Núi Thần epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần 7 - Quý Ngài Peeperkorn (Tiếp Theo)
uý ngài Peeperkorn ở lại ‘Sơn trang’ suốt mùa đông năm ấy - hay phần còn lại của nó - cho đến tận lúc xuân sang, cuối cùng họ còn có một chuyến đi dã ngoại đáng nhớ (cả Settembrini và Naphta cũng có mặt) đến thung lũng Flüela và cái thác nước ở đó... Cuối cùng? Vậy ra sau đó ông ta không ở lại đây? - Không, ông ta không ở lại. - Ông ta xuống núi ư? - Phải và không phải. - Phải và không phải là thế nào? Xin đừng làm bộ bí mật nữa! Chúng tôi đủ sức giữ bình tĩnh mà. Thiếu úy Ziemßen đã qua đời, vô số ứng cử viên kém danh giá hơn của vũ điệu tử thần cũng vậy. Ông Peeperkorn nói năng tối nghĩa vậy ra cuối cùng đã bị sốt rét ác tính bắt đi? Không, không phải thế. Nhưng sao lại thiếu kiên nhẫn như vậy? Cái gì cũng phải đúng trình tự của nó, đó là một quy luật của cuộc sống và của câu chuyện mà chúng ta phải tôn trọng, chắc hẳn không ai muốn chống lại quy tắc bất di bất dịch ấy trong nhận thức con người! Ít ra ta cũng phải dành cho thời gian sự trân trọng xứng đáng với vai trò của nó, chừng nào câu chuyện của chúng ta còn cho phép - cũng chẳng còn bao lâu nữa đâu, đùng một cái điều đó sẽ xảy ra. Hay nếu sợ nói thế ồn ào quá thì có thể bảo nó sẽ đến nhanh như gió. Cây kim nhỏ của chiếc đồng hồ thời gian chạy ào ào như thể kim giây, và chỉ Chúa biết mỗi lần nó lướt qua đỉnh cao nhất, lạnh lùng vô cảm không bao giờ dừng lại. Có một điều chắc chắn là nhân vật chính của chúng ta đã ở trên này mấy năm rồi, chàng ta buông mình vào một cơn say tội lỗi không thuốc phiện và cần sa, bị đạo đức và lương tâm lên án - nhưng chàng ta vẫn cố ý chống lại lý trí sáng suốt và logic sắc bén để giữ đám sương mù dày đặc ấy trong đầu! Không phải ngẫu nhiên mà chàng chú trọng giao du với những cái đầu sáng láng như các ông Naphta và Settembrini hơn là với quý ngài Peeperkorn tối nghĩa - nhưng nếu đem so sánh họ với nhau thì về một vài phương diện, cụ thể là về tầm vóc, ưu thế không thể chối cãi chắc chắn thuộc về nhân vật đến sau. Đó là những ý nghĩ hiện ra trong đầu Hans Castorp trong những giờ chàng nằm suy ngẫm ngoài ban công. Chàng phải thừa nhận rằng, hai nhà sư phạm với những cuộc khẩu chiến bất tận tranh giành linh hồn tội nghiệp của chàng bên cạnh Peeperkorn bỗng trở nên bé nhỏ như những người lùn, và chàng thầm giễu cợt gọi họ bằng cái từ nhân cách lớn kia trong cơn say vương giả đã dùng để gọi chính chàng: những kẻ “ba hoa chích chòe”. Nhưng chàng cũng thực sự vui mừng vì nhờ được họ dạy dỗ đến nơi đến chốn nên mới có cơ may tiếp cận với một nhân cách lớn.
Việc nhân cách lớn này là bạn đồng hành của Clawdia Chauchat, và như thế đồng thời là một yếu tố gây rối trầm trọng, lại là chuyện khác, Hans Castorp tuyệt đối không để chuyện ấy ảnh hưởng đến đánh giá của mình. Chàng không để nó làm suy suyển thái độ tôn trọng chân thành mặc dù thi thoảng có hơi láu cá của mình đối với một người đàn ông có tầm vóc lớn, chỉ vì người ấy chung ngân sách đi đường với người phụ nữ đã cho Hans Castorp mượn một cái bút chì trong đêm hội hóa trang. Chàng không phản ứng, đó là bản tính của chàng - mặc dù thể nào cũng có người trong chúng ta lên án thái độ ấy là ‘thiếu cá tính’ và sẽ hài lòng hơn nếu chàng tỏ ra căm ghét Peeperkorn và tránh mặt ông ta và trong thâm tâm chỉ gọi ông ta là một con lừa già lập dị tối ngày say xỉn. Không những không làm thế mà chàng còn cúc cung tận tụy đến thăm mỗi khi ông ta lên cơn sốt rét và ngồi bên giường trò chuyện hàng giờ với ông ta - tất nhiên “trò chuyện” ở đây phù hợp với phần đóng góp của chàng hơn là của nhân cách lớn Peeperkorn - và với lòng ham hiểu biết của tuổi trẻ trên con đường đi tìm học vấn, chàng để cho nhân cách ấy thấm vào mình. Chàng làm đúng như thế, và chúng tôi cũng kể lại hoàn toàn trung thực, chấp nhận cái rủi ro có thể ai đó trong các độc giả liên tưởng đến Ferdinand Wehsal, người trước kia ưa xun xoe cầm áo khoác cho Hans Castorp. Không thể có một sự liên hệ hay so sánh ở đây. Nhân vật chính của chúng ta không phải là Wehsal. Chàng không có một tâm hồn thảm hại. Chàng không để cho tình cảm lãng mạn chi phối, nói trắng ra là không để cho đàn bà quyết định mối quan hệ của mình với những người đàn ông khác. Trung thành với nguyên tắc không kể về chàng tốt hơn hay xấu hơn trong thực tế, chúng tôi xác nhận rằng, chàng chỉ đơn giản khước từ - không phải một cách quả quyết và có ý thức, mà rất ngây thơ và tự phát, chàng khước từ ảnh hưởng lãng mạn của tình cảm, không để cho nó tác động đến sự công bằng trong đánh giá của mình đối với người cùng giới - và đến ý nghĩa tích cực của những điều chàng học hỏi được trong giới ấy. Dĩ nhiên điều đó không vừa ý các bà - chúng tôi tin rằng đã nhận ra những biểu hiện bất mãn ở Madame Chauchat, những lúc cô ta vô tình để lọt ra vài lời chua chát mà chúng tôi sẽ nhắc đến khi có dịp - nhưng có lẽ chính tính cách này lại khiến cho chàng trở thành đối tượng tranh chấp đáng giá của các nhà sư phạm.
Pieter Peeperkorn hay phải nằm dưỡng bệnh - và nằm liệt giường ngay ngày hôm sau đêm rượu chè cờ bạc đầu tiên, điều đó hẳn không ai phải lấy làm lạ. Gần như tất cả những người tham dự bữa tiệc kéo dài quá hạn lệ ấy hôm sau đều khó ở, Hans Castorp cũng không phải là ngoại lệ, chàng đau đầu như búa bổ, nhưng điều đó không ngăn cản chàng đến tận giường bệnh thăm vị chủ tọa bữa tiệc ngày hôm qua. Chàng bày tỏ nguyện vọng của mình với gã người Mã Lai chàng gặp ngoài hành lang lầu một, và được Peeperkorn mời vào ngay.
Chàng bước vào gian phòng ngủ hai giường của ông người Hà Lan qua một gian phòng khách ngăn cách phòng ông ta với phòng Madame Chauchat, và thấy nó hơn hẳn các phòng ở loại trung bình của ‘Sơn trang’ về diện tích cũng như sự thanh lịch của nội thất. Ở đây có ghế bành bọc lụa và bàn chân quỳ, một tấm thảm mềm mại trải dưới sàn, cả những chiếc giường cũng không phải loại giường của thần chết thường xuyên phải sát trùng mà sang hơn nhiều: khung giường bằng gỗ anh đào đánh bóng nẹp đồng, phía trên còn có chung một cái mái nhỏ - không treo màn, chỉ là một cái trần căng bằng vải đính diềm xung quanh.
Peeperkorn nằm trên một trong hai cái giường ấy, sách báo thư từ ngổn ngang trên tấm chăn đắp bọc lụa đỏ, và đang đọc tờ Telegraaf qua cái kính kẹp mũi gọng sừng nhô cao. Bộ đồ pha cà phê để trên một chiếc ghế đẩu cạnh giường, một chai rượu đỏ chỉ còn phân nửa - chính là chai rượu Thụy Sĩ tối hôm qua - để cạnh một đám chai thuốc trên cái bàn nhỏ đầu giường. Hans Castorp ngấm ngầm kinh ngạc thấy ông người Hà Lan không bận áo ngủ trắng mà mặc một loại áo len dài tay, cửa tay gài nút, không có ve áo mà cổ chỉ khoét tròn đơn giản. Tấm áo ôm sát bộ ngực rộng và đôi vai lực lưỡng của ông ta khiến cái đầu vĩ nhân đặt trên gối càng nổi bật, và cách phục sức lạ kỳ khác hẳn thời trang thông thường của giới trung lưu làm cho hình ảnh ông ta vừa bình dân như một người lao động vừa trang trọng như một bức tượng bán thân.
“Tuyệt lắm, ông bạn trẻ”, ông ta bảo, vừa nói vừa đưa tay nhấc cái gọng kính kẹp trên mũi xuống. “Xin mời vào - không có chi. Ngược lại là đằng khác.” Hans Castorp ngồi xuống cạnh giường và cố giấu sự kinh ngạc - đúng ra là sự ngưỡng mộ, vì công bằng mà nói đó mới là cảm giác ông ta gợi lên trong chàng - bằng những lời thăm hỏi niềm nở và thân thiện, được Peeperkorn đáp lại một cách đứt đoạn không đầu không cuối, kèm theo những cử chỉ rất thuyết phục. Trông ông ta khá tiều tụy, xanh xao và mệt mỏi. Gần sáng ông ta bị một cơn sốt dữ hành hạ, ông ta cho biết, và hậu quả của nó kết hợp với dư âm cơn say tối hôm qua làm cho ông ta gần như kiệt quệ.
“Tối hôm qua chúng ta nhậu quá hạn lệ”, ông ta bảo. “Không, xin phép ông, quá ác liệt! Ông trông còn - tốt lắm, không đến nỗi nào. Nhưng ở tuổi của tôi và trong tình trạng rệu rã - cưng ơi”, ông ta quay sang Madame Chauchat vừa từ phòng khách bước vào và trách bằng giọng nhẹ nhàng nhưng nghiêm khắc, “tốt lắm, mọi sự đều ổn cả, nhưng tôi nhắc lại lần nữa, lẽ ra phải để ý hơn, phải ngăn cản tôi...” Những đám mây dông lại thấp thoáng kéo lên tối sầm gương mặt khi ông ta nói những lời này. Nhưng người ta chỉ cần hình dung trận lôi đình khủng khiếp sẽ giáng xuống đầu kẻ nào liều lĩnh dám lên tiếng ngăn cản ông ta trong bữa tiệc là thấy rõ sự phi lý của lời trách móc. Có lẽ cái đó cũng là tầm vóc lớn. Cô bạn đồng hành của ông ta không cãi lại mà quay ra chào Hans Castorp vừa nhổm lên khỏi chỗ ngồi, cô ta không đưa tay cho chàng bắt mà chỉ mỉm cười vẫy nhẹ tay bảo chàng “cứ việc” yên vị và “chớ nên” để cuộc trò chuyện tay đôi với quý ngài Peeperkorn bị gián đoạn... Cô ta lăng xăng làm việc này việc kia trong phòng, bảo gã người hầu dọn bộ đồ pha cà phê đi, biến đâu mất một lúc rồi rón rén quay trở lại để đóng góp vài lời vào câu chuyện giữa hai người, hay như Hans Castorp mơ hồ cảm thấy, chủ yếu là để canh chừng họ. Tất nhiên rồi! Cô ta đủ tự tin để trở về ‘Sơn trang’ với một nhân cách lớn, nhưng vẫn không tránh khỏi lo lắng khi thấy con người đã đợi cô ta lâu đến thế ở đây tự nhiên lại công khai bày tỏ lòng ngưỡng mộ nhân cách lớn kia, vậy nên cô ta mới thở ra cái giọng “cứ việc” và “chớ nên”. Nghĩ đến đó Hans Castorp bất giác mỉm cười, chàng làm bộ cúi xuống phủi đầu gối để giấu nụ cười của mình mà lòng dạ như bốc lửa vì sung sướng.
Chàng được Peeperkorn mời uống một ly, rót từ chai rượu để trên cái bàn đầu giường. Trong những tình huống như hôm nay, ông người Hà Lan bảo, tốt nhất là lại tiếp tục ở chỗ tối hôm qua bỏ dở, và chất lỏng sủi tăm này làm nhiệm vụ giải khát cũng không thua gì nước sô đa. Ông ta cụng ly với Hans Castorp, và anh chàng trẻ tuổi vừa nhấm nháp chất nước cay vừa quan sát bàn tay thủ lĩnh lấm tấm tàn nhang móng dài và nhọn thò ra từ cửa tay áo gài nút ôm khít lấy cổ tay, nhìn bàn tay ấy nhấc cái ly thủy tinh đưa lên miệng, cặp môi rộng te tua gặp vành ly và lượng chất lỏng bị hút cạn dần theo nhịp nâng lên hạ xuống của cục yết hầu người lao động hay bức tượng bán thân. Rồi họ trao đổi về chai thuốc để trên bàn, thứ chất lỏng màu nâu mà Peeperkorn miễn cưỡng uống một muỗng đầy từ tay Madame Chauchat theo lời nài ép của cô ta. Đó là thuốc hạ sốt, thành phần chính là ký ninh. Peeperkorn cho vị khách nếm thử một ít để biết cái vị đắng nghét hăng hắc mùi rễ cây rất đặc trưng của nó, và kể rất nhiều về công trạng của ký ninh, loại dược liệu không chỉ nổi tiếng về tác dụng diệt trùng và điều tiết thân nhiệt mà còn được ca tụng là liều thuốc tăng lực hiệu nghiệm: nó làm giảm lượng đạm tiêu hao, tăng hấp thụ dinh dưỡng, tóm lại là một loại thuốc bổ gây phấn chấn cho cơ thể, giúp tăng cường, thức tỉnh và hồi sinh sự sống, không những thế nó còn là một thứ ma túy, uống nó người ta cũng có thể phê - nói đến đây ông ta lại làm cái cử chỉ đùa giỡn như tối hôm qua với những ngón tay đưa lên và mái đầu nghiêng nghiêng tinh quái, và trông lại giống hệt một ông thầy cúng đa thần khi làm lễ.
Phải, đó là một thứ thuốc kỳ diệu, loại vỏ cây chữa bệnh này! Ngành dược học của lục địa chúng ta mới biết đến công dụng của nó khoảng ba trăm năm trở lại đây, và ngành hóa học mới khám phá ra thành phần alkaloid[432] - nơi tàng trữ chất ký ninh - chưa được một trăm năm, mà thực ra cũng chỉ là phát hiện và phân tích đến một mức độ nào đó thôi, chứ chưa đủ để giải mã cấu trúc hóa học của nó và lại càng chưa thể chế ra nó bằng phương pháp nhân tạo. Khoa dược lý của chúng ta lẽ ra chẳng nên huênh hoang đến mức kiêu căng như thế về những hiểu biết ít ỏi của mình, vì ký ninh là một miếng mồi khó nhằn: người ta biết được đôi điều về hoạt tính và tác dụng của nó, nhưng do đâu nó có tính chất và tác dụng ấy thì các nhà nghiên cứu vẫn còn mù tịt. Ông bạn trẻ cứ việc tìm hiểu trong lĩnh vực độc tố học, ông sẽ thấy không ai có thể giải thích cho ông về các tính chất cơ bản dẫn đến tác dụng của cái gọi là độc tố kia. Ví dụ như nọc rắn chẳng hạn, người ta chỉ biết rằng đó là chất độc có nguồn gốc động vật và có cấu trúc chuỗi liên kết protein với thành phần là một số phân tử đạm khác nhau, điều đặc biệt ở đây là, chỉ trong dạng liên kết nhất định này - nói đúng hơn là một dạng liên kết chưa xác định - các phân tử đạm ấy mới có tác dụng chết người: những tác động của nó khi lọt vào hệ tuần hoàn khiến người ta chỉ còn biết há mồm kinh ngạc, vì xưa nay người ta không nghĩ là chất đạm và chất độc lại gần nhau đến thế. Nhưng trong thiên nhiên - Peeperkorn bảo và đưa lên cao không chỉ ánh mắt nhạt màu bắn ra từ mái đầu vương giả với vầng trán hoa văn đặt trên gối mà cả vòng tròn chuẩn xác bằng hai ngón tay khum lại cùng những mũi giáo chĩa ra từ các ngón khác - vật chất được cấu tạo sao cho sự sống và cái chết luôn luôn song hành: tất cả đều đồng thời vừa là thuốc bổ vừa là thuốc độc. Dược lý học và độc tố học chỉ là một, người ta khỏi bệnh nhờ thuốc độc, và những chất được coi là cơ sở của sự sống dưới những điều kiện nhất định lại có thể tiêu diệt sự sống bằng một cơn co giật kéo dài chưa đến một giây.
