Chương 54
hi Tess và Reilly bước xuống những bậc thang kim loại và đứng trên mặt nhựa đường của phi trường Dalaman thì đã giữa trưa và cả hai đều cảm thấy mệt lả. Giấc ngủ trong vài tiếng đồng hồ mà họ cố xoay xở trên chuyến máy bay xuyên đại dương cũng giúp ích được đôi chút, nhưng thực sự họ cần một giấc ngủ thực sự ở trên giường trước khi tiếp tục chuyến hành trình của mình. Chẳng có thời gian cho việc ngủ nghê đó. Thay vào đó, họ lại càng mệt mỏi hơn với ba tiếng đồng hồ chờ đợi ở phi trường Istanbul trước khi đáp một chuyến bay ngắn xuống vùng duyên hải phía Nam, từ đó họ bắt đầu chuyến đi đến đảo đầy gian khổ.
Reilly dành một phần thời gian chờ đợi ở Istanbul bên chiếc di động, tóm tắt ngắn gọn tình hình cho Aparo trước khi có một cuộc trao đổi giận dữ với Jansson, ông ta vẫn hoài nghi về cái quyết định vội vàng của Reilly – đi theo Tess thay vì túm nàng lôi về Federal Plaza. Thời gian còn lại anh dùng để là việc với viên sĩ quan liên lạc người của Cục, một anh chàng bụng phệ tên Vedat Ertugrul, anh ta lái xe đến gặp họ và giúp giải quyết việc nhập cảnh mà không có hộ chiếu của Reilly trở nên dễ dàng. Ertugrul chỉ mới được thông báo vài ngày trước đó về khả năng Vance có thể sẽ xuất đầu lộ diện ở khu vực của anh ta. Ertugrul khẳng định là cho đến nay chưa có điểm phụ trách nhập cảnh nào báo cáo điều gì, trước khi anh ta thông qua những công tác chuẩn bị vềậu cần và các hình thức hỗ trợ. FBI không có nhân viên đặc vụ thường trực ở Thổ Nhĩ Kỳ. Các đặc vụ gần nhất đang ở Athens, để giúp cảnh sát địa phương điều tra một vụ đánh bom xe mới đây. Mối quan hệ với chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ đang trong tình hình căng thẳng nhất do tình trạng lộn xộn kéo dài liên miên ở Iraq. Ertugrul đảm bảo với Reilly là nếu cần, anh ta có thể cử một cảnh sát địa phương tháp tùng họ ở Dalaman. Reilly cảm ơn và từ chối lời đề nghị của anh ta, vì không muốn giải quyết với hàng rào ngôn ngữ và nạn quan liêu ở địa phương. Reilly chỉ yêu cầu Ertugrul đảm bảo họ được thông báo kịp thời về sự hiện diện của Vance trong khu vực của họ. Anh ta phải giữ liên lạc và xin quân đội trợ giúp nếu cần thiết, dù Reilly vẫn ngỡ rằng đây là việc mà có lẽ anh phải xử lý một mình.
Reilly cũng dành thời gian tạm nghỉ để mua vài bộ quần áo phù hợp hơn. Cái ba lô mỏng trong tay anh giờ chứa bộ quần áo làm việc anh vừa thay và thứ giấy tờ mà Ertugrul đưa cho anh sử dụng thay cho hộ chiếu. Nó cũng đựng một cái điện thoại vệ tinh làm bằng iridium, thông qua cổng EMSS chuyên dụng của Bộ Quốc phòng đặt ở Hawaii, sẽ giúp Reilly liên lạc được với thế giới bên ngoài từ gần như bất cứ địa điểm nào trên hành tinh.
Trong ba lô còn có khẩu súng ngắn hiệu Browning Hi-Power của Reilly mà Ertugrul đã ưu ái cung cấp thêm một số băng đạn và đạn.
Tess cũng nhân cơ hội này gọi về nhà dì để nói chuyện với Kim và bà Eileen. Quả là một cuộc nói chuyện khó khăn. Tess nhớ Kim và còn cảm thấy thậm chí còn nhớ hơn khi nghe thấy giọng con bé trong điện thoại, mặc dù nàng cảm thấy an ủi đôi chút vì biết rằng con gái mình đang có một khoảng thời gian tuyệt vời ở đấy. Ngược lại phải nói với bà Eileen việc nàng định làm xem ra khó khăn hơn nhiều. Tess cố hết sức trấn an mẹ nàng và trong nỗi tuyệt vọng nàng đã phải viện việc Reilly đang ở đây với mình – nhưng điều này chỉ khiến bà lo lắng hơn.Vì sao một đặc vụ FBI phải tháp tùng Tess nếu không có gì nguy hiểm, mẹ nàng thắc mắc. Tess vụng về đưa ra vài lời giải thích về việc nàng có mặt ở đấy thuần tuý với tư cách là một chuyên gia bên ngoài, rồi lấy lời thông báo lên máy bay vọng xuống từ phía trên như một cái cớ để kết thúc cuộc nói chuyện ngắn ngủi. Sau khi gác máy, Tess cảm thấy rất khó chịu với cuộc nói chuyện. Nhưng nàng biết chẳng thể nói gì hơn với mẹ nàng, không kể việc nàng không nói cho bà biết là mình đã đi rồi, mà lại không làm cho bà thêm lo lắng.
Tess chỉ kịp nhận ra người đàn ông có gương mặt vàng bủng vô tình đâm sầm vào nàng lúc nàng băng qua nhà khách đông nghẹt người để đến phòng vệ sinh nữ chỉ vài phút sau cuộc gọi khó khăn kia. Ông ta làm nàng đánh rơi túi hành lý mà nàng đang kéo theo phía bên phải, nhưng đã lịch sự nhặt nó lên cho Tess và chỉ tiếp tục đi khi chắc chắn là nàng vẫn ổn.
Tess cũng nhận ra người ông ta nồng nực mùi thuốc lá, nhưng rồi theo những gì nàng nhớ thì hầu hết đàn ông ở đây đều hút thuốc lá. Điều mà nàng không nhận ra là một mảnh đen nhỏ xíu, kích thước bằng khoảng đồng xu ông ta đã gắn được vào cái bánh xe nhỏ xíu ở dưới đấy túi.
Với cái túi hành lý giờ được kéo theo an toàn phía sau, Tess cùng Reilly bước qua khỏi nhà khách ngột ngạt và hỗn độn đến bàn cho thuê xe. Erturgul mang đến vài đồ tiếp tế gom vội, gồm một thùng nước đóng chai, hai cái túi ngủ, một cái lều nilon. Chỉ lát sau, họ đã ngồi trong một chiếc Mitsubishi Pajero bốn bánh khá tả tơi, trên con đường mòn đã có hàng thế kỉ nay của nhúm hiệp sĩ chiến binh bị đắm tàu.
Reilly cầm lái còn Tess đảm nhận vai trò hoa tiêu chỉ đường. Nàng sử dụng một bảng phân loại bản đồ và các ghi chú để cố vẽ lại con đường Al-Idrissi đã nhắc đến trong những ghi chép của ông ta đồng thời kết hợp nó đi với những điều rút ra từ lá thư của Aimard.
Khi bờ biển đã lùi ra phía sau, những ngôi nhà chen chúc sát bên nhau và những toà nhà ít tầng nhanh chóng nhường chỗ cho một khung cảnh êm đềm hơn. Những trảng thực vật mênh mông vùng duyên hải Tiểu Á đã được bảo vệ như những khu bảo tồn trước khi sân bay ở Dalaman được xây dựng, khiến cả khu vục này không bị ảnh hưởng xấu bởi các khu nghỉ dưỡng phục vụ cho thị trường đại chúng. Tess và Reilly nhanh chóng thấy mình đang lái xe qua khu cảnh mang dáng dấp đồng quê của những điền sản lâu đời hơn, mặt tiền là những bức tường đã thô ráp và hàng rào gang gỉ sét, nằm yên lặng dưới bóng râm của những hàng thông. Hai bên vệ đường, đất đai có vẻ màu mỡ và phì nhiêu, dày đặc bụi cây và lác đác những khoảnh rừng. Ở phần đất phía cao hơn phía bên phải tay, là cây cối rậm rạp.
Chưa đến một giờ họ đã tới được Kõycegiz, thị trấn nhỏ nằm trên rìa một hồ nước rộng và bí ẩn, đã từng là một bến cảng tự nhiên. Những ngôi mộ trên vách đá của người Carian, được chạm khắc cầu kỳ sâu trong các núi đá quanh hồ và được bảo tồn cẩn thận một cách đáng kinh ngạc, lờ mờ hiện ra từ xa, buồn rầu nhìn thấy họ như lời nhắc nhở về một trong những nền văn minh từng hiện diện ở khu vực này.
Đi quá thị trấn không quá ba cây số, Tess chỉ đường cho Reilly rời khỏi con đường chính. Mặt đường nhựa nứt nẻ và đầy ổ gà; hành trình từ đây hẳn sẽ cam go, nhưng cũng từ lúc này hệ thống giảm xóc hiệu quả của chiếc Pajero bắt đầu phát huy tác dụng.
Họ vượt qua những lùm cây chanh và ôliu, qua những cánh đồng ngô và vườn ươm cà chua trên những con đường có hai hàng cây hương trầm nằm dọc hai bên, sắc màu rực rỡ và mùi hương ngây ngất giúp đánh thức các giác quan bị thui chột vì mệt mỏi của họ sau những chuyến bay dài. Và rồi họ lại tiếp tục leo lên, tiến vào trong những ngọn núi phủ kín màu xanh cây cối, thỉnh thoảng lại được điểm bằng một ngôi làng vẫn còn đang say ngủ.
Xung quanh họ là những dấu tích nghèo nàn, nguyên sơ và đầy ấn tượng về một nếp sống đã có trên một ngàn năm tuổi, một lịch sử sống động đã biến mất từ lâu của một phương Tây thịnh vượng. Vào xa hơn, những cảnh tượng bất ngờ và tươi vui hiện ra như chào đón họ; một cô gái vừa ngồi quay len vừa ngồi canh chừng đàn cừu, một tiều phu oằn lưng xuống vì bó củi ngất ngưởng trên lưng, một đôi bò đang nặng nhọc kéo cày dưới ánh chiều tà.
Thỉnh thoảng, Tess cảm thấy cực kỳ khích động khi phát hiện những điều có trong ghi chép của Al- Idrissi khớp với lộ trình của họ. Do vậy, hầu hết những suy nghĩ của nàng không phải là về hành trình của họ mà thay vào đó lại hướng vào những hiệp sĩ sống sót, những người từng lê bước chân nặng nhọc trong tuyệt vọng qua vùng đất này cái thuở xa xưa kia.
Đến giờ thì ánh sáng đã nhạt màu, hai ngọn đèn trước của chiếc SUV[46] phải bật lên để soi đường. Con đường biến thành một đường nhỏ hẹp, lởm chởm sỏi đá.
“Tôi nghĩ ngày hôm nay đến đây là xong,” Reilly lên tiếng.
Tess tham khảo tấm bản đồ. “Nó không còn xa nữa đâu. Tôi chắc chúng ta chỉ còn cách khoảng bốn mươi, năm mươi cây số thôi.”
“Có thể nhưng trời đang tối dần và tôi chẳng muốn đâm sầm vào một tảng đá hoặc cái gì đó và bị gãy trục xe ở ngoài này chút nào cả.”
Tess nôn nóng muốn tới ngay được đích, nhưng lúc Reilly thận trọng đẩy chiếc Pajero đi vào một vạt đất tương đối bằng phẳng, nàng phải thừa nhận là anh có lý. Bây giờ, thậm chí một cái lốp xe bị xì hơi cũng là điều tệ hại rồi.
Cả hai xuống xe và nhìn xung quanh. Những dấu vết yếu ớt cuối cùng của mặt trời hoàng hôn ửng lên rực rỡ sau những cụm mây xám hồng, nổi bật giữa một bầu trời trong veo. Trên đầu, vầng trăng lưỡi liềm có vẻ như gần một cách bất thường. Những ngọn núi xung quanh họ vẫn chìm trong tĩnh lặng và hoang vắng, bị bao phủ bởi sự tĩnh lặng đầy bối rối mà Reilly vốn không quen. “Có thị trấn nào gần đây để nghỉ lại không?”
Tess kiểm tra lạ bản đồ. “Chẳng có cái nào gần cả. Thị trấn gần nhất cách đây khoảng mười cây số, hướng ngược trở lại.”
Reilly nhìn quanh thật nhanh kiểm tra địa thế khu vực và quyết định là khu vực này có thể dùng làm chỗ nghỉ qua đêm như bất cứ mọi nơi nào khác. Anh bước tới của chiếc SUV. “Xem thử anh chàng ở Istanbul cho chúng ta cái gì nào?”
Trong lúc Reilly bận rộn lắp thanh giằng bằng nhôm cuối cùng và dựng lều thì Tess cũng loay hoay nhóm lên một đống lửa nhỏ. Sau đó họ hăm hở lục lọi thùng thực phẩm Ertugrul cung cấp, chén sạch bay từng lát xúc xích basterma và món borek dùng chung với pho mát kasseri và uống nước khoáng đóng chai.
Reilly nhìn ánh mắt Tess sáng lên lúc nàng mở hộp cactông nhỏ, lấy ra một miếng bánh lokma rồi ăn nghiến ngấu, những ngón tay nàng ướt đẫm sirô.
“Anh chàng nhân viên địa phương của các anh đúng là trời cho.” Tess lúng búng nói trước khi cho một miếng bánh khác vào miệng. “Anh ăn đi. Ngon lắm. Lần trước, khi ở đây, tôi ăn không biết chán. Ấy là vì lúc đó tôi đang mang thai.”
“Vậy điều gì đã đưa Vance đến đây?” Reilly thắc mắc lúc ăn thử một miếng bánh.
“Cha tôi lúc đó đang làm việc ở một công trình khai quật không xa ngọn Ararat Anomaly. Vance khao khát muốn được xem qua và cha tôi đã mời anh ta đến.” Tess giải thích làm thế nào mà năm 1959, một máy bay gián điệp U-2 trên đường trở về sau một chuyến bay do thám ở Liên bang Xô Viết lúc bay ngang qua Thổ Nhĩ Kỳ đã chụp được vài tấm hình làm các chuyên gia phân tích ảnh của CIA nhức óc suy nghĩ cả mấy năm trời. Rốt cuộc tin tức cũng rò rỉ ra ngoài, vào cuối những năm 90, cuối cùng những tấm ảnh cũng được công bố, gây ra một sự xáo động nhỏ. Trong những ngọn núi xứ Armenia, không xa phía dưới đỉnh, là một vật trông giống như một chiếc tàu. Những tấm hình cận cảnh cho thấy đó là ba cái sườn ngang lớn cong cong bằng gỗ của sàn tàu, giống như một phần thân của một con thuyền lớn.
“Con thuyền Noah,” Reilly thốt lên khi anh nhớ lại những cái từ rất mơ hồ trên báo chí.
“Rất nhiều người đã bị nó lôi cuốn, kể cả cha tôi. Vấn đề ở đây là ngay cả khi Chiến Tranh Lạnh đã bắt đầu đi vào hồi kết, khu vực này vẫn còn rất nhạy cảm. Ngọn núi này chỉ cách biên giới Nga khoảng hai mươi cây số, cách Iran chưa đến ba mươi cây số. Một vài người được cấp phép đã thử leo lên để xem nó thực sự là cái gì. James Irwin là một trong số những người đó. Một phi hành gia. Đã từng đặt chân lên mặt trăng, và sau này cải đạo theo Thiên Chúa Giáo. Ông ta cố leo lên để có được cái nhìn cận cảnh hơn về Ngọn núi Dị thường.” Nàng dừng lại. “Trong lần leo lên thứ hai, ông đã bị tử nạn.”
Reilly cau mày. “Vậy cô nghĩ thế nào? Liệu đó có phải là Con thuyền Noah không?”
“Người ta đã nhất trí đấy không phải là Con thuyền Noah. Chỉ là một tảng đá hình thù kỳ dị.”
“Nhưng cô nghĩ thế nào?”
“Tôi không biết. Chưa có ai thực sự đến được đó hay chạm vào nó. Điều mà chúng ta biết là câu chuyện về một trận đại hồng thủy và một người đàn ông cùng với chiếc thuyền và một đám súc vật, câu chuyện có trong các văn bản đã chu du cả một chặng đường dài tìm về với vùng Lưỡng Hà, những văn bản có trước Kinh Thánh cả ngàn năm. Điều đó làm tôi nghĩ có thể một chuyện gì đó giống như vậy đã thực sự xảy ra. Không phải là toàn bộ thế giới bị ngập lụt. Chỉ là một khu vực rộng lớn nào đó của vùng này. Và một người đàn ông đã sống sót, câu hcuyện của ông ta đi vào huyền thoại.”
Có điều gì đó trong cách nàng nói có vẻ như quá rõ ràng và dứt khoát. Không phải Reilly tin câu chuyện về Con thuyền Noah. Nhưng... “Buồn cười thật đấy,” Reilly nói.
“Cái gì cơ?”
“Tôi nghĩ những nhà khảo cổ, so với tất cả mọi người, sẽ bị lôi cuốn vào những bí ẩn của quá khứ vì có đầu óc tưởng tượng phong phú hơn những người khác, có ý thức lục vấn về những gì có thể xảy ra vào một thời kỳ quá ưa và khác biệt với chúng ta ngày nay... nhưng cách tiếp cận của cô thì lại rất logic và hợp lý. Việc này không loại bỏ sự... biết nói thế nào nhỉ, sự huyền bí của nó đấy chứ?”
Tess chẳng có vẻ gì là thấy có bất kỳ điều gì nghịch lý về việc này. “Tôi là một nhà khoa học, Sean à. Tôi cũng như a..h, tôi quan tâm đến những sự thật không thể chối cãi. Khi khai quật, tôi tìm kiếm những bằng chứng cho thấy người ta đã sống, đã chết, đã chiến đấu trong chiến tranh, và đã xây dựng nên những thành phố như thế nào... Tôi để những câu chuyện thần thoại và truyền thuyết cho những người khác.”
“Vậy nếu như nó không thể được giải thích một cách khoa học...”
“Thì nó có lẽ đã không xảy ra.” Nàng đặt hộp bánh lokma xuống rồi lấy khăn lau mặt trước khi uể oải ngã lưng xuống và nghiêng người đối mặt với Reilly. “Tôi cần hỏi anh một chuyện.”
“Cứ hỏi đi.”
“Lúc ở phi trường JFK”
“Ừ...”
“Sao anh không lôi tôi ra khỏi cái máy bay đó? Anh có thể bắt tôi kia mà, đúng không? Tại sao anh không làm như vậy?”
Từ dấu hiệu mơ hồ nhất của nụ cười và tia sáng lấp lánh trong mắt nàng, Reilly biết Tess đang muốn nói gì. Nàng đang dẫn dắt câu chuyện, và điều này cũng khiến anh cảm thấy ngần ngại khó chịu đôi chút khi buộc phải đi theo sự dẫn dắt của nàng. Và giờ, Reilly tránh né bằng một câu trả lời nước đôi, “Tôi không biết,” rồi nói thêm “Tôi biết là cô sẽ thực sự nổi điên lên và có lẽ cô sẽ la hét đến sập nhà nếu tôi giữ cô ở lại.”
Tess nhích lại gần hơn. “Quả đúng là tôi sẽ làm như vậy.”
Cảm thấy tim mình khẽ đập nhanh hơn, Reilly loay hoay đổi tư thế, cúi xuống và chồm lên một chút để đối mặt với Tess. “Hơn nữa... tôi đã nghĩ là, thôi thì mặc kệ, cứ để xem cô ta có thông minh như cô ta nghĩ hay không.”
Tess lặng lẽ vươn người lên gần anh hơn. Bây giờ, mặt nàng chỉ cách mặt Reilly vài phân, ánh mắt nàng lướt trên mặt anh. Nụ cười rạng rỡ trên gương mặt“Anh mới cao thượng làm sao!”
Bầu trời, khu rừng, lửa trại... thật hoàn hảo. Reilly cảm nhận hơi ấm tỏa ra từ đôi môi nàng, mời gọi đôi môi anh, và trong khoảnh khắc ngắn ngủi, Reilly cảm thấy mọi thứ khác như biến mất. Phần còn lại của thế giới như không còn tồn tại.
“Tôi có thể nói gì với cô đây, tôi thuộc loại đàn ông cao thượng. Đặc biệt là khi anh đó đi... hành hương.”
Nàng chộp ngay khoảng thời gian anh ngừng lại. “Vậy cứ cho là anh ở đây để bảo vệ tôi,” nàng thì thầm, “tôi nghĩ điều đó có vẻ như khiến anh trở thành Hiệp sĩ Đền Thánh của riêng tôi.”
“Đại loại là vậy.”
“Anh biết đấy.” Tess trầm ngâm, nhìn Reilly bằng ánh mắt tinh nghịch, “theo sách chỉ dẫn chính thức của các Hiệp sĩ Đền Thánh thì anh phải đứng gác suốt đêm khi những người hành hương đi ngủ.”
“Cô chắc chắn về điều đó”
“Chương sáu, điều bốn. Anh kiểm tra lại mà xem.”
Cảm giác như là không có thật.
“Anh nghĩ mình có thể đảm đương được việc đó chứ?” Tess hỏi.
“Không hề gì. Đó là những gì mà Hiệp sĩ Đền Thánh chúng tôi làm.”
Nàng mỉm cười. Và cùng với nụ cười đó, anh nghiêng người hôn nàng.
Reilly tiến lại gần và nụ hôn trở nên cuồng nhiệt hơn. Cả hai như tan chảy vào nhau, đắm chìm trong khoảnh khắc ấy, tâm trí họ không còn nghĩ suy gì nữa, bị cuốn trôi bởi sự bùng cháy của cảm giác, xúc giác và khứu giác – và rồi cái gì đó bỗng ùa đến, một làn sóng dội ngược quen thuộc lại cuồn cuộn dâng trào, đẩy tâm trí anh đến một nơi tăm tối hơn, tới với gương mặt người mẹ đau khổ của anh và tới một người đàn ông ngồi trên ghế bành, đôi tay buông thõng xuống hai bên, một khẩu súng nằm hững hờ trên tấm thảm, bức tường phía sau ông tung toé máu.
Reilly kìm lại.
“Gì vậy?” Tess mơ màng hỏi.
Reilly ngồi bật dậ cảm thấy áy náy. Đôi mắt Reilly đờ ra, nhìn vào khoảng không, như bị ám ảnh. “Chuyện này... chuyện này không đúng lắm.”
Tess nhổm dậy, luồn một tay vào tóc Reilly, kéo miệng anh sát lại miệng nàng “Ôi, em xin phép có ý kiến ngược lại. Em nghĩ là rất tuyệt.” Nàng lại hôn Reilly, nhưng ngay khi môi họ vừa chạm nhau, Reilly đã ngừng lại.
“Nghiêm túc đấy, Tess.”
Tess chống khuỷu tay nâng người lên, lặng đi không nói được lời nào. Reilly chỉ nhìn nàng, vẻ chán nản.
“Ôi lạy Chúa, anh đang nghiêm túc cơ đấy.” Tess nhìn Reilly vẻ ngờ vực rồi ném cho anh cái nhăn mặt thách thức. “Chắc đây không phải là việc ăn chay nằm đất trong mùa Lent đấy chứ?”
“Không phải đâu.”
“Được rồi, vậy thì là cái gì nào? Anh chưa có vợ, và em chắc chắn anh không phải là dân đồng tính, mặc dầu…” Nàng làm điệu bộ như muốn nói ‘có lẽ’. “Và lần sau cùng soi gương, em nghĩ mình trông cũng đâu có đến nỗi nào. Vậy thì chuyện quái quỷ gì nào?”
Reilly cố nói thành lời. Đây không phải là lần đầu tiênảm giác này bất chợt dâng trào lên trong anh, nhưng đã từ lâu lắm rồi. Đã một thời gian dài, anh không có cảm giác như vậy về một ai đó. “Rất khó giải thích.”
“Anh cố thử xem.”
Chẳng dễ dàng chút nào. “Anh biết chúng ta chỉ mới quen biết nhau, và có lẽ trong chuyện này anh đã hơi vội vàng, nhưng anh thật sự thích em, và... và có những chuyện về anh mà anh nghĩ em cần phải biết, thậm chí nếu...” Reilly không nói tiếp, nhưng hàm ý của anh thì rất rõ ràng. Thậm chí nếu vì chuyện đó mà cuối cùng anh mất em. “Đó là chuyện về cha anh.”
Điều này làm nàng choáng váng.
“Chuyện này thì liên quan gì đến chúng ta? Anh nói là ông mất khi anh còn nhỏ, và chuyện đó khiến anh rất đau đớn.” Tess thấy Reilly nhăn mặt. Ngay từ lần đầu tiên Reilly nhắc đến chuyện này ở nhà nàng tối hôm đó, nàng biết là mình đang xâm phạm vào một lãnh địa tế nhị, nhưng nàng cần phải biết. “Chuyện gì đã xảy ra vậy?”
“Cha anh đã dùng súng tự sát. Chẳng vì lý do gì cả.”
Tự đáy lòng. Tess cảm thấy một nút thắt đã được tháo gỡ. Trí tưởng tượng đã đưa nàng đến nơi còn tối tăm hơn “Anh muốn nói gì? Chẳng có lý do gì cả ư? Phải có lý do nào đó chứ.”
Reilly lắc đầu, mặt tối sầm lại. “Đó mới là vấn đề. Chẳng có lý do gì cả. Ý anh là, chẳng có lý do nào hợp lý cả. Ông chẳng bao giờ tỏ ra buồn rầu hay thất vọng. Rốt cuộc, gia đình anh cũng đã tìm ra là ông bị bệnh, ông bị suy nhược thần kinh, nhưng chẳng có lý do nào cả. Ông có một công việc tốt và yêu thích công việc của mình, gia đình anh khá sung túc, và ông có một người vợ rất yêu thương mình. Với tất cả nhuững biểu hiện bên ngoài đó, rõ ràng cha anh đang có một cuộc sống tuyệt vời. Nhưng nó không ngăn được ông tự bắn vào sọ mình.”
Tess dựa vào người Reilly, “Đó là một căn bệnh, Sean à. Một tình trạng bệnh tật, một sự mất cân bằng hoá học, anh muốn gọi thế nào cũng được. Như chính anh đã nói đấy, ông bị bệnh.”
“Anh biết. Vấn đề là, đó cũng là một bệnh di truyền. Khả năng anh mắc bệnh là một phần tư.”
“Và khả năng anh không mắc bệnh là ba phần tư.” Nàng cười, vẻ khuyến khích. Nhưng Reilly không có vẻ như là bị thuyết phục. “Cha anh có điều trị căn bệnh đó không?”
“Không. Việc này xảy ra trước khi Prozac [47] trở thành một loại Aspirin mới.”
Nàng ngưng lại, nghiền ngẫm vấn đề. “Anh đã kiểm tra chưa?”
“Bọn anh vẫn có những cuộc đánh giá đều đặn ở Cục.”
“Và...?”
“Người ta không phát hiện ra điều gì bất thường.”
Tess gật đầu “Vậy là tốt. Em cũng không thấy nó.”
“Thấy nó à?”
Giọng nàng dịu xuống. “Trong mắt anh. Em có thể nhận ra cái gì đó, một chút xa cách, giống như anh đang bị ngăn cách bởi một bức tường, luôn luôn giữ cái gì đó lại. Thoạt tiên, em nghĩ có thể đó là tính cách của anh, anh biết đấy, kiểu người mạnh mẽ, ít nói.” Tess lại nở nụ cười tin tưởng và chắc chắn. “Chuyện đó không nhất thiết sẽ xảy ra với anh.”
“Nếu nó xảy ra thì sao? Anh đã trải qua chuyện đó, anh đã thấy những gì đã xảy ra với mẹ anh. Anh không muốn đẩy em hay bất kỳ ai mà anh yêu quý vào chuyện đó.”
“Vậy anh sẽ tự khép mình lại, bế quan toả cảng với cả thế giới còn lại sao? Thôi nào, Sean. Chuyện này cũng chẳng khác gì anh nói với em chúng ta không nên ở cùng nhau chỉ vì, em không biết nữa, cha anh mất vì bệnh ung thư. Có ai trong chúng ta thực sự biết được chuyện gì sẽ xảy ra với mình? Anh chỉ cần sống cuộc sống của mình và hy vọng vào những điều tốt đẹp nhất mà thôi.”
“Không phải tất cả mọi người đều thức dậy một sáng nọ rồi quyết định bắn một phát đạn vào đầu để thoát khỏi thế giới này. Vấn đề là, anh nhận ra một phần của cha anh ở trong anh. Khi làm cái việc đó, ông cũng không nhiều tuổi hơn anh bây giờ là mấy. Đôi lần, nhìn vào gương, anh nhìn thấy ông, thấy vẻ mặt và tư thế của ông và nó làm anh sợ hãi.”
Tess lắc đầu với vẻ thất vọng rõ rệt. “Anh nói ông linh mục đã giúp anh vượt qua chuyện đó rồi mà?”
Reilly lơ đãng gật đầu. “Cha anh không theo đạo. Ông nghi ngờ sự tồn tại của đức tin, còn mẹ anh, ừm, bà là kiểu người chỉ biết phục tùng và bà chẳng th một tôn giáo nào. Sau khi cha chết, anh hoàn toàn suy sụp. Anh không thể hiểu nỗi tại sao ông lại làm vậy, tại sao mẹ và anh không thấy được chuyện đó đến, tại sao mẹ và anh không ngăn được chuyện đó xảy ra. Mẹ anh cũng sụp đổ hoàn toàn. Cuối cùng bà càng lúc càng tìm đến vị linh mục nhiều hơn, rồi đến lượt vị linh mục nói chuyện với anh về chuyện đó. Ông ấy đã giúp anh hiểu vì sao không ai trong gia đình anh đáng trách và chỉ cho anh thấy một khía cạnh khác của cuộc sống. Nhà thờ đã trở thành nơi ẩn náu thiêng liêng của anh, và anh không bao giờ quên điều đó.”
Rõ ràng, Tess đã trấn tỉnh lại, giờ đây nàng lên tiếng với sự quyết tâm mới lấy lại được. “Thôi được rồi, anh biết không? Em rất cảm kích trước sự quan tâm và lời cảnh báo của anh, anh thật cao thượng, nhưng chuyện này chẳng khiến em sợ hãi chút nào. Anh muốn em biết, và giờ thì em đã biết, phải không nào? Nhưng em không nghĩ anh nên tiếp tục sống như vậy, anh không thể để một chuyện có thể không bao giờ xảy ra huỷ hoại cuộc đời anh. Anh chỉ đang giúp nó biến thành một dự đoán để tự thoả mãn cái ước nguyện của anh mà thôi. Anh không phải là ông ấy, phải không nào? Anh cần phải để chuyện đó trôi qua, sống cuộc sống của chính mình, và nếu việc đó không có kết quả, hẳn có lẽ là có điều gì đó sai lầm cơ bản trong cách sống của anh. Anh chỉ có một thân một mình, đó chẳng phải là một khởi đầu tuyệt vời cho lắm, và chỉ có Chúa mới biết là anh đã không chọn một công việc tươi sáng và thú vị để làm.”
“Đó là việc anh đang làm.”
“Được thôi, nhưng có lẽ anh cũng cần làm một vài chuyện khác nữa.” Nụ cười rạng rỡ rất đúng lúc và đầy mời gọi lại xuất hiện trên khuôn mặt nàng. “Như là nhắm mắt lại và hôn em.”
Ánh mắt Reilly lướt trên mặt nàng. Tess đang g làm cho cuộc sống của anh có ý nghĩa, đang nhồi nhết vào đầu anh sự lạc quan yêu đời, tuy rằng anh chỉ mới quen nàng chưa được bao lâu. Reilly cảm thấy cái gì đó rất thân thuộc, cái gì đó mà anh chỉ bắt đầu cảm nhận được khi ở bên nàng: chỉ một từ thôi, sống động.
Reilly vươn người về phía nàng và kéo nàng sát lại, siết chặt.
Khi hai người trên màn hình sát lại gần nhau, hai vệt biểu thị thân nhiệt màu xanh xám của họ hòa vào nhau thành một khối hình thù không rõ rệt. Những giọng nói câm lặng giờ đã biến mất, thay vào đó là tiếng nghèn nghẹn của âm thanh trút bỏ y phục và tiếng hai cơ thể đang xoắn xuýt vào nhau.
De Angelis đưa tách cà phê âm ấm trong tay khi quan sát màn hình với vẻ dửng dưng. họ đậu xe trên đỉnh đồi nhìn xuống phần đất trũng nơi Tess và Reilly cắm trại. Cốp sau chiếc Landcruiser màu be đang mở, để lộ ra hai màn hình sáng rực trong bóng tối. Một là máy tính xách tay có dây dẫn nối với máy quay quan sát hồng ngoại hiệu Raytheon Thermal-Eye đặt trên cái giá ba chân, có thể thu được toàn bộ quang cảnh phía trước. Một micro định hướng bằng sóng vệ tinh gắn trên một giá ba chân khác. Màn hình kia là của một thiết bị kỹ thuật số hỗ trợ cá nhân. Nó nhấp nháy biểu thị vị trí của thiết bị định vị toàn cầu đã được bí mật gắn dưới chiếc túi xách du lịch của Tess.
Ông cha cố quay người nhìn xuống thung lũng tối đen phía trước. Ông ta hoàn toàn hài lòng. Mọi việc đều trong tầm kiểm soát và ông ta thích như vậy. Họ đã ở rất gần, và với một chút may mắn, họ sẽ hạ được Vance. Ông ta vẫn chưa biết chính xác nơi họ nhắm đến; ông ta muốn nghe được âm thanh ở trong xe họ, nhưng cơ hội để cài máy ghi âm không có. Không phải việc này là không quan trọng. Dù họ tìm ra bất kỳ cái gì, ông ta cũng sẽ ở ngay phía sau họ, chờ s để hớt tay trên.
Đó là phần việc dễ dàng.
Phần khó khăn hơn là cái câu hỏi phải làm gì với họ khi xong việc.
De Angelis hờ hững nhìn vào màn hình lần cuối trước khi vứt tách cà phê vào bụi cây.
Ông cha cố sẽ không mất ngủ vì tách cà phê ấy.
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa