đảo qua trái, rời khỏi đội hình và bắt đầu lao về phía đám Bandits. Phía sau, 3 viên phi công còn lại của phi đội Hammer đuổi theo: Chuck ‘Barnstormer’ Barnes, Sheila ‘Redeye’ Lewis và Monk.
Tiếng nói của Hammer vang lên qua băng tầng dành riêng cho phi đội Hammer. “Các Hammers, chia ra như chỉ định.”
Các khung chỉ định mục tiêu hiện lên trên màn ảnh trước mặt (head-up *) của Monk, bao quanh hai phù hiệu máy bay địch để chỉ định mục tiêu mà gã được phân công tiêu diệt.
(* head-up display là loại màn ảnh trong suốt chứa những ký hiệu, được chiếu lên từ bên dưới. Loại màn ảnh này cho phép phi công có thể đọc được những chỉ thị hay thông tin, mà vẫn có thể nhìn xuyên qua màn ảnh thấy cảnh vật bên ngoài.)
Monk bấm nút nói. “Hai, đã chia xong.”
Lời hắn được ngay lập tức nối tiếp bởi Barnstormer và Redeye.
“Ba, đã chia xong.”
“Bốn, đã chia xong.”
Nếu chỉ dùng máy truyền tin bằng miệng như khi xưa, cả quá trình chỉ định mục tiêu có thể tốn đến hai hay ba phút. Nhờ thông tin được chuyển thẳng từ Hawkeye, việc này chỉ mất ba giây thôi. Mọi người đều rõ ràng mục tiêu của mình là gì. Bây giờ, chỉ còn việc đến gần để lọt vào tầm tên lửa thôi.
Grinder bay lên độ cao 10,500 m và tăng tốc độ, để chiếm lấy ưu thế cao độ và tốc độ cho cuộc chiến sắp đến.
Monk cũng điều chỉnh tốc độ và cao độ của mình để giữ vững vị trí của mình bên phải của Grinder. “Giờ đền tội đến. Giờ đền tội đến…”
Khi còn cách 34 hải lý (65 km), một tiếng leng-keng điện tử báo cho Monk biết rằng ra-đa APG-79 của gã đã nhìn thấy mục tiêu. Gã liếc xuống màn ảnh để xác định rằng cả hai mục tiêu của gã đều ở trên màn ảnh. Chúng quả thật đang ở đó.
Gã chọn hai quả tên lửa AIM-120 AMRAAM (46), chỉ định mỗi quả cho một chiếc Bandit đã được giao cho gã và để cho máy vi tính kiểm soát tác chiến cho chúng ngắm nghía mục tiêu của chúng.
Màn ảnh Normalized In-Range Display (màn ảnh cho thấy mục tiêu đã bình thường hóa), hay thường được gọi là vòng tròn NIRD, xuất hiện trên màn ảnh head-up của gã. Một tên Bandit đã lọt vào khung xạ kích rồi, nhưng chiếc máy bay địch thứ nhì vẫn còn hơi ngoài tầm. Gã chờ cho đến khi đường vạch tượng trưng cho tầm xa của tên Bandit thứ nhì vượt qua vị trí 6 giờ trên vòng tròn NIRD.
Cả hai mục tiêu bắt đầu quay ngoặc đi....! Thiết bị cảnh báo của chúng đã phát hiện ra-đa của gã rồi! Đường vạch tầm xa của cả hai Bandits đều chạy dần sang trái, tiếp cận khung chỉ tầm bắn xa nhất. Gã chỉ có chừng 1,5 giấy trước khi chúng lọt ra khỏi khung xạ kích.
Bắn ngay bây giờ? Hay chờ một cơ hội tốt hơn?
Quyết định của gã cũng không phải là một quyết định có ý thức rõ rệt. Gã bật nút chọn vũ khí, nhắm chặt mắt lại và bấm cò hai lần.
“Fox Three (*)! Fox Three!”
Đó chính là ám hiệu cho biết đã phóng một quả tên lửa do ra-đa dẫn đường.
(người dịch: Fox Three, tạm dịch Chồn (cáo) Ba. Như đã chú thích, Foxtrot là ám ngữ cho chữ cái F. F ở đây viết tắt cho Fire (hỏa – lửa), ý nói ‘khai hỏa’. Một là súng, Hai là tên lửa tầm nhiệt, Ba là tên lửa ra-đa dẫn đường. Thí dụ: Fox Two = ‘tôi vừa phóng một tên lửa dẫn đường hồng ngoại, tầm nhiệt.’)
Xuyên qua mí mắt, Monk có thể thấy hai ánh chớp xanh lục khi hai quả tên lửa lao vào màn đêm. Hệ thống xử lý hình ảnh trong kính nhìn đêm của gã được thiết kế khiến phần mềm làm sáng không làm hại mắt của gã, nhưng gã không muốn bị mất khả năng nhìn trong đêm.
Hai quả AMRAAM vọt lên Mach 2 chỉ trong vòng vài giây và bắt đầu rút ngắn khoảng cách với hai chiếc Bandits. Ưu thế độ cao 4.000 m hơn máy bay địch khiến cho hai quả tên lửa ở vào tư thế lao xuống, trọng lực và lực quán tính càng làm tốc độ của chúng tăng lên trong lúc chúng vọt đến các máy bay Trung quốc đang quay lưng bỏ chạy.
Bên trái của Monk, Grinder cũng phóng 2 quả AMRAAM và bẻ ngoặc sang trái thật gắt để đưa phi đội của hắn đuổi theo các chiếc máy bay J-15 của địch.
Monk nhấn nút tăng tốc và đảo máy bay của mình qua trái để giữ vững vị trị của mình với đội trưởng.
Nhóm Bandits thả chaff, nhào và lộn dữ dội để cố gắng phá khỏi vòng kiềm tỏa của tên lửa, nhưng các quả AIM-120 được phóng đi quá gần và tốc độ của chúng quá mau. Hai cụm lửa nơi xa cho Monk biết rằng cả hai quả tên lửa của gã đã tìm được mục tiêu của chúng.
Chỉ hai giây sau, các quả AMRAAM của Grinder cũng bắt kịp Bandits của chúng và lại thêm hai phát nổ khác làm sáng rực bầu trời đêm.
Thế rồi thiết bị cảnh báo ra-đa của Monk cũng rú lên. Có kẻ nào đó đã tỏa định vào gã rồi.
Một mũi tên nhấp nháy trên màn ảnh head-up cho gã biết rằng mối đe dọa nằm ở hướng 4 giờ bên dưới. Gã bấm nút nói. “Hai, bị đóng đinh, 4 giờ, dưới! Quẹo phải.”
Không chờ câu trả lời, gã bẻ ngoặc qua phải thật gắt, chuyển đổi độ cao và tốc độ thành một sự thay đổi vị trí đột ngột. Bộ đồ bay G-suit (*) của gã bám chặt vào người gã như một con trăn khi các phần ở chân và bụng bóp chặt để máu của gã khỏi dồn xuống thân dưới. Gã hự lên liên tiếp trong suốt cái quẹo ấy, cố dùng sức co cơ bắp để ép máu vào thân trên và não bộ. Tầm nhìn của gã co rút lại, nhưng gã đã biết cực hạn của mình là gì, nên cũng không bị mù mờ đi.
(* Khi quẹo gắt ở tốc độ cao, lực quán tính sẽ làm cho máu dồn xuống chân và thân dưới của phi công hay người trên máy bay. Điều này làm cho óc bị thiếu máu. Hậu quả là mắt tối sầm lại và đôi khi bị ngất. Qua huấn luyện cực khổ, cơ thể có thể thích ứng dần. Ngoài ra, còn có các phương thức để giảm hậu quả, như gồng cơ bụng và chân để giúp duy trì huyết áp ở thân trên. Nhưng bắt buộc phải có là G-suit, bộ quần áo có những túi hơi ở chân và bụng; những túi hơi này tự động bơm phồng lên khi cần và xẹp xuống khi hết cần. Chữ G-suit (quần áo G) có nghĩa là quần áo để chống lại lực quán tính được đo bằng G, số trọng lực.)
Khi gã chuyển trở về bay thẳng, tiếng cảnh báo đã tắt. Gã đã thoát khỏi vòng tỏa định của ra-đa địch rồi, ít nhất là trong lúc này.