Ông ta nói rất hăng say và rành mạch một cách không ngờ về thuốc bổ và thuốc độc, và Hans Castorp cúi đầu lắng nghe, thỉnh thoảng gật gù, nhưng trong thâm tâm chàng chẳng mấy chú ý đến nội dung - mà người nói có vẻ rất tâm đắc - vì còn bận âm thầm tìm hiểu sức mạnh tiềm ẩn trong nhân cách ông ta, cái sức mạnh xét cho cùng cũng không thể giải thích nổi giống như tác động của nọc rắn. Hoạt tính, Peeperkorn giải thích, là tính năng quyết định tất cả trong thế giới vật chất, những cái khác chỉ là tương đối. Cả ký ninh cũng là chất độc chữa bệnh, một trong những loại mạnh nhất. Bốn gram là đủ để gây ra các triệu chứng ù tai, chóng mặt, ngạt thở, rối loạn thị giác tương tự như chất atropine[433], làm người ta ngộ độc như say rượu. Vì thế các công nhân làm việc trong xưởng bào chế ký ninh hay bị viêm mắt, sưng miệng và lở da. Rồi ông ta say sưa kể về cây ký ninh tên gọi cinchona, về quê hương của nó là các khu rừng nguyên sinh trên dãy Cordillera[434] ở độ cao ba ngàn thước, từ đó vỏ loài cây ấy mãi sau này mới được đưa về Tây Ban Nha và được biết đến dưới cái tên ‘thuốc bột dòng Tên’ - trong khi những người thổ dân Nam Mỹ đã biết đến công dụng của nó từ lâu. Ông ta kể về những đồn điền khổng lồ chính phủ Hà Lan mở ra trên đảo Java để trồng cây cinchona, từ đó mỗi năm nhiều triệu pound[435] những cuộn vỏ cây hung hung đỏ giống như vỏ quế được chở bằng tàu thủy về Amsterdam và London... Các lớp vỏ của loài cây ấy, Peeperkorn bảo, từ tầng biểu bì đến tầng sinh gỗ đều là dược liệu với những tính chất quý giá và hoạt tính đặc biệt cao, cả tốt cũng như xấu - kiến thức về ma túy của các dân tộc da màu hơn chúng ta xa lắc. Trên một vài hòn đảo phía Đông New Guinea những người trẻ tuổi biết cách chế ra một loại bùa tình từ vỏ một loài cây độc, giống như cây antiaris toxicaria[436] trên đảo Java, hay cây manzanilla[437], loài cây tỏa mùi thơm ra không khí chung quanh làm người và thú vật hít phải bị ngộ độc có thể mê man cho đến chết - vậy là họ lấy vỏ loài cây này tán ra thành bột, trộn với dừa bào rồi đem cuộn vào lá chuối nướng lên. Sau đó họ lừa lúc cô nàng kiêu kỳ ngủ say đem vẩy chất nước vắt ra từ đó lên mặt cô ta, thế là cô ta sẽ chết mê chết mệt anh chàng có bùa tình. Nhưng cũng có khi rễ cây mới là bộ phận chứa độc tố, như rễ một loài dây leo trên quần đảo Mã Lai gọi là cây strychnos tieuté, từ rễ cây ấy và nọc rắn thổ dân chế ra upas-radscha, một loại chất độc cực mạnh, nếu lọt vào mạch máu, ví dụ như bị trúng tên, sẽ dẫn đến một cái chết cực nhanh - nhưng không ai có thể giải thích được cho Hans Castorp rõ điều đó diễn ra như thế nào. Chỉ có một điều chắc chắn, đó là chất độc upas về hoạt tính rất giống strychnin[438]... Và Peeperkorn ngồi thẳng dậy trên giường, bàn tay thủ lĩnh chốc chốc lại cầm ly rượu run run đưa lên cặp môi tơi tả uống những ngụm lớn. Ông ta bắt đầu kể về cây mắt quạ[439] trên bờ biển Coromandel[440], từ những chùm quả màu vàng của nó - do đó mà có cái tên ‘mắt quạ’ - người ta chế ra được loại alkaloid hoạt tính cao nhất, tên gọi strychnin. Ông ta hạ giọng gần như thầm thì, những nếp nhăn dồn dập xô lại trên vầng trán, kể về những cành cây khẳng khiu xám như tro, những chiếc lá xanh bóng láng và những bông hoa vàng lợt của loài cây này, chàng Hans Castorp trẻ tuổi vẽ ra trước mắt hình ảnh một cái cây vừa tiêu điều vừa sặc sỡ dị thường, và cảm thấy một nỗi sợ bí hiểm dâng lên trong dạ.
Tới đây Madame Chauchat xen vào bảo có lẽ Peeperkorn đã thấm mệt vì cuộc trò chuyện quá dài, sợ rằng ông ta sẽ lại lên cơn sốt, và mặc dù cô ta rất không muốn cắt ngang câu chuyện của họ, nhưng xin Hans Castorp thông cảm và hiểu cho rằng hôm nay thế là đủ rồi. Tất nhiên chàng hiểu và đứng lên cáo từ ngay. Nhưng sau đó chàng còn nhiều lần quay trở lại và trong những tháng tiếp theo người ta thấy chàng thường xuyên ngồi bên giường người bệnh vương giả sau mỗi trận sốt, có Madame Chauchat ý tứ canh chừng, thi thoảng đóng góp một câu và đi ra đi vào bằng những bước chân rón rén. Cả trong những ngày Peeperkorn không bị cơn sốt hành hạ chàng cũng có mặt nhiều giờ đồng hồ bên ông ta và cô bạn đồng hành đeo ngọc trai của ông ta. Bởi nếu ông người Hà Lan không nằm liệt giường thì hiếm khi ông ta bỏ lỡ cơ hội tụ tập tiệc tùng cờ bạc sau bữa tối, mỗi lần thành phần tham dự một khác, khi thì trong phòng giải trí như bữa đầu tiên, khi thì trong khách sạn, và như đã thành lệ, Hans Castorp luôn luôn ngồi giữa người đàn bà cẩu thả và người đàn ông vương giả. Ra ngoài họ cũng đi cùng nhau, cùng làm nhiệm vụ dạo chơi với sự tham dự của các ông Ferge và Wehsal, chẳng bao lâu sau thêm cả Settembrini và Naphta, hai đối thủ về tư tưởng mà người ta khó lòng tránh mặt. Thực ra Hans Castorp không có ý tránh mặt họ mà còn vui mừng giới thiệu họ với Peeperkorn và cả với Clawdia Chauchat. Chàng không thèm đếm xỉa đến chuyện hai ông thầy hay cãi này có muốn làm quen với những người kia hay không, ngấm ngầm tin chắc rằng nhu cầu sư phạm của họ cao đến nỗi thà chấp nhận thêm một đám khán giả bất đắc dĩ còn hơn mất hẳn cơ hội trình bày những luận điểm của họ trước đối tượng giáo dục đáng giá là chàng.
Chàng cũng không hề ảo tưởng về chuyện các thành viên trong nhóm bạn bè thập cẩm của chàng cùng lắm cũng chỉ thích nghi được với ý nghĩ là họ không thể thích nghi được với nhau: căng thẳng, lạnh lùng, thậm chí im lặng thù địch xảy ra như cơm bữa; bản thân chúng tôi cũng rất lấy làm kinh ngạc, không hiểu nhân vật chính chẳng có gì là xuất sắc của chúng ta làm cách nào giữ được họ quanh mình. Có lẽ đó là nhờ bản chất yêu đời và ham học hỏi của chàng, nó khiến chàng thấy cái gì cũng “rất đáng nghe”, và đó chính là chất keo gắn bó không phải chỉ chàng với những nhân vật và nhân cách khác nhau một trời một vực kia, mà ở một mức độ nào đó còn gắn kết được họ với nhau nữa.
Nhưng phải công nhận, những mối quan hệ chồng chéo trong cái tập hợp điểm kỳ dị ấy thật khác thường. Chúng tôi sẽ cố gắng gỡ rối ở mức độ nào đó để giãi bày với quý vị những điều mà cặp mắt yêu đời tinh nhanh của Hans Castorp quan sát được trong các cuộc dạo chơi cùng nhau. Này là anh chàng Wehsal thảm hại nuôi mối tình âm ỉ với Madame Chauchat và xun xoe quỵ lụy cả trước Peeperkorn lẫn Hans Castorp, một người vì quyền sở hữu trong hiện tại, người kia cũng vì cái quyền ấy nhưng trong quá khứ. Này là bản thân Clawdia Chauchat, bệnh nhân với bước chân duyên dáng uyển chuyển, bạn đồng hành và vật sở hữu của Peeperkorn, tin tưởng tuyệt đối ở lựa chọn của mình, mặc dù vậy vẫn không tránh khỏi một thoáng lo lắng và cay cú khi thấy chàng hiệp sĩ hào hoa của một đêm hội hóa trang xa vời bỗng trở nên thân thiết với người chủ hiện tại của mình. Tâm trạng này có lẽ gần giống với mối ác cảm phủ bóng đen lên quan hệ giữa cô ta và Settembrini, con người nhân văn hùng biện bị cô ta lên án là “kiu ngạo” và “không nhăn ái”. Có lẽ cô ta rất muốn chất vấn người bạn, người thầy của Hans Castorp về ý nghĩa mấy từ ngắn ngủi bằng thổ ngữ nơi chôn rau cắt rốn Địa Trung Hải của ông ta - thứ tiếng mà cô ta mù tịt, mặc dù đối với nó cô ta không đến nỗi có thái độ khinh thường như ông ta đối với tiếng mẹ đẻ của cô - những lời ông ta ném theo sau lưng chàng trai Đức lịch thiệp, anh chàng tiểu tư sản đẹp trai con nhà tử tế với một vết ướt nho nhỏ, khi chàng ta vừa mới có ý định lại gần tán tỉnh cô? Hans Castorp, như người ta thường nói, chết mê chết mệt cô nàng, nhưng không phải theo cái nghĩa sung sướng của thành ngữ này, mà bị giày vò trong một tình yêu cấm đoán, không có tương lai và không thể ca ngợi bằng một bài hát dân gian mộc mạc dưới đồng bằng - có thể nói tình yêu dữ dội khiến chàng mất hết độc lập tự chủ và trở thành một người nô lệ đau khổ. Nhưng chàng trai ấy, trong thân phận nô lệ vẫn đủ tinh khôn để nhận biết và bảo tồn giá trị sự dâng hiến của bản thân, một giá trị mà, như chàng tự nhủ với trái tim tan nát, nữ bệnh nhân có bước chân rón rén và cặp mắt Tatar mê hoặc lòng người chắc chắn phải nhận ra qua thái độ ác cảm công khai không cần giấu giếm ông Settembrini dành cho cô ta: ông này luôn tỏ vẻ lạnh lùng xa lánh cô tới hết mức độ mà sự lịch thiệp của một con người nhân văn cho phép. Điều tệ hại - hay theo cách đánh giá của Hans Castorp, điều đáng mừng - là quan hệ của cô ta với Leo Naphta, mối quan hệ mà cô ta đã đặt vào rất nhiều hy vọng, cũng không mang lại sự đền bù như mong đợi. Đành rằng ở đây cô ta không gặp phải thái độ hắt hủi tuyệt đối như nơi ông Lodovico, và họ bắt chuyện cũng dễ dàng hơn: thỉnh thoảng họ còn tranh luận, Clawdia và người đàn ông bé nhỏ sắc như dao, về sách vở, về các vấn đề chính trị và triết học, phát hiện ra trong quan điểm cực đoan của cả hai có nhiều điểm tương đồng; và đôi khi Hans Castorp cũng tham gia đóng góp với sự ngây thơ cố hữu của mình. Nhưng Madame Chauchat không thể không nhận thấy thái độ kênh kiệu ngấm ngầm con người mới ngoi lên tầng lớp trên kia dành cho mình, như mọi gã nhà giàu mới nổi, ông ta cẩn thận giữ khoảng cách với cô nàng; hơn nữa về cơ bản tinh thần khủng bố Tây Ban Nha của ông ta khó lòng chung sống với quan niệm “nhăn ái” và thói quen để sập cửa của cô ta; cuối cùng và tế nhị nhất là một làn gió thù địch khó nắm bắt mà cô ta cảm nhận được nhờ bản năng nữ giới (chàng hiệp sĩ đêm hội hóa trang của cô ta cũng đã tinh ý nhận ra), thổi tới từ cả hai phía Settembrini và Naphta, có nguồn gốc từ mối quan tâm mang tính sư phạm của hai địch thủ tinh thần này đối với Hans Castorp: đó là sự tức tối của người thầy đối với người đàn bà gây nhiễu và làm xao lãng học trò của họ, mối thù chung không nói ra lời ấy mạnh hơn cả mối bất hòa dai dẳng giữa họ và liên kết họ lại với nhau.
Thái độ thù địch này có thể hiện ra trong cách cư xử của hai nhà hùng biện với Pieter Peeperkorn không? Hans Castorp tin rằng có, nhưng cũng có thể đó là mong đợi đầy ác ý của chàng khi cố tình dắt mối cho vị quốc vương cà lăm gặp hai ông “quân sư” - như chàng thường châm chọc gọi họ những lúc một mình - và khoái chí chờ xem kết quả. Ở ngoài trời quý ngài không được oai phong lẫm liệt như trong nhà. Chiếc mũ nỉ mềm ông ta kéo sụp xuống tận chân mày che hết mớ tóc bạc trắng phau phau và vầng trán đầy nếp nhăn ngoạn mục, làm cho các nét vương giả trên gương mặt trở nên lụn vụn, khiến ông ta như bị thu nhỏ lại, thậm chí cái mũi đỏ ngự giữa mặt cũng bớt phần áp đảo. Cả tướng đi của ông ta cũng không được oai vệ như dáng đứng: ông ta có thói quen khi đi dồn trọng tâm cả người và thậm chí chúi đầu về phía bên chân bước, dáng đi lặc lè ấy tạo cho ông ta cái vẻ già cả hiền lành hơn là vương giả; đã thế khi đi lưng ông ta lại hơi khòm chứ không vươn thẳng đến hết chiều cao như khi đứng. Nhưng mặc dù thế ông ta vẫn còn cao hơn ông Lodovico cả một cái đầu, ông Naphta tí dỉn thì càng chẳng cần phải kể. Có điều chiều cao không phải là nguyên nhân duy nhất khiến sự hiện diện của ông ta đè nặng - sức nặng ngàn cân, như Hans Castorp vẽ ra trong trí tưởng tượng của mình - lên hai nhà chính trị của chúng ta.
Rõ ràng họ phải chịu một sức ép lớn, một sự hạ bệ và hạn chế đáng kể khi bị đem so sánh trực tiếp với ông ta - kẻ quan sát ranh mãnh nhận ra điều đó, điều mà không còn nghi ngờ gì nữa các bên tham dự cũng đều nhận thấy, cả cặp bài trùng ba hoa chích chòe lẫn người khổng lồ cà lăm. Peeperkorn đối xử với Naphta và Settembrini bằng thái độ rất mực quan tâm và lịch thiệp, một sự tôn trọng được nhấn mạnh đến mức Hans Castorp có lẽ đã gọi là mỉa mai nếu như chàng không nhận thức rõ rệt sự bất đồng tuyệt đối của khái niệm này và tầm cỡ lớn lao của người kia. Một quốc vương không nói mỉa, cả theo tinh thần vận dụng một phương tiện chân chính và cổ điển của nghệ thuật hùng biện cũng không, chứ đừng nói đến chuyện nghĩa đôi lắt léo. Và như thế phải hiểu đây là thái độ châm biếm thâm thúy, ẩn dưới cái vẻ nghiêm trang quá công khai trong cách cư xử của ông người Hà Lan đối với các bạn của Hans. “Chà, được rồi, được rồi!” Ông ta hay nói thế, vừa nói vừa dứ dứ ngón tay trỏ về phía hai người kia, đùa giỡn quay đầu ra phía khác mang theo nụ cười trên đôi môi tơi tả. “Đó là - đó thật là - thưa các quý vị, xin hãy lưu ý! - Cerebrum, cerebral[441], quý vị hiểu chứ!
Không, không, hoàn hảo, phi thường - đó là - đó thật đúng là...” Và hai người bị chọc quê trả thù bằng cách trao đổi một cái nhìn hữu ý, sau khi gặp nhau mắt họ đảo vòng vòng rồi hướng lên trời. Họ cũng muốn tìm kiếm ánh mắt đồng tình của Hans Castorp, nhưng chàng từ chối tham gia vào trò chơi của họ.
Có lần ông Settembrini lên tiếng chất vấn thẳng đệ tử về chuyện ấy và bày tỏ nỗi lo ngại rất sư phạm của mình.
“Nhưng mà, lạy Chúa, ông kỹ sư, đấy chỉ là một ông già lẩn thẩn! Ông học hỏi được cái gì ở ông ta? Ông ta nói ra toàn những điều ngu ngốc! Thật là bó tay! Tôi có thể hiểu được - nhưng không có nghĩa là tôi tán thưởng đâu nhé - nếu ông chịu đựng ông ta để có cơ hội gặp gỡ ả nhân tình của ông ta. Nhưng không, rõ ràng ông quan tâm đến ông ta còn hơn quan tâm đến cô ả! Thế là thế nào, xin ông giải thích giùm tôi...”
Hans Castorp phì cười. “Rất tốt!” Chàng bảo. “Tuyệt lắm! Số là thế này - xin ông cho phép - dứt điểm!” Và chàng còn thử nhại lại những cử chỉ rất đỗi văn hóa của Peeperkorn. “Được rồi, được rồi”, chàng nói tiếp, vẫn chưa hết cười, “ông thấy những cái ấy là ngu ngốc, thưa ông Settembrini, tôi cũng công nhận là rất tối nghĩa, điều đó trong mắt ông có lẽ còn tệ hại hơn cả ngu ngốc nữa. Nhưng thế nào là ngu ngốc? Trên đời có rất nhiều kiểu ngu, và thông thái có lẽ là kiểu ngu nhất... Ha! Tôi vừa mới phát minh ra một câu hay đấy chứ, gần như một châm ngôn... Ông thấy thế nào?”
“Hay lắm. Tôi nóng lòng mong được tham khảo bộ sưu tập châm ngôn thành ngữ của ông. Nếu còn chút ít thời gian chỉ xin ông nhớ lại đôi điều chúng ta từng bàn bạc về bản chất phản nhân sinh của nghịch lý.”
“Nhất định rồi, ông Settembrini. Nhất định tôi sẽ lưu ý đến chuyện ấy. Không, mục đích câu châm ngôn của tôi không phải là để săn lùng nghịch lý. Tôi chỉ tìm cách vạch ra những khó khăn trong việc phân biệt ‘ngu ngốc’ và ‘thông thái’. Cái khó là ở chỗ phân biệt giữa chúng với nhau, đúng không thưa ông? Hai điều đó khó lòng tách biệt khỏi nhau, cái này trộn lẫn với cái kia... Tôi biết ông rất ghét guazzabuglio[442] và huyền bí, ông coi trọng giá trị, coi trọng xét đoán, và sự xét đoán giá trị - ông hoàn toàn có lý. Nhưng mà với sự ‘ngu ngốc’ và sự ‘thông thái’ thì lại khác, đó là cả một điều bí ẩn phức tạp, và tôi trộm nghĩ, người ta hẳn phải được phép bận tâm với những điều bí ẩn, nếu đó là những cố gắng chân chính đi tìm một lời giải thích có cơ sở. Tôi xin hỏi ông câu này: Ông có thể chối cãi được rằng ông ta có khả năng bóp mũi tất cả chúng ta không? Xin lỗi ông, cách diễn đạt của tôi hơi thô thiển, nhưng tôi thấy là ông không thể chối cãi được điều đó. Ông ta bóp mũi tất cả chúng ta không trừ một ai, và tôi muốn biết ông ta lấy cái quyền gì để xem thường chúng ta như thế. Quyền ấy ở đâu ra? Do đâu mà có? Và có đến mức độ nào? Đương nhiên không phải nhờ sự thông thái của ông ta rồi. Tôi đồng ý với ông rằng không thể bảo ông ta là thông thái được. Ông ta là một người tối nghĩa và thiên về cảm tính, cảm xúc là chỗ nhạy cảm của ông ta - xin ông thứ lỗi cho cách diễn đạt nôm na của tôi! Không, tôi khẳng định không phải ông ta bóp mũi được tất cả chúng ta nhờ vào sự thông thái, nhờ năng lực trí tuệ của ông ta - ông chắc chắn sẽ phản đối, tôi biết, và điều đó chúng ta có thể loại trừ ngay từ đầu. Nhưng mà cũng không phải nhờ thể lực! Không phải vì đôi vai vạm vỡ hay sức khỏe lực điền của ông ta, hay vì ông ta nghĩ rằng có thể dùng nắm đấm hạ chúng ta đo ván - ông ta không bao giờ nghĩ đến chuyện làm thế, hoặc giả nếu có thì chỉ cần vài lời lẽ văn minh là đủ để ông ta từ bỏ ý định ấy. Vậy là cũng không phải vì thể lực. Nhưng rõ ràng thể lực có đóng một vai trò nhất định ở đây - không phải theo cái nghĩa vũ phu, mà theo một ý nghĩa khác, huyền bí - hiện tượng nào có thân thể dính líu vào là lập tức trở nên huyền bí; sức mạnh thể xác chuyển hóa thành sức mạnh tinh thần và ngược lại, và hai cái ấy không thể làm cho tách bạch khỏi nhau, giống như ngu ngốc và thông thái không thể phân biệt được, nhưng tác động của nó thì sờ sờ ra đó, hoạt tính của nó rõ ràng ảnh hưởng đến chúng ta, và tất cả chúng ta chịu để cho ông ta bóp mũi. Để giải thích chúng ta chỉ có trong tay mỗi một từ, đó là ‘nhân cách’. Cái từ ấy thực ra vẫn được dùng trong đời thường, vì tất cả chúng ta ai cũng có nhân cách - về đạo đức và về pháp lý và về gì gì đi nữa. Nhưng ở đây nó được hiểu không phải theo nghĩa ấy. Mà được hiểu như một điều huyền bí, vượt lên trên ngu ngốc và thông thái, một điều khiến tất cả chúng ta ai cũng phải bận tâm, một phần để cố mà hiểu nó, phần khác nếu không thể hiểu thì ngưỡng mộ nó. Ông là người coi trọng giá trị; mà xét cho cùng nhân cách phải có một giá trị tích cực, tôi nghĩ thế, tích cực hơn ngu ngốc và thông thái, tích cực ở mức độ cao nhất, tích cực một cách tuyệt đối, như bản thân cuộc sống - tóm lại: điều huyền bí ấy là một giá trị của cuộc sống và đáng để chúng ta quan tâm tìm hiểu kỹ càng. Đó là ý kiến của tôi đáp lại nhận xét của ông về sự ngu ngốc.”
