Chương 49 - Lửa Thiêng
hông có hy vọng cứu được bà Alice. Xanh mét và bất động, bà nằm trên bãi đáp thuyền với nụ cười mãn nguyễn trên môi. Quanh bà là Silas và bà Marcia đang quỳ gối, cả hai đã chạy như tên bắn tới, cùng với ngài Alther và Jenna ôm Ullr bất tỉnh trong tay.
Bên cạnh ngài Alther, khẩu súng bạc nằm tơ hơ, mà nữ hoàng Etheldredda đã ghê tởm quăng đi. Khi ngài Alther nhẹ nhàng vuốt tóc cho bà Alice, ngài bắt đầu nhận ra rằng cuối cùng ngài và bà Alice đã ở cùng bên nhau. Ngài không khỏi tự hỏi liệu bà Alice có nghĩ tới điều đó không khi lao mình vào đường bay của viên đạn - phải chăng chính vì thế mà lúc này trông bà thật yên bình.
Bà Marcia phá tan bầu yên lặng chết chóc bao quanh bà Alice. "Jenna," bà nói. "Kể từ nay trở đi ta muốn con luôn ở sát bên cạnh ta. Chừng nào Etheldredda vẫn còn ở trạng thái bị Bóc Niêm thì chừng đó con sẽ không an toàn. Bây giờ thì con rồng quấy phá đó đâu rồi?" Ta nghĩ giờ là lúc chúng ta cần dùng đến nó."
Jenna gật đầu. Ước gì có Snorri ở đây để trợ giúp, cô bé nhìn quanh, ráng xem nữ hoàng Etheldredda ở đâu. Tuy chẳng thấy gì nhưng Jenna biết "không thấy gì" chính xác là điều mà nữ hoàng Etheldredda muốn mình thấy. Loạng choạng đứng lên và đặt Ullr vào tấm mền. Con mèo cam ngọ nguậy, mở mắt ra và nhìn Jenna bằng ánh mắt mông lung, thất hồn.
Jenna đỡ con vịt con run lẩy bẩy lên và đặt nó vào giữa tứ chi ấm áp của Ullr. Xong cô bé của bà Marcia đi tìm Khạc Lửa. Con rồng đang ở trong vườn nhà bếp, nuốt chửng nuốt trạo táo rụng một cách nhiệt tình, ầm ĩ. Septimus đã nghe thấy tiếng súng nổ, nhưng nó nghĩ tiếng nổ ấy thuộc về một phần quy trình tiêu hoá nào đó của con rồng. Nó đang sốt ruột chờ Khạc Lửa nuốt xong quả táo rụng cuối cùng cho rồi nên không nhận thấy bà Marcia và Jenna đi tới. Và nó cũng không thấy ở ngay đằng sau Jenna có nữ hoàng Etheldredda đang rình rập, mặc dù nếu nhìn kỹ hẳn là Septimus sẽ thấy một mảng tối sậm màu trên không, bởi vì nữ hoàng Etheldredda đang dần trở nên thực thể hơn.
Nhưng qua con mắt của Ullr, Snorri Thấy nữ hoàng Etheldredda đang lên đến gần Jenna như con cọp đang áp sát con mồi.
Bà Marcia phăm phăm bước tới Septimus. "Đưa con rồng đó vào vòng kỷ luật mau. Chúng ta cần Lửa... ngay lập tức."
"Nó không thể phun lửa," Septimus bảo.
"Được chứ," Jenna nói.
"Không đâu."
"Được. Nhìn vào mắt nó coi. Có một vòng tròn lửa màu đỏ trong đó."
Septimus kiễng chân lên và nhìn chằm chằm vào đôi mắt không chớp của Khạc Lửa. Đúng vậy, con ngươi xanh lá cây rực được viền một vòng tròn đỏ. "Nó làm sao có được cái đó?" Septimus nghi ngờ hỏi.
"Em đã phải kích lửa nó," Jenna giải thích.
"Nhưng nó là con rồng của anh mà," Septimus nói, hơi bực vì đã vắng mặt vào thời điểm quan trọng như vậy.
"Đủ rồi," bà Marcia nói. "Con rồng của ai không quan trọng. Theo ta." Bà xăng xái bước khỏi khu vườn nhà bếp. Khạc Lửa, trước cảnh người Dò Tìm của mình gấp rút biến mất, lật đật nuốt chửng trái táo rụng cuối cùng, phát ra tiếng ợ mùi rượu táo và đâm bổ nhào theo sau Septimus. Nó suýt dẫm phải nữ hoàng Etheldredda dưới đất, nhưng trước sự chứng kiến ngạt thở của Snorri, mụ kịp thời né khỏi con rồng và rón rén đi theo Jenna.
Etheldredda nhất quyết không chịu thua. Mụ đã bỏ lỡ cơ hội với khẩu súng, nhưng mụ sẽ không bị cản trở - từ giở trở đi mụ sẽ Theo Sát Jenna đi bất kỳ nơi đâu. Mụ có dư dả thời gian trên đời này, và thể nào thời cơ của mụ cũng sẽ đến. Jenna chỉ cần bước đi hơi gần lan can, đứng hơi gần một con ngựa đang phi, hơ tay trên lửa... thì mụ, Etheldredda, nữ hoàng đầy quyền năng, sẽ... sẵn sàng ra tay.
Khi Jenna theo bà Marcia băng qua bãi cỏ Cung Điện, cô bé rùng mình xoa xoa gáy cổ - có cảm giác ớn lạnh. Cô bé liếc ra sau nhưng không thấy gì.
Bà Marcia dừng lại trên bãi cỏ, quãng giữa Cung Điện và dòng sông. "Nào bắt đầu, Septimus, giờ ta cần Lửa."
"Con không biết cách," Septimus nói, hơi gắt gỏng.
"Để em chỉ cho," Jenna bảo, đoạn lấy hộp Hoa Tiêu ra khỏi túi áo chẽn. Cô bé mở nắp ra và đưa cho Septimus mẩu da Kích Lửa. Septimus không tỏ ra có ấn tượng gì, nhưng vẫn cứ cầm miếng da rồng và xem xét cẩn thận. "Tất cả em cần nói là vậy?" nó hỏi. "Chỉ nói 'Lửa' thôi?"
Jenna gật đầu.
"Em có chắc là không còn sót gì chứ, Jen?"
Jenna thở dài. "Dĩ nhiên," cố kìm nén cơn rùng mình. "Em đã làm rồi."
Septimus không bị thuyết phục cho lắm, nhưng nó hít vào thật sâu, nhìn vào con mắt viền đỏ của Khạc Lửa, và hét lớn, "Lửa!"
Với nhiều năng lượng vừa nạp - bụng lửa của con rồng vẫn còn ních đầy xương cừu tế lễ, hơi bất tiện - Khạc Lửa sung sướng đến nỗi không cần phải cưỡng ép. Sâu bên trong bụng lửa của nó rồ lên tiếng gầm rú; nó càng ngày càng lớn, rung chuyển mặt đất, và tràn ngập không gian những âm thanh đùng đục, chơi vơi khi khí nén dồn căng đến mức áp suất không thể chịu nổi nữa - và van lửa mở ra. Những luồng hơi xông lên đột ngột, khiến Khạc Lửa bị sốc không kém bất cứ người nào khác, rồi xông ra khỏi lỗ mũi con rồng, tung lên trời và Kích thành một vồng lửa phực sáng.
Tất cả mọi người lùi lại. Nữ hoàng Etheldredda xoa hai tay vào nhau khoái trá - mụ không ngờ cơ hội lại dẫn xác đến nhanh vậy. Còn gì tốt hơn là chới với té vào đường phun lửa của một con rồng? Sẽ không ai có thể cứu kịp Jenna. Không thể nào với lửa phun cao thế kia. Ai mà nghĩ cái mụ Marcia kỳ đà cản mũi đó lại cố ý cung cấp cho ta một cơ hội sớm vậy? Nữ hoàng Etheldredda lượn lờ, nôn nóng chờ Jenna tiến tới gần hơn một chút... đủ gần cho một cú đẩy nhẹ hều...
Ở nơi xa thật xa, xuyên Thời Gian, Snorri kinh hoàng. Chị Thấy Etheldredda, Thấy Lửa, thế là chị Gọi Ullr, nhưng con mèo cam vẫn còn bị choáng, không động tĩnh gì.
"Giữ nguyên Lửa đấy, Septimus!" bà Marcia thét át hết tiếng khí phun với lửa gầm. "Nào, bây giờ đến Lửa Thiêng. Lùi lại, tất cả mọi người."
Một lần nữa, màng khói Pháp thuật bao quanh bà Marcia. Khi Pháp sư Tối thượng chắc chắn Pháp thuật của mình đã đủ lực và mình đã được bảo vệ hoàn toàn, bà tiến tới gần Khạc Lửa, trong khi lửa vẫn phun ra khỏi lỗ mũi con rồng. Khạc Lửa lớ ngớ nhìn bà qua cặp mắt viền đỏ, nhưng nó không tránh đi. Rồi, trước sự kinh ngạc của Septimus và Jenna, bà Marcia đặt bàn tay vào lưỡi lửa và Bốc ra một nắm lửa. Bà vo viên lửa giữa hai lòng bàn tay, tới khi nó thành một quả cầu khổng lồ, đỏ lừ thì bà tung nó lên không và niệm:
"Lửa tinh tuý
Cháy rực nữa
Rực hơn nữa
Thành Lửa Thiêng thực thụ."
Quả cầu lửa của bà Marcia nổ tung lên thành một quầng lửa khổng lồ. Tập trung cao độ, vẫn hết khí công bà Marcia hướng quầng lửa sà xuống cho tới khi nó còn cách mặt đất vài tấc. Rồi cứ chờn vờn ở đó, loé choé một vồng lửa màu cam, ở giữa là màu tía đậm, thả những cái bóng dài, nhảy nhót xuống cỏ. Lửa Thiêng đã sẵn sàng.
Khạc Lửa, với bụng lửa đã cạn kiệt, dừng phun Lửa lại. Tiếng gầm từ Lửa Thiêng nổi lên thì Septimus và Jenna sán lại gần quầng lửa hơn để xem trong khi bà Marcia bắt đầu bước hai kế hoạch của mình: Thu Phục. Không bị ai nhìn thấy, kể cả ngài Alther - ngài đang quá bận lòng về bà Alice - cái mặt nhọn hoắt của nữ hoàng Etheldredda bừng lên phởn chí. Jenna một lần nữa lại nằm gọn trong phạm vi té nhào vô ngọn lửa. Nữ hoàng Etheldredda lẻn bước đằng sau Jenna, bàn tay độc ác của mụ để cách lưng của Jenna không đầy một ngón tay, trực chờ thời điểm thích hợp là đẩy một phát cuối cùng.
Chỉ có Snorri mới Thấy hết mối nguy hiểm. "Ullr không nghe thấy em," chị bảo Nicko. "Nhưng có lẽ còn một chiêu cuối cùng... Em không biết mình có làm được hay không, nhưng em phải cố." Thế rồi Snorri làm điều mà trước đây chị không bao giờ dám làm. Chị Triệu Hồi linh hồn xuyên Thời Gian. Trong quán rượu Hốc Tường, con ma Olaf Snorrelssen sửng sốt thấy mình bị nhấc lên, bị lôi tuột qua đám ma đông đúc, phá vỡ mọi luật lệ của kiếp ma, lao phăng phăng về phía Cung Điện. Snorri Thấy cha mình lần đầu tiên trong đời.
Bây giờ, nữ hoàng Etheldredda quyết định, là lúc đẩy Jenna vào ngọn lửa. Nào. Nữ hoàng Etheldredda vươn tay ra... ngay lúc Olaf Snorrelssen chụp lấy cổ tay mụ. Ông không biết tại sao, nhưng cứ thế mà làm.
"Buông tao ra, tên đần độn hèn mạt!" mụ rống lét chét. Chắc hẳn không gì Olaf Snorrelssen ao ước hơn là buông cái cô hồn xương xẩu, la hét chói tai này ra. Nhưng ông không thể. Có gì đó không cho ông buông mụ ra. Jenna thấy có cảm giác ớn lạnh quái gở sau gáy. Một lần nữa, cô bé ngoái ra sau, nhưng không thấy tí gì về cuộc vật lộn giữa hai con ma. Dù ở ngay bên ngoài ngọn lửa phừng phực, cô bé thấy lạnh thấu xương và rùng mình, quay lại nhìn bà Marcia.
Bà Marcia lúc này đã đắm chìm vào phép Thu Phục. Qua ánh lửa màu tía và màn khói Pháp thuật, Jenna thấy tấm chân dung nữ hoàng Etheldredda với con Aie-Aie phụt ra khỏi bức tường tháp. Bà Marcia guồng nó vào như người ta câu một con cá giãy đành đạch, rớt đập lên đập xuống và kéo nó không thương tiếc về phía ngọn Lửa Thiêng.
Nữ hoàng Etheldredda cũng thấy điều đó, và biết chính xác điều gì đang diễn ra. Mụ nỗ lực gấp bội hòng thoát khỏi cú kẹp của Olaf Snorrelssen. Phen này nếu phải rơi vào quầng Lửa Thiêng thì mụ quyết sẽ không rơi một mình - mụ sẽ kéo cả Jenna đi cùng. Nhưng Olaf Snorrelssen, vốn mạnh mẽ và dẻo dai hồi còn sống, giữ chắc lấy cánh tay nữ hoàng Etheldredda và không một giây nào cho phép mụ có cơ hội đẩy Jenna như mụ toan tính.
Bây giờ bức chân dung đang chờn vờn bên trên ngọn lửa, cố xác chống cự đến cùng. Bức màn tía quanh bà Marcia đậm rõ hơn, và bất thình lình, một tiếng nổ vang trời dội lên những bức tường Cung Điện - bà Marcia đã thắng. Bức chân dung đành thúc thủ, và với một tiếng phụt, nó bị hút tụt vào quầng Lửa Thiêng. Xong rồi nó nổ bụp thành một ngọn lửa đen thùi. Thét lên một tiếng kinh thiên động địa, nữ hoàng Etheldredda nhập vào đó và bị ngọn lửa thiêu rụi.
Thế là hết đời nữ hoàng Etheldredda độc ác.
Snorri cười reo lên vui sướng. Nấn ná - bởi vì chị muốn Thấy cha mình lâu thêm nữa - chị để Olaf Snorrelssen được Hoàn Trả an toàn về quán rượu Hốc Tường. Ở đó ông ngồi bồi hồi sung sướng hàng nhiều giờ liền, ngắm nghía cốc bia của mình và tự hỏi tại sao mình lại hình dung rõ rệt hình ảnh đứa con gái trong đầu mình như vậy, và sao mà nó giống Alfrún đến thế.
Nhưng phép Thu Phục chưa hoàn tất. Một đốm lem nhỏ xuất hiện trên bầu trời Cung Điện và một tiếng rú hãi hùng xuyên thủng không gian. "Aie aie aie aie!" Quằn quại, giãy giụa, đuôi rắn xuội lơ, đôi mắt đỏ ngầu nổ tung kinh hoàng, con Aie-aie của nữ hoàng Etheldredda bị cuốn phầm phập về phía Lửa Thiêng và, với một tiếng thét tiêu hồn, nó hoà vào ngọn lửa cùng với chủ của nó.
Sâu giữa lòng Lửa Thiêng có gì đó đang diễn ra. Một ánh chớp vàng rừng rực hiện rõ ngay tầm ngọn lửa màu tía. Như bị thôi miên, Jenna và Septimus nhìn thồ lố cho tới khi vầng lửa chói sáng đến nỗi cả hai không còn nhìn nổi nữa. Đúng lúc chúng quay đi thì có vật gì đó lăn ra khỏi ngọn lửa. Nó đáp nhẹ thinh xuống cỏ và, kinh ngạc sửng sốt, chúng thấy chiếc vương miện của nữ hoàng Etheldredda nảy lưng tưng trên bãi cỏ cháy sém và lăn về phía sông. Jenna đuổi theo chiếc vương miện... chộp... hụt - và chiếc vương miện nảy xuống sông, Jenna thò tay chụp cái nữa dưới làn nước lạnh, trúng chiếc vương miện đang từ từ chìm xuống đáy.
Rạng ngời chiến thắng và nhỏ nước ròng ròng, cầm chiếc vương miện Thật trong tay lần đầu tiên, Jenna đến ngồi bên Silas, ngài Alther, và bà Alice - nằm tái nhợt, yên lành trên bãi đáp thuyền. Vuốt ve chiếc vương miện, cảm thấy nó nặng một cách đáng ngạc nhiên trong tay mình, Jenna lầm bầm. "Cảm ơn, bà Alice. Cảm ơn bà đã cứu con. Con sẽ luôn nghĩ về bà khi đội chiếc vương miện này."
"Bà Alice đã làm việc phi thường," Silas nói, vẫn còn run bắn vì sự việc vừa xảy ra. "È, nhưng tốt nhất không nên kể gì với mẹ con cả, nhé?"
"Cô ấy sẽ biết chuyện ngay thôi, Silas" ngài Alther nói. "Chỉ sáng nay là câu chuyện sẽ lan truyền khắp Lâu Đài rồi."
"Thế mới khiến tôi lo đấy," Silas càu nhàu. Rồi ông mỉm cười với Jenna. "Nhưng con đã trở về an toàn, điều đó mới quan trọng."
Jenna không nói gì. Bất giác cô bé cảm nhận rõ Silas đang cảm thấy thế nào. Cô bé không thể nói cho cha biết vào lúc này. Về Nicko. Chưa thể nói được.
Bà Marcia cho Ngừng quầng Lửa Thiêng. Vầng lửa rực lạ kỳ màu tía mờ đi và bóng tối chập choạng bắt đầu thay thế nó. Bà Marcia, Septimus và Khạc Lửa nhập vào nhóm người đang thổn thức trên bãi đáp thuyền. Bà Marcia cởi tấm áo chùng dày nặng viền lông màu chàm của mình ra, gấp lại rồi nhẹ nhàng gồi dưới đầu bà Alice.
"Ngài ổn chứ, ngài Alther?" bà hỏi.
Ngài Alther lắc đầu không đáp.
Jenna lặng thinh, nhìn chiếc vương miện của mình. Dẫu ngần ấy năm ngự trên cái đầu bất bình của nữ hoàng Etheldredda, chiếc vương miện Thật vẫn mang cảm giác dễ chịu trong tay cô bé - và khi Jenna cầm nó, nhưng tia hoàng hôn cuối cùng bắt ánh vàng tinh khiết làm chiếc vương miện loá rực lên thứ ánh sáng mà nó không bao giờ có được trên cái đầu điên đảo của nữ hoàng Etheldredda.
"Giờ nó là của con, Jenna," bà Marcia bảo. "Con đã có chiếc vương miện Thật - chiếc vương miện mà nữ hoàng Etheldredda đã đánh cắp của những hậu duệ của mụ."

Bóng tối phủ ụp xuống, và, không ai nhận thấy, cái chỏm đen ở chóp đuôi của Ullr Ngày từ từ loang rộng lên mảng lông cam và biến đổi nó thành một sinh vật đêm. Ullr Đêm ngồi như một nhân sư, mắt xanh lá cây chỉ nhìn thấy những gì Snorri muốn nó nhìn.
Xa thật xa, ở Thời khác, Snorri Snorrelssen Thấy Jenna cầm chiếc vương miện Thật và biết rằng tất cả đã tốt đẹp. Chị thả Ullr ra và thì thầm. "Đi đi, Ullr, hãy đi với Jenna cho tới ngày ta trở lại."
Ullr Đêm đứng dậy, bước ra khỏi bóng tối và đến ngồi bên Jenna. "Chào Ullr, mừng mày đã tỉnh lại." Jenna mỉm cười, vuốt con báo và gãi gãi tai nó. "Đi với tao nào, tao có việc muốn làm.
Khi đồng hồ Cung Điện điểm nửa đêm và ánh sáng từ 101 ngọn nến sáng rực cả bầu trời - Jenna đã đặt lên mỗi cửa sổ của Cung Điện một ngọn nến - tất cả mọi người đứng trên bãi đáp thuyền để vĩnh biệt bà Alice, thi thể bà được đặt trong chiếc thuyền ly biệt đang từ từ trôi đi khỏi. Ngài Alther ngồi lặng lẽ bên con ma mới Alice Nettles, như ngài ngồi nguyên vậy trong 1 năm và 1 ngày tới, tại ngay chỗ này. Theo đúng luật kiếp ma, con ma phải trải qua 1 năm và 1 ngày ở tại nơi họ đã đi vào kiếp ma, và ngài Alther không có ý định để bà Alice trải qua điều đó một mình.
"Hờờờ,"bà Marcia thở dài khi chiếc thuyền ly biệt chở thi thể bà Alice biến mất vào màn đêm, bắt đầu cuộc hành trình dài về Thế giới bên kia. Một ngày đầy biến động... "Ta hy vọng con sẽ không có kế hoạch sôi động nào nữa vào ngày mai chứ, Septimus."
Septimus lắc đầu. Như vậy không hẳn là nói dối: nó đã có một kế hoạch rất kỳ thú - nhưng nó nghĩ, bà Marcia sẽ không đánh giá cao nếu nó kể ra cho bà nghe chi tiết về việc nó sẽ làm để cứu Marcellus Pye khỏi số mệnh nghiệt ngã còn hơn cả cái chết và lấy lại bùa Khinh Công cho mình.
Hãy coi việc đó là đơn giản. Nó mỉm cười với bà Marcia. "Con sẽ đi câu cá," nó bảo.
Những sự việc quý vị thắc mắc muốn biết...
Nữ hoàng Etheldredda và bức chân dung trên gác mái
Sau khi nữ hoàng Etheldredda lăn tõm xuống sông, mụ chẳng thèm mất công giãy giụa để tự cứu mình - tại sao vậy? Bởi vì mụ ham muốn được dấn thân vào sự trường tồn ngay tức khắc. Mụ nằm nhìn trao tráo lên bề mặt nước, và lập tức tự hỏi liền tại sao mình lại cảm thấy kỳ lạ như vậy: kiểu như một sự trống rỗng hư vô sao đó. Càng nôn nóng hơn, mụ nhìn đáy của chiếc thuyền hoàng gia trong khi viên thuyền trưởng đợi mụ hết giờ này tới giờ khác, không dám rời đi, sợ lỡ mất thời điểm đón mụ.
Và rồi, nữ hoàng Etheldredda mới dần dần nghiệm ra là linh đan của Marcellus chưa có tác dụng - mụ không là gì, ngoài một con ma bình thường. Mụ cũng không nhận ra rằng linh đan, về mặt nào đó, đã khiến mụ trở thành một linh hồn thực thể - do bởi ban đầu rất khó mà nhận biết được sự khác nhau giữa chúng. Cho nên, nữ hoàng Etheldredda nằm dưới nước trôi mà bầm gan tím ruột.
Cơn sôi tiết của nữ hoàng Etheldredda lên đến đỉnh điểm vào lúc Marcellus Pye định được vị trí của mẹ mình. Và đúng như nó phải thế, 13 ngày sau khi mụ trượt chân rơi xuống sông và chết đuối, nữ hoàng Etheldredda được con trai Gọi Lên vào lúc nửa đêm. Như cái nút bấc bật ra khỏi chai, Etheldredda búng lên khỏi dòng sông đen ngòm, giãy giụa và la hét, mụ bay vút lên qua bầu trời đêm băng giá, những bông tuyết khổng lồ Xuyên Qua mụ và biến nội tạng bọng nước của mụ thành băng đá. Vẫn không hết giãy đành đạch, mụ bị lôi vào một căn phòng nhỏ ẩn khuất đằng cuối gác mái, dưới mái Cung Điện de ra, tại đó Marcellus Pye và Julius Pike, đương kim Pháp sư Tối thượng, đang chờ mụ. Cũng ở đó, giữa áo thụng đen-đỏ của nhà giả kim thuật và áo chùng tía của pháp sư, mụ thấy một bức chân dung đúng cỡ người thật của mụ và con Aie-Aie.
Nữ hoàng Etheldredda biết về Pháp thuật đủ để nhận thức được chuyện gì sẽ xảy ra với mình, nhưng mụ không thể làm gì được nữa. Julius Pike và Marcellus Pye kéo linh hồn thực thể của nữ hoàng Etheldredda vào bức chân dung của mụ, cho mụ gặp con Aie-Aie mà Marcellus đã lùng bắt và giết chết từ hôm trước.
Họ dựng bức chân dung lên tường và Niêm Kín căn phòng lại. Mụ và con Aie-Aie ở đó cho đến ngày Silas Heap Bóc Niêm căn phòng vào thời điểm 500 năm sau.
Công chúa Esmeralda
Sau khi Marcellus Niêm Kín nữ hoàng Etheldredda vào bức chân dung và chắc chắn vong hồn mụ không thể làm hại Esmeralda được nữa, ông liền đi qua lối Nữ hoàng để đến báo tin cho Esmeralda. Mới đầu Esmeralda nhẹ người vì mình đã thoát khỏi vòng nguy hiểm do mẹ mình giăng ra, tới tận khi cô ngẫm ra rằng mẹ mình đã chết thực sự. Sau đó Esmeralda mất một thời gian dài lang thang trên đầm Cỏ Thô, nghĩ về mẹ và những đứa em mất tích của mình. Cô từ chối trở về Cung Điện mà sống những năm vị thành niên của mình với Broda. Nhưng khi Thời Điểm Thích Hợp tới, Esmeralda trở về và chính thức đảm nhận cương vị nữ hoàng.
Thời Esmeralda trị vì đã đạt tới điểm cực thịnh, mặc dù cô không bao giờ xoá bỏ được nỗi bất an về việc có nữ hoàng Etheldredda là mẹ. Cô lấy một nông dân vạm vỡ, đẹp trai từ khu vườn táo bên kia cầu Một Chiều và có 2 con gái. Daisy và Boo, sau này lần lượt làm nữ hoàng, bởi vì Daisy có 5 người con trai nhưng không có con gái.
Sau thảm hoạ Giả Kim thuật - khi mà 7 ngày đêm cô giúp Marcellus Niêm Kín Đường Hầm Băng - Esmeralda bị chứng nhức đầu hành hạ và sống quãng đời còn lại của mình trong phòng khách nhỏ ở cuối Cung Điện, rèm phủ kín mít, trong khi công chúa tài danh Daisy thừa kế Cung Điện.
Chiếc vương miện
Qua bao đời các nữ hoàng trị vì Lâu Đài, chiếc vương miện Thật luôn ngự một cách duyên dáng trên đầu họ. Danh truyền rằng nó được làm từ thứ vàng Pháp thuật tinh luyện nhất từng được biết đến trên đời - thứ sợi vàng do chính những con nhện của Aurum xe. Chắc chắn nó được làm ra trước thời Hotep-Ra, người đã xây dựng nên tháp Pháp sư. Nhưng, khi nữ hoàng Etheldredda băng hà, chiếc vương miện Thật bị mất và lời tiên đoán của mụ đã thành sự thật - Esmeralda không bao giờ được đội chiếc vương miện Thật.
Nhưng Esmeralda không quan tâm. Chiếc vương miện Thật mất đi âu cũng là sự tống khứ hay. Esmeralda muốn một chiếc vương miện hoàn toàn mới của riêng mình - hợp mốt thời bấy giờ và cầu kỳ hơn nhiều. Esmeralda là con gái của mẹ mình, cho nên cũng mang những tính cách của mẹ - điều gì Esmeralda muốn là Esmeralda đạt được. Lần đầu tiên bà độ vương miện vào phòng Thiết Triều của Cung Điện trong một ngày Hạ Chí mưa dầm, sau đó lộng lẫy chói lọi trong chiếc vương miện mới, bà đi thăm Thuyền Rồng. Con rồng nhướng mắt lên trước cảnh quá nhiều kim cương và đá quý cẩn trên đó, nhưng rồng không nói gì. Bởi vì có những khi Esmeralda nhất quyết không rời chiếc vương miện và đội nó đi khắp mọi nơi, cho tới khi và mỏi cứng cổ mới miễn cưỡng tháo nó ra khi đi ngủ.
Chính chiếc vương miện này là chiếc mà nhiều trăm năm sau, tên Bảo Hộ Toàn Quyền trong khi bỏ trốn đã cuỗm theo, để lại Jenna không có vương miện cho chính mình - cho tới khi chiếc vương miện Thật văng ra khỏi Lửa Thiêng và tìm thấy chủ nhân thật sự của nó một lần nữa.
Con Aie-Aie
Nữ hoàng Etheldredda tìm thấy con Aie-Aie trong vườn Cung Điện khi mụ còn là một cô gái nhỏ. Sinh vật này đã nhảy tàu sau khi nhận ra người nấu bếp của con tàu định luộc mình làm bữa tối, để trả thù cho việc con Aie-Aie đã cắn vào mắt cá ông sáng hôm đó. Đêm đến người đầu bếp bị mê sảng và thuỷ thủ đoàn không có bữa tối. 3 tuần sau thì ông đầu bếp chết - bởi vì con Aie-Aie đã truyền bệnh dịch qua vết cắn.
Nhưng Etheldredda nhanh chóng nhận ra điều này và thấy con Aie-Aie là vũ khí lợi hại nhất của mình. Mẹ của Etheldredda kinh hoàng về con vật cưng mới của con gái, nhưng không dám làm gì, vì Etheldredda (hay Etheldredda Khủng Khiếp, như được biết tới) muốn có con Aie-Aie, và thậm chí dù chỉ mới 9 tuổi, thì "điều gì Etheldredda muốn Etheldredda sẽ đạt được".
Con Aie-Aie là một sinh vật sống dai, mặc cho nhiều thủ đoạn muốn tiêu diệt nó của vô số đầy tớ Cung Điện. Người ta nói rằng Etheldredda quan tâm chăm sóc con Aie-Aie còn hơn quan tâm đến các con gái của mụ - dĩ nhiên tin đồn đó là đúng.
Thùng Phi Mỡ kiêu ngạo
Mặc dù Thùng Phi Mỡ kiêu ngạo không được gọi như thế từ hồi còn bé, tên hắn thậm chí còn xấu hơn: Aloysius Umbrella! Tyresius Dupont. Cái tên Aloysius Umbrella! của hắn là do sự lầm lẫn cả người lập sổ sách đăng ký khai sinh, vì nhầm với tiếng quát tháo của dì ghẻ thằng bé mồ côi Aloysius, quát nó bỏ cái dù ra khỏi bàn chân cha nó.
Aloysius Umbrella! là một đứa trẻ duy nhất luôn luôn biết làm đúng đắn nhất. Khi nó 10 tuổi, mẹ ghẻ của nó mệt mỏi vì cứ bị hạch hỏi về việc mang vớ đúng cách cho nó nên đã gán hẳn nó vào Cung Điện, làm chân phó đưa tin cho thư ký thứ tư của người giữ vật chắn ngăn không cho cửa các phòng hoàng gia đóng sầm lại. Sau đó thì không gì có thể ngăn cản được bước tiến của Aloysius Umbrella! - hắn nhích dần lên các nấc thang phức tạp của Cung Điện cho tới khi chính hắn trở thành người giữ cửa hoàng gia vào lúc hắn ngấp nghé tuổi 14.
Đến tuổi 20, Aloysius Umbrella! được uỷ quyền làm người hầu cận cho nữ hoàng Etheldredda, sau khi người hầu cận phục-vụ-toàn-thời-gian bị nằm liệt sau một chầu ngộ độc thực phẩm bí hiểm - một trong những trận ngộ độc mà ông hay bị kể từ khi Aloysius Umbrella! bắt đầu được ngồi kế ông trong các bữa tối của người hầu cận phục-vụ-theo-tuần. Người hầu cận nọ không bao giờ bình phục hẳn, và Aloysius Umbrella! được chính thức trao cho vị trí hầu cận phục-vụ-toàn-thời-gian. Mặc dù liền sau đó Aloysius Umbrella! đã bị gắn cho cái biệt danh là Kiêu Ngạo, nhưng phải đến 3 năm, sau khi thoả mãn ê hề với sơn hào hải vị trong Cung Điện hắn mới nhận thức được đầy đủ ý nghĩa của cái biệt danh đó.
Sau sự cố phải xất bất trốn khỏi Cung Điện, vì đã lỡ tát nữ hoàng Etheldredda, Aloysius Umbrella! chôm một chiếc thuyền đêm để chuồn ra Bến Cảng và nhảy lên con tàu đầu tiên hắn thấy, ra đi biệt xứ. Hắn sống nốt quãng đời còn lại trong một thị trấn nhỏ tại đất nước xa xôi nóng bức, nơi mà ban ngày hắn là người giám sát ống cống và tối đến lại cẩn thận ủi những sợi dây tua Cung Điện nhàu nhĩ của mình.
Tấm Kính Thời Gian Đích Thực
Vào thời xưa xửa xừa xưa, có rất nhiều Tấm Kính Thời Gian Đích Thực, nhưng qua nhiều thế kỷ chúng đã bị mất, bị huỷ hoại, hoặc - giống như Tấm Kính của Marcellus - tự tan rã dưới áp suất đối kháng khủng khiếp của Thời Gian. Cho đến Thời Marcellus Pye là một nhà giả ki thuật trẻ đầy hứa hẹn thì tất cả mọi Tấm Kính hầu như đã biến mất.
Marcellus ngấu nghiến đọc tất cả những tài liệu ông thu thập được về Tấm Kính Thời Gian. Và ông khám phá ra nhiều điều: rằng ta cần có một cặp Tấm Kính nối kết nhau, rằng bất kỳ điều gì xảy ra với tấm này thì cũng xảy ra cho tấm kia. Ông cũng phát hiện rằng khi người ta Đi Qua một tấm kính, ta sẽ rơi vào một nơi không có Thời Gian, và để đi vào một Thời khác, ta buộc phải đi qua tấm kính cặp đôi với nó. Nhưng tuyệt nhiên ông không sao khám phá được bí mật của công thức Thời Gian.
Marcellus trở nên bị ám ảnh, ngày đêm quay cuồng vỡi nỗi khát khao phải tìm cho ra công thức đó... và 3 năm sau thì ông chạm đến may mắn. Vào một chiều đông ướt át, khi ông đang chuẩn bị đi thăm mẹ thì ông lật bâng quơ trúng nó, kẹp giữa một quyển sách cổ chôn vùi dưới chồng sách bụi bặm ở xó Văn phòng Sao lục. Marcellus ghi nhớ tại chỗ công thức ấy và lập tức đốt nó đi bằng ngọn nến đang cầm, bởi vì ông không muốn ai khác ngoài mình khám phá được bí mật này. Chẳng bao lâu sau ông hối hận vì việc làm của mình, hai Tấm Kính đầu tiên không hoạt động đúng cách. Chúng chỉ đưa ông đi qua bức tường cứng, dẫu đó là điều diệu kỳ rồi nhưng không đủ đối với Marcellus - có tham vọng là dễ dàng di chuyển qua lại trong Thời Gian.
Dẫu vậy Marcellus cũng quyết định là Tấm Kính có thể có ích. Ông Khóa từng Tấm Kính lại, chỉ một mình ông có Chìa Khoá mở chúng và đặt chúng vào khung mạ vàng chạm trổ cầu kỳ. Ông đem đặt mẹ một tấm, như là hiệp ước hoà bình sau một trong những trận cãi nhau kịch liệt giữa họ. Nữ hoàng Etheldredda không quan tâm tới món quà này; mụ đặt Tấm Kính vào phòng Hoàng Bào và nhanh chóng quên phéng nó đi. Đó là Tấm Kính mà Septimus bị lôi qua.
Marcellus đem cái kiâ cho Tổng trưởng sao chép mật, một gã rỗng tuếch và tít mắt vì có tấm kính riêng của mình - một vật cực kỳ đắt trong những thời đó. Ông ta không nhận ra là mình đã bị Marcellus lợi dụng để bí mật tiếp cận buồng Tuyệt Mật. Đây là Tấm Kính mà Jenna, Ullr và Septimus quay trở về Thời của mình.
Sau 2 lần thất vọng này, Marcellus tự giam mình trong phòng cho tới khi ông nhớ kỹ từng chi tiết công thức chế tạo Tấm Kính Thời Gian Đích Thực - hay là ông nghĩ thế. Trong một cải tổ táo bạo, Marcellus nhập một cặp Tấm Kính lại với nhau, và chúng có công hiệu. Tấm Kính Thời Gian Đích Thực này khổng lồ, cực kỳ bất định và... nguy hiểm. Sau khi Marcellus lắp đặt nó vào Đại Thất Giả kim và Y thuật, ông đã phái nhiều thợ chép đi qua nó nhưng không ai trở lại. Sau khi người bạn thân nhất của ông biến mất qua đó, Marcellus quyết định không liều thử nó nữa, mà Khoá cánh cửa lại.
Bây giờ Marcellus dần lấy lại tự tin. Ông bắt đầu thí nghiệm. Ông muốn một cái gì đó nhẹ, vận chuyển được mà ông dùng để thu thập những bí mật của những nhà giả kim thuật Hắc thuật từ vùng đất Đêm Trường tới. Sau một quãng thời gian hứa hẹn kết quả tốt - 169 ngày (13 nhân 13) - Marcellus chế tạo thành công một cặp Tấm Kính đối xứng. Giữ lại một cái trong Lâu Đài, ông bí mật mang cái kia qua lối Nữ hoàng cho vợ mình, Broda Pye, và chỉ thị cho Broda mang nó tới Bến Cảng. Marcellus tới cảng để giám sát cho Tấm Kính được vận chuyển lên đúng con tàu của mình - nhưng trong khi ông ngủ, ngay đêm đầu tiên ông lên tàu, Tấm Kính đã nhanh chóng bị gã thuyền trưởng tắc trách, nợ ngập đầu dỡ đi và đem bán cho Drago Mills với danh nghĩa là tấm kính Xa Hoa Diệu Kỳ. Không hề nhận ra mình bị lừa phỉnh, Marcellus đi tới tận Vùng đất Đêm Trường thì mới phát hiện ra cái rương trống không. Nổi giận lôi đình, ông quay trở về Bến Cảng, định đòi lại tài sản của mình, chỉ thấy nó đã bị tịch thu cùng với Nhà kho Số 9. Dù cố hết sức, Marcellus vẫn không thể lấy lại được nó. Đấy là Tấm Kính mà Jenna, Nicko, Snorri và Ullr đã đi vào - và Khạc Lửa đã làm bể tan tành.
Tấm Kính kia, trùng cặp với nó, mà Marcellus giữ trong Đại Thất Giả kim và Y thuật, có thể đưa ông sẵn sàng đi tới bất cứ Thời nào trong vùng đất Đêm Trường, thì vô dụng đối với ông. Marcellus ghê tởm cất nó vào một cái buồng. Nhiều năm sau, cái buồng này ăn thông với Cung Điện, nơi nó được sử dụng làm buồng để áo của đầu bếp tầng thấp. Nó chính là Tấm Kính mà Jenna, Nicko, Snorri và Ullr đã ra khỏi cái vô thời gian, và bước vào Thời của Marcellus.
Sau đấy Marcellus không chế tạo Tấm Kính nào nữa. Ông quyết định là mình thích vàng hơn - ít ra với vàng người ta còn biết mình ở đâu.
Hugo Tenderfoot
Hugo không bao giờ quên Septimus và quãng thời gian mà Septimus kiên nhẫn đã dạy nó tất cả những gì Septimus học được về Y thuật. Sau khi ngài Hereward dẫn thằng nhỏ về nhà và mẹ nó mừng rỡ gặp lại nó, Hugo mới vỡ lẽ là gia đình nó rất quan tâm đến nó, và nó trở nên tự tin hơn nhiều. Khi Marcellus Pye bắt gặp Hugo đang đọc một quyển sách Y thuật trong khi làm nhiệm vụ gác cửa, thay vì giận dữ với Hugo thì ông lại thu nạp nó làm Đệ Tử. Hugo sau này trở thành một thầy lang kỳ tài - mặc dù cậu ta không bao giờ tìm được cách chữa được chứng đau thần kinh niên cho Esmeralda.
Mẹ của Snorri
Alfrún Snorrelssen xuất thân từ một dòng họ lái buôn lâu đời và vì vậy ngay từ hồi nhỏ bà đã quen với việc rong ruổi hàng năm trên những con tàu buôn tới vùng đất nhỏ bé bên kia biển. Mỗi năm sau đợt sương giá đầu tiên - sương giá thường đến sớm hơn ở những vùng phương Bắc - Nghiệp đoàn lái buôn lại chất hàng đống lông thú, gia vị, len, thuốc cao, đồ nữ trang và những thứ linh tinh khác để lên đường. Đến sau ngày lễ hội Đông Chí họ mới trở về. Alfrún Snorrelssen luôn luôn biết khi nào thì Olaf của bà sẽ trở về. Và hễ thời gian đó gần tới là bạn bè lại hỏi bà, "Alfrún, Alfrún cô có thấy tàu về chưa?" và Alfrún luôn luôn đáp là "thấy rồi". Nhưng vào cái năm Olaf Snorrelssen ra đi lần cuối cùng, khi bạn bè của bà hỏi, "Alfrún, Alfrún cô có thấy tàu về chưa?" thì Alfrún lắc đầu. Thậm chí đến khi đoàn tàu của nghiệp đoàn xuất hiện trên đường chân trời xám lộng gió, Alfrún vẫn lắc đầu, nhưng lần này là cái lắc đầu tuyệt vọng, bởi vì bà biết Olaf của bà không bao giờ trở về.
Alfrún đặt cho cô con gái mới sinh của mình cái tên mà Olaf đã chọn và đã đăng ký vào Giấy Chứng Nhận Quyền Thông Thương của ông như là người kế nghiệp. Cho dù Olaf đã tin chắc rằng đứa trẻ đó là con trai cũng chẳng sao; Alfrún vẫn tôn trọng ước muốn của ông và đặt tên cho nó là Snorri.
Snorri lớn lên giữa những ông chú, bà dì, bà nội, bà ngoại, anh chị em họ. Cô là một đứa trẻ hạnh phúc và bụ bẫm. Và mãi tới tuổi 13, khi phát hiện ra Giấy Chứng Nhận của cha ghi tên Snorri là người kế thừa nghiệp buôn của ông, thì cô trở nên bất mãn. Trước đó Snorri không bao giờ nghĩ nhiều về cha, nhưng bây giờ cô lại ao ước được giăng buồm ra khơi theo con đường của ông, để dẫm lên dấu chân ông qua Lâu Đài của vùng đất ẩm ướt nép mình bên kia đại dương, và trên hết thảy, để uống rượu Springo đặc biệt đã tạo nên danh tiếng cho quán ăn của Sally Mullin. Và là một người Kiến Vong, cô cũng mong mỏi được nhìn thấy con ma cha mình.
Khi Snorri bảo với mẹ về ý định đi buôn của mình vào mùa tới, Alfrún Snorrelssen thất kinh hồn vía. Bà kể cho con gái nghe những hiểm hoạ nơi biển khơi, và bảo cô còn quá trẻ để mà đi buôn, và lại cô là con gái, mà con gái thì không bao giờ làm lái buôn được, và ngoài ra, Snorri biết gì về giá lông thú và về chất lượng vải len cơ chứ?
Đúng là Snorri không biết gì cả, nhưng cô có thể học. Và khi mẹ cô phát hiện chồng sách hướng dẫn việc buôn bán của cô nhét đầy dưới nệm giường của cô và đem vứt hết chúng vào lò sưởi lát gạch, thì Snorri quơ lấy Ullr và đùng đùng ra khỏi căn nhà gỗ nhỏ nằm trên bến cảng của họ, tới thẳng nơi thuyền Alfrún neo đậu. Bà mẹ đoán biết được con gái mình đi đâu và để mặc kệ nó, nghĩ rằng nếm trải một đêm lạnh thấu trên chiếc thuyền bất tiện đó sẽ giúp Snorri sáng mắt ra và sẽ trở về vào sáng sớm. Nhưng sáng ra thì Snorri nương theo dòng thuỷ triều rút mà dong buồm đi khỏi. Cô đón đợt gió nam và chẳng bao lâu đã cập bờ biển để cất thuyền hàng đầu tiên của mình, với tư cách là một lái buôn. Alfrún Snorrelssen phát rồ dại - bà thuê một chiếc thuyền nhỏ siêu tốc đuổi theo Snorri, nhưng buổi sáng hôm đó gió thổi rất mạnh, và dẫu cho những tay chèo đã trông thấy chiếc thương thuyền nhưng họ không cách chi đuổi kịp nó. Con gái bà đi rồi, và Alfrún Snorrelssen không thể trách ai ngoài trách mình.
Cha của Snorri
Khi Olaf Snorrelssen biết mình và Alfrún sắp có con đầu lòng, ông vô cùng hạnh phúc. Ông liền đem Giấy Chứng Nhận Quyền Thông Thương của mình tới Văn phòng Nghiệp Đoàn và khăng khăng đòi họ ghi tên đứa con đầu của mình, Snorri, là người thừa kế. Sau đó, hứa chắc với Alfrún rằng đây sẽ là chuyến vượt biển cuối cùng của mình, đến khi nào con họ đủ lớn sẽ cho nó đi cùng, và với trái tim nặng trĩu, Olaf Snorrelssen lên đường đi buôn.
Ông tới Lâu Đài và vùng đất bên kia biển trễ, và không nhận được chỗ bán hàng tốt ở Chợ Phiên. Đêm đó Olaf đi tới quán rượu Cá Bơn (một trong những nhà trọ ưa thích của cánh lái buôn ở ngay bên ngoài Lâu Đài) để tiêu sầu theo cách truyền thống của những lái buôn phương Bắc, như một hệ quả của việc bị cấm ở những quán rượu trong Lâu Đài. Trở về một mình băng qua cầu Một Chiều, Olaf Snorrelssen lảo đảo và đụng đầu vào lan can. Ông được tìm thấy, đã chết cứng, vào sáng hôm sau nhờ một nông dân trên đường đi chợ phiên.
Con ma Olaf Snorrelssen lượn lờ ở cầu Một Chiều 1 năm và 1 ngày, như tất cả mọi con ma khi bước vào kiếp ma. Ông chọn cách không Hiện Hình với bất cứ ai, nhưng trên cầu luôn phảng phất bầu khí lạnh, mà nhiều người cho rằng mình cảm thấy chờn chợn khi băng qua cầu. Quán rượu Cá Bơn suýt nữa thì dẹp tiệm, vì người ta ngại ngần băng qua cầu Một Chiều khi trời tối. Ngay khi 1 năm và 1 ngày kết thúc, Olaf Snorrelssen bay tới quán rượu Hốc Tường và tá túc ở đó luôn.
Thuyền Alfrún
Thuyền Alfrún tàn tạ, hao mòn trong vũng Cách Ly Kiểm Dịch trong suốt những tháng mùa đông dài, ở đó nó hứng chịu những cơn gió khắc nghiệt và mùi xú uế của những con tàu bị bỏ rơi. Khi Jenna thấy nơi chiếc thương thuyền đậu, cô bảo Jannit Maarten kéo nó về xưởng thuyền Lâu Đài. Nhưng trước khi Jannit đến đem nó về thì thuyền Alfrún đã đi đầu mất rồi.
Thằng Sói
Khi thằng Sói rời thuyền Alfrún, nó băng qua sông và bắt gặp Sam Heap đang cười ngặt nghẽo trước cảnh tượng nó đạp lấy đạp để chiếc xuồng guồng màu hồng.
Nó nhận được sự đón tiếp nồng hậu ở Trại Heap, nơi những đứa con trai khác của nhà Heap sống, và mặc kệ sự giễu cợt, bông lơn đủ kiểu về gu chọn thuyền của nó, thằng Sói vẫn vui mừng được trở lại nơi này. Tuy nhiên nó thất vọng vì không thuyết phục được thằng Heap nào giúp nó đi tìm Septimus. Biết rõ rằng tài dò tìm của mình sẽ chẳng giúp mình tìm được thằng bạn 412, bởi trước đó đã không hề dò tìm được dấu vết nào, thằng Sói quyết định rằng dì Zelda ắt sẽ có câu trả lời. Nó đạp chiếc xuồng guồng màu hồng bị chế nhạo quá mức của mình xuôi dòng tới Bến Cảng, sau đó đi dọc theo Con Đường Đắp dẫn tới đầm Cỏ Thô. Tới đây thì tài dò tìm dấu vết của thằng Sói phát huy tác dụng. Nó lần theo dấu Boggart và về được dì Zelda an toàn, tới nơi nó mới vỡ lẽ là Jenna vừa mới đi qua lối Nữ hoàng để trả lại khẩu súng bạc cho dì Zelda.
Thằng Sói ở lại với dì Zelda. Dì thôi không dạy nó đọc nữa mà bắt đầu kể cho nó nghe những điều mà nó muốn biết - về mặt trăng và những vì sao, về dược thảo và độc dược, và về tất cả mọi thứ liên quan tới truyền thuyết của bạch phù thuỷ. Thằng Sói là một cậu học sinh hăng hái và sáng dạ, không lâu sau dì Zelda bắt đầu tự hỏi có thể nào mình phá vỡ truyền thống và tiến cử thằng Sói là người thừa kế vị trí Người Giữ Đầm.
Lucy Gringe
Lucy Gringe an toàn cập Bến Cảng nhờ chiếc thuyền của Nicko. Lúc đó là gần nửa đêm, và cô nàng cột thuyền ở bức tường cảng, co ro trong chiếc áo choàng của Simon và cố dỗ giấc ngủ.
Sáng hôm sau, Lucy mua một chiếc bánh nhân hấp ở tiệm bánh Cảng Tàu. Maureen, chủ tiệm, để ý thấy Lucy xanh xao và lạnh quá, bèn xếp cho cô nàng một chỗ bên lò sưởi trong nhà bếp để ngồi nghỉ và ăn bánh. Lucy đói cào ruột nên lần lượt mua thêm 2 cái bánh nhân hấp nữa, cộng với 3 cốc ca-cao nóng, xơi gọn tất cả, rồi lăn ra ngủ bên lò sưởi. Maureen để cô nàng ngủ đất, sau đó trong ngày Lucy trả ơn bằng cách rửa sạch những chồng đĩa đựng bánh và dọn dẹp tiệm. Maureen thích Lucy và rất biết cảm kích về sự giúp đỡ của cô nàng. Chị đề nghị cho Lucy một chiếc giường ở góc bếp và cho ở lại tá túc để bù vào công làm. Lucy nhận lời, mừng là có chỗ ấm và thân thiện để ở, lại có khách khứa tấp nập tới lui để dò hỏi xem họ có thấy Simon ở đâu không.
Thật thất vọng cho Lucy, không vị khách nào từng thấy Simon, nhưng một đêm khuya nọ khi đang ngồi bên ngọn lửa sắp tàn, Lucy thấy một con chuột ở trong góc đang nhần những vụn bánh mà nhát chổi của cô nàng bỏ sót. Lucy thích chuột và không đuổi nó đi như Maureen sai bảo mình làm. Cô nàng nhìn con chuột một hồi rồi chợt thốt lên, "Stanley?"
Con chuột sững sờ. "Hả?"
"Stanley. Mày là Stanley phải không?" Lucy hỏi. "Nhớ không, tao đã cho mày ăn bánh bích quy sau khi cha nhốt tao... lúc này mày hơi mập hơn hồi đó."
"Còn cô thì gầy hơn, Lucy Gringe," Stanley đáp lại... và thật vậy, bởi vì Lucy không giấu bánh để ăn vụng một mình.
Vậy là, cuối cùng Lucy Gringe đã biết được đường tới chỗ Simon Heap theo cách như thế đó. Bởi vì, Stanley, cựu Chuột Đưa Tin, thành viên của Hiệp hội Chuột Tin Mật, biết rõ Simon ở đâu - mặc dù phải mất bao nhiêu câu đối đáp qua lại và phải tiêu hàng nhiều giờ lê thê để lắng nghe những hồi tưởng của Stanley trước khi Lucy hiểu được chính xác Stanley biết điều gì. Lúc Stanley cuối cùng đồng ý đưa Lucy tới vùng Đất Hoang cũng là lúc mà trận gió Bấc tràn vào, cho nên mãi tới mùa xuân năm sau họ mới thật sự lên đường. Đến cuối mùa xuân thì Lucy và Simon hạnh ngộ.
Hết
Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật - Angie Sage Septimus Heap Tập 3 - Y Thuật