Chất adrenalin đang chảy cuồn cuộn trong huyết quản hối thúc gã phản kích, truy lùng và hạ sát tên phi công địch đã khóa cứng máy bay của gã, nhưng mà đó không phải là nhiệm vụ của gã.
Gã quay đầu máy bay trở về bên trái và bắt đầu tìm kiếm Grinder. Gã bấm nút nói. “Hai, trần truồng và mù lòa.” Nghĩa là, ‘Đây là Hammer Hai, tôi đã thoát khỏi ra-đa địch tỏa định, nhưng không thấy đội trưởng.’
Grinder trả lời nhanh chóng. “Một, mù. Rối nùi.” Nghĩa là, ‘Đây là Hammer Một, tôi cũng không thấy anh đâu. Trận đánh này đã biến thành mỗi người tự lo cho mình rồi.’
Monk đáp. “Hai.”
Grinder nói đúng, quả là rối nùi. Cả bầu trời đã trở thành một đám máy bay nhào lộn và bắn loạn xạ.
Monk kiểm tra ra-đa và đảo mắt nhìn quanh bầu trời. Gã nhìn thấy mục tiêu kế tiếp của mình và bắt đầu di chuyển để hạ sát thủ.
USS Towers:
“Mọi vị trí, Sonar đây. Ngư lôi địch đã lạc tỏa định rồi.”
Trên màn ảnh Aegis, hạm trưởng Silva quan sát phù hiệu ngư lôi địch chạy lệch đi xa khỏi chiếc Towers. Cuối cùng, cũng có một chuyện tốt.
Nàng vừa định phát ra một mệnh lệnh mới thì tiếng nói của viên sĩ quan trưởng nhóm Sonar lại vang lên trên mạng. “Mọi vị trí nghe đây, Sonar vừa nghe được nhiều âm thanh phía trước bên trái! Hướng đi một-không-ba và một-không-bảy. Nhận định sơ khởi: ngư lôi bạn!”
Bạn sao? Cái này làm mọi người chú ý.
Chuyên viên tác chiến dưới nước (USWE) chen vào mạng. “Sonar, đây là USWE. Lặp lại nhận định về các ngư lôi mới này.”
“USWE, Sonar đây. Chúng là bên bạn, thưa đại úy. Mark-48 của Mỹ và chúng đã tỏa định vào một mục tiêu lớn, hướng đi không-chín-không.”
“Sonar, USWE đây. Nhận định về mục tiêu là gì?”
“USWE, Sonar đây. Không rõ, thưa đại úy. Tôi nghe được tiếng chân vịt và tiếng băng rộng nhiều lắm, nhưng tiếng băng hẹp quá hỗn loạn để có thể nhận rõ. Không biết là ai, nhưng mà nó vừa chạy hết tốc độ để tránh mấy quả 48 ấy.”
Silva bấm nút nói. “Sonar, đây là hạm trưởng. Có dấu vết gì của chiếc tàu ngầm vừa phóng những quả Mark-48 kia không?”
“Aaa… Thưa không ạ. Không rõ bằng hữu của chúng ta là ai, nhưng hắn chạy êm thắm lắm. Chúng tôi không nghe được một chút gì từ nơi hắn cả.”
“Hắn muốn im lặng bao nhiêu cũng được.” Viên TAO nói. “Miễn là hắn đuổi kẻ xấu khỏi đuôi chúng ta là được.”
Silva gật đầu. “Anh nói đúng đó.”
Trên màn ảnh chiến thuật, hai phù hiệu ngư lôi màu xanh lơ đang lao đến một phù hiệu tàu ngầm địch.
Silva nhướng một bên lông mày. “Tôi mà biết được tên nào đang chỉ huy chiếc tàu ngầm bạn ấy, tôi sẽ hôn thật mạnh vào môi hắn.”
Một gã hạ sĩ quan trẻ buộc miệng lên tiếng trước khi kịp ngừng. “Cho dù là một cô gái sao, hạm trưởng?”
Silva vờ trừng mắt nhìn gã thủy thủ. “Thủy thủ, có phải anh định hỏi thăm về sở thích của tôi không?”
Hai tai gã thủy thủ đỏ bừng. “Không, thưa ông! À, quên, thưa cô!”
Silva quay trở về màn ảnh Aegis. “Nếu thiên thần phù hộ cho chúng ta là phụ nữ, tôi sẽ bắt tay cô ta và đãi cô ấy một chai bia.”
“Ý kiến hay đó, hạm trưởng.” Gã thủy thủ nói.
Silva quan sát màn ảnh chiến thuật. “TAO, tại sao chúng ta không bắn vào mục tiêu trên mặt nước kia nữa?”
Viên TAO tằng hắng. “Nó không còn ở đó nữa rồi, hạm trưởng. SPY không dò được cái gì đủ lớn để phản chiếu sóng ra-đa cả.”
“OK.” Silva nói. “Như vậy thì nhiệm vụ của chúng ta đã hoàn thành rồi. Chúng ta sẽ chờ đến khi đám nhóc phi công tiêm kích kia càn quét xong lớp phòng vệ trên không của địch rồi chúng ta sẽ đến gần và vớt những người còn sống sót.”
Lời tuyên bố này được tiếp nhận trong im lặng.
Silva quan sát các gương mặt nam và nữ chung quanh nàng. “Tôi biết một số các vị đang nghĩ điều gì.” Nàng nói. “Nhưng mà, nếu chúng ta đã mang danh là người tốt, thì chúng ta phải hành sự như người tốt. Khi trận chiến chấm dứt, chúng ta sẽ không bỏ lại bất cứ một thủy thủ nào trong nước cả. Tôi không cần biết họ mặc đồng phục màu sắc gì.”
Viên TAO chậm rãi gật đầu. “Aye-aye, thưa hạm trưởng.”
Silva hít một hơi thật sâu và thở ra thật dài. “Có thể đây không phải là một mệnh lệnh mà hạm trưởng Bowie sẽ ban ra. Nhưng mà đó là mệnh lệnh của tôi. Và nó không có chỗ để bàn cãi.”
Hai khóe môi của viên TAO hơi nhếch lên như muốn cười. “Cô hiểu lầm chúng tôi rồi, thưa cô. Đây chính là thứ mệnh lệnh mà hạm trưởng Bowie sẽ ban ra đó.”
Khắp trong phòng chỉ thấy những cái đầu gật gù đồng ý.
Từ một nơi nào đó trong vùng tranh tối tranh sáng, một tiếng nói vang lên. “Thôi được rồi, quý vị. Mọi người đã nghe hạm trưởng nói rồi đó. Cứ thế mà làm đi.”
Hammer Hai:
Monk nhìn chiến công thứ ba trong đêm nay của gã vỡ vụn trên không, các mãnh vở cháy xém rơi lả tả xuống đại dương u ám. Kể cả hai chiếc J-15 mà gã đã hạ gục trong lần giao phong trước với quân Trung quốc, đến nay gã đã có được 5 chiến công rồi. Monk vừa chính thức trở thành một ‘ace’ (một phi công có ít nhất 5 chiến công trên không), nhưng sự việc này thật xa vời trong tâm trí gã.
Gã không màn gì đến danh dự, phần thưởng hay quyền có thể khoác lác. Gã chỉ đang tìm một tên Bandit khác để tiêu diệt thôi.
Nhiệm vụ đã tiến hành y theo kế hoạch. Công cuộc càn quét bằng máy bay tiêm kích đã dọn sạch lớp phòng thủ trên không đủ cho nhóm cường kích len vào và thi hành công tác của họ. Sau khi trúng 10 hay 12 quả Harpoon được phóng từ máy bay, chiếc tàu sân bay Trung quốc, chiếc Liêu Ninh, bây giờ đang bập bềnh trên sóng biển, không còn động lực gì nữa.
Xuyên qua cặp kính nhìn trong đêm, Monk có thể thấy chiếc tàu bị thương nằm thật thấp trên mặt nước, nghiêng qua bên phải một cách nặng nề, từng cụm lửa bốc lên từ nhiều nơi trên sân bay của nó.
Monk kéo ánh mắt ra khỏi chiếc tàu đang bốc cháy và tiếp tục đảo mắt tìm tòi một chiếc máy bay địch khác trên bầu trời. Ba hay bốn giây sau, gã đã tìm được một tên địch. Hay đúng hơn là tên ấy đã tìm thấy gã.
Quả tên lửa đang lao đến chắc phải là một quả tầm nhiệt bởi vì trang bị cảnh báo của Monk không hề phát hiện ra dấu hiệu ra-đa địch nào cả. Gã đang bay thấp và nhanh thì bị quả tên lửa đánh trúng. Sự chấn động thật mạnh mẽ và bất ngờ y như bị một chiếc xe hơi tông thẳng vào vậy.
Mũ bảo hộ của gã đập vào bên trong lồng kính và bật ra với một sức mạnh làm đầu óc gã tê dại và đèn cảnh báo bắt đầu nhấp nháy khắp nơi trong phòng lái. Chiếc Super Hornet, mới trước đó không lâu còn nhanh nhẹn và linh hoạt, đã biến thành một con thú loạng choạng và hấp hối.
Phòng lái tràn ngập khói và động cơ bên trái của gã đang bốc cháy. Gã đang mất động lực và cao độ một cách nhanh chóng, và mặt biển đen ngòm đang lao đến để chạm mặt với gã.
Gã bấm nút nói. “Đây là Hammer Hai. Tôi bị trúng đạn và đang rơi. Đây là Hammer Hai. Tôi bị trúng đạn và đang rơi.”
Gã buông tay khỏi nút nói và bắt đầu với lấy tay nắm của thiết bị bắn ghế ngồi ra khỏi máy bay. Nhưng rồi gã nhìn lại chiếc tàu sân bay Trung quốc, với những đám lửa màu xanh lục trong cặp kính nhìn đêm.
Có lẽ vẫn còn thời gian để gã làm cho chiếc F-18 đang dãy chết bay một phi vụ cuối cùng. Không có gì đặc biệt: chỉ một cái quẹo đơn giản và thay đổi cao độ mà thôi.
Cần lái gần như không còn điều khiển máy bay được nữa rồi, mà gã cũng gần hết thời gian rồi. Gã vật lộn với cần lái để đưa mũi máy bay qua trái, rồi chúi mũi xuống để đâm xuống theo một góc độ thấp về phía chiếc chiến hạm địch đã bị thương nặng, đang nằm trong khung của màn ảnh head-up của gã.
Lại một vụ tiếp cận tàu sân bay trong đêm tối, nhưng lần này sẽ không có đáp xuống. Sẽ không có cảm giác bị kéo giật lại khi dây cáp giữ chiếc máy bay của gã ngừng nhanh lại. Sẽ không có cà-phê nóng và tiếng cười đùa trong phòng họp để báo cáo về chuyến bay vừa qua. Lần này thì không phải là đáp xuống như thế.
Hình dáng đang bốc cháy của chiếc tàu sân bay càng lúc càng lớn hơn. Khoảnh khắc va chạm đang lao đến gần hơn.
Gã có thể làm được việc này. Gã có thể đưa chiếc Hornet đến tận cùng, cắm thanh kiếm của gã vào ngay giữa tim của địch nhân. Đưa mọi thứ đến điểm kết thúc, trong một trận tai biến nóng cháy dữ dội.
Sau này, gã không làm sao nhớ được lúc mình với lấy tay nắm để thoát hiểm. Nhưng đột nhiên chiếc vòng màu vàng và đen ấy lại nằm trong tay gã. Gã khép chặt các ngón tay quanh chiếc vòng và kéo mạnh.
Lồng kính bị bắn đi và lực gia tốc đánh mạnh vào phần dưới cột xương sống của gã khi chiếc ghế có lắp động cơ phản lực bắn ra khỏi máy bay, thẳng vào bầu trời đêm. Thế giới của gã biến thành một mớ hỗn loạn giữa đêm tối và gió gào.
Thế rồi chiếc dù nhỏ mở ra, kéo theo chiếc dù lớn và gã bay lơ lửng xuống đại dương bên dưới cái vòm của chiếc dù bằng vải ni-lông.
Monk muốn được nhìn thấy phát va chạm này. Gã cần phải thấy nó. Gã cầu nguyền rằng mình được quay mặt đúng phương hướng khi nó xảy ra.
Có lẽ là may mắn. Có lẽ là vận mệnh. Hay cũng có thể chỉ là chiều gió. Nhưng chiếc dù của gã chậm rãi quay tròn trong khi gã rơi xuống và chiếc chiến hạm địch lọt vào mắt gã ngay đúng lúc vụ va chạm xảy ra.
