Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Snowden
ắt,” một bác sĩ nói.
“Anh cắt đi,” một bác sĩ khác nói.
“Đừng có cắt,” Yossarian nói, giọng khàn đặc, nặng nề.
“Xem ai đang xen vào này,” một trong hai bác sĩ than phiền. “Lại nói leo các cụ. Chúng ta sẽ mổ hay là không đây?”
“Gã không cần mổ,” người kia cằn nhằn. “Nó chỉ là một vết thương nhỏ. Tất cả những gì chúng ta cần làm là cầm máu, sát trùng và khâu vài mũi.”
“Nhưng tôi chưa bao giờ có dịp nào được mổ cả. Dao mổ là cái nào nhỉ? Có phải cái này không?”
“Không, cái kia mới là dao mổ. Thôi được, tới luôn đi, thích thì cắt luôn. Rạch một đường đi vậy.”
“Như thế này à?”
“Không phải ở đó, đầu đất!”
“Đừng có rạch,” Yossarian nói, nhận thức được qua làn sương mù che phủ tri giác lúc này đã dần tan đi rằng có hai người lạ đang chuẩn bị cắt vào người y.
“Lại nói leo các cụ,” tay bác sĩ đầu tiên mỉa mai càm ràm. “Anh ta sẽ huyên thuyên như thế suốt trong lúc tôi mổ anh ta à?”
“Anh không thể mổ anh ta nếu như tôi chưa cho anh ta nhập viện,” một viên thư ký nói.
“Anh không thể cho anh ta nhập viện nếu như tôi chưa cho phép,” một trung tá béo ú, thô lỗ với hàng ria và bộ mặt hồng hào bự chảng đang cúi xuống rất gần Yossarian, người gã tỏa nhiệt hầm hập như đáy một chiếc chảo rán khổng lồ. “Anh sinh ra ở đâu vậy?”
Viên trung tá béo ú thô lỗ này làm Yossarian nhớ tới viên trung tá béo ú thô lỗ đã tra khảo cha tuyên úy và kết tội gã ta. Yossarian chằm chằm nhìn gã qua một lớp màng trong suốt. Mùi hương giả tạo của formaldehyde và cồn xức thơm bầu không khí.
“Trên chiến trường,” y đáp.
“Không, không. Anh sinh ra ở bang nào vậy?”
“Ở tình trạng(88) vô tội.”
“Không, không, anh không hiểu.”
“Để tôi xử lý anh ta cho,” tiếng thúc giục của một gã mặt lưỡi rìu, mắt trũng sâu cay độc và miệng mỏng dính hiểm ác. “Anh tự cho mình thông minh hơn người phải không?” gã hỏi Yossarian.
“Anh ta đang mê sảng,” một bác sĩ nói. “Sao ông không cho chúng tôi đem anh ta vào trong và chữa trị cho anh ta?”
“Nếu anh ta đang mê sảng thì cứ để anh ta ở ngay tại đây. Anh ta có thể buột miệng nói vài câu thú tội.”
“Nhưng anh ta vẫn đang chảy máu rất nhiều. Ông không thấy sao? Anh ta thậm chí có thể chết.”
“Thế thì tốt cho anh ta!”
“Như thế là đáng đời thằng khốn thối tha đó,” viên trung tá béo ú, thô lỗ nói. “Được rồi, John, nói ra đi. Chúng tôi muốn biết sự thật.”
“Mọi người gọi tôi là Yo-Yo.”
“Chúng tôi muốn anh hợp tác với chúng tôi, Yo-Yo. Chúng tôi là bạn anh và chúng tôi muốn anh tin tưởng chúng tôi. Chúng tôi ở đây là để giúp anh. Chúng tôi sẽ không hại anh.”
“Thử thọc ngón tay vào vết thương của anh ta và móc ra coi,” gã mặt rìu đề xuất.
Yossarian để cho hai mi mắt nhắm lại và hy vọng họ sẽ tưởng y đã bất tỉnh.
“Anh ta lại ngất đi rồi,” y nghe tiếng một bác sĩ nói. “Chúng ta cần phải chữa trị ngay không thì sẽ là quá muộn. Anh ta có thể sẽ chết, thật đấy.”
“Thôi được rồi, nhận anh ta đi vậy. Hy vọng thằng khốn này chết quách luôn đi.”
“Các anh không thể chữa trị cho anh ta nếu như tôi chưa cho anh ta nhập viện,” viên thư ký nói.
Yossarian nhắm tịt mắt giả chết trong khi viên thư ký cho y nhập viện bằng cách sột soạt với vài tờ giấy, rồi sau đó y được từ từ đẩy vào một căn phòng ngột ngạt, tối tăm với những đèn rọi thiêu đốt trên trần, ở đó mùi formaldehyde và cồn thậm chí còn nặng hơn. Cái mùi hôi dễ chịu và ngập ngụa đó rất độc hại. Y cũng ngửi được cả mùi ê te, và nghe lanh canh tiếng thủy tinh. Y lắng nghe hơi thở nặng nề của hai bác sĩ với niềm vui kín đáo và tự đại. Y vui vì họ tưởng rằng y đang bất tỉnh và không biết y đang lắng nghe. Y thấy tất cả đều có vẻ rất ngớ ngẩn cho đến khi một trong hai bác sĩ nói,
“Này, anh có nghĩ là chúng ta nên cứu sống anh ta không? Họ có thể tức giận nếu như chúng ta làm vậy.”
“Mình cứ mổ đã,” bác sĩ kia nói. “Mổ phanh anh ta ra và giải quyết dứt điểm các vấn đề luôn thể. Anh ta luôn than phiền về gan của mình. Gan của anh ta nhìn khá nhỏ khi chụp X-quang.”
“Đó là lá lách của anh ta, đồ ngu. Đây mới là gan.”
“Không, không phải. Đó là tim đấy chứ. Tôi cá với anh một hào rằng đây là gan. Tôi sẽ mổ để xem nó là gì. Có cần rửa tay trước khi mổ không nhỉ?”
“Đừng có mổ,” Yossarian nói, mắt mở ra và cố ngồi dậy.
“Lại nói leo các cụ,” một trong hai bác sĩ phẫn nộ nhạo báng. “Không thể cho anh ta câm miệng lại được à?”
“Chúng ta có thể gây mê toàn thân cho anh ta luôn. Ê te ở ngay đây này.”
“Đừng gây mê,” Yossarian nói.
“Lại nói leo các cụ,” một bác sĩ nói.
“Gây mê toàn thân và cho anh ta gục hẳn đi. Sau đó chúng ta có thể làm gì với anh ta tùy thích.”
Họ đã gây mê toàn thân và cho Yossarian gục hẳn. Y tỉnh dậy miệng khô không khốc trong một phòng riêng, chìm trong hơi ê te. Trung tá Korn ở đó bên cạnh giường, thong thả ngồi ghế chờ trong bộ quần áo rộng thùng thình vải len màu xanh xám. Một nụ cười nhạt nhẽo và lạnh lùng treo trên khuôn mặt da nâu xồm xoàm râu khắp hai bên má, và gã đang nhẹ nhàng đánh bóng cái đầu hói của mình bằng hai lòng bàn tay. Gã nhô người về trước cười khúc khích khi thấy Yossarian tỉnh dậy, và đảm bảo với y trong một giọng dịu dàng hết mức có thể rằng giao kèo giữa bọn họ vẫn còn giá trị nếu Yossarian không chết. Yossarian nôn mửa, và trung tá đứng bật dậy ngay khi có tiếng ho và bỏ chạy trong kinh tởm, thành ra có vẻ như đúng là trong cái rủi cũng có cái may, Yossarian suy ngẫm trong lúc lại trôi dần vào hôn mê ngột ngạt. Chợt một bàn tay với những ngón tay sắc nhọn lắc cho y tỉnh. Y trở mình, mở mắt và nhìn thấy một người xa lạ mặt đầy ác ý đang cau có bĩu môi nhìn y và oang oang nói, “Chúng tôi đã tóm được bạn của anh rồi, anh bạn ạ. Chúng tôi đã tóm được bạn của anh.”
Yossarian chợt lạnh toát, choáng váng và túa mồ hôi ròng ròng.
“Ai là bạn của tôi?” y hỏi và thấy cha tuyên úy đang ngồi ở đúng chỗ trung tá Korn vừa ngồi.
“Chắc là tôi đấy,” cha tuyên úy trả lời.
Nhưng Yossarian không nghe thấy gã nói và nhắm mắt lại. Ai đó đã đưa nước cho y uống rồi rón rén đi ra. Y ngủ một giấc và tỉnh dậy rất dễ chịu cho đến khi y quay đầu lại để mỉm cười với cha tuyên úy thì lại nhìn thấy Aarfy ở đó. Yossarian rên lên và nhăn mặt lại khó chịu tột độ khi Aarfy cười như nắc nẻ và hỏi han sức khỏe y. Aarfy có vẻ lúng túng khi Yossarian hỏi tại sao gã không ở trong tù. Yossarian nhắm mắt lại để cho gã biến đi. Khi y lại mở mắt ra, Aarfy đã đi và cha tuyên úy lại ở đó. Yossarian phá lên cười khi vừa hé mắt trông thấy nụ cười rộng ngoác vui vẻ của cha tuyên úy, đoạn hỏi gã có cái quái gì mà hạnh phúc vậy.
“Tôi hạnh phúc vì anh,” cha tuyên úy đáp, vô tư và vui sướng. “Tôi nghe nói ở liên đoàn rằng anh đã bị thương nặng và rằng nếu qua khỏi thì anh cũng sẽ phải về nhà. Trung tá Korn nói rằng tình trạng của anh rất nguy kịch. Nhưng tôi vừa mới biết qua một trong các bác sĩ rằng vết thương của anh rất nhẹ và rằng anh sẽ có thể xuất viện trong một hoặc hai ngày tới. Không có gì nguy hiểm cả. Như vậy không tệ chút nào.”
Yossarian lắng nghe những gì cha tuyên úy nói và thở phào nhẹ nhõm. “Thế thì tốt.”
“Ừ,” cha tuyên úy nói, thoáng ửng hồng do một niềm vui quái đản chợt luồn vào má gã. “Ừ, thế thì tốt.”
Yossarian bật cười, và nhớ lại lần đầu nói chuyện với cha tuyên úy. “Anh biết đấy, lần đầu tôi gặp anh cũng là ở trong bệnh viện. Và giờ tôi lại nằm viện. Có vẻ như gần đây lần duy nhất tôi nhìn thấy anh là ở trong bệnh viện nhỉ. Anh trốn ở đâu vậy?”
Cha tuyên úy nhún vai. “Tôi đã cầu nguyện rất nhiều,” gã thú nhận. “Tôi cố ở trong lều của mình nhiều hết mức có thể, tôi cầu nguyện mỗi khi trung sĩ Whitcomb rời đi để cho anh ta không bắt gặp.”
“Thế có ích gì không?”
“Nó giúp tâm trí tôi đỡ phiền muộn,” cha tuyên úy trả lời và nhún vai thêm lần nữa. “Và nó giúp cho tôi có việc gì đó để làm.”
“Ồ thế thì tốt, phải không?”
“Ừ,” cha tuyên úy háo hức gật đầu, như thể ý nghĩ đó chưa từng xuất hiện trong đầu gã. “Ừ, như vậy chắc là tốt.” Gã bất thình lình nhỏm người về trước, ngượng nghịu bày tỏ sự quan tâm. “Yossarian, anh có cần tôi giúp gì trong lúc anh ở đây không, có cần tôi lấy gì cho anh không?”
Yossarian vui vẻ trêu chọc gã. “Chẳng hạn như đồ chơi, kẹo hay kẹo cao su à?”
Cha tuyên úy lại đỏ mặt, toét miệng cười ngượng ngập và rồi trở nên rất nghiêm túc. “Ví dụ như sách, hay bất cứ thứ gì khác. Giá mà tôi làm được gì đó để cho anh hạnh phúc. Anh biết đấy, Yossarian, tất cả chúng tôi đều rất tự hào về anh.”
“Tự hào?”
“Ừ, dĩ nhiên. Vì anh đã mạo hiểm mạng sống để chặn tên sát thủ phát xít đó lại. Đó là một việc rất cao quý.”
“Tên sát thủ phát xít nào cơ?”
“Cái gã tới định ám sát đại tá Cathcart và trung tá Korn ấy. Và anh đã cứu mạng họ. Hắn đã có thể đâm chết anh lúc anh vật lộn với hắn chỗ ban công. Thật may mắn là anh vẫn còn sống!”
Yossarian mỉa mai cười thầm khi y hiểu ra vấn đề. “Làm gì có sát thủ phát xít nào.”
“Tất nhiên phải có chứ. Trung tá Korn đã nói vậy.”
“Đó là cô bạn gái của Nately. Và cô ta truy lùng tôi, chứ không phải đại tá Cathcart và trung tá Korn. Lúc nào cô ta cũng cố giết tôi kể từ khi tôi báo cho cô ta biết tin Nately đã chết.”
“Nhưng sao có thể như thế được?” cha tuyên úy phản đối, cáu tiết và bối rối. “Cả đại tá Cathcart và trung tá Korn đều chứng kiến hắn chạy đi. Biên bản chính thức nói rằng anh đã ngăn chặn được sát thủ phát xít ám sát họ.”
“Đừng tin vào biên bản chính thức,” Yossarian cộc lốc khuyên. “Đó là một phần trong giao kèo.”
“Giao kèo gì cơ?”
“Giao kèo của tôi với đại tá Cathcart và trung tá Korn. Họ sẽ cho tôi về nhà với tư thế một anh hùng vĩ đại nếu tôi nói những điều tốt đẹp về họ với mọi người và không bao giờ chỉ trích họ với bất cứ ai về việc họ đã bắt mọi người ở đây tiếp tục bay ra trận.”
Cha tuyên úy thất kinh, gần như đứng bật dậy khỏi ghế. Gã sửng cồ vì thất vọng đến mức muốn gây gổ. “Nhưng thế thì quá tệ! Đó là một giao kèo đáng xấu hổ, tai tiếng, phải không?”
“Ghê tởm,” Yossarian trả lời, mắt đờ đẫn nhìn lên trần nhà, cả đầu chỉ có phần gáy đang tựa lên gối. “Tôi nghĩ ‘ghê tởm’ chính là từ mà chúng tôi đã chọn.”
“Thế thì sao anh lại đồng ý?”
“Hoặc là thế hoặc là ra tòa án binh, cha tuyên úy ạ.”
“Ôi,” cha tuyên úy thốt lên với vẻ thương xót không che giấu, mu bàn tay che miệng. Gã khó nhọc từ từ ngồi xuống ghế. “Lẽ ra tôi không nên nói gì.”
“Họ sẽ nhốt tôi vào tù cùng với một đám tội phạm.”
“Tất nhiên rồi. Thế thì anh phải làm bất cứ cái gì anh cho là đúng.” Cha tuyên úy tự gật đầu như thể đang tự tranh cãi với bản thân rồi chìm vào lặng im xấu hổ.
“Đừng lo,” sau một hồi, Yossarian nói với một tiếng cười buồn bã. “Tôi không định làm vậy đâu.”
“Nhưng anh phải làm,” cha tuyên úy khăng khăng nói, người nhổm về phía trước đầy lo lắng. “Thực sự là anh phải làm. Tôi không có quyền gây ảnh hưởng tới anh. Tôi thực sự không có quyền nói bất cứ điều gì.”
“Anh đâu có gây ảnh hưởng gì đến tôi.” Yossarian nặng nề trở nghiêng và lắc đầu giễu cợt mà không hề cười. “Chúa ơi, Cha tuyên úy ạ! Anh có thể tưởng tượng ra đó là một tội lỗi lớn đến nhường nào không? Cứu mạng đại tá Cathcart! Đó là một tội mà tôi không bao giờ muốn mắc phải.”
Cha tuyên úy thận trọng quay lại chủ đề chính. “Thay vào đó thì anh sẽ làm gì? Anh không thể để bọn họ đưa anh vào tù được.”
“Tôi sẽ tiếp tục bay ra trận. Hoặc thậm chí tôi sẽ đào ngũ thật và để cho họ tóm được tôi. Có thể họ sẽ tóm được.”
“Và rồi họ sẽ cho anh vào tù. Mà anh thì không muốn vào tù.”
“Thế thì chắc là tôi sẽ tiếp tục bay ra trận cho đến khi chiến tranh kết thúc. Phải có ai đó trong số chúng ta còn sống sót chứ.”
“Nhưng anh có thể sẽ bị giết.”
“Vậy thì chắc là tôi sẽ không tiếp tục bay ra trận nữa.”
“Thế anh sẽ làm gì?”
“Tôi không biết.”
“Hay anh lại để cho họ đưa anh về nhà?”
“Tôi không biết nữa. Ngoài trời có nóng không? Ở trong này bức quá.”
“Ngoài trời lạnh lắm,” cha tuyên úy nói.
“Anh biết không,” Yossarian nhớ lại, “có một chuyện rất buồn cười đã xảy ra - cũng có thể là tôi đã mơ thấy nó. Tôi nghĩ lúc trước đã có một người lạ tới đây và bảo tôi rằng ông ta đã tóm được bạn tôi. Không biết có phải tôi đã tưởng tượng ra chuyện đó không.”
“Tôi không nghĩ vậy đâu,” cha tuyên úy nói. “Lần trước khi tôi ghé thàm thì anh đã bắt đầu kể với tôi về ông ta rồi.”
“Vậy thì đúng là ông ta đã nói vậy. ‘Chúng tôi đã tóm được bạn anh rồi, anh bạn ạ,’ ông ta nói như thế. ‘Chúng tôi đã tóm được bạn anh.’ Tôi chưa từng thấy ai có vẻ hiểm ác như ông ta. Tôi tự hỏi bạn tôi là ai đây.”
“Tôi muốn nghĩ rằng tôi là bạn anh, Yossarian ạ,” cha tuyên úy nói chân thành và khiêm nhường. “Và tất nhiên là họ đã tóm được tôi. Họ đã nắm được tẩy tôi, đã theo dõi tôi, và họ đã tóm được tôi ở đúng chỗ họ muốn. Đó là điều mà họ đã nói với tôi trong lúc thẩm vấn.”
“Không, tôi không cho rằng ông ta có ý ám chỉ anh là bạn tôi,” Yossarian quả quyết. “Tôi nghĩ đó phải là ai đấy như Nately hoặc Dunbar. Anh biết đấy, ai đó đã bị giết trong chiến tranh, như Clevinger, Orr, Dobbs, Kid Sampson hoặc McWatt.” Yossarian thở dốc một hơi hoảng hốt và lắc đầu. “Tôi vừa mới nhận ra,” y thốt lên. “Họ đã tóm được tất cả bạn bè tôi, có phải không? Chỉ còn lại tôi và Hungry Joe.” Y gai người khiếp sợ khi thấy mặt cha tuyên úy trở nên tái mét. “Cha tuyên úy, có chuyện gì vậy?”
“Hungry Joe cũng bị giết rồi.”
“Chúa ơi, không! Khi chiến đấu à?”
“Anh ta chết trong giấc ngủ khi đang mơ. Họ đã tìm thấy một con mèo ở trên mặt anh ta.”
“Thằng khốn tội nghiệp,” Yossarian nói và bắt đầu khóc, giấu nước mắt vào hõm vai. Cha tuyên úy bỏ đi mà không nói lời tạm biệt. Yossarian ăn một chút rồi lăn ra ngủ. Một bàn tay lay y dậy vào giữa đêm. Y mở mắt ra và thấy một người đàn ông gầy gò, độc ác mặc quần pyjamas khoác áo choàng tắm dành cho bệnh nhân đang nhìn y với nụ cười nhếch mép ác ý và giễu cợt.
“Chúng tôi đã tóm được bạn anh, anh bạn ạ. Chúng tôi đã tóm được bạn anh.”
Yossarian mất hết can đảm. “Ông đang nói cái quái gì vậy?” giọng y van vỉ, chớm hoảng loạn.
“Rồi anh sẽ biết, anh bạn ạ. Rồi anh sẽ biết.”
Yossarian nhào tới toan tóm lấy họng kẻ đang hành hạ y bằng một tay, nhưng người đàn ông đó đã rút êm ra khỏi tầm với và biến mất vào hành lang cùng một tiếng cười ác hiểm. Yossarian nằm đó run rẩy, tim nện thình thịch. Người y đầm đìa mồ hôi lạnh. Y tự hỏi bạn mình là ai. Bệnh viện lúc đó rất tối và hoàn toàn tĩnh lặng. Y không có đồng hồ nên không biết lúc đó là mấy giờ. Y đã hoàn toàn tỉnh giấc, và biết mình đã trở thành tù nhân của một trong những đêm mất ngủ trên giường dằng dặc mãi mới tan thành ánh bình minh. Một cơn ớn lạnh rần rật luồn lên khắp chân y. Y cảm thấy lạnh, và y nhớ tới Snowden, người chưa từng là bạn y mà chỉ là một thằng nhóc quen biết sơ sơ đang bị thương rất nặng và lạnh run tới chết trong một vũng nắng vàng rực đang hắt tung tóe vào mặt y xuyên qua ụ súng khi y trườn qua khoang chứa bom vào đuôi máy bay sau lời cầu xin qua điện đàm của Dobbs rằng y hãy tới giúp tay súng, làm ơn giúp tay súng. Vừa trông thấy cảnh rùng rợn ấy dạ dày của Yossarian đã muốn lộn tùng phèo; y ghê sợ tột độ, đến mức phải kinh hoảng mất một lúc rồi mới có thể lại tiếp tục khom xuống, chống tay và đầu gối trườn trong đường ống nhỏ hẹp bên trên khoang chứa bom bên hộp các tông niêm kín đựng đồ cứu thương. Snowden nằm ngửa thẳng cẳng trên sàn, vẫn gánh trên mình cồng kềnh áo giáp, mũ sắt, bộ dây dù và nàng Mae West(89) của cậu ta. Cách đó không xa trên sàn, là tay súng nhỏ con phụ trách phần đuôi máy bay đang sóng sượt bất tỉnh, vết thương mà Yossarian nhìn thấy là ở mé ngoài đùi Snowden, có vẻ như to và sâu như một quả bóng bầu dục. Không thể biết được chỗ nào là những mảnh rách đẫm máu của bộ áo giáp, chỗ nào là da thịt tan nát của cậu ta.
Không có morphine trong hộp đựng đồ sơ cứu, không có gì bảo vệ Snowden khỏi đau đớn ngoại trừ chính cơn choáng váng tê liệt do chính vết thương toang hoác đó gây ra. Mười hai ống tiêm đựng sẵn morphine đã bị chôm mất và thay vào đó là một mảnh giấy ghi rõ dòng chữ nắn nót: “Điều gì tốt cho hãng M&M thì cũng tốt cho đất nước. Milo Minderbinder.” Yossarian chửi rủa Milo và lấy ra hai viên aspirin nhưng cặp môi xám ngoét đã không thể hớp lấy được. Y vội vàng buộc ga rô vòng quanh đùi Snowden bởi vì y không nghĩ ra phải làm gì khác trong những khoảnh khắc hỗn loạn đầu tiên ấy khi tri giác của y đang rối bời, khi y biết mình phải hành động thật thành thạo ngay lập tức nhưng cũng sợ rằng mình sẽ vỡ tan ra thành từng mảnh. Snowden trân trối quan sát y, không nói gì cả. Không có động mạch nào đang phụt máu, nhưng Yossarian vẫn giả vờ mình đang tập trung hoàn toàn vào việc băng ga rô, bởi vì đó là việc y biết làm. Y làm ra vẻ thiện nghệ và bình tĩnh, cảm thấy ánh mắt lờ đờ của Snowden dõi theo. Y khôi phục được khả năng kiểm soát bản thân trước khi băng ga rô xong, và ngay lập tức nới lỏng ga rô để giảm nguy cơ hoại tử. Giờ thì đầu óc y hoàn toàn tỉnh táo, và y biết mình cần phải làm tiếp như thế nào. Y lục trong hộp đồ sơ cứu để tìm kéo.
“Tôi lạnh,” Snowden nói khẽ. “Tôi lạnh.”
“Cậu sẽ ổn thôi, nhóc,” Yossarian nhoẻn miệng cười động viên. “Cậu sẽ ổn thôi.”
“Tôi lạnh,” Snowden lại nói tiếp, giọng yếu ớt, như một đứa trẻ. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào,” Yossarian nói, bởi vì y không biết nói gì khác. “Ngoan nào, ngoan nào.”
“Tôi lạnh,” Snowden thút thít. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào. Ngoan nào, ngoan nào.”
Yossarian sợ hãi và trở nên khẩn trương hơn. Cuối cùng y cũng tìm được một chiếc kéo và bắt đầu cẩn thận cắt bộ áo chiến đấu liền quần của Snowden từ trên cao bên trên vết thương, chỉ dưới đũng quần một chút. Y cắt thẳng một mạch qua lớp vải gabardine dày bao quanh đùi. Tay súng nhỏ con ở đuôi máy bay tỉnh dậy trong khi Yossarian đang dùng kéo cắt, nhìn thấy y, và lại ngất đi. Snowden nghẹo đầu sang bên kia để có thể nhìn Yossarian trực diện. Một tia sáng mờ đục, trống rỗng ánh lên trong cặp mắt yếu ớt và vô hồn của cậu ta. Yossarian, bối rối, không nhìn cậu nữa. Y bắt đầu cắt dọc theo đường may xuống dưới, vết thương đang ngoác miệng - có phải y vừa trông thấy một ống xương nhầy nhụa chạy sâu trong dòng máu tươi đỏ thắm dưới những sợi cơ kỳ cục đang co giật? - đang rỉ máu ra thành nhiều dòng nhỏ, như tuyết đang tan trên mái hiên, chỉ có điều màu đỏ và dữ dội hơn, vừa rơi xuống đã bắt đầu đông lại. Yossarian cứ cắt tận ra đằng sau và xé toạc lớp vải khỏi cái chân bị thương nghiêm trọng. Miếng vải rơi bịch xuống sàn, để lộ ra gấu một ống quần lót vải kaki đang thấm máu như thể khát nước. Yossarian sững sờ trước cái cẳng chân trần èo uột và kinh tởm của Snowden, trước sự gớm ghiếc, thiếu sinh khí và bí hiểm của những sợi lông vàng mềm, mịn, xoăn tít trên ống đồng và bắp chân kỳ lạ, trắng nhợt của cậu ta. Vết thương, lúc này y đã thấy, không to như một quả bóng bầu dục nữa, mà dài rộng cỡ bàn tay y, quá be bét và sâu không thể kiểm tra cho kỹ được. Những thớ cơ trầy trụa bên trong rần rật như một miếng thịt bò xay sống. Một hơi thở phào nhẹ nhõm chầm chậm thoát khỏi miệng Yossarian khi y thấy Snowden không có nguy cơ tử vong. Máu đã đông lại ở bên trong vết thương, và giờ chỉ cần băng bó và giữ cho cậu ta bình tĩnh cho đến khi máy bay hạ cánh nữa là được. Y lấy ra mấy gói sulfanilamide. Snowden run lên khi Yossarian nhẹ nhàng đẩy cho cậu ta nằm hơi nghiêng lên.
“Tôi có làm cậu đau không?”
“Tôi lạnh,” Snowden thút thít. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào,” Yossarian nói. “Ngoan nào, ngoan nào.”
“Tôi lạnh. Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào. Ngoan nào, ngoan nào.”
“Tôi bắt đầu thấy đau,” Snowden chợt kêu lên, mặt nhăn nhó ai oán và khẩn thiết.
Yossarian lại cuống cuồng lục trong hộp đồ sơ cứu để tìm morphine và lại chỉ thấy mảnh giấy của Milo và một lọ aspirin. Y chửi rủa Milo và đưa hai viên aspirin cho Snowden. Không có nước. Snowden từ chối aspirin, đầu lắc nhẹ tới mức gần như không thấy. Mặt cậu tái nhợt và xanh xao. Yossarian tháo mũ chống đạn ra và đặt đầu cậu xuống sàn.
“Tôi lạnh,” Snowden rên lên với cặp mắt gần như đã nhắm. “Tôi lạnh.”
Quanh miệng cậu đã tím ngắt. Yossarian chết điếng. Y không biết có nên giật dây dù của Snowden cho dù bung ra rồi lấy vải dù đắp kín cho cậu ta hay không. Trong máy bay rất nóng. Đột nhiên Snowden mở mắt ngước lên và hé với y một nụ cười nhợt nhạt đầy hợp tác và xoay hông một chút để Yossarian có thể rắc sulfanilamide lên vết thương. Yossarian làm tiếp với niềm lạc quan và tự tin trở lại. Máy bay giật lắc mạnh khi rơi vào một túi không khí, và y giật mình nhớ ra mình đã để quên dù ở tận khoang mũi máy bay. Nhớ vậy thôi chứ chẳng để làm gì cả. Y trút hết túi giấy này đến túi giấy khác cái thứ bột trắng tinh lấp lánh vào vết thương máu me hình oval cho đến khi không nhìn thấy chút gì màu đỏ ở đó nữa, rồi hít vào một hơi thật sâu đầy lo sợ, cắn chặt răng lại lấy thêm dũng khí đưa bàn tay trần chạm vào mớ thịt bầy nhầy đang khô dần để nhét nó ngược trở lại vào vết thương. Y nhanh chóng phủ lên toàn bộ vết thương lại bằng một miếng gạc to rồi giật tay ra. Đoạn y mỉm cười bồn chồn khi thử thách ngắn ngủi này đã kết thúc. Tiếp xúc trực tiếp với da thịt chết thực ra không quá ghê tởm như y hình dung, và y có cớ để tiếp tục sờ lên vết thương hết lần này đến lần khác để tự thuyết phục bản thân về lòng dũng cảm của chính mình.
Tiếp theo, y cố định miếng gạc bằng một cuộn băng quấn quanh. Đến vòng thứ hai quanh đùi Snowden, y phát hiện ra một lỗ nhỏ ở trên phần thịt, chỗ mảnh đạn đã xuyên qua - một vết thương nhăn nhúm hình tròn cỡ đồng xu với rìa tím ngắt và tâm đen sì vì máu khô đóng cục. Yossarian lại rắc đầy sulfanilamide lên nó và tiếp tục băng quanh đùi cho đến khi cố định được miếng gạc. Sau đó y dùng kéo cắt cuộn băng, và xé đôi theo chiều dọc đầu cuối băng. Y buộc chặt tất cả lại bằng một nút kép gọn gàng. Băng như vậy rất tốt, y biết điều đó, và y ngồi xổm xuống đầy tự hào, quẹt mồ hôi trên trán, và bất giác thân thiện cười toe với Snowden.
“Tôi lạnh,” Snowden rên lên. “Tôi lạnh.”
“Cậu sẽ ổn thôi, nhóc,” Yossarian vỗ nhẹ lên cánh tay cậu ta để trấn an. “Mọi thứ đã được kiểm soát rồi.”
Snowden yếu ớt lắc đầu. “Tôi lạnh,” cậu ta lặp lại, mắt đờ đẫn và đục mờ như đá. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào,” Yossarian nói, cảm giác hồ nghi và dao động đang tăng dần. “Ngoan nào, ngoan nào. Chỉ lát nữa thôi chúng ta sẽ trở lại mặt đất và bác sĩ Daneeka sẽ chăm sóc cậu.”
Nhưng Snowden cứ lắc đầu, và rốt cuộc đã ra hiệu, bằng một cái hất hàm rất khẽ xuống phía nách. Yossarian cúi xuống ghé mắt nhìn và thấy một vệt màu rất lạ đang rỉ qua bộ áo liền quần ở ngay trên lỗ tay áo của bộ giáp chống đạn. Yossarian cảm thấy tim y ngừng đập, rồi lại đập dữ dội tới mức khiến y khó thở. Snowden đã bị thương ở phía bên trong áo giáp. Yossarain xé toang áo giáp của Snowden ra và nghe thấy chính mình thét lên điên loạn khi ruột gan phèo phổi của Snowden tuột xuống sàn thành một đống nhão nhoét và máu cứ thế chảy ra thành dòng. Một mảnh đạn gần mười phân đã bắn vào từ một bên người cậu ta, chỗ ngay dưới tay và phạt thẳng qua thân, kéo nó theo cả lít nhầy nhụa nội tạng ra ngoài qua một lỗ khổng lồ ở mạng sườn nơi nó văng ra. Yossarian thét lên lần thứ hai và lấy cả hai tay bịt chặt mắt. Răng y lập cập va vào nhau trong kinh hoàng. Y gắng hết sức nhìn lại một lần nữa. Vậy đấy, sự thừa mứa tầm cỡ Chúa Trời là đây, Yossarian cay đắng nghĩ khi y trân trối nhìn - gan, phổi, thận, sườn, dạ dày, và cả những vụn khoai tây hầm mà Snowden đã ăn vào bữa trưa hôm đó. Yossarian căm ghét khoai tây hầm, y quay mặt đi choáng váng, và bắt đầu nôn mửa, tay giữ chặt lấy cổ họng đang bỏng rát. Tay súng ở đuôi máy bay tỉnh dậy trong khi Yossarian đang nôn, nhìn thấy cảnh ấy, và lại ngất đi. Yossarian rũ rượi vì kiệt sức, đau đớn và tuyệt vọng khi nôn xong. Y yếu ớt quay lại với Snowden, hơi thở của cậu đang yếu đi và ngày càng gấp gáp, mặt cậu còn tái hơn trước. Y tự hỏi làm thế quái nào mà cứu cậu ta được nữa
“Tôi lạnh,” Snowden thút thít. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào,” Yossarian lầm bầm nói như máy, tiếng nhỏ tới mức gần như không nghe thấy gì. “Ngoan nào, ngoan nào.”
Yossarian cũng lạnh, và người run lên bần bật. Y cảm thấy gai ốc râm ran sởn lên khắp người khi y ủ ê nhìn xuống cái bí mật gớm ghiếc mà Snowden đã xổ ra khắp sàn. Quá dễ để đọc được thông điệp trong lòng cậu ta. Con người là vật chất, đó là bí mật của Snowden. Thả anh ta ra ngoài cửa sổ, anh ta sẽ rơi xuống. Đốt anh ta, anh ta sẽ cháy. Chôn anh ta, anh ta sẽ thối rữa, như đủ thứ rác rưởi khác. Hồn đã mất thì người chính là rác rưởi. Đó là bí mật của Snowden. Sự chín muồi là tất cả(90).
“Tôi lạnh,” Snowden nói. “Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào,” Yossarian nói. “Ngoan nào, ngoan nào.” Y giật dây dù của Snowden và bọc lấy cơ thể của cậu ta trong tấm vải dù trắng.
“Tôi lạnh.”
“Ngoan nào, ngoan nào.”
88. Từ “state” vừa cũng nghĩa là “bang”, vừa có nghĩa là “tình trạng”.
89. Diễn viên, ca sĩ, nhà biên kịch, biểu tượng sex người Mỹ.
90. Nguyên văn “Ripeness is all”: lấy lại một câu thoại trong vở bi kịch Vua Lear của Shakespeare, ý nói cái chết là không thể tránh khỏi, vấn đề chỉ là khi nào.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22