Gần đây khi trình bày ý nghĩ của mình Hans Castorp đã không còn lẫn lộn vòng đi vòng lại hay vấp váp hay để đứt mạch tư duy nữa. Chàng nói tới cùng, hạ giọng đặt một dấu chấm hết, bảo vệ quan điểm của mình như một người đàn ông, mặc dù chàng vẫn còn đỏ mặt khi nói và sợ thót tim trước cái im lặng phê phán của người đối thoại sau khi chàng đã ngừng lời, cái im lặng giáo dục để chàng có đủ thời gian mà hổ thẹn. Ông Settembrini để cho khoảng thời gian ấy đủ dài rồi mới cất tiếng nói:
“Ông chối là mình không săn lùng nghịch lý. Nhưng đồng thời ông lại dấn thân đi tìm kiếm những điều bí ẩn huyền hoặc, mặc dù ông biết rõ là tôi muốn ông tránh xa điều này không thua gì điều kia. Khi biến nhân cách thành một điều bí ẩn ông có nguy cơ phạm sai lầm tôn thờ ngẫu vật. Ông tôn sùng một cái mặt nạ. Ông nhìn thấy điều huyền bí ở chỗ chỉ có sự bịp bợm, chỉ có ảo ảnh ma quỷ nặn ra theo hình thức được ưa chuộng để thỉnh thoảng lừa phỉnh chúng ta. Ông chưa từng giao thiệp với giới diễn viên hay sao? Ông đã bao giờ gặp một khuôn mặt mang những đường nét của Julius Caesar, Goethe hay Beethoven, nhưng chủ sở hữu may mắn của những cái đầu ấy chỉ cần mở miệng là ta nhận ra ngay, trước mặt mình là một kẻ ngu xuẩn nhất dưới gầm trời?”
“Vâng, một trò đùa của tạo hóa”, Hans Castorp trả lời. “Nhưng ở đây cũng không phải chỉ là một trò đùa của tạo hóa, một sự đánh lừa mắt. Vì những người ấy là diễn viên, họ phải có tài năng, và tài năng cũng là một điều vượt lên trên ngu ngốc và thông thái, bản thân nó cũng là một giá trị của cuộc sống. Quý ngài Peeperkorn cũng có tài năng, ông muốn nói gì tùy ông, nhưng ông ta có khả năng bóp mũi tất cả chúng ta. Ông cứ thử đặt ông Naphta vào một góc phòng và để ông ta thuyết trình một bài về Gregor Đại đế và về nước Chúa[443], cực kỳ uyên bác và rất đáng nghe - và ở góc đối diện Peeperkorn đứng với cái miệng rộng kỳ quái của ông ta và những nếp nhăn đặc biệt trên trán và không nói gì khác ngoài ‘Tuyệt lắm! Xin cho phép tôi - Dứt điểm!’ - Ông sẽ thấy người ta bu lại quanh Peeperkorn, tất cả mọi người, và Naphta sẽ ngồi trơ khấc một mình với sự thông thái và nước Chúa của ông ta, mặc dù ông ta biết cách diễn đạt rành mạch lắm, mọi điều ông ta giải thích cứ rõ ràng như bánh đúc bày sàng, theo lối nói của Behrens...”
“Ông phải thấy xấu hổ vì sự sùng bái ấy mới phải!” Ông Settembrini cảnh cáo chàng. “Mundus vult decipi[444]. Tôi không mong mọi người bu lại quanh ông Naphta. Ông ấy là người lắm mưu mô thủ đoạn. Nhưng tôi sẽ đứng về phía ông ta trong cái cảnh tượng sinh động mà ông vừa vẽ ra với ý khen ngợi rất đáng chê trách kia. Ông cứ việc coi khinh ngôn ngữ, tiếng nói khúc chiết và rành mạch, chính xác và logic của loài người! Ông cứ việc đánh đổi những thứ ấy lấy cái mớ hổ lốn quái gở toàn những bóng gió và bịp bợm và đánh lừa cảm giác! Rồi ông sẽ thấy, quỷ sứ...”
“Nhưng tôi đảm bảo với ông là ông ta có thể nói năng rất gãy gọn và có đầu có cuối, nếu ông ta muốn”, Hans Castorp cãi. “Mới đây ông ta kể cho tôi nghe về độc dược hoạt tính cao và các loài cây chứa chất độc ở châu Á, hấp dẫn đến mức tôi phát sợ - thực ra cái gì hấp dẫn cũng có phần đáng sợ. Nhưng điều hấp dẫn nhất ở đây không phải là bản thân nó, mà nằm trong mối liên hệ với nhân cách của ông ta: nhờ tác động của nhân cách ấy mà câu chuyện trở nên vừa đáng sợ vừa hấp dẫn...”
“Phải rồi, niềm say mê châu Á của ông thì không ai còn lạ. Tôi làm sao mà bì được với những điều kỳ diệu ấy”, ông Settembrini đáp giọng cay đắng đến nỗi Hans Castorp vội xuống giọng phân trần, rằng chàng rất biết giá trị những cuộc đàm luận và những lời giảng giải của ông ta trong các lĩnh vực khác, và rằng chàng không bao giờ nảy ra ý định so sánh, một việc làm bất công đối với cả hai phía. Nhưng ông người Ý bỏ ngoài tai những lời thanh minh theo phép lịch sự của chàng. Ông ta tiếp tục:
“Dù sao cũng xin ông nhận ở tôi lòng khâm phục cách xử sự khách quan và bình tĩnh hiếm có của ông, ông kỹ sư. Ông làm tôi kinh ngạc vô cùng, thú thật là như vậy. Rốt cuộc thì lão già đần độn ấy đã chôm mất nàng Beatrice của ông - xin lỗi ông, tôi gọi sự vật bằng đúng tên của nó. Còn ông làm gì? Thật là trần đời có một!”
“Chỉ là sự khác biệt về tính khí thôi, thưa ông Settembrini. Mỗi người quan niệm một khác về thể diện và bầu máu nóng. Ông là người miền Nam, ông chắc hẳn sẽ để cho thuốc độc hay dao găm nói chuyện, tức là giải quyết theo kiểu quân tử và cảm tính, hay nói cách khác là theo kiểu gà chọi. Làm như vậy lẽ dĩ nhiên rất nam tính, nam tính một cách quân tử và ga lăng. Nhưng với tôi thì lại khác. Tôi không nam tính theo cái kiểu chỉ nhìn thấy tình địch trong những người đàn ông khác - cũng có thể tôi hoàn toàn thiếu nam tính, nhưng có một điều chắc chắn là tôi không nam tính theo khái niệm mà tôi gọi đại là ‘quân tử’ kia, tôi cũng không biết tại sao. Tôi tự hỏi trái tim mệt nhoài của mình xem nó có quyền trách móc gì người đàn ông kia không. Ông ta đã làm hại gì tôi? Chỉ có thể buộc tội ông ta xúc phạm tôi nếu như ông ta cố ý làm thế, còn nếu không cố ý thì đâu phải là xúc phạm. Và về chuyện tôi có thiệt hại gì không, thì đúng ra tôi phải trách người đàn bà kia, nhưng mà tôi làm gì có quyền trách cứ ai, tôi hoàn toàn không có quyền trách cô ta, và trách Peeperkorn thì lại càng vô lý. Bởi thứ nhất, ông ấy là một nhân cách lớn, chỉ riêng điều đó thôi đã rất đáng kể đối với phụ nữ rồi, và thứ hai, ông ấy không thuộc loại người dân sự như tôi, mà mang trong mình tính cách quân nhân như ông anh họ tội nghiệp của tôi, ông ấy có một point d´honneur[445], là người đặc biệt trọng danh dự, và đó là điểm nhạy cảm của ông ấy, là cảm xúc, là cuộc sống... Tôi nói lan man quá rồi, nhưng tôi thà nói lòng vòng một chút để cố giải thích một điều hóc búa được đến đâu hay đến đó, còn hơn lúc nào cũng chỉ lặp lại những lời hay ý đẹp đã học thuộc lòng - có lẽ đó cũng là một nét quân sự trong tính cách của tôi, nếu ông cho phép...”
“Ông cứ nói tiếp, đừng ngại”, ông Settembrini gật đầu. “Đó chắc chắn là một nét cá tính đáng khen ngợi. Lòng can đảm để nhận thức và diễn đạt, đó là văn học, đó là nhân đạo...”
Và họ chia tay nhau như hai người bạn tốt, ông Settembrini đã khéo léo kết thúc câu chuyện trong không khí hòa giải. Ông ta có đầy đủ lý do để mà đấu dịu, vị thế của ông ta không đủ mạnh để có thể găng lên tùy thích. Một cuộc tranh luận về chủ đề ghen tuông chẳng khác gì bãi mìn đối với ông ta; ở một điểm nhất định nếu bị chất vấn hẳn ông ta đã phải thú nhận rằng, về mặt sư phạm trong quan hệ với những người đàn ông khác rõ ràng ông ta cũng không được nam tính và quân tử cho lắm, nếu không thì tại sao ông Peeperkorn hùng mạnh có thể xen vào phá rối quan hệ thầy trò giữa họ, cũng như ông Naphta và Madame Chauchat trước kia? Rốt cục ông ta không thể hy vọng cấm tên đệ tử lao theo sức hút của một nhân cách lớn với ưu thế hơn hẳn, trong khi sự có mặt của người ấy khiến cho chính bản thân ông ta và đồng nghiệp của ông ta cũng bị ảnh hưởng không ít trong những hoạt động cerebral.
Hai vị sư phụ của Hans Castorp chỉ cảm thấy thoải mái khi làn gió tinh thần nổi lên, tức là những khi họ tranh luận. Đó là lúc họ nhận được sự chú ý đặc biệt của các khán giả cùng đi dạo, và có dịp thể hiện với tất cả vẻ hăng say tao nhã kiến thức uyên bác của họ về những đề tài rất hàn lâm, nhưng lại được bàn cãi bằng giọng cứ như thể đó là những vấn đề rất thiết thực, là chuyện sống chết không bằng. Đương nhiên họ là những diễn giả chính trong các cuộc tranh luận ấy, và suốt thời gian nó diễn ra sự có mặt của nhân vật “tầm cỡ” trong bọn gần như bị vô hiệu hóa, ông ta chỉ có thể đóng góp bằng những nếp nhăn trán đầy kinh ngạc và những mẩu vụn từ ngữ châm biếm tối nghĩa mà thôi. Nhưng trong hoàn cảnh ấy ông ta cũng vẫn còn đủ sức phủ bóng đen nặng nề lên cuộc tranh luận của họ, khiến cho ánh hào quang của nó mờ đi và tầm quan trọng giảm sút rất nhiều; ai cũng có thể cảm thấy từ phía ông ta - mặc dù không có vẻ gì là chủ tâm, hoặc nếu có thì chỉ Chúa mới biết đến mức độ nào - phát sinh một lực phản kháng bất lợi cho cả hai đối thủ, bằng cách nào không rõ ông ta làm cho cuộc khẩu chiến giữa họ trở nên lãng xẹt, thậm chí còn đóng lên mình nó con dấu vô nghĩa nữa. Hoặc nói cách khác: cuộc đấu sinh tử nực cười giữa họ không hiểu ma xui quỷ khiến thế nào cứ bị bẻ queo về phía nhân vật tầm cỡ đi bên lề và mất dần sức hấp dẫn trong từ trường quá mạnh của ông ta. Người ta không có cách giải thích nào khác cho cái hiện tượng bí ẩn rất đáng bực mình đối với hai nhà hùng biện này. Chỉ có thể nói rằng, nếu không có mặt Pieter Peeperkorn thì cả hai bên hẳn đã tranh cãi nhiệt tình hơn nhiều, ví dụ như Leo Naphta khi ông ta bảo vệ bản chất cách mạng nguyên thủy và triệt để của nhà thờ chống lại ông Settembrini, người chỉ nhìn thấy trong thế lực lịch sử này kẻ bảo hộ cho tăm tối, trì trệ và bảo thủ, trong khi ông ta chủ trương dồn hết sức lực để tạo ra một bước ngoặt, một sự đổi mới dẫn tới một cuộc đời và tương lai tươi sáng hơn cho nhân loại, một kỷ nguyên vinh quang của sự phục sinh nền học vấn cổ điển dựa trên các nguyên tắc khai sáng, khoa học và tiến bộ, niềm tin vững chắc ấy được ông người Ý bày tỏ bằng những lời lẽ hết sức truyền cảm đi đôi với những cử chỉ hùng hồn nhất. Bấy giờ ông Naphta lạnh lùng và sắc sảo phản biện ngay - và ông ta biết cách phản biện một cách xuất sắc, gần như không thể bác bỏ - rằng nhà thờ, như là hiện thân của tư tưởng tôn giáo khắc kỷ, về bản chất cách xa một trời một vực với vai trò người bảo trợ và đỡ đầu cho cái trật tự thế giới muốn được duy trì, tức là tổ chức việc đời, là pháp chế nhà nước thế gian; hơn thế nữa ngay từ đầu nhà thờ đã ghi lên lá cờ của mình mục tiêu cách mạng là lật đổ tận gốc rễ tất cả những thứ đó, lật đổ không trừ một cái gì, những điều mà đám người nhu nhược, hèn nhát, bảo thủ và tiểu thị dân tưởng là rất đáng giữ gìn và ra sức khư khư bám lấy: đó là nhà nước và gia đình, là nghệ thuật và khoa học thường thức - tóm lại là những điều luôn luôn hoặc có ý thức, hoặc vô ý thức chống lại tư tưởng tôn giáo, chống lại nhà thờ là thế lực từ lúc ra đời đã không mệt mỏi theo đuổi mục tiêu giải thể tất cả các luật lệ do con người đặt ra để tổ chức lại xã hội theo một mô hình lý tưởng không tư hữu là nước Chúa.
Sau đó ông Settembrini giành lời, và lạy trời, ông ta không thua ai về khoa nói! Nhập nhằng đánh lộn giữa nguyên tắc cách mạng bạo động và sự nổi loạn của tất cả những bản năng thấp kém, ông ta bảo, thật đáng lên án. Lòng ưa chuộng đổi mới của nhà thờ trải qua bao nhiêu thế kỷ chỉ thể hiện ra bằng hành động thanh trừng, đàn áp của tòa án giáo hội, dùng dàn hỏa thiêu để bóp nghẹt những tư tưởng phục vụ cuộc sống; ngày nay nhà thờ lại cử mật phái viên của mình đi tuyên truyền về cải tổ, và đặt ra mục tiêu là thay thế tự do, học thức và dân chủ bằng một nền độc tài của đám tiện dân dốt nát và man rợ. Cha chả, thật là một học thuyết mâu thuẫn đến kinh dị, một mâu thuẫn về học thuật...
Đối thủ của ông ta cũng đầy rẫy những mâu thuẫn học thuật tương tự, Naphta đập lại. Tự xưng là dân chủ, nhưng ông này thở ra cái giọng chẳng coi các quyền bình đẳng dân tộc vào đâu, và lộ rõ bộ mặt kiêu căng đáng ghét của tầng lớp ăn trên ngồi trốc khi dám gọi những người vô sản quốc tế đại diện cho chế độ chuyên chính mới là đám tiện dân. Nhưng đáng lẽ là người dân chủ ông ta phải có một thái độ khách quan với nhà thờ mới phải, vì nhà thờ có thể tự hào công nhận là thế lực cao quý nhất trong lịch sử nhân loại - theo ý nghĩa tối cao của từ này, ý nghĩa tinh thần. Bởi tinh thần khắc kỷ - nếu ông ta được phép rườm lời - với cái nghĩa chối bỏ và hủy diệt trần gian, bản thân nó đã là một điều cao quý, là tinh hoa của nguyên tắc quý phái; tinh thần ấy không bao giờ có thể trở thành bình dân, và nói chung trong lịch sử tồn tại của mình nhà thờ chưa bao giờ được đông đảo dân chúng ưa chuộng. Chỉ cần bỏ công tìm hiểu lại một chút văn học lịch sử thời Trung cổ là ông Settembrini có thể nhớ ra ngay sự chống đối đầy ác ý của dân chúng - theo cái nghĩa rộng rãi nhất của từ này - đối với nhà thờ, ví dụ như vài hình tượng tu sĩ được hư cấu trong các sáng tác dân gian, những nhân vật này đã theo đuôi Luther[446] đánh đổi chủ nghĩa khắc kỷ lấy rượu, đàn bà và thú xướng ca. Tất cả những hành động anh hùng, những chiến công lừng lẫy, kể cả văn học cung đình đều không nhiều thì ít chống lại tư tưởng tôn giáo và đẳng cấp. Bởi tất cả những cái ấy là chuyện ‘đời’, là chuyện của lũ tiện dân, không thể đem so với đạo, với sự cao quý tinh thần của nhà thờ.
Ông Settembrini cảm ơn đối thủ đã giúp mình củng cố trí nhớ. Có điều theo ý ông ta nhân vật tu sĩ Ilsan[447] trong Vườn hồng sinh động và hấp dẫn hơn sự cao quý tinh thần đã nằm dưới mồ còn được lôi ra ca tụng ở đây rất nhiều lần. Và mặc dù ông ta, Settembrini, không phải là kẻ hâm mộ nhà cải cách tôn giáo người Đức được nhắc tới ở trên, nhưng nếu cần ông ta sẽ không tiếc thân mình bảo vệ tất cả những gì mang tính cá nhân và dân chủ trong học thuyết của Luther để chống lại tham vọng bá chủ của giới tu sĩ và quý tộc hòng chèn ép nhân cách con người.
“Á à!” Naphta nhảy dựng lên. Người ta muốn gán cho nhà thờ tội thiếu dân chủ, không coi trọng nhân cách con người? Thế quan điểm nhân đạo không thành kiến của giáo luật công giáo thì sao? Trong khi đế quốc La Mã cổ quy định mọi quyền hạn hợp thức của một người phụ thuộc vào việc người ấy có phải là công dân La Mã không, trong khi luật pháp Đức quy định quyền lợi của một người phụ thuộc vào nguồn gốc dân tộc và tự do cá nhân của người đó, thì chỉ có nhà thờ chính giáo đòi bỏ hết mọi phân biệt quốc gia và thành phần xã hội, bênh vực quyền lập di chúc và quyền thừa kế cho cả nông nô, nô lệ, tù binh chiến tranh!
Ông Settembrini cay độc nhận xét, sự bênh vực này sợ không đứng vững nổi nếu không được chống đỡ bằng điều khoản quy định lệ phí phải trả cho vị giám mục hay tổng giám mục mỗi khi lập chúc thư. Rồi ông ta mổ xẻ “chính sách mị dân của đám thầy tu”, gọi đó là lớp sơn thân thiện quét lên tham vọng giành quyền lực bằng bất cứ giá nào với phương châm nếu không lên được thiên đình - một điều hoàn toàn có thể hiểu được - thì làm náo loạn âm phủ[448]. Ông ta kết luận, nhà thờ đặt nặng vấn đề số lượng hơn là chất lượng linh hồn các con chiên, qua đó có thể thấy tư tưởng của họ thấp kém đến độ nào.
Nhà thờ có những tư tưởng thấp kém? Xin ông Settembrini hãy nhớ đến sự nghiệt ngã của chế độ phong kiến quý tộc với luật thừa kế ô nhục: Tội lỗi nặng nề được truyền - một cách dân chủ - từ đời cha sang đời con và bắt thế hệ sau vô tội phải gánh chịu; ví dụ như con ngoài giá thú cả đời phải mang dấu ô nhục và không có mảy may quyền lợi gì. Nhưng ông người Ý yêu cầu ông kia im lặng - vì thứ nhất, tâm hồn nhân đạo của ông ta cảm thấy bị xúc phạm ghê gớm, sau nữa, ông ta đã chán ngấy trò ngụy biện lắt léo của người đối thoại và nhận ra ngay trong thủ đoạn biện hộ cho tôn giáo quan điểm sùng bái hư vô tệ hại của ông kia, cái chủ nghĩa hư vô rất muốn được gọi là tinh thần và tô vẽ cho nguyên tắc khắc kỷ tôn giáo thành một cái gì hợp thức và thần thánh lắm, chỉ vì nó không được ai ưa chuộng.
Tới đây Naphta xin mọi người thứ lỗi vì không nhịn được cười. Người ta nói về chủ nghĩa hư vô của nhà thờ! Về chủ nghĩa hư vô của hệ thống cai trị hiện thực bậc nhất trong lịch sử thế giới! Vậy ra ông Settembrini chưa bao giờ được nếm mùi mai mỉa mà người đời dùng để thú nhận sự yếu đuối của mình đối với xác thịt, đối với cuộc đời, được khôn khéo che đậy bằng sự nhượng bộ những hậu quả sau cùng của nguyên tắc ấy và để mặc cho tinh thần tác oai tác quái, miễn sao đừng quá chặt chẽ với thiên nhiên? Và như thế có lẽ ông ta cũng chưa bao giờ được làm quen với khái niệm ân xá của Công giáo, không biết rằng thậm chí có cả một bí tích của nhà thờ được xếp vào phạm vi của khái niệm này, đó là bí tích hôn phối - bản thân bí tích này không mang ý nghĩa tích cực như những bí tích khác, nó chỉ là một biện pháp phòng ngừa tội lỗi, được ban ra với mục đích duy nhất là giới hạn dục vọng và lòng tham quá độ, để nguyên tắc khắc kỷ, sự trong sạch lý tưởng có thể được giữ vững mà xác thịt không đến nỗi bị cấm đoán quá ngặt nghèo một cách phi chính trị?
Ông Settembrini không thể không lên tiếng cực lực phản đối cách dùng khái niệm “chính trị” với ý nghĩa xấu xa như thế, phản đối sự trịch thượng và tài khôn đầy kiêu ngạo của tinh thần - hay cái tự gọi là tinh thần - đối với thể xác, phần đối lập bị coi là đầy tội lỗi và bị xử lý cả bằng “chính trị”, mặc dù trong thực tế nó chẳng cần quái gì sự ân xá độc địa của ông ta; phản đối thuyết nhị nguyên đáng nguyền rủa của một thế giới quan biến cả vũ trụ thành ma quỷ, cả sự sống lẫn cái đối lập đen tối của nó là linh hồn: vì nếu cái này đã bị coi là xấu thì cái kia, một sự phủ định hoàn toàn, cũng xấu nốt! Và ông ta hết lời bênh vực sự vô tội của dục vọng - Hans Castorp bất giác nghĩ tới căn gác trọ nhân văn áp mái của ông ta, với cái bục viết, những chiếc ghế nhồi rơm và chai nước - trong khi Naphta quả quyết rằng dục vọng bao giờ cũng gắn liền với tội lỗi và rằng thiên nhiên vì thế luôn luôn có vẻ bị lương tâm cắn rứt khi đối mặt với tinh thần. Ông ta định nghĩa chính sách ân xá của nhà thờ đối với tinh thần là “tình yêu”, để bác bỏ thuyết hư vô trong nguyên tắc khắc kỷ - và Hans Castorp thấy cái từ “tình yêu” phát ra từ cửa miệng ông Naphta ốm ròm sắc như dao thật chối vô cùng...
Cuộc khẩu chiến của họ cứ tiếp diễn đại loại như thế, chúng ta đã quá quen với trò chơi này, Hans Castorp cũng đã quá quen rồi. Chúng ta đã cùng chàng lắng nghe một lát, để xem cuộc đọ vũ khí trên đường đi dạo lần này ra sao dưới cái bóng khổng lồ của nhân cách lớn đi bên cạnh, và bằng cách nào sự hiện diện của nhân cách ấy âm thầm tước vũ khí của đôi bên: dường như có một áp lực bí hiểm liên quan tới ông ta dập tắt tất cả những tia lửa điện xẹt qua xẹt lại giữa hai đối thủ, làm ta liên tưởng đến tình trạng không sinh khí như khi luồng điện bị ngắt quãng vì không còn tiếp xúc. Đúng là như thế. Không còn sự phóng điện qua lại giữa hai đối thủ, không còn tia chớp trí tuệ nào lóe lên, không có dòng điện. Hoạt động tinh thần tưởng đâu vô hiệu hóa được sự hiện diện của ông ta, trong thực tế sự hiện diện ấy lại vô hiệu hóa hoạt động tinh thần - đó là nhận định vừa tò mò vừa kinh ngạc của Hans Castorp.
Cách mạng và bảo thủ - người ta chỉ cần đưa mắt nhìn sang Peeperkorn, nhìn ông ta lặc lè bước, dáng đi không có gì là vương giả mà lắc lư như cái hũ sắp đổ, với cái mũ kéo sụp xuống trán, nhìn đôi môi rộng tơi tả của ông ta và nghe ông ta nói, vừa nói vừa hất đầu về phía hai kẻ hăng say tranh luận vẻ chế giễu: “Phải rồi, phải rồi! Cerebrum, cerebral, quý vị hiểu chứ! Đó là - ở đó diễn ra...” Và thế là, mất điện! Cuộc tranh luận tắt ngóm! Hai đối thủ cố gắng nhóm lên ngọn lửa mới, đọc những câu thần chú kêu hơn, bàn về những là “vấn đề giai cấp quý tộc”, về tính bình dân và sự quý phái. Không tia lửa điện nào phát ra. Mà những điều họ nói như bị một lực từ trường đẩy trượt đi, chỉ còn mang tính cá nhân. Hans Castorp thấy hiện ra trước mắt hình ảnh người bạn đồng hành của Clawdia ngồi trên giường đắp tấm chăn bọc lụa đỏ, mặc chiếc áo không cổ làm cho ông ta nửa như một người lao động cao tuổi nửa như bức tượng bán thân một vị quân vương - và cố gắng của hai nhà hùng biện chỉ còn là những cơn giãy chết yếu ớt của các mối dây thần kinh. Phải tăng điện thế! Một bên là phủ định hoàn toàn và sự tôn sùng chủ nghĩa hư vô, bên kia là bài ca muôn thuở về tinh thần và tình yêu cuộc sống! Nhưng chỉ cần người ta đưa mắt về phía quý ngài Peeperkorn - mà không thể không làm thế được, vì kích thước đồ sộ và sức hút bí ẩn của ông ta - là các liên hệ thần kinh, tia chớp và dòng điện đâu mất cả. Đơn giản là nó không có đó, không có cách gì gợi lên được, và, nói như Hans Castorp, đó đích thị là một điều huyền bí. Chàng muốn ghi thêm vào bộ sưu tập những lời có cánh của mình rằng, người ta khi nói về một điều huyền bí chỉ nên dùng những ngôn từ đơn giản nhất, hoặc tốt hơn không nói gì hết. Trong trường hợp này cùng lắm người ta chỉ nên nói một điều, và nói thẳng không quanh co, rằng Pieter Peeperkorn với cái mặt nạ vương giả đầy nếp nhăn và cái miệng cay đắng te tua là cả người lao động lẫn vị quân vương, nhìn kỹ người ta sẽ thấy cả hai đều hợp với ông ta và dường như dung hòa lẫn nhau trong con người ông ta: cả cái này lẫn cái kia, cả người này lẫn người kia. Đúng thế, ông già ngu ngốc và con số không bá chủ! Ông ta làm đối phương tê liệt không phải bằng mưu mô thủ đoạn như Naphta, ông ta không mập mờ lắt léo mà có cách nào đó khác hẳn, hiểu theo một nghĩa tích cực; điều huyền bí lắc lư như cái hũ sắp đổ này rõ ràng không chỉ vượt lên trên sự ngu dốt và thông thái, mà hơn thế nữa ông ta qua mặt tất cả các mưu chước phản kháng do Settembrini và Naphta huy động để tạo sự căng thẳng cần thiết cho mục đích sư phạm của họ. Nhân cách lớn kia chừng như không có tham vọng trong lĩnh vực sư phạm - mặc dù vậy ông ta quả là một cơ hội trời cho đối với tuổi trẻ trên con đường đi tìm học vấn! Thật không có gì thú vị hơn là quan sát hai gương mặt của một vị quân vương, khi cuộc tranh luận bị lèo lái về với đề tài hôn nhân và tội lỗi, về bí tích ân xá, về sự xấu xa hay vô tội của dục vọng! Ông ta cúi đầu xuống tận ngực, cặp môi đau đớn tách ra để cái miệng hé thành một khe rộng tang thương, hai cánh mũi căng ra phập phồng, những nếp nhăn trên trán vén cao, cặp mắt mở rộng phóng ra cái nhìn tuyệt vọng không màu - một bức tranh về nỗi cay đắng cùng cực. Và rồi, trong nháy mắt, hình ảnh thống khổ ấy từ từ tươi lên và rạng rỡ ra! Mái đầu cúi gục chuyển thành nghiêng nghiêng láu lỉnh, đôi môi, vẫn còn hé mở, uốn cong thành một nụ cười phóng đãng, cái lúm đồng tiền tinh nghịch, đã được nhắc đến trong một dịp khác, lại thấp thoáng hiện ra trên má - và người ta lại thấy trước mắt hình ảnh ông thầy cúng trong vũ điệu tế thần man dại, thấy ông ta bông đùa nghiêng đầu chỉ về phía có cuộc tranh cãi cerebral, và nghe ông ta nói: “Chà, được rồi, được rồi - tuyệt lắm. Đó là - đó thật là - ở đó đang diễn ra - Bí tích dục vọng, quý vị hiểu chứ -”
Nhưng, như đã nói, những người bạn và người thầy bị hạ bệ của Hans Castorp vẫn còn sung sướng chán khi họ được cãi nhau. Lúc ấy họ thoải mái như cá trong nước, trong khi nhân vật tầm cỡ kia như con cái voi mắc cạn, chí ít thì người ta cũng có thể có nhiều cách đánh giá khác nhau về vai trò của ông ta. Nhưng tình hình trở nên khác hẳn, xấu đi một cách không thể chối cãi cho bọn họ, khi câu chuyện từ lĩnh vực tinh thần, uyên bác và cao siêu chuyển sang cụ thể, trần tục và thực dụng; nói tóm lại nếu câu chuyện chuyển sang những đề tài và vấn đề quen thuộc của vị chúa tể kia thì họ thực sự tiêu tùng. Họ bị đẩy vào trong bóng tối, trở nên mờ nhạt, không còn tiếng nói gì nữa, và Peeperkorn nắm lấy cây vương trượng, chỉ đạo, quyết định, dàn xếp, yêu cầu và ra lệnh... Có gì là lạ, khi ông ta muốn đưa cuộc khẩu chiến chẻ sợi tóc làm tư của mấy người kia về hướng này? Ông ta khổ sở những lúc họ cãi nhau, hay nói đúng hơn là những lúc họ cãi nhau lâu quá, nhưng không phải vì háo danh, Hans Castorp cảm thấy thế. Háo danh không có tầm cỡ, và con người tầm cỡ không háo danh. Không, nhu cầu trần tục của Peeperkorn có những nguyên nhân khác. Đó là nỗi sợ, nói huỵch toẹt ra là như vậy, phát sinh từ tinh thần trách nhiệm và tính cuồng danh dự mà Hans Castorp lòng vòng tìm cách giải thích cho ông Settembrini và gọi đó là một nét tính cách quân sự.
“Thưa các quý ông”, người đàn ông Hà Lan cất tiếng, vừa nói vừa đưa lên cao bàn tay thủ lĩnh với những móng dài nhọn như mũi giáo trong một cử chỉ yêu sách đầy uy quyền. “Tốt lắm, thưa các quý ông, hoàn hảo, tuyệt vời! Khổ hạnh - ân xá - dục vọng - tốt lắm. Tôi muốn - dứt điểm! Tối quan trọng! Rất đáng tranh cãi! Tuy nhiên cho phép tôi - Tôi sợ rằng, chúng ta đang phạm phải - Chúng ta lảng tránh, thưa quý vị, chúng ta lảng tránh một cách vô trách nhiệm cái điều thiêng liêng -” Ông ta hít vào một hơi thở sâu. “Bầu không khí này, thưa quý vị, làn gió phơn tiêu biểu của ngày hôm nay, với dấu vết tàn úa trong ký ức và linh cảm hứa hẹn một mùa xuân thơm ngát - chúng ta chớ nên hít vào, để giữ cho - Tôi khẩn khoản xin quý vị: chúng ta không nên làm thế. Đó là một sự xúc phạm. Chúng ta phải dành toàn bộ và trọn vẹn - dành sự sáng suốt và tập trung cao nhất - dứt điểm, thưa quý vị! Và chúng ta chỉ nên để thoát ra khỏi lồng ngực lời ca ngợi những tính chất tốt đẹp của nó - Tôi tự ngắt lời mình ở đây, thưa quý vị! Tôi tự ngắt lời để tỏ lòng trân trọng...” Ông ta dừng bước, ngửa cổ nhìn lên cao, kéo vành mũ che mắt, và tất cả làm theo. “Cho phép tôi”, ông ta bảo, “hướng sự chú ý của quý vị lên cao, lên rất cao, đến tận chỗ cái chấm đen lượn vòng trên kia, trên nền trời xanh biếc gần như ngả sang đen sẫm - Đó là một con ác điểu, một con chim bắt mồi. Đó là, nếu tôi không - thưa các quý ông, cả cưng nữa, đó là một con đại bàng. Tôi khẩn khoản yêu cầu các quý vị hãy nhìn cho kỹ - Quý vị thấy chưa! Không phải là một con ó, cũng không phải diều hâu - nếu mắt quý vị cũng viễn thị như tôi - phải, cưng à, ta biết, tuổi ta ngày một cao, tóc cũng bạc hết rồi, dĩ nhiên là thế. Quý vị thấy không, đầu cánh nó không nhọn mà tròn - một con đại bàng, thưa quý vị. Một con đại bàng núi. Nó đang lượn trong không trung trên đầu chúng ta, lượn không vỗ cánh trên cao tít tắp và nhắm xuống dưới mặt đất - nhắm xuống bằng đôi mắt tinh anh viễn thị của nó, dưới vành chân mày nhô cao. Đại bàng, thưa quý vị, loài chim của thần Jupiter, vua của các loài chim, loài mãnh sư trên không! Nó có một bộ áo lông và một cái mỏ bằng sắt khoằm xuống, và bộ móng của nó có một sức mạnh kinh khủng, những cái móng quặp vào trong, phía trước dài và cong gập lại, đầu móng cứng như bọc sắt. Các vị nhìn, như thế này này!” Và ông ta xòe bàn tay thủ lĩnh móng dài của mình thử diễn tả hình dáng móng vuốt đại bàng. “Nào, sao ngươi còn lượn, còn nhòm ngó nữa!” Ông ta lại ngẩng nhìn lên. “Bổ xuống đi! Mổ cái mỏ sắt của ngươi vào đầu vào mắt nó, rạch bụng nó ra, con mồi Chúa dành cho ngươi! Tuyệt vời! Dứt điểm! Móng vuốt ngươi móc vào ruột con mồi, mỏ ngươi ròng ròng nhỏ máu...”
Ông ta hào hứng say sưa nói, và không ai trong số những người cùng đi dạo để ý đến những cặp phạm trù đối ngẫu của Naphta và Settembrini nữa. Chẳng những thế, sự xuất hiện của con đại bàng còn ảnh hưởng đến những quyết định và sự kiện sau đó dưới sự chỉ đạo của quý ngài: họ tạt vào một cái quán bên đường nghỉ chân và ăn uống - trái bữa, nhưng với sự ngon miệng tăng gấp bội nhờ những liên tưởng đến hình ảnh con đại bàng. Đó là một bữa tiệc ngẫu hứng nhưng không kém linh đình, như những bữa tiệc quý ngài hay tổ chức ngoài mấy bức tường ‘Sơn trang’, tiện đâu hay đó, lúc thì ở ‘Phố’ hay ‘Làng’, khi thì trong một tiệm ăn ở Glaris hay bên tu viện, những địa điểm tham quan người ta có thể theo đoàn tàu bé hạt tiêu đến được. Người ta thưởng thức đủ loại quà tặng cổ điển của cuộc sống dưới sự chủ tọa của quý ngài: cà phê đánh kem sữa với bánh nướng đặc sản vùng này, hoặc pho mát tươi và bơ vùng Alps thơm phức, rất ăn ý với hạt dẻ rang nóng giòn, uống kèm rượu đỏ Veltlin, muốn bao nhiêu có bấy nhiêu. Peeperkorn phụ họa cho bữa ăn ngẫu hứng bằng bài diễn thuyết đứt đoạn nhưng trọng đại của mình, hoặc yêu cầu Anton Karlovitsch Ferge lên tiếng, con người nhẫn nại và hiền hậu, hoàn toàn xa lạ với tất cả những gì được coi là cao siêu, nhưng biết cách kể những câu chuyện vô cùng sinh động về các xưởng sản xuất ủng cao su ở nước Nga: cách người ta trộn lưu huỳnh và các hóa chất khác vào trong hỗn hợp cao su ra sao, và những đôi ủng đã sơn bóng loáng còn được ‘lưu hóa’ ở nhiệt độ trên một trăm độ như thế nào. Ông ta cũng kể về vòng cực, nơi ông ta đã nhiều lần phải tới trong những chuyến công du, về mặt trời lúc nửa đêm và về mùa đông vĩnh cửu trên Bắc cực. Ở đó, ông ta nói vọng ra từ cần cổ gồ ghề với cục yết hầu chạy lên chạy xuống và bộ ria rậm rủ xuống, chiếc tàu thủy chỉ còn nhỏ xíu như một món đồ chơi bên cạnh những vách đá khổng lồ và mặt biển phẳng lì xám như thép. Và những luồng ánh sáng vàng vọt tỏa ra khắp trời, đó là Bắc cực quang. Và ông ta, Anton Karlovitsch, cảm thấy tất cả những cái đó thật là ma quái, quang cảnh ấy và cả ông ta trong đó.
Và như thế ông Ferge là người duy nhất trong nhóm thỉnh thoảng còn trao đổi với tất cả những người kia. Nhân nói về trao đổi chúng tôi phải kể ra ở đây hai cuộc trò chuyện tay đôi khác thường giữa nhân vật chính không có gì nổi bật của chúng ta với Clawdia Chauchat và người bạn đồng hành của cô ta, với từng người một, lần đầu trong đại sảnh vào buổi tối, khi yếu tố “phá rối” lên cơn sốt nằm bẹp trong giường trên lầu; và lần khác vào một buổi chiều, trong bản doanh của quý ngài...
Hôm ấy gian đại sảnh vắng người chìm trong cảnh tranh tối tranh sáng. Cuộc giao lưu thường lệ sau bữa tối tẻ ngắt và ngắn ngủi, khách điều dưỡng, những ai không lần mò trái phép xuống thung lũng để cờ bạc và khiêu vũ thì đã rút lui sớm lên ban công nằm nghỉ. Chỉ còn một bóng đèn cháy sáng đâu đó trên trần gian sảnh trống im lìm, những phòng giải trí kế bên đèn đóm cũng đã tắt cả. Nhưng Hans Castorp để ý thấy Madame Chauchat vừa rồi xuống ăn tối một mình không có vị quốc vương hộ tống và vẫn chưa lên phòng mà còn làm gì đó trong phòng viết thư đọc báo, thế cho nên chàng nấn ná ở lại. Chàng ngồi một mình tuốt phía sau đại sảnh, nơi sàn nhà cao hơn phía trước một bậc thang và phân cách với phần chính bằng mấy vòm cung trắng đặt trên những cây cột dưới chân ốp gỗ giống như phần dưới tường nhà. Chàng ngồi ngay trước cái lò sưởi lát đá hoa, trên một chiếc ghế xích đu nhún nhảy giống như chiếc ghế trước đây Marusia đã ngồi khi Joachim lần đầu tiên và duy nhất có một cuộc trò chuyện tay đôi với cô; chàng hút một điếu thuốc lá, được nội quy cho phép vào giờ này.
Nàng tới, chàng nghe tiếng bước chân nàng, tiếng váy áo nàng sột soạt phía sau lưng. Nàng dừng lại bên chàng, tay cầm một góc lá thư phe phẩy quạt trong không khí và nói bằng giọng Přibislav:
“Người gác cổng đi rồi. Cho tôi một cái timbre poste[449]!”
Tối nay nàng mặc một chiếc váy mỏng bằng lụa sẫm màu, cổ khoét tròn, tay áo rộng phía dưới có măng sét gài nút ôm khít lấy cổ tay. Chàng thấy cách phục sức ấy rất ưa nhìn. Nàng trang điểm cả bằng chuỗi ngọc trai, những hạt ngọc tỏa sáng mờ mờ trong bóng tối nhá nhem. Chàng ngẩng lên nhìn vào gương mặt Kirgiz của nàng. Và hỏi lại: “Timbre? Tôi không có.”
“Sao, không có là thế nào! Tant pis pour vous[450]. Không có sẵn để lúc cần làm vui lòng một quý bà?” Nàng trề môi và nhún vai. “Ông làm tôi thất vọng. Đàn ông nên chu đáo và tỉ mỉ mới phải chứ. Tôi cứ tưởng trong ví ông thế nào cũng phải có một ngăn nhỏ đựng tem thư xếp gọn gàng và trật tự theo giá từng loại.”
“Không, tôi cần gì tem?” Chàng bảo. “Tôi chẳng bao giờ viết thư. Viết làm gì? Thỉnh thoảng gửi một tấm bưu thiếp là đủ lắm rồi, mà bưu thiếp thì đã dán tem sẵn. Tôi biết viết thư gửi cho ai? Tôi chẳng còn ai nữa. Tôi đã đánh mất mối dây liên hệ với đồng bằng. Chúng tôi có một bài dân ca trong đó có câu: ‘Tôi là kẻ lạc loài giữa trần gian.’ Rất hợp với tình cảnh của tôi.”
“Vậy thì, kẻ lạc loài, ít nhất cũng cho tôi một papyros[451] đi!” Nàng bảo và ngồi xuống băng ghế lót tấm đệm bọc lanh đối diện với chàng, vắt chân nọ lên chân kia và chìa tay ra. “Chắc món này thì ông có sẵn.” Và nàng thong thả rút một điếu thuốc ra khỏi cái hộp bằng bạc chàng đưa tới trước mặt nàng, thản nhiên châm vào ngọn lửa của chiếc bật lửa bỏ túi mà chàng bật lên trước gương mặt hơi cúi của nàng, không một lời cảm ơn. Hai lần yêu sách “cho tôi đi” và cung cách tiếp nhận tỉnh bơ không ơn huệ thể hiện thói quen đòi hỏi của người đàn bà được nuông chiều, nhưng hơn thế nữa nó còn thể hiện tính nhân đạo - hay nói như nàng: “nhăn đạo” - với ý nghĩa tập thể và sở hữu chung, tập tục cho và nhận vừa hoang dã vừa bác ái theo đánh giá của kẻ đang yêu. Chàng bảo:
“Phải, thuốc hút thì lúc nào tôi cũng sẵn. Mà phải có chứ, nếu không làm sao tôi chịu nổi? Có thể bảo rằng đó là một đam mê của tôi. Thành thực mà nói tôi không phải là người đam mê, nhưng tôi có những cái thú riêng của mình, những đam mê điềm đạm thôi.”
“Tôi đặc biệt yên tâm”, nàng phả ra một hơi khói thuốc trong khi nói, “được biết ông không phải là người đam mê. Nhưng đam mê thế nào được? Các ông không thể là người sống đam mê. Đam mê, đó là hết mình vì cuộc sống. Nhưng ai cũng biết các ông chỉ sống để hưởng thụ. Đam mê, đó là quên mình. Nhưng các ông chỉ muốn làm giàu cho bản thân. C’est ça[452]. Ông phải biết rằng đó là thói ích kỷ đáng ghê tởm, và một ngày nào đó nó sẽ biến ông thành kẻ thù của nhân loại!”
“Ơ kìa, ơ kìa! Kẻ thù của nhân loại cơ à? Sao em vơ đũa cả nắm thế, Clawdia? Phải chăng em muốn nhắm tới điều gì cụ thể và riêng tư, khi bảo rằng chúng tôi không vì cuộc sống mà chỉ muốn làm giàu cho bản thân? Bình thường phụ nữ đâu có thói quen triết lý chung chung về đạo đức! Đạo đức, em biết không, đó là đối tượng tranh cãi của Naphta và Settembrini. Nó thuộc về lĩnh vực trừu tượng vào bậc nhất. Một người sống cho bản thân mình hay vì cuộc sống, điều đó chính anh ta cũng không biết, không ai có thể biết cặn kẽ và chính xác. Ý tôi muốn nói, đường ranh giới ở đây không thể xác định được rõ ràng. Có sự hy sinh đầy ích kỷ và có sự ích kỷ rất hy sinh... Tôi tin rằng nói chung ở đây cũng giống như trong tình yêu. Tất nhiên là tôi xử sự không mấy đạo đức khi chẳng để tâm đến những gì em nói với tôi về đạo đức, mà trên hết chỉ cảm thấy sung sướng vì chúng ta ngồi gần nhau thế này, như từ trước tới nay mới có một lần duy nhất và không còn lần nào nữa kể từ khi em quay trở lại đây. Và tôi có cơ hội nói với em rằng những chiếc măng sét ôm lấy cổ tay hợp với em lắm, cũng như lớp lụa mỏng rộng rãi bao quanh hai cánh tay em, đôi cánh tay tôi đã biết...”
“Tôi đi đây.”
“Đừng, xin đừng bỏ đi! Tôi hứa sẽ tôn trọng hoàn cảnh và nhân cách.”
“Còn có thể mong đợi gì hơn ở một người không đam mê!”
“Đấy, thấy chưa! Em mỉa mai và trách móc tôi, nếu tôi không... Và em dọa bỏ đi, nếu tôi...”
“Tôi chỉ xin ông nói năng có đầu có đuôi một chút, nếu ông muốn người ta hiểu ý ông.”
“Vậy ra tôi không nên, không được phép hưởng một chút lợi lộc gì ở kinh nghiệm tập đoán nghĩa những câu không đầu không cuối của em? Như thế có công bằng không - có lẽ tôi sẽ hỏi thế, nếu tôi không thấy rõ đây chẳng phải là chuyện công bằng...”
“Dĩ nhiên là không rồi. Công bằng là điềm đạm. Khác hẳn với ghen tuông, là cái làm cho người ta trở nên nực cười.”
“Thấy chưa? Em gọi đó là nực cười. Thế thì điềm đạm còn hơn. Tôi xin nhắc lại: không có những niềm an ủi như khói thuốc thì tôi làm sao chịu nổi? Tôi làm sao mà, nói ví dụ, có thể chờ đợi lâu đến thế?”
“Xin lỗi, tôi không hiểu.”
“Đợi em quay trở lại.”
“Voyons, mon ami[453]. Tôi không muốn cự nự mãi cái cách xưng hô bất lịch sự mà ông cứ ngông cuồng nhất định dùng để gọi tôi, rồi tự ông sẽ chán, rốt cuộc tôi không phải là người câu nệ xã giao, tôi sẽ không bất bình như một quý bà tiểu tư sản...”
“Không, vì em đã có bệnh tật. Bệnh tật cho em tự do. Nó làm cho em - gượm đã, tôi vừa nghĩ ra một chữ mà tôi chưa sử dụng bao giờ! Bệnh tật làm cho em thiên tài!”
“Về thiên tài chúng ta sẽ bàn cãi vào dịp khác. Hôm nay tôi không muốn nói chuyện ấy. Tôi muốn nói để ông rõ điều này. Ông không thể bảo rằng tôi có liên quan đến chuyện chờ đợi của ông - nếu như ông chờ thật -, rằng tôi khuyến khích ông làm điều đó! Thậm chí tôi còn không cho phép ông, ông nhớ chứ. Ông phải thừa nhận rằng sự thực trái ngược hẳn...”
“Được thôi, Clawdia, tất nhiên rồi. Em không yêu cầu tôi chờ đợi, mà đấy là tôi tự quyết định. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được là em rất coi trọng điểm này...”
“Thậm chí khi nhận lỗi ông cũng vẫn còn kiêu ngạo. Ông là người kiêu ngạo từ trong trứng, chỉ có Chúa mới biết tại sao. Không chỉ trong cách xử sự với tôi, mà nói chung ở khắp mọi nơi. Ngay cả sự ngưỡng mộ, sự phục tùng của ông cũng có cái gì đó rất ngạo mạn. Ông đừng tưởng tôi không nhìn thấy! Vì thế lẽ ra tôi không nên chuyện trò gì với ông, nhất là khi ông dám kêu ca về chuyện chờ đợi. Sự có mặt của ông ở đây cho đến giờ này là vô trách nhiệm. Lẽ ra ông phải trở về với công việc của ông từ lâu rồi mới phải, sur le chantier[454], hay ở đâu đó đại loại thế...”
“Giờ thì em nói chuyện chẳng có gì là thiên tài nữa mà quá thông thường, Clawdia. Đấy chỉ là cách nói suông mà thôi. Chắc chắn em không có ý giống như Settembrini, mà em giống ông ta làm sao được? Em chỉ nói cho có nói, tôi không thể coi điều đó là nghiêm túc được. Tôi sẽ không xuống núi trái phép, như ông anh họ tội nghiệp của tôi, người - đúng như tiên đoán của em - đã chết vì cố liều xuống đồng bằng làm nhiệm vụ, có lẽ anh ấy cũng tự biết là mình sẽ chết, nhưng thà chết như thế còn hơn là bằng lòng với nhiệm vụ điều dưỡng ở đây. Tốt thôi, vì thế anh ấy mới là quân nhân. Nhưng tôi không phải là quân nhân, tôi là một người dân sự, đối với tôi như thế là đào ngũ, tự tiện xuống đồng bằng như anh ấy, bất kể sự cấm đoán của Rhadamanthys, dù rằng để phục vụ lợi ích và tiến bộ của nhân loại. Làm thế là một sự vô ơn lớn và phản bội bệnh tật, phản bội tinh thần và phản bội tình yêu của tôi đối với em, vì tình yêu ấy mà tôi mang những vết sẹo cũ và mới, và phản bội đôi cánh tay em mà tôi đã biết - mặc dù tôi chỉ dám thú nhận rằng đó là một giấc mơ, một giấc mơ thiên tài, trong mơ tôi đã được làm quen với đôi tay ấy, để cho em không phải gánh chịu một hậu quả nào và không bị một trách nhiệm nào ràng buộc tự do của em...”
Nàng cười, điếu thuốc lá vẫn ngậm trên môi, đôi mắt Tatar nheo nheo vì khói thuốc, và ngả người dựa vào lớp gỗ ốp tường, hai tay chống xuống mặt băng ghế, một chân vắt lên chân kia, mũi bàn chân đi giày đen bóng nhịp nhịp.
“Quelle générosité! Oh là là, vraiment[455], tôi vẫn tưởng tượng ra một homme de génie[456] đúng y như thế, anh chàng tội nghiệp!”
“Đừng nói thế, Clawdia. Tất nhiên tôi chẳng phải là một homme de génie, cũng không có tầm cỡ, lạy Chúa, không. Nhưng do một sự tình cờ - cứ cho đó là tình cờ đi - tôi đã trôi dạt lên vùng đất thiên tài này... Nói một cách ngắn gọn, chắc em không biết trên đời có môn khoa học giáo dục đóng kín-giả kim thuật, đối tượng là sự biến đổi vật chất, từ thấp lên mức độ cao hơn, một sự nâng cấp, em hiểu không. Nhưng tất nhiên, một chất để có thể nâng cấp nhờ tác động bên ngoài thì cũng phải có sẵn cái gì đó làm tiền đề. Tôi biết rõ tôi có sẵn cái gì, điều đó nằm trong máu thịt tôi, vì bệnh tật và chết chóc đã từ lâu quen thuộc đối với tôi, và từ khi còn là một cậu bé tôi đã dại dột mượn của em một cây bút chì, giống như ở đây trong đêm hội hóa trang. Nhưng sự dại khờ trong tình yêu cũng là thiên tài, em biết không, vì cái chết là một nguyên tắc thiên tài, là res bina, là lapis philosophorum[457], và đồng thời nó cũng là nguyên tắc sư phạm, vì tình yêu dành cho nó dẫn tới tình yêu cuộc sống và tình yêu nhân loại. Như vậy đấy, khi nằm ngoài ban công tôi đã giác ngộ ra những điều này, và bây giờ tôi rất mừng được chia sẻ với em. Cuộc sống có hai con đường: một là con đường thông thường, ngay thẳng và chân chính. Còn con đường kia thì tệ hại ghê gớm, nó dẫn người ta đi qua cái chết - đó là con đường thiên tài!”
“Anh đúng là cuồng triết lý”, nàng bảo. “Tôi không dám chắc là mình hiểu hết những tư tưởng Đức lằng nhằng rắc rối của anh, nhưng những điều anh nói nghe rất có vẻ nhăn ái, và anh chắc chắn là một thanh niên tốt. Anh xử sự như một nhà hiền triết, cái đó thì phải công nhận...”
“Quá hiền triết đối với khẩu vị của em phải không, Clawdia?”
“Thôi đừng có đá móc nữa! Nghe mãi cũng nhàm. Anh chờ đợi như thế là ngu ngốc và sai trái, tôi có cho phép anh đợi đâu. Nhưng này, anh không giận tôi sao, vì mất công chờ đợi mà chẳng được gì?”
“Đó là một đòn đau, Clawdia, ngay cả đối với một người chỉ có những đam mê điềm đạm. Một đòn chí tử. Em đã ra đòn rất ác khi trở về cùng ông ấy, vì tất nhiên em đã được Behrens thông báo cho từ trước rằng tôi vẫn ở lại đây và vẫn đợi em. Nhưng tôi đã nói với em rồi, tôi chỉ coi những gì chúng ta có với nhau như một đêm mơ, và tôi chấp nhận cho em tự do. Rốt cuộc sự chờ đợi của tôi cũng không phải hoàn toàn uổng công, vì em đã trở về, chúng ta lại ngồi gần nhau như lần ấy, tôi lại được nghe giọng nói ngọt ngào tuyệt diệu của em, giọng nói đã từ lâu lắm rồi quen thuộc trong tai tôi, và dưới làn lụa mỏng này là đôi tay em mà tôi đã biết - mặc dù trên lầu người đồng hành với em đang nằm trong cơn sốt, quý ngài Peeperkorn vĩ đại, người tặng cho em chuỗi ngọc này...”
“Người mà ông tìm cách kết thân để cầu lợi.”
“Đừng vì thế mà giận tôi, Clawdia! Settembrini cũng đã trách mắng tôi về chuyện ấy, nhưng đó chỉ là thành kiến của người đời. Ông ta là một vận may hiếm có đối với tôi - lạy Chúa, ông ta là một nhân cách lớn! Ông ta đã lớn tuổi - nhưng có sao đâu. Tôi hoàn toàn có thể hiểu được vì sao một phụ nữ như em lại say mê ông ta đến thế. Em yêu ông ta lắm phải không?”
“Với tất cả lòng kính trọng nhà hiền triết Đức trong anh, Hans thân mến”, nàng bảo và đưa tay vuốt tóc chàng, “tôi không thể kể cho anh nghe về tình yêu của tôi đối với ông ta, như thế là không nhăn ái!”
“Ôi, Clawdia, có sao đâu. Tôi cho rằng sự nhân ái bắt đầu ở chỗ những kẻ không thiên tài tin là nó đã cạn. Em cứ kể về ông ta đi. Em yêu ông ta lắm phải không?”
Nàng nghiêng người ném mẩu thuốc đã hút hết vào lò sưởi rồi ngồi lặng, hai tay khoanh lại. “Ông ấy yêu tôi”, nàng bảo, “và tình yêu ấy khiến tôi tự hào và biết ơn và phục tùng ông ấy. Nếu anh không hiểu điều đó thì anh không xứng đáng với tình bạn ông ấy dành cho anh... Tình cảm sâu nặng của ông ấy buộc tôi phải đi theo và phục vụ ông ấy. Tôi làm sao khác được? Anh thử nghĩ mà xem! Liệu có người nào đủ khả năng từ chối tình yêu của ông ấy không?”
“Không thể được!” Hans Castorp tán thành. “Không, đương nhiên là em không thể làm khác được. Một người phụ nữ làm sao có thể từ chối tình cảm của ông ấy, bỏ mặc ông ấy với nỗi sợ hãi hùng cho tình cảm của mình, nói một cách hình ảnh là bỏ mặc ông ấy trong vườn Gethsemane...”
“Anh không khờ tí nào”, nàng nói, đôi mắt xếch ngó đăm đăm về phía trước. “Anh đã hiểu. Sợ cho tình cảm...”
“Chẳng cần phải hiểu nhiều cũng có thể nhận ra rằng em bắt buộc phải theo ông ấy, mặc dù - hoặc đúng hơn là bởi tình yêu của ông ấy chứa đựng nhiều nỗi bất an.”
“C´est exact[458]... Bất an. Ông ấy gây ra cho người thân cận rất nhiều lo lắng, anh biết không, nhiều khó khăn...” Nàng đã nắm lấy tay chàng từ lúc nào và lơ đãng nghịch nghịch mấy ngón tay. Bất thình lình nàng chau mày nhìn lên hỏi:
“Khoan! Chúng ta ngồi bàn luận sau lưng ông ấy như thế này có tệ quá không?”
“Không đâu, Clawdia. Không tệ một chút nào. Đó chính là nhân ái. Em có vẻ thích nói cái từ này, và tôi thích nghe nó vang lên từ cửa miệng em, say sưa kéo dài thật là mơ mộng. Ông anh họ Joachim của tôi thì không, anh ấy là quân nhân. Anh ấy cho rằng nhân ái chỉ là cái cớ để người ta buông thả và tùy tiện, là một mớ guazzabuglio[459] không giới hạn chứa đầy nhu nhược, thú thật cũng có lúc tôi ngờ vực nó. Nhưng trên tinh thần tự do, sáng tạo và để phục vụ cái thiện thì nhân ái là đại nghĩa, vì nó chúng ta có thể yên tâm bàn luận về ông Peeperkorn và những lo lắng và khó khăn ông ta gây ra cho em. Dĩ nhiên tất cả những rắc rối ấy là do ông ấy quá đề cao danh dự, quá lo sợ thất bại trong tình cảm, vì ông ấy quá yêu quý những món quà cổ điển giúp chấn hưng cuộc sống - chúng ta có thể kính cẩn nói về tất cả những điều đó, vì những điều ấy ở ông ta đều có tầm cỡ, đều vương giả, và chúng ta không sợ hạ thấp ông ấy hay hạ thấp bản thân mình khi đề cập đến những điều đó với lòng nhân ái.”
“Vấn đề không phải là chúng ta”, nàng bảo và lại khoanh tay trước ngực. “Một người phụ nữ thực thụ sẽ không ngần ngại hạ mình vì một người đàn ông - một người đàn ông có tầm cỡ, như anh nói - khi biết rằng mình là đối tượng của tình cảm và nguyên nhân nỗi sợ cho tình cảm của người ấy.”
“Chính xác, Clawdia. Em nói hay tuyệt. Cả sự hạ mình cũng có tầm cỡ, và người phụ nữ có thể từ tầm cao ấy mà đối xử bề trên với những kẻ không có tầm cỡ quốc vương, như em khi nãy hỏi tôi có timbres poste không và kẻ cả trách rằng: ‘Đàn ông nên chu đáo và tỉ mỉ mới phải chứ!’”
“Anh tự ái đấy à? Đừng quá nhạy cảm như thế. Chúng ta không nên tốn sức cho những chuyện lặt vặt ấy, quỷ tha ma bắt nó đi - anh đồng ý không? Cả tôi đôi khi cũng tự ái, thú thật là như thế, nhân tiện chúng ta có dịp ngồi bên nhau như tối nay. Tôi giận vì anh điềm đạm quá, và vì anh ngay lập tức đã thu được cảm tình của ông ấy, nhất là còn tận dụng nó để phục vụ tính ích kỷ của anh. Nhưng tôi cũng rất mừng và cảm ơn anh đã tỏ lòng kính trọng ông ấy... Anh cư xử rất có nghĩa, nếu như trong đó có pha lẫn một chút ngỗ ngược thì xét cho cùng tôi cũng có thể tha thứ được cho anh.”
“Cảm ơn lòng tốt của em.”
Nàng nhìn chàng. “Anh thật là bất trị. Tôi nói thẳng cho anh biết: anh là một cậu bé gian lận. Tôi không biết anh có đầu óc tới đâu, nhưng láu tôm láu cá thì anh không thiếu. Thực ra cũng chẳng sao, tính ấy người ta có thể chịu đựng được và vẫn là bạn tốt với nhau. Chúng ta có nên kết bạn không nhỉ, lập ra một liên minh giữa chúng ta vì ông ấy, giống như người ta vẫn liên minh để chống lại ai đó? Anh có đồng ý bắt tay với tôi không? Nhiều khi tôi lo sợ lắm... có những lúc tôi sợ một mình đối diện với ông ấy, một mình trong tâm tưởng, tu sais[460]... Ông ấy rất bất an... thỉnh thoảng tôi sợ sẽ có chuyện không hay xảy ra cho ông ấy... Tôi sợ đến thắt ruột thắt gan... Tôi ao ước có một người đáng tin cậy bên mình... Enfin[461], nếu anh muốn biết, thì chính vì lẽ đó mà tôi đưa ông ấy lên đây...”
Họ ngồi chụm đầu gối vào nhau, chàng trên chiếc ghế xích đu ngả về phía trước, nàng trên băng ghế gỗ. Nàng nắm chặt tay chàng khi thốt ra những lời cuối nhẹ như hơi thở phả vào mặt chàng. Chàng bảo:
“Đến với tôi? Ôi, thật vậy sao, Clawdia, nếu thế thì thật phi thường! Em đưa ông ấy lên đây tìm tôi? Vậy mà em còn nói rằng tôi ngồi đợi là ngu ngốc và sai trái và rằng đợi như thế chỉ uổng công? Tôi sẽ dở vô cùng nếu không biết giá trị của điều đó và từ chối đề nghị kết bạn của em, tình bạn vì ông ấy...”
Và nàng hôn lên môi chàng. Đó là một nụ hôn Nga, theo lối cư dân của đất nước rộng mênh mông tâm hồn nồng nhiệt ấy trao đổi trong những lễ hội trọng đại, như một dấu ấn tình cảm họ dành cho nhau. Nhưng vì nụ hôn được trao đổi giữa một chàng trai trẻ “tinh quái” bất trị và một phụ nữ cũng còn trẻ và quyến rũ nhường ấy, nên trong khi tường thuật chúng tôi bất giác nhớ đến bài thuyết trình tinh vi có phần hơi ám muội của ông bác sĩ Krokowski về tình yêu, nhớ đến cách nói mập mờ nghĩa đôi của ông ta khiến người nghe không dám chắc đó là tình yêu trong sáng hay là dục vọng đắm say. Chúng tôi nghĩ thế, hay là Hans Castorp và Clawdia Chauchat làm thế khi họ trao đổi nụ hôn Nga này? Nhưng ý độc giả thế nào, nếu chúng tôi từ chối không đi sâu vào vấn đề ấy? Theo thiển ý của chúng tôi đó mặc dù là một vấn đề thuộc lĩnh vực phân tâm học, nhưng sẽ “dở vô cùng” - theo cách nói của Hans Castorp - và thậm chí thù địch với cuộc sống, nếu trong tình yêu ta cứ muốn phân biệt rạch ròi giữa tình cảm thuần túy và dục vọng. Thế nào là thuần túy! Thế nào là mập mờ nghĩa đôi! Chúng ta tự đặt ra tất cả những điều đó. Thật hay là tiếng nói của chúng ta chỉ có một từ để gọi tất cả các loại tình yêu, từ trong sáng nhất cho đến dâm dục nhất! Đó là điều rõ ràng trong sự mập mờ mang tên tình yêu, vì tình yêu trong sạch nhất cũng không thể thiếu yếu tố xác thịt, và cả khi xác thịt nhất nó cũng vẫn bảo tồn sự trong sạch của mình. Tình yêu luôn là chính nó, vừa là sự sống “bất trị” vừa là đam mê cao nhất; tình yêu là niềm cảm thông với vật chất hữu cơ, là vòng tay ôm say đắm và cảm động của những gì sẽ phải chịu số phận rữa nát dưới mồ - tình yêu đáng ngưỡng mộ nhất hay điên cuồng nhất, đó là caritas[462]. Tình yêu có nhiều nghĩa ư? Nhân danh Chúa, cứ để cho nó nhiều ý nghĩa! Chính điều đó làm cho nó sống động và nhân đạo, và thế giới này sẽ hoang vu buồn tẻ biết bao, nếu không còn sự đa nghĩa của tình yêu.
Vậy là trong khi môi Hans Castorp và Madame Chauchat gặp nhau trong một nụ hôn Nga thì chúng tôi để cho mảnh sân khấu nhỏ ấy tối đi và đổi sang cảnh mới. Bởi chúng tôi chuyển sang tường thuật cuộc trò chuyện tay đôi thứ hai như đã hứa, và sân khấu bây giờ tràn ngập ánh sáng ảm đạm của một ngày tàn, một ngày mùa xuân ở vào thời điểm tuyết tan; nhân vật chính của chúng ta đang ở tư thế đã trở nên quen thuộc bên giường quý ngài Peeperkorn, trong một cuộc chuyện trò kính cẩn và thân mật với nhân cách lớn này. Madame Chauchat xuất hiện một mình trong bữa trà chiều lúc bốn giờ, cũng như trong ba bữa ăn trước, và sau đó đã xuống ‘Phố’ mua sắm, thế là Hans Castorp như thường lệ bày tỏ nguyện vọng vào thăm người bệnh Hà Lan, phần để bày tỏ sự quan tâm của mình và giúp vui cho ông ta trong chốc lát, phần để bản thân được bồi bổ tinh thần từ nhân cách hơn người của ông ta - tóm lại chàng có những nguyên nhân rất cuộc sống và đa nghĩa. Peeperkorn đặt tờ Telegraaf sang một bên, gỡ cái kính kẹp mắt gọng sừng cao trên mũi xuống ném lên trên tờ báo, chìa cho người vào thăm bàn tay thủ lĩnh móng dài của mình, và đôi môi rộng tơi tả đầy đau đớn của ông ta mấp máy vài lời không rõ rệt. Cũng như mọi khi, rượu đỏ và cà phê luôn chực sẵn trong tầm tay với: bộ đồ pha cà phê đặt trên một chiếc ghế gần giường đọng ngấn nâu sau khi sử dụng - quý ngài mới dùng xong cữ chiều, rất đậm và rất nóng, với đường và sữa như thường lệ, và đang toát mồ hôi đầm đìa. Gương mặt vương giả dưới mớ tóc trắng phau phau đỏ ửng, những giọt mồ hôi lấm tấm đọng đầy trán và môi trên.
“Tôi đổ mồ hôi một chút”, ông ta bảo. “Xin chào, ông bạn trẻ. Ngược lại là đằng khác. Mời ông ngồi! Đổ mồ hôi sau khi uống đồ nóng là một biểu hiện yếu sức. Ông làm ơn - đúng rồi. Chiếc khăn tay. Rất cảm ơn.” Sắc đỏ trên mặt ông ta rút lui rất nhanh nhường chỗ cho màu vàng bủng, màu chủ đạo trên gương mặt người đàn ông tầm vóc này sau mỗi cơn sốt ác tính. Trận sốt tứ nhật sáng hôm nay rất dữ dội, ở cả ba giai đoạn: rét, nóng và đổ mồ hôi, giờ đây đôi mắt ti hí bạc màu của Peeperkorn lờ đờ ném ra một tia nhìn mệt mỏi dưới những đường kẻ đầy ấn tượng trên vầng trán rộng. Ông ta bảo:
“Đó là - đúng thế, ông bạn trẻ. Tôi muốn nói rằng - cái từ ấy là ‘rất đáng khen’. Dứt điểm. Cảm ơn ông chịu mất thời gian đến thăm một ông lão già nua bệnh tật -”
“Mất thời gian ư?” Hans Castorp đáp. “Không đâu, thưa quý ngài Peeperkorn. Tôi mới là người cần phải cảm ơn vì được ngồi một lát ở đây, tôi mới là người được hưởng lợi chứ không phải ông, tôi đến đây hoàn toàn vì sự ích kỷ của bản thân. Thêm vào đó, sao ông lại dùng một khái niệm rất sai lệch như thế - ‘một ông lão già nua bệnh tật’ là thế nào! Không ai nghĩ ông là một người như vậy. Nó gợi lên một hình ảnh hoàn toàn sai lệch về ông.”
“Được rồi, được rồi”, quý ngài bảo và khép mi mắt lại vài giây, mái đầu vương giả với cái cằm chìa ra ngả xuống gối, những ngón tay móng dài chắp lại trên bộ ngực quốc vương đồ sộ nổi vồng lên dưới lần vải áo. “Tốt lắm, ông bạn trẻ, hay nói đúng hơn, ông có ý tốt, tôi biết. Chiều hôm qua vui quá - đúng thế, mới chiều hôm qua thôi, trong cái quán ấy - tôi quên mất tên rồi - chúng ta đã được thưởng thức món xúc xích Ý tuyệt hảo với trứng bác và loại rượu quê mộc mạc -”
“Tuyệt lắm!” Hans Castorp tán thưởng. “Một bữa nhậu thả giàn, trái phép nhưng ngon miệng - ông đầu bếp của ‘Sơn trang’ hẳn sẽ tự ái lắm nếu nhìn thấy chúng ta khi ấy - tóm lại tất cả đều hết mình vào việc, không trừ một ngoại lệ nào! Xúc xích Ý cũng là loại chính hiệu, ông Settembrini có vẻ cảm động lắm, ông ấy ăn mà mắt rưng rưng ngấn nước. Ông ta là một người yêu nước, rồi ông sẽ thấy, một nhà ái quốc dân chủ. Ông ta đã đặt mũi giáo dân tộc của mình lên bàn thờ nhân loại, để trong tương lai xúc xích Ý bị đánh thuế hải quan khi đi qua biên giới Brenner.”
“Cái ấy không quan trọng”, Peeperkorn tuyên bố. “Ông ta là một người lịch thiệp, vui tính và hơi lắm lời, một người hào hoa phong nhã, mặc dù không có điều kiện thay đổi quần áo thường xuyên.”
“Không”, Hans Castorp phụ họa, “ông ta đúng là không có điều kiện. Tôi quen biết và kết bạn với ông ấy từ lâu rồi, tức là ông ta có nhã ý quan tâm đến tôi, vì theo ý ông ta tôi là một ‘học sinh cá biệt của trường đời’ - đấy là một lối nói riêng giữa chúng tôi, đối với người ngoài có lẽ hơi khó hiểu - và bỏ công sức bảo ban uốn nắn tôi. Nhưng tôi chưa bao giờ nhìn thấy ông ta trong trang phục nào khác, dù là mùa đông hay mùa hạ, ngoài cái quần kẻ ca rô và cái áo khoác lừ xừ hai hàng cúc. Tuy nhiên ông ta biết cách mặc những áo quần cũ kỹ ấy với một vẻ tự trọng vô cùng, rất hào hoa phong nhã, tôi hoàn toàn đồng ý với ông ở điểm này. Trang phục của ông ta là một sự đắc thắng vượt lên trên nghèo khó, và tôi thấy nó còn dễ mến hơn cách phục sức thanh lịch của ông Naphta bé nhỏ bội phần, ở ông ta có cái gì đó không ổn, sự sung túc ấy là nhờ đi đêm với quỷ, tôi đã có cơ hội tìm hiểu đôi điều về đời tư ông ta.”
“Một người lịch thiệp và vui tính”, Peeperkorn nhắc lại, bỏ ngoài tai nhận xét của Hans Castorp về Naphta, “nhưng - cho phép tôi được phê bình ở một điểm - nhưng vẫn không thoát khỏi thành kiến. Madame, người bạn đồng hành của tôi, không thích ông ta, như ông có thể cũng nhận thấy; cô ấy nhắc đến ông ta bằng giọng thiếu thiện cảm, chắc hẳn cũng bởi vì cô ấy nhận thấy cách đối xử đầy thành kiến của ông ta - không một lời nào nữa, ông bạn trẻ! Tôi không bao giờ có ý định - ông Settembrini và tình bạn của ông với ông ta - Dứt điểm! Cũng không phải tôi muốn chỉ trích ông ta trong cách đối xử với phụ nữ - Hoàn hảo, ông bạn thân mến, tuyệt đối không có gì đáng chê trách! Nhưng có một ranh giới ngầm nào đó, một sự thận trọng, một sự xa lánh nhất định, nó làm cho tâm trạng Madame xấu đi ở mức độ trầm trọng -”
“Có thể hiểu được. Dễ hiểu. Một cách logic. Xin ông thứ lỗi, thưa quý ngài Peeperkorn, vì tôi tự tiện kết thúc câu nói của ông. Tôi mạo muội làm việc đó vì tin rằng ông cũng cùng một ý với tôi. Nếu lưu ý đến một thực tế là phụ nữ - ông tủm tỉm cười vì thấy một thanh niên ở độ tuổi còn non như tôi mà đòi bàn luận về phụ nữ nói chung - phụ nữ để cho tình cảm của họ đối với nam giới phụ thuộc rất nhiều vào tình cảm người nam dành cho họ, thì điều ông vừa nói không có gì đáng ngạc nhiên. Phụ nữ, theo tôi, là những sinh linh hành động theo phản xạ, họ không nắm lấy thế chủ động mà chỉ đối phó một cách thụ động... Tôi xin phép làm mệt tai ông bằng cách diễn giải lòng vòng một chút. Phụ nữ, theo nhận xét hạn hẹp của tôi, trong tình yêu tự coi mình là đối tượng, họ đợi người ta đến với mình, họ không chủ động tự do chọn lựa, họ chỉ chọn tình yêu trên cơ sở chọn lựa của người đàn ông, mà ngay cả khi ấy, xin ông cho phép tôi nhấn mạnh điều này, ngay cả khi ấy sự chọn lựa của họ - tất nhiên với điều kiện người đàn ông không đến nỗi tệ quá, nhưng dẫu có thế điều này vẫn có phần đúng - sự chọn lựa của họ vẫn không vô tư mà chịu tác động rất nhiều bởi thực tế họ được người đàn ông chọn. Lạy Chúa, điều tôi nói quả là khó chấp nhận, nhưng khi người ta còn trẻ thì đối với họ cái gì cũng là mới mẻ, mới mẻ và lạ lẫm. Ông hỏi một người phụ nữ: ‘Em có yêu ông ấy không?’ Câu trả lời của bà ta là: ‘Ông ấy rất yêu tôi!’ Bà ta nói thế với cặp mắt ngây thơ ngước lên hay thẹn thùng nhìn xuống. Giờ ông hãy thử hình dung câu trả lời ấy phát ra từ miệng một trong hai chúng ta - xin ông thứ lỗi cho sự đánh đồng một lứa của tôi! Có thể vẫn có những người đàn ông trả lời như thế, nhưng đó là những tay sợ vợ, những kẻ râu quặp trong tình yêu, nếu ông cho phép tôi khôi hài một chút. Tôi rất muốn biết cơ sở tự đánh giá bản thân nào đã dẫn đến câu trả lời đặc nữ tính này. Người phụ nữ cảm thấy mình có nghĩa vụ chung thủy và tận tụy vô hạn độ với người đàn ông đã hạ cố chọn một sinh vật thấp kém như mình làm đối tượng trao gửi tình cảm, hay bà ta coi tình yêu của người đàn ông là dấu hiệu xác nhận sự ưu việt của bản thân? Đó là điều tôi hay tự hỏi, trong những giờ suy tư một mình.”
“Thực tế, cổ điển và nguyên thủy, ông bạn trẻ, những lời khôn ngoan nhỏ nhẹ của ông làm lay động những tiền đề thiêng liêng của cuộc sống”, Peeperkorn đáp. “Đàn ông thỏa mãn với ham muốn, đàn bà đòi hỏi và mong được thỏa mãn bằng ham muốn của đàn ông. Bởi thế đó là trách nhiệm thiêng liêng của chúng ta. Bởi thế mới có nỗi nhục nhã kinh khủng vì lãnh cảm, vì bất lực, vì không đánh thức nổi ham muốn ở người đàn bà. Ông uống một ly rượu đỏ với tôi nhé? Tôi phải uống. Tôi khát quá. Hôm nay tôi bị mất nước khá nhiều.”
“Xin cảm ơn, quý ngài Peeperkorn. Thông thường tôi không uống rượu giờ này, nhưng một ngụm chúc sức khỏe ông thì tôi lúc nào cũng sẵn sàng.”
“Vậy ông hãy dùng cái ly uống rượu. Ở đây chỉ có mỗi một cái. Tôi uống tạm bằng cốc uống nước. Tôi tin rằng món chất lỏng lên men này sẽ không giảm giá trị chỉ vì chúng ta dùng cốc vại...” Ông ta rót rượu bằng bàn tay thủ lĩnh hơn run, với sự giúp đỡ của khách, và dốc tuột rượu đỏ từ cái cốc uống nước không chân xuống cổ họng bức tượng bán thân của mình như thể đấy là nước lã.
“Thuốc bổ!” Ông ta bảo. “Ông không uống nữa? Xin phép ông, tôi phải thêm...” Lần này ông ta làm rớt chút rượu xuống giường. Trên chỗ tấm chăn lật lên loang ra một vệt đỏ thẫm. “Tôi nhắc lại”, ông ta nói với một ngón tay giơ cao như mũi giáo, tay kia run rẩy cầm ly rượu, “tôi nhắc lại, bởi thế đó là trách nhiệm của chúng ta, trách nhiệm tôn giáo trong tình cảm. Tình cảm, ông hiểu không, đó là năng lực đàn ông, để đánh thức sự sống. Sự sống thiêm thiếp ngủ. Nó cần được đánh thức trong lễ hợp cẩn mê say của những cảm xúc thần tiên. Bởi vì cảm xúc, ông bạn trẻ, là một điều thần thánh. Con người có cảm xúc sẽ trở nên thần thánh. Con người là cảm xúc của Chúa. Chúa tạo ra con người để thông qua họ mà cảm nhận. Con người chính là công cụ xúc cảm của Chúa, để Chúa qua đó hợp cẩn với sự sống được đánh thức đầy đam mê. Một khi con người thất bại trong tình cảm, đó sẽ là sự báng bổ ghê gớm đối với Chúa; đó là sự đầu hàng của năng lực đàn ông do Chúa tạo ra, là một thảm họa vũ trụ, một nỗi kinh hoàng không thể tả...” Ông ta uống một hơi.
“Xin cho phép tôi được đỡ ly rượu của ông, thưa quý ngài Peeperkorn”, Hans Castorp nói. “Theo dõi mạch tư duy của ông tôi học hỏi được rất nhiều. Ông phát triển ở đây một luận thuyết thần học, trong đó loài người được trao cho một chức năng cao quý nhất, mặc dù có lẽ hơi phiến diện và thuần tín ngưỡng. Trong quan điểm của ông, nếu tôi được phép nói điều này, có một sự khắc kỷ đến không khoan nhượng làm tôi hơi lo sợ. Xin ông thứ lỗi, tất nhiên mọi nghiêm khắc về tín ngưỡng đều làm cho những con người nhỏ bé tầm thường lo sợ. Tôi không hề có ý định sửa lưng ông, mà chỉ muốn dẫn chứng phát biểu của ông để quay trở lại những ‘thành kiến’ nhất định ông quan sát thấy trong cách đối xử của ông Settembrini với Madame. Tôi biết ông Settembrini đã từ lâu, nhiều ngày nhiều tháng nhiều năm rồi. Và tôi có thể đảm bảo với ông rằng, những thành kiến của ông ta, nếu như có thật, không bao giờ mang tính chất nhỏ nhen tiểu thị dân, nghĩ đến điều đó thôi cũng đủ nực cười rồi. Đó chỉ có thể là những thành kiến ở bình diện cao hơn, không mang tính cá nhân, những thành kiến thuộc về nguyên tắc giáo dục chung mà thú thực là ông Settembrini thường áp dụng để uốn nắn tính chất ‘học sinh cá biệt của trường đời’ của tôi - nhưng tôi lạc đề quá xa rồi. Đó là một đề tài quá phức tạp mà tôi không thể chỉ bằng vài lời...”
“Vậy ra ông yêu Madame?” Quý ngài đột ngột hỏi và quay gương mặt vương giả với đôi môi đau đớn tả tơi và cặp mắt nhỏ nhạt màu dưới những đường hoa văn trán về phía người đến thăm... Hans Castorp giật mình. Chàng lắp bắp:
“Tôi... Tức là... Đương nhiên là tôi ngưỡng mộ Madame Chauchat với tính cách...”
“Xin phép ông!” Peeperkorn nói, đưa tay ra phía trước làm cử chỉ ngăn lời chàng. “Xin ông cho phép tôi”, ông ta nói tiếp, sau khi đã dọn được chỗ cho những điều mình muốn nói, “cho phép tôi nhắc lại rằng tôi không hề có ý trách móc quý ông người Ý kia đã có khi nào vi phạm lề thói xã giao - tôi không trách móc bất kỳ ai, không một người nào cả. Nhưng tôi nhận thấy - lúc này đây tôi thực sự vui mừng - Tốt lắm, ông bạn trẻ. Tuyệt đối tốt đẹp. Tôi rất vui, đó là điều không thể nghi ngờ; tôi vui mừng thực sự. Đồng thời tôi tự bảo mình - Tôi tự nhủ: ông biết Madame trước tôi. Ông đã ở đây từ lần chữa bệnh trước của nàng. Thêm vào đó nàng là một phụ nữ với những phẩm chất tuyệt vời nhất, còn tôi chỉ là một ông lão già nua bệnh tật. Có thể - nàng đi mua sắm một mình, vì tôi khó ở, nàng xuống khu giải trí không có người tháp tùng - Không sao hết! Không có chuyện gì xảy ra! Chỉ có điều, không nghi ngờ gì nữa - Tôi có nên đổ lỗi cho - ông gọi là gì - những nguyên tắc sư phạm của Signor Settembrini, để trách ông - Xin ông hiểu đúng lời tôi...”
“Đúng từng lời, thưa quý ngài Peeperkorn. Ôi không, không phải tại ông Settembrini. Tôi hành xử hoàn toàn độc lập. Ngược lại là đằng khác, ông Settembrini thỉnh thoảng còn - Thưa quý ngài Peeperkorn, tôi thấy tấm chăn ông đắp bị dây một vết rượu đỏ. Để tôi - ở xứ tôi người ta rải muối lên đó lúc nó chưa khô...”
“Cái ấy không quan trọng”, Peeperkorn bảo, mắt không rời người khách.
Hans Castorp đổi sắc mặt.
“Ở đây”, chàng nói với nụ cười gượng gạo, “mọi sự đều khác thường. Tinh thần ngự trị vùng này, nếu tôi được phép nói thế, khác với truyền thống. Người bệnh luôn được ưu tiên, dù là đàn ông hay đàn bà. Thế nên các lề thói xã giao phải lui lại đằng sau. Lúc này ông thấy khó ở, thưa quý ngài Peeperkorn, một sự khó ở cấp tính, một sự khó ở tạm thời. Người bạn đồng hành của ông nếu so với ông thì tương đối khỏe mạnh. Nên tôi tin rằng Madame cũng tán thành để tôi ngồi đây với ông trong lúc bà ấy vắng mặt, tạm thời thay thế bà ấy - nếu như có thể gọi đó là thay thế, ha ha - mà không thay thế ông tháp tùng bà ấy xuống thung lũng. Làm sao tôi có thể nghĩ đến chuyện đóng vai người che chở cho bà bạn đồng hành của ông? Tôi không có danh chính ngôn thuận để làm điều đó, cũng không được ai ủy nhiệm. Tôi có thể khẳng định rằng mình là người rất biết tôn trọng luật pháp. Tóm lại, tôi thấy vị trí của tôi là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với hoàn cảnh chung, và phù hợp cả với mối thiện cảm rất chân thành tôi dành cho ông, thưa quý ngài Peeperkorn. Và như thế tôi tin rằng mình đã có một câu trả lời thỏa đáng cho câu hỏi của ông - nếu tôi không nhầm thì ông vừa đặt ra cho tôi một câu hỏi.”
“Trả lời khéo lắm”, Peeperkorn đáp. “Tôi lắng nghe, và dù không muốn cũng bị thuyết phục bởi những lời khôn ngoan nhỏ nhẹ của ông, ông bạn trẻ. Ông có một cái lưỡi dẻo quẹo, nó linh hoạt lượn qua mọi chướng ngại vật và gọt tròn mọi góc cạnh, làm trôi chảy mọi vấn đề. Chỉ có thỏa đáng - không. Câu trả lời của ông tôi thấy chưa thỏa đáng, mong ông thứ lỗi, nếu tôi làm ông thất vọng. ‘Khắc kỷ’, ông bạn thân mến, ông dùng cái từ này trong mối liên hệ với nhận định của tôi lúc nãy. Nhưng trong câu trả lời của ông cũng có một sự khắc kỷ nhất định, một sự cứng rắn và gò bó mà tôi thấy không phù hợp với bản chất con người ông, mặc dù nó còn bộc lộ ra trong cách đối xử của ông với một người khác. Điều đó không thoát khỏi mắt tôi. Đó là thái độ gượng gạo của ông những lần chúng ta cùng ăn uống hay dạo chơi, trong cách đối xử với Madame - ngoài ra không với một người nào khác nữa trong nhóm. Ông nợ tôi một lời giải thích - đó là một trách nhiệm, một nghĩa vụ của ông đối với tôi, ông bạn trẻ. Tôi không nhầm đâu. Quan sát đã nhiều lần khẳng định thắc mắc của tôi, chắc chắn những người khác cũng lấy làm lạ, trừ khi họ đã có trong tay lời giải thích cho hiện tượng này.”
Quý ngài nói năng một cách chuẩn xác và mạch lạc không ngờ trong buổi chiều nay, mặc dù có vẻ còn rất đừ vì cơn sốt ác tính. Gần như không thấy sự ngắt quãng như thường lệ. Nửa nằm nửa ngồi trong giường, đôi vai lực lưỡng và mái đầu vương giả quay hẳn về phía khách, ông ta duỗi dài một cánh tay trên tấm chăn, bàn tay thủ lĩnh lấm tấm tàn nhang nhô ra từ cuối ống tay áo len, khoanh hai ngón với những móng tay mũi giáo lại thành cái vòng tròn đặc biệt chính xác, đôi môi đau đớn te tua tuôn ra một dòng thác không dứt những ngôn từ sắc bén và lột tả, có thể nói là đầy hình tượng, với chữ r rung thật sâu trong cổ.
“Ông cười trừ”, ông ta tiếp tục, “ông lúc lắc đầu, mắt hấp háy, có vẻ như ông đang cố gắng theo đuổi những suy nghĩ không kết quả. Đồng thời không nghi ngờ gì nữa, rõ ràng ông biết tôi đang nói gì và đó là chuyện gì. Tôi không bảo rằng ông thỉnh thoảng không trao đổi vài lời với Madame hoặc không trả lời nàng khi tình thế bắt buộc. Nhưng tôi nhắc lại, ông làm việc đó một cách gò bó gượng gạo, nói đúng hơn là ông muốn tránh né một điều gì, nếu để ý người ta sẽ thấy là ông tránh dùng một cách xưng hô nhất định. Người ta có cảm tưởng như ông và Madame có một thỏa thuận ngầm nào đó, như thể hai người ăn nhầm cái gì hoặc đã cá cược với nhau đến nỗi ông phải nói trống không với nàng. Ông tránh một cách triệt để và không ngoại lệ một cách xưng hô nhất định. Ông không gọi Madame là ‘bà’!”
“Nhưng mà, thưa quý ngài Peeperkorn... Cá cược gì đâu...”
“Tôi xin lưu ý ông một điều có lẽ tự ông không nhận thấy - mặt ông đang tái nhợt đi chỉ trừ có đôi môi.”
Hans Castorp không dám ngẩng đầu lên. Chàng ngồi cúi gằm chăm chú quan sát vết rượu đỏ trên tấm chăn. ‘Hóa ra là thế!’ Chàng tự nhủ. ‘Ông ấy nhất định muốn dẫn dắt tới đó. Nhưng sợ rằng chính mình cũng đã góp phần tự đào huyệt chôn mình. Ở một mức độ nào đó chính mình đã tự khơi chuyện, giờ mình mới sáng mắt ra. Mặt mình tái đến thế thật sao? Có thể lắm, vì đã đến nước này thì chẳng còn gì để mất nữa. Không biết sự thể sẽ đi đến đâu đây. Mình có nên chối không? Có thể, nhưng mình không muốn. Trước mắt mình cứ im lặng và bám lấy cái vết máu, à vết rượu đỏ trên tấm chăn này.”
Cả người kia cũng lặng thinh. Sự im lặng nặng nề kéo dài khoảng hai hoặc ba phút - và cho thấy trong những hoàn cảnh nhất định cái đơn vị thời gian tí xíu này có thể giãn dài ra tới mức nào.
Pieter Peeperkorn là người lên tiếng nối tiếp câu chuyện.
“Vào buổi tối mà tôi có hân hạnh làm quen với ông”, ông ta mở đầu bằng giọng ngân nga trầm bổng như chuẩn bị kể một câu chuyện dài, “chúng ta đã có một bữa tiệc nhỏ, và sau khi ăn uống vui chơi thâu đêm, với tâm trạng hào hứng, tinh thần phấn khởi vô tư lự chúng ta đã khoác tay nhau về chỗ ngủ. Khi ấy, bên cửa phòng tôi ở chỗ này đây, lúc chia tay tôi nảy ra ý yêu cầu ông hôn lên trán người phụ nữ đã giới thiệu ông với tôi như là người quen cũ của cô ấy trong lần chữa bệnh trước trên này, để đánh dấu một cuộc vui đầy tình người. Ông thẳng tay vứt bỏ đề nghị của tôi với lời giải thích, ông coi việc trao đổi một nụ hôn trên trán với người bạn đồng hành của tôi là vô nghĩa. Ông không thể chối cãi rằng lời giải thích ấy bản thân nó cũng cần một lời giải thích, một lời giải thích cho đến giờ phút này ông vẫn còn nợ tôi. Bây giờ ông đã muốn trả món nợ ấy chưa?”
‘A, thế là ông ta cũng nhận ra’, Hans Castorp thầm nghĩ và càng chăm chú nhìn vết rượu đỏ, thậm chí còn dùng đầu ngón tay giữa cạo cạo một chỗ. ‘Thực ra lúc ấy mình muốn ông ta nhận ra, mình muốn mọi sự hai năm rõ mười, nếu không mình đã chẳng nói. Nhưng bây giờ? Tim mình sao nhảy nhót dữ thế này. Một cơn giận lôi đình sẽ giáng xuống đầu mình? Chắc mình cũng nên để ý xem nắm đấm ông ta ở đâu, có thể nó đang lơ lửng trên đầu mình rồi? Mình đã tự đâm đầu vào bẫy, bây giờ kẹt cứng trong một tình huống hết sức trớ trêu và đặc biệt hiểm nghèo!”
Thình lình chàng cảm thấy một bên cổ tay mình, bên phải, bị bàn tay Peeperkorn nắm chặt.
‘Bây giờ ông ấy tóm chặt tay mình!’ Chàng nghĩ. ‘Nhưng mà nực cười chưa, tại sao mình lại ngồi chịu trận như con chó cụp đuôi thế này! Mình có làm gì nên tội với ông ấy không? Không một mảy may. Đúng ra người đầu tiên bị thiệt hại là ông chồng ở Daghestan. Rồi đến người này người kia. Rồi đến mình. Ông ta đang là người giữ cúp, còn kêu ca cái nỗi gì? Nhưng sao tim mình lại nhảy lồng lên thế này? Đã đến lúc mình phải ngẩng đầu lên và nhìn thẳng vào gương mặt vương giả của ông ta, dù là với tất cả sự kính cẩn dành cho một nhân cách lớn!”
Và chàng làm thế. Gương mặt vương giả của nhân cách lớn ấy vàng khè, đôi mắt bắn ra tia nhìn bạc phếch dưới những nếp nhăn chụm lại trên trán, cặp môi te tua cay đắng. Họ nhìn xoáy vào mắt nhau, người đàn ông già vương giả và người đàn ông trẻ không có gì nổi bật, người này vẫn nắm chặt cổ tay người kia. Cuối cùng Peeperkorn lên tiếng giọng khẽ khàng:
“Ông là người tình của Clawdia, khi nàng ở đây lần trước.”
Hans Castorp để đầu gục xuống một lần nữa, nhưng lập tức ngẩng lên ngay và nói sau khi hít vào thật sâu:
“Thưa quý ngài Peeperkorn! Tôi không muốn nói dối ông một chút nào, và đang cố tìm cách tránh điều đó, nhưng không dễ. Tôi sẽ là một kẻ huênh hoang khoác lác nếu trả lời rằng đúng, và sẽ là một thằng nói dối nếu bảo điều đó là sai. Vậy đấy. Tôi đã cùng sống dưới mái nhà này một thời gian dài, rất dài, với Clawdia - xin lỗi, với người bạn đồng hành hiện nay của ông - mà không được làm quen với nàng theo đúng lề thói xã giao. Nhưng mọi tính chất xã giao đã bị loại bỏ hoàn toàn trong quan hệ giữa chúng tôi hay nói đúng hơn trong mối quan hệ của tôi đối với nàng, một mối quan hệ có nguồn gốc chìm sâu trong bóng tối. Trong thâm tâm tôi không bao giờ gọi Clawdia bằng gì khác ngoài tiếng em, và trong thực tế cũng vậy. Bởi vì buổi tối, khi tôi cuối cùng dám rũ bỏ hết những xiềng xích sư phạm mà chúng ta nhắc đến lúc nãy để viện một cái cớ gần gũi với tôi từ trước mà tiếp cận nàng, là một đêm hội hóa trang, một đêm vui vô trách nhiệm ai cũng giấu mình sau mặt nạ, tất cả mọi người gọi nhau là anh em, và trong suốt chiều dài cái đêm kỳ diệu ấy tiếng em thân thương, như trong mơ và vô trách nhiệm, đã đạt được trọn vẹn ý nghĩa. Đó cũng là buổi tối trước khi Clawdia ra đi.”
“Trọn vẹn ý nghĩa”, Peeperkorn lặp lại. “Ông đã rất thật thà...” Ông ta buông tay Hans Castorp ra và đưa cả hai bàn tay thủ lĩnh móng dài lên xoa khắp mặt, từ hốc mắt xuống má và cằm. Rồi ông ta chắp hai bàn tay lại trên tấm chăn vấy rượu đỏ và nghiêng đầu sang bên trái, bên phía khách ngồi, khiến người ta có thể nghĩ ông ta ngoảnh mặt đi.
“Tôi đã trả lời ông một cách trung thực hết mức có thể, thưa quý ngài Peeperkorn”, Hans Castorp bảo, “và cố gắng không nói nhiều quá cũng như ít quá. Trên hết tôi chỉ mong ông hiểu một điều rằng, người ta có toàn quyền tự do lựa chọn tính hay không tính cái đêm chia tay với tiếng em trọn vẹn ý nghĩa ấy - đó là một đêm nằm ngoài mọi thông lệ và gần như không có trong lịch, có thể coi là một đêm được tặng thêm, một đêm nhuận, đêm hai mươi chín tháng hai. Vậy nên tôi sẽ chỉ nói dối có một nửa nếu ngay từ đầu chối bay nhận định của ông.”
Peeperkorn không đáp.
“Tôi chọn con đường nói rõ với ông sự thật”, Hans Castorp bắt đầu lại sau một quãng nghỉ, “với rủi ro có thể đánh mất thiện cảm của ông, mặc dù, thực lòng mà nói, đó sẽ là một mất mát lớn đối với tôi, một đòn chí tử, một đòn thực sự chí tử, có thể đem so sánh với ngọn đòn giáng xuống đầu tôi khi Madame Chauchat trở về đây không phải một mình mà với tư cách người bạn đồng hành của ông. Tôi chấp nhận rủi ro này đến với mình, vì đã từ lâu tôi mong mỏi một sự minh bạch trong quan hệ giữa ông - người mà tôi thành tâm và đặc biệt ngưỡng mộ - và tôi. Tôi thấy như thế đẹp hơn và nhân đạo hơn - ông hẳn cũng biết đó là cái từ ưa thích của Clawdia và nàng hay nói như thế nào, bằng giọng nói hơi khàn kỳ diệu của nàng, kéo dài ra một cách say sưa - hơn sự im lặng và giả dối ngự trị từ trước đến nay; trái tim tôi giờ đây như được cất đi một gánh nặng, nhẹ nhõm hơn lúc trước rất nhiều.”
Không có câu trả lời.
“Còn một điều nữa, thưa quý ngài Peeperkorn”, Hans Castorp tiếp tục. “Còn một điều nữa tôi mong muốn được bộc bạch với ông, đó là kinh nghiệm của bản thân tôi về cảm giác hoang mang đầy đau khổ vì mối nghi ngờ dựa trên những phỏng đoán nửa vời trong chuyện này. Giờ đây ông đã biết ai là người được chia sẻ với Clawdia - trước khi mối quan hệ hiện tại được thiết lập, một mối quan hệ chỉ có kẻ nào thực sự điên khùng mới dám không tôn trọng - đã được sống, được kinh qua, được trải nghiệm với nàng một ngày hai mươi chín tháng hai. Bản thân tôi không bao giờ có được một câu trả lời minh bạch như thế. Tất nhiên tôi biết rằng ai ở vào hoàn cảnh của tôi cũng phải chấp nhận sự tồn tại của một quá khứ - ý tôi muốn nói là phải tính đến chuyện thế nào cũng đã có người đến trước mình - và tôi cũng biết rằng ông cố vấn cung đình Behrens có cái thú vẽ tranh sơn dầu nghiệp dư, như ông có thể cũng đã biết, sau nhiều buổi lao động nghệ thuật có người ngồi làm mẫu, ông ta đã hoàn thành một bức chân dung xuất sắc, với cách thể hiện làn da đạt đến nỗi - nói riêng giữa chúng ta với nhau - ai trông thấy cũng phải nghi ngờ. Điều đó đã hành hạ tôi rất nhiều và vẫn còn làm tôi đau đớn cho tới ngày hôm nay.”
“Ông vẫn còn yêu nàng?” Peeperkorn hỏi, không thay đổi tư thế, mặt vẫn ngoảnh đi. Gian phòng lớn chìm dần vào bóng tối nhá nhem.
“Xin ông thứ lỗi, thưa quý ngài Peeperkorn”, Hans Castorp trả lời, “nhưng tình cảm của tôi đối với ông, lòng kính trọng và ngưỡng mộ cao nhất tôi dành cho ông không cho phép tôi nói về tình cảm của mình đối với người bạn đồng hành của ông.”
“Và nàng”, Peeperkorn hỏi giọng âm thầm, “nàng cũng chia sẻ tình cảm của ông cho tới ngày hôm nay?”
“Tôi không nói rằng”, Hans Castorp đáp, “tôi không nói rằng đã có khi nào nàng chia sẻ tình cảm của tôi. Điều đó rất khó tin. Vừa rồi chúng ta đã động chạm sơ sơ đến điểm này về mặt lý thuyết, khi bàn về bản chất thụ động của phụ nữ trong tình yêu. Tôi chẳng có gì nhiều để mà hấp dẫn họ. Tôi chẳng có tầm cỡ lớn - xin ông cứ tự đánh giá! Nếu như trong quá khứ xảy ra một ngày hai mươi chín tháng hai, thì tôi tin rằng đó hoàn toàn và duy nhất nhờ bản năng thụ động của người đàn bà, họ có xu hướng ngả theo sự lựa chọn của người đàn ông - thú thật rằng tôi cũng biết mình huênh hoang một cách vô lối khi tự nhận là ‘đàn ông’; trong khi Clawdia rõ ràng là rất đàn bà.”
“Nàng đã đáp lại tình cảm của ông”, Peeperkorn lẩm bẩm bằng cặp môi tả tơi đau đớn.
“Trong tình cảm với ông nàng phục tùng hơn nhiều”, Hans Castorp bảo, “và rất có thể trong những trường hợp khác nữa. Ở vào hoàn cảnh này người ta phải...”
“Khoan!” Peeperkorn bảo, vẫn ngoảnh mặt đi, nhưng đưa một bàn tay chặn đứng người đối thoại. “Chúng ta nói thế sau lưng nàng là không được!”
“Không sao đâu, thưa quý ngài Peeperkorn. Tôi tin rằng về điểm này ông có thể hoàn toàn yên tâm. Chúng ta chỉ bàn về những điều nhân đạo - chữ ‘nhân đạo’ ở đây phải hiểu theo nghĩa tự do và thiên tài - xin ông thứ lỗi cho cách dùng từ khác thường của tôi, nhưng khi có dịp tôi còn phải quay lại nên đã tự nghĩ ra những khái niệm ấy.”
“Được, ông nói tiếp đi!” Peeperkorn nói khẽ.
Cả Hans Castorp cũng nói bằng giọng khẽ khàng, chàng ngồi mớm trên mép chiếc ghế đặt cạnh giường, hai tay kẹp giữa đầu gối, đầu cúi về phía người đàn ông cao tuổi bệ vệ.
“Bởi nàng có được sự thiên tài”, chàng bảo, “và người đàn ông sau dãy Caucasus - chắc ông cũng biết là nàng có một người chồng ở bên kia dãy Caucasus - chấp nhận cho nàng tự do và thiên tài, không rõ vì đần độn hay khôn ngoan, tôi không quen biết ông ta. Chỉ biết rằng ông ta làm thế là rất tốt, bởi vì bệnh tật đã mang lại cho nàng những thứ ấy, đó là nguyên tắc thiên tài của bệnh tật, và bất kỳ ai ở vào hoàn cảnh của chúng ta cũng nên noi gương ông ta mà đừng có oán trách gì, dù là về quá khứ hay về tương lai...”
“Ông không oán trách gì?” Peeperkorn hỏi và quay mặt về phía chàng... Gương mặt ông ta xám như tro trong ánh chiều nhập nhoạng, đôi mắt bạc màu mệt mỏi dưới những đường hoa văn cầu kỳ trên trán, cái miệng rộng với đôi môi tơi tả hơi hé mở như trên một cái mặt nạ bi kịch.
“Tôi không nghĩ đến bản thân”, Hans Castorp thành thật trả lời. “Tôi chỉ mong ông đừng oán trách, và đừng vì những sự kiện trong quá khứ mà lấy lại tình bạn ông dành cho tôi, thưa quý ngài Peeperkorn. Lúc này chuyện ấy đối với tôi là quan trọng nhất.”
“Chưa tính đến chuyện ấy thì nỗi đau khổ mà tôi vô tình gây ra cho ông chắc phải ghê gớm lắm.”
“Nếu đó là một câu hỏi”, Hans Castorp đáp, “và nếu tôi trả lời rằng đúng, thì điều đó không có nghĩa là tôi không biết giá trị của lợi thế lớn được làm quen với ông, chỉ vì lợi thế ấy gắn liền với nỗi thất vọng mà ông nhắc tới.”
“Cảm ơn, ông bạn trẻ, rất cảm ơn ông. Tôi rất biết đánh giá sự thành thật trong những lời nhỏ nhẹ của ông. Nhưng nếu bỏ qua sự quen biết giữa chúng ta...”
“Khó mà bỏ qua được điều đó”, Hans Castorp bảo, “và tôi cũng không cần bỏ qua điều đó để có thể thành thật trả lời khẳng định câu hỏi vừa rồi của ông. Việc một nhân cách lớn tháp tùng Clawdia trở lại đây tất nhiên làm tăng gấp bội hậu quả tai hại và phức tạp của cái sự kiện bản thân nó đã là một thảm họa đối với tôi, đó là chuyện Clawdia trở về với sự tháp tùng của một người đàn ông khác. Thực tế ấy đã làm khổ tôi không ít và vẫn còn làm khổ tôi cho tới tận bây giờ, điều đó tôi không chối, và tôi phải chủ động tìm kiếm sức mạnh ở khía cạnh tích cực của vấn đề, tức là ở lòng ngưỡng mộ chân thành của tôi đối với ông, thưa quý ngài Peeperkorn, mặc dù phải thú thật rằng trong đó cũng có một âm mưu nho nhỏ nhằm trả thù người bạn đồng hành của ông, vì ai cũng biết phụ nữ không muốn những người tình của mình kết bạn với nhau.”
“Có thế thật”, Peeperkorn bảo và đưa tay vuốt từ miệng xuống cằm để giấu nụ cười, như thể sợ Madame Chauchat nhìn thấy. Hans Castorp cũng mỉm cười kín đáo, và hai kẻ đồng lõa gật gù nhìn nhau.
“Sự trả thù nho nhỏ này”, Hans Castorp tiếp tục, “cuối cùng tôi được hưởng, vì về phần tôi quả thật tôi có một vài lý do để mà oán trách - không phải oán trách Clawdia hay oán trách ông, thưa quý ngài Peeperkorn, mà là oán trách chung cuộc đời và số phận tôi; hôm nay trong bầu không khí liêu trai của bóng chiều chập choạng, hân hạnh chiếm được lòng tin cậy của ông, tôi xin cố gắng dùng vài lời thô thiển thử diễn giải về điều đó.”
“Xin ông cứ tự nhiên”, Peeperkorn lịch sự đáp, và Hans Castorp kể:
“Tôi đã ở trên này một thời gian rất dài, thưa quý ngài Peeperkorn, nhiều năm nhiều tháng đã trôi qua - tôi không biết chính xác là bao lâu, nhưng đó là những năm tháng cuộc đời, nên tôi mới nhắc đến hai chữ ‘cuộc đời’, còn về ‘số phận’ thì đến lúc tôi sẽ trình bày. Đầu tiên tôi chỉ định đến thăm anh họ tôi, một quân nhân trung thành và dũng cảm, nhưng điều đó cũng chẳng giúp được gì cho anh ấy, anh ấy chết đi bỏ lại tôi ở trên này, và tôi ở lại cho tới giờ. Tôi không phải là quân nhân, tôi có một cái nghề dân sự, như ông có thể cũng đã nghe nói đến, một nghề thiết thực và được trọng vọng, một nghề như người ta nói còn có tác động liên kết các dân tộc lại với nhau. Nhưng tôi chưa bao giờ tha thiết với cái nghề ấy, phải thú thật là như vậy, vì những lý do tôi chỉ có thể nói rằng chìm sâu trong bóng tối: chúng nằm trong màn đêm bí ẩn cùng với cội nguồn của tình cảm tôi dành cho người bạn đồng hành của ông - tôi đặc biệt dùng cách gọi ấy để chứng tỏ mình không bao giờ nghĩ đến chuyện thay đổi tình trạng hiện nay - tình cảm của tôi với Clawdia Chauchat và tiếng “em” tôi dùng để gọi nàng, tôi chưa bao giờ chối, đã có từ khi đôi mắt nàng lần đầu gặp mắt tôi và làm tôi say đắm, một sự say đắm phi lý trí, ông hiểu không. Vì yêu nàng tôi đã cãi lời ông Settembrini ở lì trên này, tuân theo một nguyên tắc phi lý trí, nguyên tắc thiên tài của bệnh tật, thực ra tôi đã cúi đầu tuân phục nó từ xửa từ xưa, từ hồi nào tới giờ rồi.
Vậy là tôi ở lại đây - tôi không biết chính xác là bao lâu nữa, tôi đã quên mất thời gian và đã cắt đứt mọi liên hệ với cuộc sống, với những người thân và với nghề nghiệp và tất cả tương lai triển vọng của tôi ở dưới đồng bằng. Khi Clawdia ra đi tôi đã ở lại đợi nàng, đợi hoài đợi mãi trên này, đến nỗi giờ đây tôi đã trở thành một kẻ bỏ đi đối với đồng bằng và trong mắt những người thân chẳng khác gì đã chết. Đó là điều tôi muốn ám chỉ khi nhắc đến ‘số phận’ và cho rằng mình có lý do để mà oán trách. Có lần tôi đọc một câu chuyện - không, tôi xem trong nhà hát thì đúng hơn, câu chuyện nói về số phận của một chàng trai trẻ - một quân nhân, như anh họ tôi - say mê một cô gái Di gan xinh đẹp. Cô ta đẹp lắm, với một bông hoa cài sau tai, với bản tính hoang dại và cuồng nhiệt; và cô ta làm chàng trai trẻ kia say đắm đến nỗi anh ta hoàn toàn lầm đường lạc lối, chàng hiến dâng tất cả cho nàng, chàng đào ngũ, theo nàng nhập bọn với dân buôn lậu và nói chung đánh mất danh dự về mọi mặt. Khi chàng chẳng còn gì nữa thì cô ta bỏ rơi chàng để đi theo một tay dũng sĩ đấu bò tót, một kẻ ưa vũ lực và có giọng nam trung tuyệt vời. Câu chuyện kết thúc ở chỗ chàng lính trẻ, mặt tái xanh tái tử, áo mở phanh, dùng dao đâm chết cô nàng trước cửa rạp xiếc, một kết cục có thể nói gần như do chính cô ta gây ra. Một câu chuyện khá là vô nghĩa. Tại sao tự nhiên tôi lại nhớ đến nó nhỉ?”
Quý ngài Peeperkorn khi nghe đến tiếng “dao” hơi nhổm dậy trên giường, ông ta nhích sang bên, quay nhanh về phía khách và soi mói nhìn vào mắt chàng. Rồi ông ta chọn một tư thế dễ chịu hơn, chống người xuống một bên cùi tay và cất tiếng nói:
“Ông bạn trẻ, tôi đã nghe, và bây giờ đã có một cái nhìn toàn cảnh. Cho phép tôi dựa trên câu chuyện của ông đưa ra một lời đề nghị chân thành! Nếu như tóc tôi chưa bạc trắng và tôi không nằm bẹp trên giường vì sốt rét thế này thì ông đã thấy tôi sẵn sàng mặt đối mặt, vũ khí cầm tay, đem danh dự ra đền bù cho những đau khổ mà tôi vô tình gây ra cho ông cũng như chịu trách nhiệm về những lỗi lầm của người bạn đồng hành của tôi theo cách ấy. Đúng thế, thưa quý ông - ông sẽ thấy tôi rất sẵn sàng. Nhưng trong tình trạng hiện nay, xin ông cho phép tôi đưa ra một đề nghị khác. Đó là đề nghị sau đây. Tôi còn nhớ trong một phút ngẫu hứng ngay khi chúng ta mới làm quen với nhau - tôi còn nhớ rõ lắm, mặc dù lúc ấy tôi đã chếnh choáng hơi men - vậy là lúc ấy, cảm động vì bản chất chân thực của ông, trong một khoảnh khắc tôi đã có ý định kết nghĩa anh em với ông, nhưng sau đó tôi không thực hiện vì e bước đi ấy hơi quá hấp tấp. Tốt lắm, hôm nay tôi nhắc lại điều này để quay trở lại với dự định ấy và tuyên bố biến nó thành hiện thực. Ông bạn trẻ, tôi tuyên bố, chúng ta là anh em. Ông có nói đến tiếng em với trọn vẹn ý nghĩa - cả cách xưng hô anh em giữa chúng ta từ nay cũng sẽ trọn vẹn ý nghĩa, ý nghĩa của tình huynh đệ. Tuổi già sức yếu ngăn cản tôi không đền bù được cho ông bằng vũ khí, tôi xin đền bù dưới hình thức khác, dưới hình thức liên minh huynh đệ, như người ta thường làm để chống lại phe thứ ba, chống lại thế giới, chống lại một kẻ thù chung; chỉ có điều chúng ta kết nghĩa vì tình cảm chung với một người. Ông hãy cầm lấy ly rượu, ông bạn trẻ, tôi sẽ nâng cái cốc uống nước của tôi, thô kệch nhưng không vì thế mà làm giảm giá trị của rượu...”
Và ông ta rót rượu ra hai cái ly cọc cạch bằng bàn tay thủ lĩnh run rẩy, Hans Castorp vội vàng kính cẩn giúp một tay.
“Nâng ly!” Peeperkorn ra lệnh. “Ông hãy vòng tay qua tay tôi! Và uống thế này! Uống cạn một hơi! - Hoàn hảo, ông bạn trẻ. Dứt điểm. Bắt tay tôi đi. Em hài lòng chứ?”
“Không lời nào tả nổi, thưa quý ngài Peeperkorn”, Hans Castorp nói. Chàng hơi gặp khó khăn khi phải uống một hơi cạn ly rượu, và còn bận dùng khăn tay chấm chấm đầu gối, chỗ bị rượu sánh ra làm ướt. “Tôi muốn nói rằng tôi cảm thấy hạnh phúc vô biên, và vẫn chưa kịp hiểu hết mọi diễn biến - tất cả cứ như trong một giấc mơ. Thật là một vinh dự to lớn đối với tôi - tôi không biết làm thế nào để xứng đáng với nó - tôi hoàn toàn thụ động trong chuyện này. Sẽ không có gì là lạ nếu ban đầu tôi chưa dám liều lĩnh sử dụng cách xưng hô mới, hoặc giả vấp váp ngượng ngùng khi nói - nhất là khi có mặt Clawdia, vì nàng, theo tâm lý đàn bà, chắc không hài lòng với liên minh của chúng ta đâu...”
“Cái ấy để tôi lo”, Peeperkorn đáp, “còn những cái khác luyện nhiều sẽ thành quen! Giờ thì đi đi, anh bạn trẻ! Chúng ta chia tay thôi! Trời đã tối hẳn, màn đêm đã sập xuống hoàn toàn, người yêu của chúng ta có thể trở về bất cứ lúc nào, một sự chạm trán bây giờ có lẽ sẽ làm các em khó xử.”
“Tạm biệt, quý ngài Peeperkorn!” Hans Castorp nói và đứng dậy. “Ông thấy đấy, tôi đã cố gắng vượt qua nỗi ngần ngại chính đáng của mình để tập cách xưng hô táo bạo hơn. Đúng thế, trời đã tối đen rồi! Tôi có thể tưởng tượng ra ông Settembrini thình lình xuất hiện và bật đèn lên - đó là cách khai sáng của ông ta, để lý trí và đạo đức tràn vào chiếm chỗ. Tạm biệt, hẹn ngày mai! Tôi chia tay với tâm trạng lâng lâng sung sướng, trong mơ tôi cũng không thể hình dung có được ngày hôm nay! Chúc sớm bình phục! Giờ anh sẽ có ít nhất ba ngày không sốt, để đáp ứng tất cả các đòi hỏi của cuộc sống. Em vui như thể được ở vào địa vị của anh. Chúc ngủ ngon!”
Núi Thần Núi Thần - Thomas Mann Núi Thần