Chiếc Hornet đang hấp hối của gã tông vào thượng tầng kiến trúc của chiếc tàu sân bay Trung quốc với tốc độ mấy trăm hải lý một giờ. Động năng, số lượng dầu trên chiếc máy bay và số đạn dược còn lại nhập lại vào nhau thành một quả cầu lửa và hủy diệt.
Có thể đó không phải là đòn sát thủ. Có thể là các quả phi đạn đánh trúng cũng đã đủ rồi. Nhưng mà đối với Monk, đây chính là đòn sát thủ. Quan cảnh ấy nhìn giống như viên đá đã đánh gục gã khổng lồ Goliath trong truyền thuyết, hay một cây cọc cắm sâu vào tim một con quái thú trong thần thoại.
Lần đầu tiên từ khi Poker bỏ mạng, Monk cảm thấy mình đang bắt đầu cười.
“OK, bọn khốn à,” gã nói nhỏ, “giờ thì chúng ta huề rồi nhé.”
Chú Thích:
(45) AGM-65 Maverick là tên lửa không-đối-đất (hay hạm) do Mỹ thiết kế và sản xuất, và được sử dụng bởi rất nhiều quốc gia trên thế giới. Đây là loại tên lửa tầm trung (tùy độ cao được phóng, nhưng hơn 22 km), được triển khai từ năm 1972 và liên tục nâng cấp cho đến ngày nay. Tên lửa này được sử dụng rộng rãi trên nhiều chiến trường kể cả Việt Nam vào năm 1972. Có rất nhiều phiên bản, khác nhau ở tầm hữu hiệu (động cơ), bộ phận cảm biến dẫn đường (laser, TV – phiên bản đầu tiên dùng đánh cầu ở Việt Nam, hồng ngoại tuyến, tự động nhận diện mục tiêu dựa theo hình ảnh kỹ thuật số được nạp vào tên lửa dùng để đánh những mục tiêu cố định như cầu, đường ray, kiến trúc, v.v.), đầu đạn (hai loại chính là chống tăng hạng nặng nguyên tắc nổ lõm 57 kg, chống mục tiêu cứng như cầu đường, nhà cửa, tàu, v.v. nặng 136 kg). Ảnh kèm theo cho thấy tên lửa đang được lắp vào F/A-18 và một chiếc F/A-18C đeo Maverick bên cánh phải và bom laser bên trái.
(46) AIM-120 Advanced Medium-Range Air-to-Air Missile, hay AMRAAM (phát âm ‘am ram’) là tên lửa không-đối-không tầm xa tiên tiến của Mỹ, được triển khai từ năm 1991 và được nhiều quốc gia trên thế giới sử dụng. Từ năm 1991 cho đến ngày nay, tên lửa này đã qua nhiều đợt nâng cấp, từ tầm hữu hiệu 55 km lên đến quá 160 km. Vận tốc là Mach 4. Khi mới được phóng đi, AMRAAM sẽ được ra-đa trên máy bay hướng dẫn đến mục tiêu; khi đạt đến một khoảng cách gần mục tiêu hơn, tên lửa sẽ bật ra-đa được trang bị và tự động tìm đến mục tiêu; do đó, nó thuộc loại bắn-và-quên, mà không cần phải được liên tục hướng dẫn đến mục tiêu bởi xạ thủ. Ngoài ra, tên lửa còn có khả năng đuổi theo điểm quấy nhiễu (thường là trang bị quấy nhiễu lắp trên máy bay địch) khi phát hiện ra ra-đa của mình bị mục tiêu quấy nhiễu và có khả năng mất kiểm soát. Ngoài phiên bản không-đối-không ban đầu, tên lửa này còn có phiên bản đất-đối-không. Đây là một tên lửa cực kỳ hữu hiệu, đạt được nhiều chiến công trong nhiều trận không chiến từ năm 1992. Chiến tích gồm có sáu MiG-29, một MiG-25, một MiG-23 và một SoKo J-21 Jastreb (Nam Tư). Ngoài ra còn có 2 trực thăng Black Hawk của Lục quân Mỹ bị bắn lầm.
Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva - Jeff Edwards Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva