Căn Hầm Tối epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 43
ần đầu tiên trong nhiều tháng trời, cô đã ngủ một mạch suốt đêm. Cô cảm thấy khoan khoái khi tỉnh giấc vào buổi sáng, mặc dù vẫn có đôi chút lo lắng về ngày đang tới. Cô chưa từng cảm thấy bồn chồn như vậy kể từ lúc bắt đầu làm cảnh sát. Thời điểm mọi chuyện trở nên rùm beng cũng chính là những ngày thú vị đối với cô, như thế ca làm kéo dài hàng giờ của cô chỉ còn tính bằng phút. Nhưng việc ngồi cả ngày tại tòa án lại gợi lên trong cô cái cảm giác giống hệt như trong phiên tòa nhiều năm trước.
Cô cầm lấy tờ báo Người đưa tin quận Cascade trong sảnh nhà nghỉ. Trên trang nhất có đăng bài về buổi tái thẩm, cùng với đó là những bức ảnh Tracy bước vào tòa án. Thật may mắn, không hề có bức ảnh cô và Dan hôn nhau bên ngoài bệnh viện thú y hay bức ảnh hai người bước vào nhà nghỉ cùng nhau.
Finlay gặp cô ở bãi đỗ xe của tòa án như đã hẹn trước. Anh giúp cô băng qua đám đông phóng viên để đi vào trong phòng xử án. Tracy không thể không cảm thấy Finlay có vẻ hãnh diện khi đóng vai trò vệ sĩ riêng của cô.
Kim đồng hồ chỉ gần chín giờ. Tracy cho rằng hôm nay khán phòng sẽ vắng hơn hôm qua do tính hiếu kì của một vài người đã nguội. Thời tiết ngày một xấu đi cũng là rào cản đối với tất cả mọi người, chỉ trừ những kẻ gan lì nhất. Tuy nhiên khi cánh cửa tòa án mở ra, những hàng ghế lại nhanh chóng chật kín. Thậm chí ngày hôm nay còn đông hơn hôm qua, tất cả là nhờ vào sự hấp dẫn của những bài viết về ngày đầu tiên của phiên xử. Tracy thấy có thêm bốn đài truyền thông nữa có mặt.
House lại được áp giải vào trong phòng xử án giữa những sĩ quan cai ngục. Lần này, khi hắn ngồi vào bàn để cảnh sát có thể tháo còng tay cho hắn, hắn không nhìn về phía ông chú của mình nữa. Hắn nhìn thẳng vào Tracy. Ánh mắt hắn làm cô nổi da gà, giống hệt hai mươi năm về trước. Chỉ có điều, lần này cô không có ý định né tránh ánh mắt đó, kể cả khi môi hắn nhếch lên thành điệu cười nhăn nhở quen thuộc. Giờ cô đã biết ánh mắt và điệu cười đó chỉ là vẻ đánh lừa bên ngoài, mục đích làm cho cô cảm thấy không thoải mái. Tên House đó – dù đã được rèn giữa trong tù – vẫn chỉ là một kẻ thiếu thốn tình cảm, một đứa trẻ lạc lõng đã bắt cóc Annabelle Bovine chỉ vì hắn không chịu được ý nghĩ cô ấy bỏ hắn mà đi.
House ngưng nhìn chằm chằm vào cô khi thư kí tòa bước vào trong phòng và ra lệnh cho mọi người đứng dậy. Thẩm phán Meyers quay trở lại ghế ngồi của ông, và ngày thứ hai của phiên xử bắt đầu.
“Anh O’Leary, anh có thể tiếp tục.” Meyers nói.
Dan cho gọi Bob Fitzsimmons lên bục. Hai mươi năm trước, Fitzsimmons nằm trong ban lãnh đạo của công ty đối tác đã kí hợp đồng với bang Washington để xây dựng ba đập thủy điện trên sông Cascade, bao gồm cả Cascade Falls. Dù hiện tại đã hơn bảy mươi tuổi và đã nghỉ hưu nhưng trông Fitzsimmons như thể vừa bước ra từ cuộc họp hội đồng của một công ty nằm trong danh sách năm trăm công ty lớn nhất vậy. Ông có mái tóc bạc bóng mượt, mặc bộ com-lê kẻ sọc và đeo cà-vạt màu tím.
Theo thứ tự, O’Leary để cho Fitzsimmons giải thích về quy trình xin giấy tờ cần thiết từ liên bang và địa phương để có thể xây dựng đập thủy điện. Quy trình đó đã được nhắc đến trên báo chí ở địa phương.
“Về mặt tự nhiên, con đập sẽ chặn nước của dòng sông.” Fitzsimmons nói, hai chân vắt tréo. “Anh sẽ cần có một nguồn trữ nước trong trường hợp hạn hán.”
“Và đâu là nguồn trữ nước sẵn có nhất cho đập Cascade Falls?” O’Leary hỏi.
“Hồ Cascade.” Fitzsimmons đáp.
O’Leary sử dụng hai sơ đồ để so sánh kích thước của hồ Cascade trước và sau khi khu vực bị ngập. Khu vực đó bao gồm cả vị trí mà Calloway đã đánh dấu X, nơi hài cốt của Sarah mới được tìm thấy gần đây.
“Khu vực đó bị ngập từ bao giờ?” O’Leary hỏi tiếp.
“Ngày 12 tháng 10 năm 1993.” Fitzsimmons nói.
“Đó có phải là thông tin được công khai không?” O’Leary hỏi.
Fitzsimmons gật đầu. “Chúng tôi chắc chắn rằng nó đã được đăng lên khắp các báo đài ở địa phương. Đó là chỉ thị của bang và chúng tôi đã làm nhiều hơn cả những gì bang yêu cầu.”
“Tại sao lại như vậy?”
“Bởi vì người ta vẫn hay săn bắn và leo núi ở khu vực đó. Anh sẽ không muốn có bất kỳ ai mắc kẹt ngoài ấy khi nước tràn tới.”
O’Leary ngồi xuống. Clark tiến lại gần. “Thưa ông Fitzsimmons, công ty của ông có làm điều gì để đảm bảo rằng ‘không có ai mắc kẹt ngoài ấy khi nước tràn tới’ như ông đã nói không?”
“Tôi không hiểu câu hỏi.”
“Ông có thuê nhân viên an ninh và chặn đường không cho người ta đi vào khu vực đó không?”
“Chúng tôi đã làm việc đó vài ngày trước khi nhà máy điện đi vào hoạt động.”
“Vậy là sẽ rất khó khăn để một ai đó đi vào khu vực này, phải không?”
“Đó chính là ý định của chúng tôi.”
“Có nhân viên an ninh nào của ông báo cáo rằng đã nhìn thấy ai đó đi vào khu vực đó không?”
“Theo tôi nhớ thì không.”
“Không có bất kỳ ai vác một cái xác đi trên đường chứ?”
Dan phản đối. “Thưa quý tòa, công tố viên đang tự khai báo.”
“Thưa quý tòa, đó chính là ý mà tôi đang ám chỉ.” Clark phản pháo.
Meyers giơ một tay lên. “Tôi sẽ là người quyết định việc phản đối có hiệu lực hay không. Việc phản đối bị bác bỏ.”
“Ông có nhận được báo cáo nào về việc có người mang theo một cái xác trên đường không?” Clark hỏi.
“Không.” Fitzsimmons đáp.
Clark ngồi xuống.
O’Leary lại đứng lên. “Khu vực này rộng bao nhiêu?” Anh chỉ vào chỗ bị ngập trên sơ đồ.
Fitzsimmons cau mày. “Theo trí nhớ của tôi thì mặt hồ rộng khoảng hai ngàn năm trăm mẫu, lúc nhà máy đi vào hoạt động là gần bốn ngàn năm trăm.”
“Có bao nhiêu con đường mòn băng qua khu đó?”
Fitzsimmons cười và lắc đầu. “Nhiều đến nỗi tôi không thể biết hết được.”
“Ông đã cho chặn đường và canh gác trên đường cái, nhưng ông không thể kiểm soát tất cả các lối vào và lối ra, phải không?”
“Không có cách nào để chặn hết các ngả đường.” Fitzsimmons đáp.
O’Leary xếp Vern Downie sau Fitzsimmons. Đó là người mà James Crosswhite đã nhờ đích danh để dẫn đầu đội tìm kiếm Sarah trên vùng đồi núi Cedar Grove, bởi vì Vern biết rõ về địa hình khu đó hơn bất kỳ ai. Tracy và các bạn của cô thường nói đùa rằng, với mái tóc lưa thưa cùng khuôn mặt xương xẩu, có lẽ Vern sẽ trở thành ngôi sao trong một bộ phim kinh dị, đặc biệt là khi âm lượng của ông hiếm khi to hơn mức thì thầm.
Hai mươi năm trôi qua, trông Vern như đã từ bỏ hoàn toàn việc cạo râu. Bộ râu bạc của ông chỉ cách đôi mắt có vài phân, che kín cổ, kéo dài đến tận ngực. Ông mặc chiếc quần bò màu xanh sáng, áo sơ-mi kẻ, đeo chiếc thắt lưng có khóa tròn bằng bạc và đi giày ống. Đối với Vern thì đây chính là bộ trang phục để đi lễ nhà thờ. Vợ ông đang ngồi trên hàng ghế đầu tiên để hỗ trợ ông về mặt tinh thần, cũng giống như ở phiên tòa lần trước. Tracy biết rằng Vern không thoải mái khi ở giữa một đám đông, đặc biệt là khi phải nói trước nhiều người.
“Thưa ông Downie, ông sẽ phải nói to cho mọi người cùng nghe.” Meyers cảnh báo sau khi nghe Vern thì thầm về tên và địa chỉ của mình. Nhận ra được sự lo lắng khi đứng trước đám đông của Vern, Dan trấn tĩnh ông bằng vài câu hỏi ngoài lề trước khi đi vào nội dung chính.
“Các ông đã tìm kiếm trong bao lâu?” O’Leary hỏi.
Vern dẩu môi và đưa tay cấu chúng. Mặt ông nhăn lại khi ông suy nghĩ. “Trong tuần đầu tiên, ngày nào chúng tôi cũng tìm ở khu vực đó.” Ông nói. “Sau đó, chúng tôi giảm xuống còn vài lần một tuần, thường là sau khi đi làm về. Chúng tôi tiếp tục thêm vài tuần như thế cho tới khi khu vực đó bị ngập.”
“Ban đầu, có bao nhiêu người tham gia cuộc tìm kiếm?”
Vern nhìn về phía khán phòng. “Có bao nhiêu người trong căn phòng này?”
Dan bỏ ngỏ câu trả lời. Đó là giây phút nhẹ nhàng đầu tiên trong hai hôm nay.
Clark đứng dậy và đi về phía bục nhân chứng. Như lần trước, ông ta chỉ hỏi ngắn gọn:
“Vern, khu đồi đó rộng bao nhiêu mẫu?”
“Ôi, Vance, tôi cũng không biết.”
“Nơi đó rất rộng phải không?”
“Đúng thế, nó rất rộng.”
“Và rất gồ ghề?”
“Tùy theo góc nhìn của anh. Có những chỗ rất dốc và nhiều cây. Nhưng chắc chắn là nó rất rậm rạp.”
“Có rất nhiều chỗ để chôn một cái xác mà không ai có thể tìm thấy?”
“Tôi cho là như vậy.” Ông nói, liếc nhìn về phía Edmund House.
“Các ông có sử dụng chó nghiệp vụ không?”
“Tôi nhớ rằng họ nói ở Nam California có chó nghiệp vụ nhưng không thể chở chúng đến bằng máy bay được.”
