Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 46
B
ạn thân mến,
Hôm nay, sau khi đưa chúng tôi ngược lên hướng Bắc đến tậnTârgoviste, người tài xế đã quay về với gia đình anh ta ở Bucharest, còn chúngtôi thì nghỉ lại một quán trọ cũ kỹ. Georgescu đúng là một người bạn đồng hànhtuyệt vời; dọc đường ông đã làm tôi thích thú bằng cách kể tôi nghe lịch sử củamiền quê mà chúng tôi đi ngang qua. Trong ngày hôm đó tôi đã học hỏi được nhiềuvì kiến thức của ông rất rộng, bao trùm cả những lĩnh vực như kiến trúc vànhững loại thực vật của từng địa phương.
Târgoviste là một thành phố xinh đẹp, vẫn đậm dấu ấn thờiTrung cổ và có hơn một quán trọ tử tế nơi khách lữ hành có thể rửa mặt bằngnước sạch. Bây giờ chúng tôi đang ở giữa lòngWallachia, một vùng bán sơn địanằm kẹp giữa những rặng núi và vùng đồng bằng. Vlad Dracula cai trịvùng Wallachia nhiều lần trong hai thập niên 1450 và 1460; Târgovistelà thủ phủ của hắn. Trưa hôm đó, khi chúng tôi tản bộ quanh các phế tích quantrọng nhất còn sót lại trong cung điện, Georgescu chỉ cho tôi thấy những cănphòng khác nhau và mô tả chức năng có thể của chúng trong quá khứ. Draculakhông ra đời ở đây mà là trong vùng Transylvania, tại một thị trấn có têngọi là Sighişoara. Tôi không có đủ thời gian để đến tham quan nơi đó, nhưngGeorgescu đã đến đó nhiều lần, ông cho tôi biết căn nhà nơi cha Dracula từngsinh sống - nơi Vlad ra đời - vẫn còn đứng vững.
Đáng chú ý nhất trong số các quang cảnh đáng chú ý mà chúngtôi nhìn thấy ở đây hôm nay, khi rảo quanh những con đường cũ kỹ và các phếtích, là những tháp canh của Dracula, hay đúng ra là những công trình phục chếkhá xinh xắn của chúng được thực hiện vào thế kỷ mười chín. Georgescu, nhà khảocổ học tài ba, hếch cái mũi lai hai dòng máu Scotland và Rumani, trỏ vào cáccông trình phục chế, giải thích là trong trường hợp này, những lỗ châu maiquanh đỉnh tháp đã được phục chế không đúng hoàn toàn; nhưng anh còn mong đợiđược điều gì hơn nữa, ông hỏi tôi với giọng châm biếm, khi các sử gia bắt đầusử dụng trí tưởng tượng của họ? Nhưng dù việc phục chế có hoàn toàn chính xáchay không thì những gì Georgescu kể với tôi về tòa tháp đó cũng làm cho tôi phảirùng mình. Tòa tháp đã được Vlad Dracula sử dụng không chỉ như một cứ điểm đểcanh phòng những cuộc xâm nhập thường xuyên của quân Thổ vào khu vực, mà cònnhư một địa điểm thuận lợi giúp hắn dễ dàng quan sát những cuộc hành hình đóngcọc xuyên người được thực hiện ở sân bên dưới.
Chúng tôi ăn tối tại một quán rượu nhỏ gần trung tâm thịtrấn. Từ đó, chúng tôi có thể nhìn thấy các bức tường phía ngoài của cung điệnđổ nát, lúc đang dùng bánh mì với món thịt hầm, Georgescu cho tôi biếtTârgoviste là địa điểm thích hợp nhất, từ đó có thể di chuyển dễ dàng đến pháođài nằm sâu trong vùng rừng núi của Dracula. "Khi chiếm lại ngai vàng xứWallachia lần thứ hai vào năm 1456," nhà khảo cổ học giải thích thêm, "hắn đãquyết định xây dựng một lâu đài phía trên thượng nguồn sông Argeş, nơi hắn cóthể tránh được những cuộc xâm lấn từ vùng đồng bằng. Các rặng núi giữaTârgoviste và Transylvania - và những khu vực hoang vu xứ Transylvania - baogiờ cũng là chốn thoát thân của người dân xứ Wallachia."
Ông bẻ một miếng bánh mì, và dùng nó vét sạch đĩa thịt hầm,mỉm cười nói tiếp. "Dracula biết rõ ở đó có vài pháo đài đổ nát, được xây dựngít nhất từ thế kỷ mười một, phía trên thượng nguồn dòng sông. Hắn quyết địnhxây dựng lại một trong số các lâu đài đó, Lâu đài Argeş cổ. Hắn cần lao động rẻtiền - chẳng phải mấu chốt của những việc như thế này vẫn luôn là nguồn nhânlực sao? Vì vậy, hắn đã giở trò giả nhân giả nghĩa thường lệ của mình, mời tấtcả các boyar - tức địa chủ trong vùng, anh biết đấy - đến tham dự một buổi lễPhục sinh nhỏ. Bọn họ đã đến trong những bộ cánh đẹp nhất, tập trung ở cái sânlớn kia, ngay tại đây, tại Târgoviste, hắn đã cho bọn họ ăn uống thật no say,sau đó lạnh lùng giết hết những người mà hắn cho là vô dụng, và bắt những ngườicòn lại - kể cả vợ con họ - lội bộ năm mươi cây số lên núi để xây dựng lại Lâuđài Argeş."
