Hoa Xuyên Tuyết epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 34
uả thật hai bên mà ngồi kể tội nhau, tội xưa và tội nay, tội gọi là bán nước, hại dân, tội về dùng bạo lực đối xử với nhaụ..thì không sao có thể giảng hòa thông cảm nổi. Và hình như bên nào cũng có cái lý của mình, có những sự thật của mình. Có người còn cho rằng chính sự lựa chọn của những người Cộng sản, đưa Việt nam vào qũy đạo của Liên Xô và Đế Tam Quốc tế đã làm cho Việt Nam trở thành mục tiêu của chiến lược kìm giữ phong trào Cộng sản của các nước Phương Tây. Đó chính là nguồn gốc sâu xa của những cuộc chiến tranh liên miên trong hơn 40 năm qua. Họ đặt ra những chữ "nếu" - "Nếu" như Đảng Cộng sản không dành được sự lãnh đạo trong Cách mạng Việt Nam..."Nếu" như các Đảng mang tính chất quốc gia dành được quyền lãnh đạo Cách mạng..."Nếu" như Đảng Cộng sản sau khi dành được độc lập cho đất nước rồi mà không mù quáng lao vào xây dựng chủ nghĩa xã hội kiểu Staline, theo kiểu kế hoạch gò bó, thủ tiêu mọi quyền tự hữu về tư liệu sản xuất,..."nếu như?" Ôi là cái chữ "nếu!" Châm ngôn Pháp có câu:
"Với cái chữ "Nếu, " có thể nhét cả Paris vào trong một cái chai! Cho dù Paris này đã lớn rộng vô cùng rồi.
Ai đúng? Ai sai? Cần thấy rằng nhân dân ta bị đổ máu quá nhiều. Tài sản đất nước bị phung phí. Hiện tình đất nước thật bi đát: đứng thứ 158 trong số 166 quốc gia trên thế giới! Cả một năm, người Việt Nam lao động cật lực mà chỉ nhận được đồng lương vẻn vẹn chưa bằng số tiền người dân các nước đã phát triển làm ra trong bốn ngày!
Tôi đã có lần trình bầy với bạn bè gần xa có những quan điểm đối lập: Tôi xin nghe và ghi nhận ý kiến của các bạn. Xin tạm gác lại cuộc tranh luận có thể còn kéo dài lê thê vì khó ngả ngũ. Xin nhìn thẳng vào hiện tình khủng hoảng nghiêm trọng để cứu dân, cứu nước ta- Bạn có đồng ý không? Cứu dân, cưú nước trong cơn SOS cực kỳ khẩn cấp này đã, phải không bạn? rồi khi chung sức cứu dân, cứu nước khỏi thảm họa thì chúng ta có thể hiểu nhau hơn, gần nhau hơn, độ lượng và khoan dung với nhau hơn, bạn có đồng ý không?
Tôi hiểu rằng, nén những tình cảm sâu sắc, gác lại những nhận thức đã thành định kiến đâu phải dễ! Tôi đã từng căm thù sôi sục. Mẹ tôi, người mà tôi yêu quý nhất trên đời, nhân ái với hàng xóm và thương yêu những người chiến sĩ như con mình đã từng là nạn nhân của cuộc chiến tranh này. Có lần trong kháng chiến chống Pháp, tôi tạt về thăm mẹ sau hai năm đằng đẳng vắng nhà. Mẹ tôi ra đồng hái những nắm lá khúc về gĩa, làm bánh, hấp cho tôi ăn. Vài ngày sau đó, vào Tết Trung Thu năm 1948, trong trận càn của lính Pháp qua làng, một tên chỉ điểm đã dẫn lính lê dương xộc vào nhà tôi, bắn vào ngực mẹ tôi một tràng tiểu liên. Bà chết ngay trên sân nhà bếp. Từ đó tôi nuôi một ý chí căm thù khôn nguôi. Ra trận, trên chiến trường Trung Bộ, chiến trường Bắc Bộ hay Tây Nguyên, sau đầu ruồi của khẩu súng là tên địch đã giết mẹ tôi. Tôi có những người cháu ruột, con của các chị tôi tử trận ở chiến trường Huế, Quảng Ngãi và Tây Ninh. Và cháu Ngọc mới bốn tuổi, cháu ruột của vợ tôi bị bom Mỹ làm cho tan xác, chết chung cùng với các bạn của cháu ở làng Hưng Dũng (Nghệ An). Khi Mỹ thua trắng tay, tôi vui mừng vì những mối thù của riêng mình đã được trả sòng phẳng...
Và nay chính tôi lại đề xuất ý kiến với các bạn xa gần là xin nén tình cảm riêng lại đã. Quả là một yêu cầu không đơn giản. Tháng 3. 1991 tôi gặp một thuyền nhân quê ở Rạch Giá sang Pháp từ năm 1981. Vợ anh bị hải tặc Thái Lan hiếp, thành bệnh rồi chết. Anh mất hai con trên biển, một con trai 13 tuổi và một con gái lên hai. Anh sinh bệnh tâm thần sau khi đáp lên một hòn đảo ở Malaixia. Nay khỏi bệnh, anh làm công cho một tiệm ăn người Việt. Anh vẫn sống một mình với niềm oán hận cộng sản không đội trời chung. Với anh, tôi tôn trọng nỗi đau khổ của người cha, người chồng. Tôi thông cảm thảm cảnh của anh, khó có thể yêu cầu anh để sang một bên sự oán thù đã trở thành máu thịt, ít ra là lúc này.
Cộng đồng người Việt ở hải ngoại thật muôn vẻ. Chớ đơn giản và có định kiến. Tôi từng nghe ở Hà Nội các quan chức nhận định: họ đã bỏ Tổ quốc ra đi là táng tận lương tâm, là vong bản, mất gốc! Đó là những tên chống cộng, chống chế độ thâm căn cố để, quay lưng lại dân tộc, những kẻ ích kỷ, trốn chạy cho bản thân mình, tìm cho sung sướng, đi kiếm bơ sữa, mặc cho đồng bào nghèo khổ ở trong nước- Đối với họ ta không nên tiếc làm gì. Cứ coi như ta không có họ! Đây là cục thịt thừa trên cơ thể dân tộc, cắt bỏ đi thì cơ thể càng khỏe. Đó là cách nhìn độc đoán, mang tính áp đặt, suy diễn đơn giản, gộp chúng thành một gói cả một cộng đồng rất đa dạng. Và cách nhìn ấy vô lý, bất công, và nhất là có hại.
Quả thật ở Hoa Kỳ và úc có những lực lượng cực đoan, chống cộng một cách điên cuồng.. Họ lập binh đoàn, lập mặt trận với đủ thứ tên:
...Họ tuyển mộ những quân nhân cũ và thanh niên mới, đưa vào biên chế, huấn luyện quân sự. Họ làm lễ tuyên thệ, xuất phát. Họ ra thông báo về tình hình chiến sự, về những chiến khu trong quốc nộị..Họ mở những đêm dạ hội, quyên góp, âm nhạc và diễn kịch, nhẩy múa lấy tiền để mua sắm vũ khí và nuôi quân...Tôi đã hỏi chuyện khá lâu Võ Đại Tôn, người chỉ huy lực lượng vũ trang phục quốc đã bị bắt sống trên đất Lào, gần biên giới Việt nam năm 1981. Võ Đại Tôn thú nhận đã bị lừa- Khi ra đi, Võ Đại Tôn và đồng sự những tưởng là ở miền Nam Việt nam đã có sẵn chiến khu, sẵn "vùng giải phóng", sẵn "có sở nhân dân chống cộng". Khi về đến gần thì chẳng thấy có gì hết trọi! Không ai liên lạc, đón rước, thông báo cho tình hình! Cả chuyện trở về sau này của đảng trưởng Hoàng Cơ Minh và tùy tùng cũng chỉ là những nhóm thiêu thân bị đánh chận, bị giết, bị bắt trước khi nhập được vào đất Việt Nam- Vì nhân dân không còn muốn chiến tranh. Lực lượng họ sao địch được nổi quân đội và an ninh tại chỗ? Tôi gặp một sĩ quan quân đội cấp cao Sài Gòn cũ ở Hoa kỳ, cuối năm 1988, ông ta nói:" Họ bày đặt đủ thứ, nhưng thiệt ra không có mấy thực lực. Tôi không bao giờ tin có chiến khu, có mật khu nào ở quốc nội cả. Họ tổ chức dữ dằn vậy chỉ để là quyên tiền, lập quỹ, và từ đó vô túi cá nhân cũng bộn đó, rồi lấy tiền đó kinh doanh, kiếm lãi để chia chác, nuôi nhau nữạ..Làm vậy mấy ông lớn mới có lý do để giữ nguyên những chức tước cũ: ông quận trưởng, ngài bộ trưởng, ông đại tá, ông dân biểu, cho tới ngài thủ tướng, ngài tổng thống. Không còn quyền nhưng còn cái tiếng, cái xưng hô, để tự mình an ủi mình, an ủi lẫn nhau cho đỡ tủi thân mà. Cái thực chất là ở chỗ đó, ông ạ...". Gần đây tổ chức Mật trận quốc gia thống nhất giải phóng Việt nam lâm vào khủng hoảng lớn, những nhân vật chóp bu còn bị tòa án Mỹ truy tố vì tội lậu thuế, trốn thuế và lấy tiền của Mặt trận chuyển vào trương mục cá nhân...Xu thế cực đoan dùng bạo lực đã xẹp dần, xẹp rất nhanh ở các bang Hoa Kỳ và ở úc, trong khi xu thế hòa hợp lan ra khá mạnh. Qua tiếp xúc với một số chính khách và nhà báo Hoa Kỳ, tôi nhận rõ một điều là các chính quyền Mỹ từ Carter, Ford, đến Rigan và Bush đều thực hiện một chính sách nhất quán: đưa vấn đề Việt Nam lùi nhanh vào quá khứ, xóa sạch hội chủng Việt Nam ở trong xã hội Mỹ, đặt quan hệ Mỹ- Việt trên cơ sở hoàn toàn mới. Các chính quyền ấy mong Viêt nam đổi mới, mau chóng giải quyết vấn đề Campuchia, thực hiện dân chủ và cởi mở cả về kinh tế và chính trị để ổn định tình hình- Gây bạo loạn và lật đổ không phải là chủ trương của Mỹ, của chính quyền Hoa Kỳ, cũng không phải là hành động của CIA hiện nay. Đây là một sự thật rất dễ nhận ra. Nhưng những người phụ trách cơ quan phản gián và an ninh ở Việt Nam vẫn cứ cố tình nhìn đời bằng con mắt lệch lạc về nghề nghiệp, nhìn đâu cũng thấy kẻ thù và âm mưu bạo loạn. Đến mức cán bộ chính trị, cán bộ tuyên huấn, cán bô ngoại giao am hiểu tình hình cũng không dám nói khác với cơ quan an ninh, luôn hô hào cảnh giác trên báo chí và đài phát thanh: "Việt nam đang là mục tiêu chính để gây bạo loạn và lật đổ của để quốc Mỹ, của Vatican, của tất cả các lực lựơng phản động trên toàn thế giới, chúng đang tập họp nhau lại để gây loạn ở Việt nam!" Những người hô hoán lên như thế cũng không tin đó là sự thật. Họ cần làm việc ấy với hai mục đích đã được tính toán: hạn chế trào lưu đòi đổi mới, đòi quyền tự do dân chủ ở trong nước và bắt buộc nhân dân phải cố hiểu rằng đế quốc và phản động là nguyên nhân chính gây ra mọi khó khăn và bế tắc trong xã hội hiện naỵ..
Tôi quen với một gia đình trước ở thành phố Hồ Chí Minh, đã mạo hiểm đi cả nhà, trên một chiếc thuyền gỗ ọp ẹp năm 1982. vợ chồng đều là giáo viên trung học. Con gái đầu, cháu Thủy vừa 30 tuổi, sau 1975 còn tham gia các cuộc diệt trừ gian thương, cải tạo tư sản ở miền Nam. Cháu đi kiểm kê tài sản còn được bằng khen. Cháu kể lại những công việc "cách mạng" hồi đó một cách tự nhiên, vui vẻ: "Các chú cách mạng, có chú thiệt tốt, chăm lo cho bọn cháu thiệt chu đáo, có chú rất quan cách, quan liêu. Và có cả mấy ông bự chỉ lo uống rựơu say và tham nhũng..." Ba má cháu không bị cách mạng, không bị các ông "30. 4" quấy nhiễu chi hết, vậy vì sao lại bỏ đi? Bố cháu kể: "Bọn tôi không cay đắng chi hết, cũng không căm thù chi hết! Chế độ Sài Gòn cũ coi khinh người trí thức. Bọn tôi hy vong cách mạng sẽ khác. Vậy mà cách mạng coi bộ còn tệ hơn! Bọn tui là giáo viên nên hiểu rất rõ. Học sinh do vậy hết chăm học. t thanh niên cầm cuốn sách trong tay. Thư viện vắng hoe à, vì không có sách báo, còn tiệm nước thì đầy nhóc thanh niên. Tui lo cho hai cháu trai, lo cho tương lai của chúng nó. Tính toán kỹ rồi liều ra đi chỉ vì vậy thôị..Hai cháu hiện đều học ngành điện toán, sắp thành tài cả rồị.."
€ ra vậy, tôi mở mắt. Vậy là có người ra đi không phải vì không chịu cực khổ được, không phải vì chống cộng cực đoan, cũng không phải vì cuộc sống bơ sữa.
ở một vùng ngoại ô phía Đông Paris, tôi gặp một nhà tư sản lớn Việt Nam. Ông quê Hải Hưng, từng có những cơ sở kinh doanh ở Hà Nội. Ông vào Nam hồi 1954 và sang Pháp tháng 4. 1975. Ông đã trên 70 tuổi, còn quắc thước, minh mẫn và rất năng động. Ông giầu, và có thể nói là rất giầu. Ông từng mở nhà máy dệt, cơ khí rồi làm nghề vận tải. Ông có cơ sở cưa gỗ ở Đà Lạt, cơ sở xay lúa gạo ở Cần Thơ, ở quận 5 Sài Gòn... Paris ông cũng có hàng dẫy nhà rộng lớn, đủ tiện nghi. Ông tâm sự: "Tôi có của, mất nhiều mà vẫn còn đủ. Giầu thêm để làm gì nữa? Ăn xài đâu có hết của. Nhưng tôi ham, ham gì ông biết không? Ham kinh doanh, như sở thích, như đam mê, như cái vận của đời mình vậy. Tôi chỉ mong ở bên nhà yên ổn, có trật tự, pháp luật, có không khí cởi mở để trở về bỏ vốn kinh doanh. Năm ngoái tôi trở về thăm nhà, có những công nhân sở tôi cũ còn quý tôi lắm. Họ còn giữ cái biển của nhà máy cũ và tặng lại tôi! Tôi cảm đông vô cùng. Bọn tư bản Pháp hỏi tôi hoài: Bao giờ trở về làm ăn? Tôi về thì tụi nó mới nhào vô. Nhưng ở nhà còn kẹt dữ quá. Nói đổi mà đâu có đổi. Chưa có luật thương mại. Luật đầu tư có rồi mà văn bản dưới luật chưa có. Muốn người ta bỏ vốn vô mà không đổi mới thì có ai muốn vô!..." Ông lắc đầu và nói thêm: "Về chính trị và pháp luật cho tới nay, Việt Nam chưa có luật về quyền công dân, còn chậm tiến quá chừng!"
Thì ra có những người ra đi chỉ vì không được thi thố tài năng. Nay mong muốn trở về để trổ tài kinh doanh.
Tôi có một kỷ niệm khó quên ở nhà anh bạn mở quán "Chiều Sài Gòn" quận 16 của Paris. Chúng tôi đều quê Hà Nội, gắn với những kỷ niệm xa xưa ở trường Thăng Long, trường Bưởi, trường Albert Saraut, với những người thầy dạy tâm huyết và có trình độ...Cùng nhau ôn lại những ngày đấu kháng chiến, những hoạt động của tư vệ sao vuông thành Hoàng Diệu, thế rồi cả gần một chục người trong bưã ăn bỗng hòa giọng hát đồng ca những bài:
"Diệt phát xít", "Nhớ chiến khu", "Tiến quân ca", "Nào ta đi hùng binh"...Lúc ấy những khác biệt chính trị lùu đi đâu thật xa. Người thuộc vài câu này, người nhớ vài câu khác, chấp nối nhau hồi tưởng được hết cả gần chục bài đã in dấu một thời trai trẻ dấn thân cho kháng chiến...
Tôi đã tìm thấy nhịp đập chung qua những tiếp xúc với bà con người Việt, dù thành phần. Ai cũng khắc khoải một nối niềm nhớ về quê hương. Người lớn tuổi, kẻ trung niên, cho đến lớp thanh niên vừa rời nước vài năm đều thế. Ai cũng ước vọng quê hương mình được thanh bình, vươn lên mở mắt với thế giới. Theo cách nói chính trị, ai cũng có một tình cảm yêu nước trong tâm. Yêu nhớ nước mình, nghĩa là vẫn còn day dứt với xóm làng, mảnh đất nuôi mình khôn lớn, mái trường có thầy cô giáo buổi thiếu thời, những đường phố, mái nhà ôm ấp những kỷ niệm vui buồn trong một quãng đời và những bạn bè, thân quyến còn ở lạị..Tình cảm ấy có nét gì rất chung, mà cũng rất riêng, rất cụ thể. Bài hát "Quê hương" với cây khế, chiếc cầu tre, con diều, mùi hương hoa bưởị..có sức truyền cảm sâu đậm đặc biệt đối với bà con xa xứ.
Có những chị ở bên này đã 20, 30 năm tâm sự với tôi:
"Chúng tôi hầu hết vô dân Tây. Vô để dễ làm ăn, để được những quyền lợi xã hội. Nhưng nói thật với anh chỉ là tây giấy, đầm giấy thôi. Tây, đầm trên giấy tờ mà. Chúng tôi còn nhớ, còn thích ăn mắm tôm, cà cuống, cốm Vòng, ăn phở, còn thèm riêu cuạ..là còn nhớ đất nước mình dữ lắm. Tâm hồn Việt không mất được đâu anh..." Và nhiều anh chị vẫn dạy con nói tiếng Việt. Tôi về thăm gia đình anh Liêm ở gần Tonlouse. Hai cháu nhỏ, Hương 12 tuổi và Vinh 7 tuổi đều nói tiếng Việt. ở trường các cháu toàn nghe và nói tiếng Pháp với bạn bè và thầy cô giaó. ở nhà, anh chị nói chuyện với nhau và với hai con đều bằng tiếng Việt để các cháu không quên tiếng của quê hương...Rõ ràng là các cháu thuộc thế hệ hai và thế hệ ba vẫn còn một gốc gác văn hóa dân tộc khá là sâu. Có phải từ cái cội nguồn ấy mà Luce, một bác sĩ nay đã 27 tuổi, cha Pháp, mẹ Việt, ra đời ở bên này, không biết tiếng Việt, vậy mà khi cùng bố mẹ về thăm Việt Nam, đã trào nước mắt khi máy bay hạ cánh xuống sân bay Tân Sơn Nhất? Niềm xúc động thiêng liêng đối với quê hương thứ hai, chị từng được nghe kể, và nay mới "trở về" thăm...
Khi còn ở trong nước, tôi đã viết những bài báo đánh động về tiềm năng to lớn của cộng đồng người Việt ở nước ngoài và những chính sách cần có để khỏi dậy những tiềm năng có ý nghĩa chiến lược này. Qua tiếp sức với khá nhiều bà con Việt kiều, tôi thấy thiếu sót ở trong nước thật lớn. Còn tồn tại biết bao nhiêu định kiến. Không thiếu những cách nhìn chính xác thấu tình, đạt lý, nhưng chưa biểu hiện thành chính sách, còn bị ngăn trở bởi lối nhìn gò bó hạn hẹp, suy diễn chủ quan.
Đã vậy các cơ quan ngọai giao, các đại sứ quán ta còn có quá nhiều thiếu sót và sai lầm. Theo những công thức rất cũ, họ phân loại Việt kiều: Người này tốt, người kia xấu, ngừơi này yêu nước, người kia phản đông! Do đó họ xếp tất cả hơn 700 người ký bức Tâm thư tháng 1. 1990 là phản động cả! Vì bức tâm thư "dám" nhắc đến những sự kiện ở Rumani, "dám" đề ra yêu cầu tách Đảng khỏi Nhà nước...Tháng 7. 1990 tôi đã gặp thứ trưởng Bộ Nội Vụ Tâm Long để góp ý rằng việc không cho Việt kiều từng ký tâm thư về nước là một chủ trương rất vô lý và dại dột, rằng cơ quan ngoại giao và quản lý kinh tế mời ông giáo sư Nguyễn Mạnh Hùng, tiến sĩ kinh tế ở Canada về giảng ở Hà Nội, đến sân bay Nội Bài rồi mà công an không cho nhập cảnh là hành động thô bạo, vừa vô văn hóa vừa vô chính trị, an ninh quốc gia không mãy may được tăng thêm, mà tác dụng trái ngược lại. Do phản ứng khá quyết liệt của một số cơ quan ở trong nước và của kiều bào, sau đó có nới lỏng hơn trước một chút, nhưng cơ bản vẫn chưa có gì thay đổi. Kỹ sư Nguyễn Thành Long, người có phát minh tại Pháp về tận dụng vỏ xe hơi để gia cố đường xá và đê đập, được Bộ Giáo dục và Đào tạo mời về nước làm việc cùng với một số kỹ sư Pháp. Anh mang hộ chiếu Việt nam mà cũng không được về! Bà cụ thân sinh ốm ở bên nhà, anh xin về cũng không được! Thì ra chỉ vì anh đã cho mượn địa chỉ của mình để liên lạc, tiếp nhận chữ ký của bức Tâm thư và thanh toán những chi phí bưu điện. Anh lập tức được cơ quan an ninh coi là nguy hiểm, " là một người "đề xướng, " có thể là một kẻ "chủ mưu(!)" nữa? Các bạn Việt kiều và một số người Pháp biết việc này cho rằng đây là một trường hợp kỳ lạ nhất thế giới: Công dân một nước mang hộ chiếu nước mình mà lại không xin được visa về nước mình! Người trí thức có trình độ học vấn cao, luôn tìm tòi phát minh và có lòng yêu nước ấy đã chuyện trò với tôi nhiều lần. Anh mời tôi về thăm nhà anh, dản dị, đơn sơ chỉ có sách vở và sách vở, cuối cùng đã thốt lên: "Tôi nản quá chừng anh ơi, đành phải xin vô quốc tịnh Pháp thôi. Nhưng lòng yêu nước của tôi luôn nguyên vẹn anh ạ!"
Hoa Xuyên Tuyết Hoa Xuyên Tuyết - Bùi Tín Hoa Xuyên Tuyết