“Theo kế hoạch tìm kiếm một cách có hệ thống của các ông, Vern, ông có tin rằng các ông đã kiểm tra từng mét vuông trên vùng đồi đó không?”
“Chúng tôi đã cố gắng hết sức.”
“Các ông có kiểm tra hết từng mét vuông không?”
“Từng mét vuông? Sao có thể biết chắc chắn được. Chỗ đấy quá rộng. Tôi đoán chắc là không.”
Sau Downie, Dan cho gọi Ryan Hagen, nhân viên bán hàng phụ tùng ô tô. Hagen bước lên bục. Trông anh ta như tăng thêm hơn chục cân so với buổi sáng thứ Bảy mà Tracy bất ngờ viếng thăm. Hai má của Hagen chảy xệ bên trên cổ áo, mái tóc của anh ta càng lúc càng ngắn. Hagen vẫn giữ được nước da ửng hồng cùng cái mũi đỏ của một người thưởng thức cocktail mỗi ngày.
Hagen cười khúc khích khi Dan hỏi rằng anh ta có giữ hóa đơn thanh toán hay bất kỳ tài liệu nào khác chứng minh cho chuyến đi công tác vào ngày 21 tháng 8 năm 1993 không.
“Cho dù là công ty nào thì nó hẳn cũng ngừng hoạt động từ lâu rồi. Giờ việc mua bán đều được thực hiện qua Internet. Đi tiếp thị giờ đã xưa như Trái Đất.” Lúc Tracy nhìn anh ta, cô nghĩ rằng dù không còn là nhân viên bán hàng nhưng nụ cười và nét ứng xử quyến rũ vẫn còn sót lại trong con người Hagen.
Hagen cũng không thể nói được anh ta đã xem chương trình tin tức nào.
“Hai mươi năm trước, anh đã khai báo rằng anh đang xem trận đấu của đội Mariners.”
“Tôi vẫn luôn hâm mộ họ.” Hagen nói.
“Vậy chắc anh biết đội Mariners chưa bao giờ lọt vào giải World Series.”
“Tôi là một người lạc quan.” Những người trong khán phòng cười theo Hagen.
“Vào năm 1993, chuyện đó không xảy ra, đúng không?”
Hagen ngừng lại giây lát. “Không.”
“Trên thực tế, họ đã kết thúc giải ở vị trí thứ tư và không lọt vào vòng tranh vé vớt.”
“Có lẽ tôi sẽ phải tin lời anh. Trí nhớ của tôi không tốt đến mức đó.”
“Điều đó có nghĩa là trận đấu cuối cùng trong mùa giải của họ diễn ra vào hôm Chủ nhật, ngày mồng Ba tháng Mười, thua bảy-hai trước đội Minnesota Twins.”
Nụ cười trên môi Hagen héo đi. “Tôi cũng không nhớ điều đó.”
“Đội Mariners không thi đấu vào cuối tháng Mười năm 1993, thời điểm mà anh tự nhận rằng mình đã nhìn thấy bản tin, phải không?”
Hagen vẫn cố cười, nhưng lúc này nụ cười đã trở nên gượng gạo. “Có thể đó là một đội khác.” Anh ta nói.
Dan bỏ mặc câu trả lời đó trước khi chuyển chủ đề. “Anh Hagen, anh có đưa xe đến bảo dưỡng ở bất kỳ trạm bảo dưỡng nào tại Cedar Grove không?”
“Tôi không nhớ.” Hagen nói. “Tôi luôn phải di chuyển trên một lãnh thổ rộng lớn.”
“Đó là điều tất yếu của một người bán hàng phải không?” Dan nói.
“Tôi cho rằng như vậy.” Anh ta nói, dù rằng giờ anh ta không còn làm việc đó nữa.
“Để xem tôi có thể giúp gì cho anh.” Dan bê một chiếc hộp Bekins lên bàn. Anh bắt đầu lấy từ trong đó ra các tài liệu và giấy tờ. Hagen trông có vẻ bối rối. Cô nhận thấy ánh mắt anh ta nhìn chằm chằm về phía Roy Calloway đang ngồi ở khán phòng. Dan cầm tập hồ sơ mà Tracy đã lấy được từ tủ đựng tài liệu trong ga-ra của Harley Holt rồi di chuyển đến vị trí bên cạnh chiếc bục, chắn ngang ánh mắt đang nhìn nhau của Hagen và Calloway. Trong hồ sơ có lưu trữ những đơn đặt hàng mà Harley Holt đã mua từ công ty của Hagen.
Dan hỏi: “Anh có nhớ gì về Harley Holt, chủ trạm Bảo dưỡng và Sửa chữa xe Cedar Grove không?”
“Đã rất lâu rồi.”
Dan bắt đầu lật qua những trang giấy trong tập hồ sơ. “Trên thực tế thì anh ghé qua trạm của ông Holt khá thường xuyên, khoảng một, hai tháng một lần.”
Hagen lại mỉm cười, nhưng mặt anh ta đỏ bừng, chân mày lấm tấm mồ hôi. “Nếu như điều đó được ghi chép trong sổ sách, tôi sẽ không ngụy biện gì với anh hết.”
“Vậy là anh có ở lại Cedar Grove vài lần, bao gồm trong khoảng mùa hè và mùa thu năm 1993, phải không?”
“Tôi sẽ phải kiểm tra lại lịch của mình.” Hagen nói.
“Tôi đã làm thế hộ anh rồi.” Dan nói. “Tôi có những bản sao hóa đơn mua hàng có chữ kí của cả anh và Harley trên đó. Ngày ghi trên những tờ hóa đơn này trùng với ngày trên lịch mà anh đã đến trạm Bảo dưỡng và Sửa chữa xe Cedar Grove.”
“Vâng, vậy tôi đoán rằng tôi có làm vậy.” Giọng của Hagen bắt đầu mất tự tin.
“Vậy tôi đang thắc mắc, thưa anh Hagen, trong số những lần anh ghé qua chỗ của Harley, chủ đề Sarah bị mất tích có được đem ra bàn luận không?”
Hagen với tay lấy cốc nước đặt bên cạnh ghế nhấp một ngụm rồi lại đặt nó lên bục. “Anh có thể nhắc lại câu hỏi được không?”
“Trong số những lần anh ghé qua chỗ của Harley Holt, việc Sarah bị mất tích có được đem ra bàn luận không?”
“Anh biết đấy, tôi cũng không chắc.”
“Nó là một tin nóng ở Cedar Grove, phải không?”
“Tôi… tôi không rõ. Tôi cho rằng đúng là như vậy.”
“Họ có ghi ngay trên bảng tin ở đường quốc lộ rằng sẽ trao thưởng mười ngàn đô-la, phải không?”
“Tôi không nhận bất kỳ khoản tiền thưởng nào.”
“Tôi không hề nói rằng anh đã nhận.” Dan rút ra một tập văn bản khác và giả vờ như thể vừa đọc nó vừa hỏi. “Điều tôi muốn hỏi anh là, dù thông tin Sarah Crosswhite bị mất tích là tin nóng trên khắp quận Cascade, một trong những khu vực buôn bán của anh, vậy mà anh lại không thể nhớ được rằng anh và ông Holt có bàn luận về nó hay không ư?”
Hagen đằng hắng. “Tôi cho rằng chúng tôi có thể đã bàn luận về chuyện đó, anh biết đấy, sơ sơ. Chúng tôi không nhắc đến chi tiết. Đó là tất cả những gì tôi có thể nhớ được.”
“Vậy anh có biết đến vụ Sarah mất tích trước cả khi anh xem bản tin, đúng không?”
“Chương trình tin tức có thể đã gợi lại trí nhớ cho tôi. Hoặc có thể tôi đã nói chuyện với Harley về vụ này. Đó có thể là những gì đã xảy ra. Tôi không chắc chắn nữa.”
Dan vừa nói vừa tiếp tục giơ lên nhiều tờ giấy khác. “Chủ đề Sarah bị mất tích không được đem ra bàn luận vào tháng Tám, tháng Chín hay đầu tháng Mười ư?”
“Tôi không thể nhớ chính xác được. Tôi đã cố nói với anh như vậy. Có thể chuyện là như thế. Tôi bảo anh rồi, hai mươi năm là một khoảng thời gian dài.”
“Trong khoảng thời gian anh ghé qua Cedar Grove, anh có bình luận về Edmund House với bất kỳ ai không?”
“Edmund House? Không, tôi khá chắc chắn rằng tên anh ta không được nhắc tới.”
“Khá chắc chắn?”
“Tôi không nhớ mình đã từng nghe thấy tên anh ta ở bất kỳ đâu.”
Dan tiếp tục cầm một tập tài liệu khác từ chỗ hồ sơ rồi giơ lên. “Ông Harley có bao giờ kể cho anh nghe trạm của ông ấy đã đặt hàng các phụ tùng cho chiếc xe của Parker House, cũng như đã bảo dưỡng một chiếc xe tải Chevy màu đỏ không?”
Clark đứng dậy. “Thưa quý tòa, nếu như anh O’Leary đang hỏi những câu hỏi ghi trong hồ sơ thì tôi yêu cầu anh ta đi thẳng vào bằng chứng thay vì tiếp tục bài tập kiểm tra trí nhớ của anh Hagen về những cuộc gặp có thể hoặc chưa từng xảy ra hai mươi năm trước.”
“Bác bỏ lời phản đối.” Meyers nói.
Tracy biết rằng Dan đang diễn. Cô đã không tìm thấy giấy tờ nào chứng tỏ rằng Harley có đặt hàng phụ tùng ô tô từ Hagen để sửa chiếc Chevy của Parker House. Tuy nhiên, vào lúc này, Hagen hoàn toàn không dám phản đối những lời nói dối của Dan. Khuôn mặt của tay bán hàng giờ đỏ lựng, như thể có ai đó đã đặt một cái bếp lò dưới ghế ngồi của anh ta.
“Tôi tin rằng chúng tôi có bàn luận về nó.” Hagen nói, vắt chân lên rồi lại duỗi chân ra. “Tôi nhớ ra rồi. Tôi nhớ đã nói cho Harley biết rằng tôi nhìn thấy một chiếc xe Chevy màu đỏ hoặc tương tự như vậy trên đường vào tối hôm đó. Nhờ thế mà tôi nhớ lại được mọi chuyện.”
“Tôi nghĩ rằng anh nhớ lại mọi chuyện bởi vì anh xem một chương trình tin tức sau trận đấu của đội Mariners, và xe tải Chevy là loại xe ưa thích của anh?”
“Có thể là nhờ cả hai. Đó cũng là loại xe tải ưa thích của tôi, và khi Harley kể rằng, anh biết đấy, Edmund House lái một chiếc như vậy, tôi đã nhớ ra.”
Dan dừng lại. Hai bên lông mày của Thẩm phán Meyers nhíu lại khi ông nhìn xuống Hagen.
Rồi Dan tiến đến cạnh ghế nhân chứng. “Vậy là anh và Harley có nhắc đến cái tên Edmund House.” Anh nói.
Mắt Hagen mở to. Lần này anh ta còn chẳng thể nặn ra được một nụ cười, kể cả là một nụ cười đau khổ. “Tôi vừa nói Edmund à? Ý tôi là Parker. Phải rồi. Parker House. Đó là xe tải của ông ta, phải không?”
Dan không hề trả lời, chỉ quay sang Clark. “Nhân chứng của ông đây!”
Căn Hầm Tối Căn Hầm Tối - Robert Dugoni Căn Hầm Tối