Georgescu đưa mắt nhìn quanh bàn ăn, dường như để tìm thêmmột miếng bánh mì khác. "Chậc, nhưng thực ra sự việc phức tạp hơn nhiều - lịchsử Rumani bao giờ cũng vậy. Trước đó nhiều năm, người anh lớn của Dracula,Mircea, đã bị các đối thủ chính trị của gia đình giết chết tại Târgoviste. Khilên cầm quyền, Dracula ra lệnh quật mồ, đưa quan tài của anh mình lên và pháthiện người anh xấu số của mình đã bị chôn sống. Đó là lúc hắn gửi lời mời thamdự lễ Phục sinh, kết quả là đã trả thù được cho anh mình, cũng như có đượcnguồn lao động rẻ tiền để xây dựng tòa lâu đài trong vùng núi non. Hắn cho xâylò nung gạch gần pháo đài cũ, những người sống sót sau chuyến hành trình đều bịbuộc phải làm việc ngày đêm, vận chuyển gạch và xây tường và tháp. Những bàihát xa xưa thuộc khu vực này kể rằng những thứ quần áo đẹp đẽ của các địa chủđã rách tả tơi trước khi công trình hoàn thành." Georgescu đã vét sạch đĩa thứcăn. "Tôi nhận thấy ngoài việc là một kẻ ác độc, Dracula còn là một người thựctế."
Vì vậy, anh bạn ạ, ngày mai chúng tôi sẽ đi theo con đườngmòn mà những nhà quý tộc bất hạnh từng phải đau khổ cuốc bộ qua, nhưng chúngtôi sẽ đi bằng xe ngựa.
Thật kỳ lạ khi nhìn thấy những nông dân mặc trang phục dântộc họ giữa những thứ trang phục hiện đại hơn của dân thành thị. Cánh đàn ôngthì sơ mi trắng với áo vest màu sậm, mang dép da to có dây buộc lên đến đầugối, giống như những người chăn cừu La Mã thời xưa đột ngột sống lại. Phụ nữ,phần đông cũng có nước da sậm màu như cánh đàn ông và thường khá đẹp, mặc váydày và áo cánh, dưới một chiếc áo khoác bó sát, thứ trang phục nào cũng thêuhọa tiết sặc sỡ. Có vẻ như họ là những con người sống động, luôn cười to vàsang sảng bàn luận công việc làm ăn mua bán ngay giữa chợ, nơi tôi đã kịp lướtqua sáng hôm qua, lúc mới đến.
Ở đây, tôi cũng không có cơ hội để gửi thư qua đường bưuđiện, vì vậy bây giờ tôi sẽ phải nhét kỹ nó vào túi xách thôi.
Người bạn chân thành của anh,
Bartholomew
Bạn thân mến.
Cuối cùng thì chúng tôi cũng đến được một ngôi làng ven sôngArgeş sau một hành trình vất vả dài cả ngày trời vượt qua những ngọn núi dốcđứng như huyền thoại trong chiếc xe ngựa của một nông dân mà tôi đã trả khôngít tiền thuê. Kết quả là hôm nay dù trong lòng rất phấn chấn tôi vẫn thấy ê ẩmtận xương cốt. Đối với tôi, ngôi làng này quả là kỳ quan, một cái gì đó nhưtrong truyện cổ Grimm chứ không phải là cuộc sống thực, tôi ước gì anh có thểđến đây, dù chỉ một giờ thôi, để cảm nhận khoảng cách bao la giữa nó với cả thếgiới Tây Âu. Những ngôi nhà nhỏ bé, một số trông nghèo nàn và tồi tàn nhưngphần lớn khá vui mắt, những mái hiên thấp lè tè và trên đỉnh những ống khói totướng là những tổ chim lớn, nơi trú ngụ của lũ cò vào mùa hè.
Trưa nay, khi cùng với Georgescu dạo quanh làng, tôi pháthiện quảng trường giữa làng là nơi tụ tập của dân làng, ở giữa có một giếngnước công cộng và một máng ăn lớn dùng để vỗ béo lũ gia súc hai ngày một lầntrước khi đưa chúng ra thành phố. Dưới một thân cây xiêu vẹo là quán rượu, mộtchốn náo nhiệt nơi tôi đã mua không biết bao nhiêu lượt thứ rượu mạnh cay xè đểchiêu đãi dân nhậu địa phương - anh hãy tưởng tượng đến thứ rượu này khi ngồi ởquán Chó Sói Vàng với thứ bia đen nhạt nhẽo kia! Trong đám dân nhậu, chỉ có mộthai người chúng tôi thực sự có thể chuyện trò được chút đỉnh.
Trưa nay, khi chúng tôi mới vào làng, một vài người trong sốnhững người đàn ông này còn nhớ mặt và chuyến viếng thăm sáu năm về trước củaGeorgescu, họ chào mừng bằng những cái vỗ thùm thụp lên lưng ông ta, trong khinhững người khác lại có vẻ như tránh mặt. Georgescu cho biết chuyến đi lên pháođài phải mất một ngày, cả đi lẫn về, nhưng không có người nào muốn đưa chúngtôi đến đó. Họ xầm xì về lũ chó sói, gấu và lẽ dĩ nhiên cả lũ ma cà rồng - pricolici, theo ngôn ngữ địa phương. Tôi đang dần thành thạo một vài từ tiếngRumani, và toàn bộ mớ vốn liếng tiếng Pháp, Ý và Latin của tôi đều rất có íchkhi nỗ lực giao tiếp với họ. Chiều hôm nay, khi hỏi thăm mấy ông lão đầu tócbạc trắng đang khề khà bên ly rượu, gần như cả làng đều quay sang nhìn chúngtôi chòng chọc, chẳng mấy giữ kẽ - các bà nội trợ, những anh chàng nông dân,đám trẻ con lóc nhóc đi chân trần, và các nàng thiếu nữ - nàng nào cũng có cặpmắt huyền đẹp tuyệt trần. Tôi bị vây quanh bởi đám dân làng vờ như đi lấy nướchoặc quét các bậc cấp trước nhà hoặc hỏi han chủ quán rượu chuyện này chuyệnnọ, có lúc họ vây quanh tôi đông đến nỗi tôi phải bật cười, và điều này lạikhiến tất cả mọi người trân trối nhìn tôi hơn.
Ngày mai tôi sẽ viết nhiều hơn. Thật là thoải mái khi tâm sựcùng anh cả giờ đồng hồ bằng chính ngôn ngữ của tôi - của chúng ta!
Người bạn chân thành của anh,
Rossi
Bạn thân mến,
Tôi đã cảm thấy một nỗi kính sợ không thể nào xóa nhòa khiđến được rồi trở về từ pháo đài của Vlad. Giờ thì tôi đã biết lý do vì sao mìnhlại muốn nhìn thấy nơi này đến thế: nó khiến nhân vật đáng sợ đã chết mà tôivẫn truy tìm - hoặc sẽ sớm truy tìm, ở đâu đó, khi nào đó, nếu mấy tấm bản đồcủa tôi giúp được gì đó - có thực hơn một chút trong cuộc sống. Tôi sẽ cố gắngtả lại với anh chuyến đi của chúng tôi, bởi muốn anh có thể hình dung ra khungcảnh đó đồng thời cũng để ghi chép lại cho chính mình.
Chúng tôi lên đường lúc trời vừa hừng sáng trong chiếc xengựa của một nông dân trẻ người địa phương, anh ta là con trai của một kháchquen của quán rượu, có vẻ có của ăn của để. Hình như người cha đã ra lệnh choanh ta đưa chúng tôi đi nên xem ra anh ta chẳng mấy thích thú. Trong ánh rạngđông tại quảng trường làng, khi chúng tôi vừa trèo lên xe, anh ta đã vài lầnchỉ tay về phía những ngọn núi, vừa lắc đầu vừa nói, "Poenari? Poenari?" Rốtcuộc, dường như rốt cuộc anh ta cũng buộc lòng phải chấp nhận công việc đượcgiao phó, giục dây cương hai chú ngựa, hai cỗ máy màu nâu to lớn được giảiphóng khỏi việc đồng áng trong một ngày.
Chàng thanh niên là người có dáng vẻ trông khá dữ dằn, caolớn, hai vai bành ra dưới lớp áo choàng và áo vest len, khi đội mũ anh ta caohơn chúng tôi hai cái đầu. Bộ dạng này có vẻ khá khôi hài so với thái độ nhútnhát của anh ta đối với chuyến đi, tuy vậy, có lẽ tôi chẳng nên cười nhạo nỗisợ hãi của những người nông dân này, nhất là sau những gì đã chứng kiến tạiIstanbul (như đã nói, khi nào gặp tôi sẽ đích thân kể cho anh nghe chuyện này).Georgescu cố gắng động viên tinh thần chàng nông dân trẻ trong suốt cuộc hànhtrình vào rừng sâu, nhưng anh chàng khốn khổ này cứ cầm dây cương, lặng imtrong tuyệt vọng (tôi nghĩ vậy), chẳng khác gì một tử tù đang bị dẫn đến pháptrường. Thỉnh thoảng anh ta luồn tay vào bên trong áo sơ mi, tựa như đang mangtrong đó một thứ bùa hộ mạng nào đó - tôi đoán vậy khi nhìn thấy sợi dây daquanh cổ anh ta và cố cưỡng lại ý định muốn nhìn xem đó là vật gì. Tôi cảm thấythương hại anh chàng, những gì mà chúng tôi đưa đẩy anh ta vào đều ngược lạivới mọi cấm kỵ trong nền văn hóa anh ta, nhất định tôi sẽ thưởng thêm tiền choanh ta khi chuyến đi kết thúc.
Chúng tôi dự định ở lại qua đêm để có đủ thời gian xem xétmọi thứ và cố gắng hỏi thăm bất kỳ người nông dân nào sống gần khu vực đó màchúng tôi có thể gặp, vì vậy cha của chàng thanh niên đã cung cấp mền và tấmtrải, người mẹ thì lo một số bánh mì, pho mát và táo, tất cả được cột lại thànhmột bó để phía sau xe. Khi tiến vào rừng, tôi bất chợt cảm thấy rùng mình, rõràng chẳng vì lý do gì, chỉ là bản năng. Tôi còn nhớ nhân vật chính trong cuốntiểu thuyết của Bram Stoker cũng lên đường vào những cánh rừng vùngTransylvania bằng xe ngựa tuyến - dù sao chăng nữa đó cũng là phiên bản hư cấucủa những cánh rừng này - và chợt ao ước phải chi mình khởi hành vào lúc chiềutối để có thể thoáng nhìn thấy những đốm lửa bí ẩn trong rừng sâu và nghe đượctiếng sói tru. Thật đáng tiếc, tôi nghĩ, khi Georgescu lại chưa từng đọc cuốnsách đó, nhất định tôi sẽ gửi cho ông ta một cuốn khi trở về Anh, nếu có baogiờ tôi trở lại cái chốn buồn chán ấy. Nhưng rồi tôi chợt nhớ ra cuộc chạm tráncủa mình tại Istanbul và tỉnh táo lại.
Chúng tôi chậm chạp vượt qua cánh rừng vì con đường bị lúnđầy vết bánh xe và ổ gà, và hầu như bắt đầu dốc đứng. Những cánh rừng này rấtsâu, ngay cả vào giờ trưa nóng nhất thì trong rừng vẫn chỉ sáng lờ mờ, cùng vớicái mát lạnh kỳ dị của nội thất một giáo đường. Dong xe xuyên qua những cánhrừng này, người ta hầu như bị bao phủ giữa đám cây cối và một sự tĩnh lặng nặngnề; phía trước chiếc xe ngựa kéo này hàng dặm không thấy có gì, ngoại trừ nhữngthân cây và bụi rậm nối tiếp nhau bất tận, dày đặc những gốc vân sam xen lẫngiữa nhiều cây gỗ cứng khác. Nhiều cây cao ngất ngưởng, tán lá sum suê củachúng như che mất cả bầu trời. Cũng giống như đi ngang những cây cột của mộtthánh đường bao la, nhưng là một thánh đường tăm tối, một thánh đường đầy yêuma, nơi mà người ta thường nghĩ đã thoáng thấy bức tượng Madonna Đen 1 hoặccác thánh tử đạo trong mọi ngóc ngách. Tôi nhận ra có ít nhất một chục loạicây, trong đó có những cây hạt dẻ cao vút và một loại sồi tôi chưa bao giờ nhìnthấy.
Khi mặt đất bằng phẳng trở lại, chúng tôi tiến vào giữa mộtkhoảnh rừng toàn những thân cây màu trắng bạc, một loại gần như cây sồi màngười ta vẫn tình cờ gặp - dù rất hiếm - trong những khu rừng rậm rạp thuộc cácthái ấp ở nước Anh. Chắc chắn anh đã nhìn thấy loại cây này rồi. Có khi khurừng này trước đây còn là sảnh đường lễ cưới cho Robin Hood rồi cũng nên, vớinhững thân cây kềnh càng đồ sộ làm cột chống cho chiếc mái làm bằng hàng triệuchiếc lá xanh nhỏ li ti, những lớp lá năm trước rơi đầy trên mặt đất làm thànhmột tấm thảm màu nâu nhạt phía dưới bánh xe chúng tôi. Anh chàng lái xe có vẻnhư không có chút cảm hứng nào ngắm nhìn vẻ đẹp này - có lẽ khi phải sống trọnđời giữa những khung cảnh như thế này, người ta sẽ không còn cảm nhận đúng cáiđẹp của thế giới mà họ đang sống. Georgescu bận rộn với một số ghi chú về côngviệc ông đang thực hiện tại Snagov, vì vậy tôi không có ai để chia sẻ, dù chỉmột lời, về vẻ đẹp xung quanh.
Sau khi rong ruổi trên xe gần nửa ngày, chúng tôi vào mộtcánh đồng trống, chỉ có hai màu: xanh và vàng dưới ánh nắng mặt trời. Chúng tôiđã lên rất cao so với ngôi làng, và từ đây có thể nhìn ra một khung cảnh câycối rậm rạp, từ rìa cánh đồng đổ dốc thẳng đứng xuống phía dưới, bước hụt chânở đó sẽ là một cú rơi thẳng đứng khủng khiếp. Từ đây rừng cây lại lao xuống mộtvực sâu và tôi lại nhìn thấy dòng sông Argeş, như một dòng bạc lấp lánh phíadưới. Phía bên kia bờ sông là những triền dốc bạt ngàn cây cối, trông có vẻ nhưkhông cách nào leo lên được. Đó là lãnh địa của lũ đại bàng, không phải dànhcho con người, tôi chợt cảm thấy kinh sợ khi nghĩ đến nhiều cuộc đụng độ đã xảyra ở đây giữa người Thổ và người Thiên Chúa giáo. Tôi nghĩ, với bất kỳ đế quốcnào, dù táo tợn đến đâu, chuyện nỗ lực xâm nhập vào vùng đất này cũng là việccực kỳ điên rồ. Tôi đã hiểu lý do vì sao Vlad Dracula lại chọn khu vực này làmcứ địa: hầu như chẳng cần đến một pháo đài, nơi này vốn đã là một nơi bất khảxâm phạm.
Anh chàng đánh xe ngựa nhảy xuống và mở bao thức ăn ra,chúng tôi ăn bữa trưa ngay trên bãi cỏ lác đác những gốc tổng quán sủi và sồi.Sau đó, anh ta nằm dài ra bên dưới một gốc cây, đắp mũ che mặt lại. Georgescucũng nằm thẳng dưới một gốc cây khác, tựa như đó là một việc làm tự nhiên, họngủ khoảng một giờ trong lúc tôi thơ thẩn dạo quanh bãi cỏ. Không gian hoàntoàn tĩnh lặng, chỉ có tiếng gió rền rĩ trong những khu rừng bất tận. Trên tấtcả là bầu trời cao vút và sáng rực một màu xanh. Tản bộ qua phía bên kia bãicỏ, tôi nhìn thấy một khoảng rừng thưa tương tự, khá xa phía dưới, ở đó chỉ cómột người chăn cừu mặc quần áo trắng và đội một chiếc mũ rộng vành màu nâunhạt. Bầy cừu trôi quanh anh ta như những đám mây, tôi nghĩ có thể anh ta đãđứng ở đó, trong tư thế tựa vào cây gậy cũng như vậy từ thời Trajan 2. Tôi cảmthấy một sự bình yên tuyệt vời bỗng bao trùm lên mình. Những tưởng tượng quáiđản về chuyến đi đã dần mờ nhạt trong tâm trí, tôi nghĩ mình có thể đứng đó,trong đồng cỏ thơm ngát này mãi mãi, như người chăn cừu kia.
Vào buổi chiều, con đường càng lúc càng trở nên dốc, và cuốicùng dẫn vào một ngôi làng mà Georgescu cho biết là làng gần với pháo đài nhất;tại đây, chúng tôi ngồi nghỉ một lát ở quán rượu trong làng, cùng những ly rượumạnh mà người ta gọi là pălincă. Người đánh xe nói rõ ràng là anh ta sẽ ở lạilàng cùng với hai chú ngựa trong lúc chúng tôi leo bộ lên pháo đài; không cóchuyện anh ta cùng leo lên đó, cũng như chẳng có chuyện qua đêm giữa đống phếtích đó cùng chúng tôi. Khi chúng tôi tỏ ý thuyết phục, anh ta gầm lên "Pentrunimica ỵn lime," rồi đưa tay lên sợi dây da quanh cổ. Georgescu cho tôi biếtcâu đó nghĩa là "Tuyệt đối không." Đối với chuyện này, anh chàng tỏ ra kiênquyết đến nỗi rốt cuộc Georgescu phải tặc lưỡi nói rằng quãng đường phải cuốcbộ cũng vừa phải và đằng nào đến đoạn cuối chúng tôi cũng phải cuốc bộ. Tôi hơibăn khoăn tự hỏi vì sao Georgescu lại muốn nghỉ qua đêm ngoài trời thay vì quaytrở lại làng, và thật lòng thì dù không nói ra nhưng tôi không hoàn toàn thíchthú với ý tưởng phải ngủ qua đêm trên đó.
Cuối cùng chúng tôi đành để chàng trai ở lại với ly rượu mạnh và bầy ngựa bên máng nước rồi tiếp tục lên đường với đồ ăn và chăn mền trên lưng. Khi bước dọc con đường làng chính, tôi lại nhớ đến câu chuyện các địa chủ ở Târgoviste, hình dung lại cảnh họ đang lê lết leo lên cái pháo đài đổ nát đầu tiên, và sau đó lại nghĩ đến những gì mình đã chứng kiến - hoặc tin rằng mình đã chứng kiến - tại Istanbul, và một lần nữa cảm thấy day dứt một cảm giác khó chịu.
Chẳng bao lâu, con đường đã hẹp lại thành một đường mòn chỉ vừa cho một xe ngựa nhỏ, rồi tiếp theo là một lối mòn nhỏ băng qua khu rừng, gần như dựng đứng trước mặt chúng tôi. Chúng tôi chỉ phải leo đoạn dốc đứng sau cùng, và đã dễ dàng vượt qua. Đột nhiên chúng tôi đã ở trên một gờ đá lộng gió, một chiếc xương sống đá sắc cạnh nhô vút lên trên cánh rừng. Ngay trên đỉnh chiếc xương sống này, bám chặt trên đốt sau cùng cao hơn hẳn các đốt khác là hai ngọn tháp và một cụm những bức tường đổ nát, đó là tất cả những gì còn lại của Lâu đài Dracula. Quang cảnh thật ngoạn mục, dòng sông Argeş lấp lánh trong vực sâu bên dưới và rải rác đây đó những làng mạc trên những dốc đá dọc dòng sông. Xa về phía Nam là những ngọn đồi thấp, Georgescu nói đó là những cánh đồng của vùng Wallachia, và về hướng Bắc nhô cao lên những đỉnh núi, một số trắng xóa tuyết phủ. Chúng tôi đã đến nơi loài đại bàng ngự trị.
Georgescu đi trước, trèo qua những tảng đá ngổn ngang và cuối cùng chúng tôi đã đứng giữa đống phế tích kia. Tôi nhận ra ngay đây là một pháo đài nhỏ từ lâu đã bị bỏ hoang cho trời đất, đủ mọi loại hoa dại, địa y, rong rêu, nấm mốc và đám cây nảy mầm từ hạt giống gió mang đến đã định cư bên trong tự thuở nào. Hai ngọn tháp còn lại vẫn đứng như hai bóng đen xương xẩu trên nền trời. Georgescu giải thích thoạt tiên ở đây có năm ngọn tháp, từ các ngọn tháp đó bọn lính thuộc hạ của Dracula có thể canh phòng những cuộc xâm nhập của người Thổ. Khoảnh sân chúng tôi đang đứng từng có một giếng nước sâu, đề phòng trường hợp bị vây hãm, và cũng - theo truyền thuyết - là một lối đi bí mật dẫn đến một cái hang xa bên dưới, trên bờ sông Argeş. Qua lối đi bí mật này, Dracula đã thoát khỏi tay người Thổ năm 1462, sau năm năm sử dụng không liên tục pháo đài này. Hình như hắn đã không bao giờ quay trở lại nơi này. Georgescu tin rằng mình đã xác định được căn nhà nguyện của lâu đài ở một đầu sân, ở đó chúng tôi nhô đầu nhìn vào một khung vòm đổ nát. Chim chóc bay lượn vào ra các vách tường ngọn tháp, rắn rết và các loài thú nhỏ chạy sột soạt và biến mất trước mắt chúng tôi, tôi có cảm giác chẳng bao lâu nữa thiên nhiên sẽ chiếm hết những gì còn lại của cơ ngơi này.
Vào lúc bài học khảo cổ của chúng tôi kết thúc, mặt trời đã lơ lửng bên trên những ngọn đồi phía Tây, quanh chúng tôi bóng các tảng đá, cây cối và ngọn tháp đã đổ dài. "Chúng ta có thể quay trở lại ngôi làng vừa rồi," Georgescu đăm chiêu nói. "Nhưng rồi sáng mai sẽ lại phải leo lên nếu muốn xem xét lại nơi này. Tốt hơn chúng ta nên cắm trại ở đây, anh thấy thế nào?"
Ngay lúc đó tôi cảm thấy tốt hơn là không nên, nhưng Georgescu trông có vẻ quá thản nhiên, quá khoa học, rạng rỡ nhìn tôi với cuốn sổ ghi chép cầm trong tay, tôi không đành thốt lên tiếng không. Ông bắt đầu thu nhặt các cành khô quanh đó, tôi giúp một tay, và chẳng bao lâu chúng tôi đã có một đống lửa cháy tí tách trên phiến đá đã được cẩn thận gạt bỏ các lớp rong rêu trong khoảnh sân xưa cũ kia. Georgescu có vẻ như rất mê đống lửa, hết thổi phù phù vào ngọn lửa lại tới chỉnh các cành củi cho ngay ngắn, dựng một cái bếp nguyên thủy để đặt cái nồi mà ông lấy trong ba lô ra. Chẳng bao lâu, ông đã xong món thịt hầm và vừa cắt bánh mì vừa mỉm cười nhìn ngọn lửa, lúc ấy tôi mới nhớ ra ông không chỉ là người Scotland, mà còn là dân Gypsy nữa.
Mặt trời lặn trước khi bữa ăn tối sẵn sàng, và khi nó khuất hẳn sau dãy núi, khu phế tích cũng chìm vào bóng tối, những ngọn tháp ảm đạm nổi lên trên nền ánh chiều hôm tranh tối tranh sáng. Con gì đó - lũ cú? hoặc dơi? - vỗ cánh bay vào bay ra qua các lỗ châu mai trống rỗng, từ nơi đó, ngày xưa những mũi tên đã lao về phía đám quân Thổ. Tôi lấy chăn ra và trải sát gần đống lửa, nhưng vẫn giữ khoảng cách an toàn. Georgescu đã dọn ra một bữa ăn cực kỳ hấp dẫn và lại kể về lịch sử của nơi này trong lúc chúng tôi ăn uống. "Một trong những câu chuyện buồn nhất về huyền thoại Dracula xuất phát từ chốn này. Anh đã nghe nói về người vợ đầu tiên của Dracula rồi chứ?"
Tôi lắc đầu.
"Những người nông dân sống quanh đây kể một câu chuyện về bà ta, mà tôi nghĩ có lẽ là có thực. Chúng ta đã biết vào mùa thu năm 1462, Dracula bị người Thổ đuổi ra khỏi pháo đài này, sau đó hắn cũng không quay trở lại chốn này khi trở lại nắm quyền cai trị vào năm 1476, ngay trước khi bị giết. Các bài dân ca từ các làng mạc ở đây cho thấy vào đêm mà quân Thổ chiếm được vách đá đối diện đằng kia" - ông chỉ tay vào cánh rừng đen như nhung - "bọn chúng đã đóng quân tại pháo đài cũ của Poenari, và cố triệt hạ tòa lâu đài của Dracula bằng cách bắn đại bác qua sông. Bọn chúng không thành công, vì vậy sáng hôm sau, viên tướng chỉ huy đã ra lệnh tổng tiến công chiếm lâu đài."
Georgescu ngừng kể, khơi cho ngọn lửa sáng hơn; khi ánh sáng nhảy múa trên gương mặt ngăm đen và những chiếc răng vàng, những lọn tóc đen của ông bỗng trông giống như những cái sừng. "Trong đêm, một nô lệ trong doanh trại quân Thổ, vốn là bà con của Dracula, đã lén bắn một mũi tên vào một khoảng trống của ngọn tháp trong lâu đài, nơi anh ta biết đó là phòng riêng của Dracula. Gắn trên mũi tên là một lá thư cảnh báo Dracula nên trốn thoát khỏi lâu đài trước khi hắn và gia đình bị bắt làm tù binh. Người nô lệ kia có thể đã nhìn thấy gương mặt người vợ của Dracula đang đọc lá thư dưới ánh nến. Trong các bài dân ca cổ, những người nông dân kể rằng vợ của Dracula đã bảo với chồng là bà thà để cá dưới dòng sông Argeş ăn thịt chứ không làm nô lệ cho quân Thổ. Anh biết đấy, người Thổ chẳng tử tế gì với tù binh của họ." Sau đĩa thịt hầm, Georgescu cười với tôi một nụ cười bí hiểm. "Sau đó bà ta chạy lên các bậc cấp ngọn tháp - có lẽ là ngọn tháp đằng kia - và gieo mình xuống. Lẽ dĩ nhiên Dracula đã trốn thoát qua lối đi bí mật." Ông thản nhiên gật gù. "Đoạn này của dòng sông Argeş còn gọi là Riul Doamnei, nghĩa là Sông của Bà Hoàng."
Như anh có thể hình dung, tôi đã rùng mình - trưa hôm đó, tôi đã liếc qua cái vực thẳm đó. Cú rơi từ trên đó xuống dòng sông bên dưới hầu như không thể tưởng tượng nổi.
"Dracula có con với người vợ này chứ?"
"Ồ, có." Georgescu múc thêm cho tôi một ít thịt hầm. "Con trai của họ là Mihnea Đê Tiện, đã cai trị vùng Wallachia vào đầu thế kỷ mười sáu. Lại là một nhân vật hấp dẫn nữa. Dòng dõi của gã là một loạt những kẻ như Mehnea và Mircea, tất cả đều đáng ghét. Sau đó Dracula lại lấy vợ, lần thứ hai với một phụ nữ Hungary có bà con với Matthias Corvinus, vua Hungary. Chúng sinh ra một lô một lốc Dracula."
"Có người nào còn sinh sống tại vùng Wallachia hay Transylvania không?"
"Tôi nghĩ là không. Nếu có, hẳn tôi đã tìm ra họ." Ông xé một mẩu bánh mì rồi đưa cho tôi. "Dòng dõi thứ hai định cư tại vùng Szekler và tất cả đã hòa nhập với người Hungary. Những người cuối cùng trong số này đã kết hôn với gia đình quý tộc Getzi và cũng đã biến mất."
Trong lúc ăn, tôi đã ghi tất cả các chi tiết này vào sổ tay dù không tin tưởng chúng có thể dẫn mình đến bất kỳ ngôi mộ nào. Điều này lại khiến tôi nghĩ đến một câu hỏi cuối cùng mà tôi hoàn toàn không muốn nêu ra trong cái bóng đêm dày đặc thăm thẳm này.
"Liệu có thể nào Dracula được chôn cất ở đây, hay xác hắn đã được chuyển từ Snagov về đây, để giữ cho an toàn?"
Georgescu cười khúc khích. "Anh vẫn hy voọn, đúng không? Không, lão già đó nằm đâu đó tại Snagov, hãy chú ý lời tôi. Lẽ tất nhiên, cái nhà nguyện đằng kia cũng có một hầm mộ - có một khu vực trũng xuống, với một vài bậc cấp đi xuống. Nhiều năm trước tôi đã khai quật hầm mộ đó, trong chuyến đầu tiên đến đây." Ông cười tươi. "Hồi đó đám dân làng không thèm bắt chuyện với tôi cả mấy tuần lễ. Nhưng hầm mộ đó trống không. Thậm chí chẳng có lấy một mẩu xương."
Chẳng bao lâu sau ông đã ngáp dài. Chúng tôi kéo sát đồ đạc vào đống lửa, cuộn tròn trong túi ngủ và nằm lặng yên. Trời đêm lạnh buốt, tôi mừng vì đã mặc bộ quần áo ấm nhất của mình. Nhìn lên bầu trời đầy sao một lát - dường như chúng gần với vách núi đen thẫm kia đến kỳ lạ - tôi lắng nghe tiếng ngáy của Georgescu.
Cuối cùng hẳn tôi cũng đã thiếp đi vì khi mở mắt ra tôi thấy đống lửa gần tàn và một đám mây bao phủ đỉnh núi. Tôi rùng mình, và trong lúc chuẩn bị đứng lên để châm thêm củi thì chợt nghe tiếng sột soạt sát gần một bên. Máu tôi như đông lại. Như vậy, không chỉ có một mình chúng tôi giữa đống phế tích này, và bất kể là thứ gì đang chia sẻ với chúng tôi cái lâu đài tăm tối kỳ dị này thì cũng đang ở rất gần. Tôi từ từ đứng lên, nghĩ đến việc đánh thức Georgescu nếu cần thiết, và băn khoăn tự hỏi không biết ông ta có mang theo loại vũ khí nào trong chiếc túi Gypsy đa dụng kia không. Một sự im lặng chết chóc vây phủ xung quanh, chỉ vài giây sau sự hồi hộp đã quá mức chịu đựng của tôi. Tôi dun vào đống lửa một nhánh cây lấy từ đống củi, khi nhánh cây bắt lửa tôi đã có một ngọn đuốc, tôi cẩn thận giơ cao nó lên.
Đột nhiên, tận phía trong sâu thẳm của khu vực nhà nguyện đầy cây cối, ánh đuốc làm ánh lên một đôi mắt rực đỏ. Bạn thân mến, sẽ là dối trá nếu tôi nói rằng lúc đó tóc tai mình không dựng đứng lên. Đôi mắt di chuyển tới gần hơn một chút và tôi không thể nói chúng cách mặt đất bao xa. Nó đăm đăm nhìn tôi một lúc lâu, tôi cảm thấy, một cách phi lý, rằng dường như nó biết rõ chúng tôi, biết tôi là ai và đang thăm dò tôi. Sau đó, có tiếng xô đẩy trong bụi rậm, một con vật to lớn xuất hiện, đảo mắt nhìn quanh rồi phóng vào bóng đêm. Đó là một con chó sói to lớn dị thường; trong ánh sáng mờ mờ tôi nhìn thấy bộ lông bờm xờm và cái đầu to tướng của con vật, chỉ trong một thoáng trước khi nó lủi biến mất khỏi khu phế tích đổ nát.
Tôi lại nằm xuống, lúc này không còn muốn đánh thức Georgescu vì mối nguy hiểm có vẻ như đã trôi qua, nhưng vẫn không tài nào ngủ lại được. Tôi thấy đi thấy lại - ít ra là trong tâm trí mình - đôi mắt sắc bén quen thuộc đó. Tôi nghĩ cuối cùng mình cũng sẽ thiếp đi, nhưng khi nằm đó tôi nghe có tiếng động xa xa, có vẻ như chúng vọng đến từ trong bóng tối của khu rừng. Cuối cùng cảm thấy quá bức bối, không thể nằm yên trong đống chăn mền, tôi lại đứng lên, rón rén băng qua mảnh sân um tùm bụi rậm để nhìn qua bức tường. Như tôi đã mô tả, chỗ dốc đứng phía trên vực thẳm kia hướng xuống sông Argeş, nhưng bên trái là một khu vực với những cánh rừng ít dốc hơn, tôi nghe có tiếng rì rầm từ phía dưới đó và nhìn thấy ánh sáng chập chờn giống như những đống lửa trại. Tôi tự hỏi phải chăng đó là trại của đám dân Gypsy; sáng mai tôi phải hỏi Georgescu mới được. Tựa như ý nghĩ trên đã đánh động ông ta, người bạn mới của tôi đột ngột xuất hiện, như một bóng mờ bên cạnh tôi và vẫn còn ngái ngủ.
"Có chuyện gì không ổn à?" Ông ta nhìn chòng chọc qua bức tường.
Tôi trỏ tay chỉ. "Có thể nào đó là trại của người Gypsy không?"
Ông ta bật cười. "Không, người Gypsy không ở quá xa với nền văn minh như vậy đâu." Theo sau câu trả lời là một cái ngáp dài, nhưng trong ánh sáng của đám lửa đang tàn đôi mắt ông ta sáng lên và đầy cảnh giác. "Dù vậy, cũng kỳ lạ đấy. Ta qua đó xem thử xem sao."
Tôi chẳng mặn mà với ý kiến đó chút nào, nhưng vài phút sau, chúng tôi mang giày vào và rón rén đi xuống con đường mòn hướng về phía tiếng động. Âm thanh nghe dần to hơn, cao lên rồi thấp xuống, một nhịp điệu kỳ quái - tôi nghĩ, không phải là lũ chó sói mà là tiếng người. Tôi cố gắng không giẫm lên các cành cây. Có lúc tôi quan sát thấy Georgescu cho tay vào áo khoác - ông ta có súng, tôi thầm nghĩ và cảm thấy yên tâm. Chẳng bao lâu chúng tôi nhìn thấy ánh lửa lập lòe sau các thân cây, ông ta ra dấu cho tôi khom người rồi ngồi xổm xuống cạnh ông, trong bụi cây.
Thật kinh ngạc, chúng tôi đã đến một khoảnh rừng thưa rất đông đàn ông. Họ đứng thành hai vòng tròn quanh một đống lửa, nhìn vào ngọn lửa và tụng kinh. Một người, hình như là chỉ huy, đứng gần đám lửa, mỗi khi bài tụng đến đoạn vút cao lên, mỗi người trong họ lại giơ thẳng tay lên chào, bàn tay còn lại đặt lên vai người đứng kế bên. Gương mặt bọn họ khắc nghiệt và nghiêm nghị, ánh lên một màu cam kỳ lạ trong ánh lửa, mắt họ sáng lấp lánh. Họ mặc một loại giống như đồng phục, áo khoác sậm màu bên ngoài sơ mi xanh và cà vạt đen. "Chuyện gì vậy?" tôi thì thầm hỏi Georgescu. "Họ đang nói gì vậy?"
"Tất cả cho tổ quốc!" ông ta thì thầm vào tai tôi. "Ngồi im, nếu không là chết đấy. Tôi nghĩ đây là bọn Binh đoàn Tổng Thiên thần Michael."
"Là gì vậy?" Tôi cố gắng chỉ mấp máy môi. Thật khó hình dung một thứ gì đó khác thiên thần hơn những gương mặt sắt đá và những cánh tay vung thẳng cứng nhắc kia. Georgescu vẫy tay ra hiệu cho tôi lùi lại và chúng tôi lại bò vào rừng. Nhưng trước khi quay đi tôi để ý thấy một cử động ở phía bên kia khoảnh rừng thưa, và càng kinh ngạc hơn khi nhìn thấy bóng dáng một người đàn ông cao lớn mặc áo choàng, mái tóc đen nhánh, gương mặt bủng vàng sáng lên từng lúc dưới ánh lửa. Hắn đứng bên ngoài những vòng người mặt đồng phục, vẻ mặt hoan hỉ, có vẻ như đang cười. Sau đó một giây tôi không còn nhìn thấy hắn nữa, và nghĩ rằng hắn đã lủi vào đám cây cối, và rồi Georgescu lại kéo tôi ngược lên dốc.
Khi đã về lại khu phế tích an toàn - thực là kỳ lạ và phi lý, giờ tôi lại cảm thấy an toàn - Georgescu ngồi xuống bên cạnh đống lửa, châm tẩu thuốc tựa như để tìm chút khuây khỏa. "Trời ơi, anh bạn," ông hổn hển. "Đây có thể là ngày tàn của hai chúng ta."
"Bọn họ là ai vậy?"
Ông quăng que diêm vào đống lửa. "Bọn tội phạm," ông ta trả lời cụt lủn. "Chúng còn gọi là Binh đoàn Thép. Chúng càn quét các làng mạc trong khu vực này, bắt thanh niên và biến họ thành những kẻ chỉ biết căm thù. Chúng đặc biệt căm thù và muốn loại bỏ người Do Thái ra khỏi thế giới này." Ông rít một hơi thuốc dữ dội. "Người Gypsy chúng tôi biết rằng ở đâu người Do Thái bị giết chóc thì người Gypsy cũng luôn bị tàn sát theo. Và sau đó sẽ còn nhiều người khác nữa, thường là vậy."
Tôi tả lại gương mặt kỳ lạ mà mình đã nhìn thấy đứng bên ngoài vòng người.
"Ồ, nói thật ra là," Georgescu thì thầm, "chúng thu hút đủ mọi loại thành phần lạ lùng ngưỡng mộ chúng. Chẳng bao lâu nữa tất cả đám dân chăn cừu trên núi sẽ quyết định đi theo chúng."
Phải mất một lúc lâu chúng tôi mới có thể dỗ lại giấc ngủ, nhưng Georgescu trấn an là một khi đã bắt đầu các nghi thức thì rất ít khả năng đám Binh đoàn này leo lên núi. Tôi chỉ chợp mắt trong chốc lát và thấy nhẹ nhõm khi ánh bình minh lại trở về trên vùng đất chỉ có chim đại bàng làm tổ này. Lúc này, trời vẫn còn mù sương và thật yên tĩnh, cây cối xung quanh lặng yên vì không một chút gió. Ngay khi ánh mặt trời sáng tỏ hơn, tôi cẩn thận đi đến chỗ khung mái vòm đổ nát của nhà nguyện để xem xét dấu vết con sói. Chúng hiện rõ sát bên cạnh nhà nguyện, lớn và nặng nề, trên mặt đất. Điều lạ lùng là chỉ có một loạt những dấu chân, từ khu vực nhà nguyện đi ra, bước thẳng ra từ cái đáy lõm của hầm mộ, không có dấu vết cho thấy con sói đã vào đó theo đường nào - hoặc có lẽ tôi đã không thể quan sát đầy đủ dấu vết của nó ở đám bụi cây phía sau nhà nguyện. Sau khi ăn sáng xong, tôi vẫn còn bối rối nghiền ngẫm điều này một lúc lâu nên đã vẽ vài bản phác thảo, chúng tôi lên đường xuống núi.
Một lần nữa tôi phải dừng bút ở đây, và từ vùng đất xa xôi này tôi xin gửi đến anh những lời thăm hỏi nồng nhiệt nhất.
Rossi
Chú thích
1 Black Madonna: chỉ những bức tượng hoặc tranh vẽ Đức Mẹ Mary có nước da sẫm hoặc màu đen, đặc biệt là những tranh, tượng ra đời trong hoặc trước thời Trung cổ tại châu Âu. (Không phải là hình ảnh Đức Mẹ Đồng Trinh da đen phổ biến trong cộng đồng Thiên Chúa giáo châu Phi hoặc nơi có nhiều người da đen sinh sống).
2 Tên đầy đủ là Marcus Ulpius Nerva Traianus, thường biết đến với tên Trajan (53- 117); Hoàng đế La Mã, trị vì từ năm 98 cho đến khi qua đời năm 117.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova