Núi Thần epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần 6 - Nước Chúa Và Sự Cứu Rỗi Tai Hại
ộ rày, ở vào thời điểm nếu tính theo lịch chiêm tinh thì năm đã bước sang mùa hạ và ngày bắt đầu ngắn dần đi, đối tượng nghiên cứu của Hans Castorp trên ban công phòng chàng là một loài cây đang sinh sôi nảy nở khắp vùng: cây hoa bồ câu hay còn gọi là Aquilegia, một giống thuộc họ hoa chân chim, dạng thân thảo, bông nhỏ màu lam thẫm hay màu tím hoa cà mọc trên cuống dài, thảng hoặc cũng có cây ra hoa màu nâu đỏ, lá rộng xẻ rãnh sâu. Mùa này người ta thấy chúng nở hoa khắp đó đây, nhưng tập trung nhiều nhất ở nơi tịch cốc mà một năm trước Hans Castorp lần đầu lạc bước đến: cái khe nhỏ biệt lập giữa rừng với thác nước sủi bọt trắng xóa, cây cầu ván và băng ghế gỗ đơn sơ, điểm tận cùng của cuộc dạo chơi quá sớm, quá xa và quá sức của chàng khi mới chân ướt chân ráo tới đây, cũng là chốn viếng thăm ưa thích của chàng từ ngày ấy.
Chỗ đó, nếu hạn chế lòng hăm hở tìm tòi thám hiểm như tâm trạng chàng dạo nọ để khỏi mua đường thì hóa ra cũng chẳng xa. Từ đích đường đua xe trượt bobsleigh ở đầu ‘Làng’ chỉ cần theo sườn núi leo lên một đỗi, không quanh co đâm quàng bụi rậm, không cao giọng hát opera và không nghỉ lấy hơi, trong vòng hai chục phút người ta đã có thể đến được chốn thơ mộng ấy, nơi con đường mòn với cây cầu gỗ vắt ngang qua đường xe trượt từ Schatzalp xuống. Vậy nên những hôm Joachim bị cầm chân tại viện an dưỡng, dù là để làm nhiệm vụ nằm nghỉ, để khám sức khỏe, để chụp chân dung nội tạng, để lấy máu xét nghiệm, để nhận mũi chích hay để kiểm tra cân nặng, thì Hans Castorp lại một mình lên đường trong ánh nắng mai sau bữa điểm tâm thứ hai, hôm nào cao hứng chàng sốt sắng đi ngay sau bữa điểm tâm đầu tiên, thậm chí có hôm còn tận dụng cả khoảng thời gian tự do giữa cữ uống trà chiều và bữa tối để ghé thăm chốn ẩn dật của mình, chỉ để ngồi một lát trên băng ghế gỗ, chỗ ngày xưa chàng bị chảy máu cam, để nghiêng đầu lắng nghe tiếng thác nước đổ ào ào và chiêm ngưỡng phong cảnh nên thơ nhuộm màu tím biếc của loài hoa giờ đây lại nở bạt ngàn dưới lòng khe.
Chỉ có thế thôi ư? Không, chàng ngồi đó còn để được một mình với chính mình, để được nhớ, được gợi lại trong đầu tất cả các ấn tượng và hình ảnh của cuộc phiêu lưu đã kéo dài từng ấy tháng trời, và để suy ngẫm. Những điều vừa trải nghiệm chồng chất trong ký ức chàng, rất nhiều và rất phong phú, khó lòng phân biệt và sắp xếp vì chúng đan xen hòa quyện với nhau, khiến chàng không thể tách rời thực tại khỏi suy nghĩ, mơ ước và tưởng tượng. Chúng chỉ có một điểm chung duy nhất là tính phiêu lưu mạo hiểm, lạ lùng và đáng sợ đến nỗi trái tim chàng - vốn đã tỏ ra nhạy cảm từ ngày đầu tiên đặt chân đến chốn này - lúc thì lồng lên đập điên cuồng lúc lại thoi thóp như muốn ngừng đập. Chẳng lẽ chỉ một ghi nhận khách quan của lý trí, rằng ở nơi đây, chỗ ngày ấy hình ảnh Přibislav Hippe sống động như người thật hiện về với chàng trong trạng thái xuất thần, loài hoa tím kia đã lại nở thêm lần nữa, và từ “ba tuần” đã sắp tròn một năm, chỉ một ý nghĩ ấy thôi cũng đủ để trái tim thổn thức của chàng bồi hồi một nỗi kinh hoàng phiêu lưu đến thế?
Cũng phải nói thêm rằng chàng không còn bị chảy máu cam khi ngồi trên băng ghế cạnh thác nước nữa, chuyện ấy đã qua đi không lặp lại, đã hết thật rồi. Sự thích nghi của chàng với khí hậu trên này - mà ngay từ đầu bị Joachim tiên đoán là rất khó khăn và nhận định ấy đã được thời gian chứng minh là đúng - sự thích nghi ấy cũng có những tiến bộ nhất định và sau mười một tháng dù muốn dù không cũng phải được coi là đã kết thúc, vì chẳng thấy có thay đổi rõ rệt nào theo chiều hướng tích cực nữa. Bao tử chàng đã điều tiết lượng dịch vị để thích nghi ở một mức độ nhất định khiến chàng hút Maria Mancini lại thấy ngon, mạng lưới thần kinh nơi niêm mạc khô khan của chàng đã lại cảm nhận được hương thơm của nàng tiên da nâu ấy, chàng vẫn trung thành với sản phẩm chẳng mấy đắt tiền này và tiếp tục đặt thêm mỗi khi lượng thuốc dự trữ gần cạn, những hộp xì gà từ Bremen gửi lên được chàng đón nhận với cảm giác gần như kính cẩn, mặc dù trong cửa kính các quầy hàng ở khu nghỉ mát quốc tế này chẳng thiếu gì các sản phẩm khác cũng rất hấp dẫn mời chào. Có phải vì Maria như mối dây liên hệ ngầm ràng buộc chàng, đứa con đi hoang, với đồng bằng, nơi chôn rau cắt rốn của mình? Chẳng phải điếu xì gà ấy đã nuôi dưỡng và gìn giữ tình cảm của chàng với quê nhà một cách hiệu quả hơn rất nhiều so với những tấm bưu thiếp mà chàng thỉnh thoảng gửi cho mấy người thân ở dưới kia, khoảng cách giữa các lần gửi càng ngày càng giãn ra tương ứng với mức độ tiếp thu các khái niệm trên này và tỷ lệ thuận với mức độ hào phóng đối với thời gian của chàng? Đó chủ yếu là những tấm bưu thiếp phong cảnh theo thị hiếu chung, in hình cái thung lũng quen thuộc với vẻ đẹp tiêu biểu hoặc mùa hè hoặc mùa đông của nó, mà chỗ viết chừa ra chỉ vừa đủ để truyền đạt những phán xét mới nhất của các bác sĩ trong lần khám định kỳ hằng tháng hay lần tổng kiểm tra sức khỏe, có nghĩa là: thông báo với những người bà con ở phương xa, các bác sĩ tuyên bố rằng thông qua tiếng gõ hoặc qua hình chiếu điện họ đều nhận ra những tiến bộ đáng kể trong quá trình điều trị, tuy nhiên bệnh nhân vẫn chưa được giải độc hoàn toàn và vẫn chưa thoát hẳn được những cơn sốt nhẹ, hậu quả của vết ướt nho nhỏ vẫn tồn tại dai dẳng nhưng chắc chắn sẽ biến mất không còn dấu vết nếu chàng kiên nhẫn điều trị đến cùng, và khi ấy chàng sẽ không bao giờ còn phải quay trở lại đây nữa. Chàng có thể yên trí rằng người nhận những tấm bưu thiếp ấy không đòi hỏi và cũng không mong đợi một nghệ thuật viết lách cao siêu hơn thế; đây không phải là chỗ để chàng thi thố tài hùng biện hay khiếu văn chương; những lá thư trả lời chàng nhận được cũng chẳng tràng giang đại hải gì, thường chỉ là vài dòng ngắn ngủi đi kèm với món tiếp tế tài chính chàng nhận được đều đặn từ phía gia đình - lời lãi sinh ra từ tài sản chàng thừa kế được của ông cha, những khoản ngoại tệ chàng đổi ra tiền địa phương với một tỉ giá hối đoái rất có lợi, và thường thì đợt tiếp tế mới đến trong lúc đợt cũ vẫn chưa tiêu hết - lần nào cũng là những dòng chữ đánh máy ký tên James Tienappel kèm theo lời chào và chúc sức khỏe của ông trẻ chàng, đôi khi có cả vài lời thăm hỏi của Peter, người đi biển.
Vừa rồi ông cố vấn cung đình đã ngừng tiêm thuốc cho chàng, đó là thông báo mới nhất Hans Castorp gửi về nhà. Theo đánh giá của ông ta thì biện pháp điều trị ấy không những chẳng mấy tác dụng đối với người bệnh trẻ tuổi này mà còn kéo theo vô số tác dụng phụ như đau đầu, biếng ăn, sụt ký và mệt mỏi, đầu tiên có làm tăng phản ứng của cơ thể nhưng cuối cùng không hạ được nhiệt độ xuống mức bình thường. Thân nhiệt cao ấy sản sinh hơi nóng dai dẳng thiêu đốt gương mặt đỏ bừng của chàng, như lời cảnh báo rằng sự thích nghi của đứa con miền đồng bằng, chỉ quen với khí hậu ẩm ướt nồng hậu dưới ấy, giới hạn ở mức thích nghi với ý nghĩ rằng mình không thể nào thích nghi được - phải nói thêm rằng khả năng thích nghi của Rhadamanthys[259] cũng chẳng hơn gì, mặt mũi ông cố vấn cung đình sau bao nhiêu năm vẫn tím tái như chàm đổ. “Có những người chẳng bao giờ thích nghi được”, Joachim đã nói ngay từ đầu, và có vẻ như Hans Castorp phải chịu đúng số phận này. Cả cái tật rung giật cần cổ bắt đầu xuất hiện làm khổ chàng không bao lâu sau khi đặt chân lên đây cũng chẳng chịu mất đi mà cứ bám riết lấy chàng khi đi đứng nói cười, thậm chí cả khi ngồi lặng thinh bên suối hoa tím suy ngẫm về cuộc phiêu lưu tình cảm đầy mạo hiểm nó cũng không chịu buông tha chàng, đến nỗi động tác trịnh trọng dựa cằm vào cổ áo của Hans Lorenz Castorp đã gần như thấm sâu vào người cháu nội - dĩ nhiên thói quen ấy gắn liền với những ký ức về người ông; mỗi khi tựa cằm xuống ngực cho cổ đỡ rung, Hans Castorp lại bất giác nhớ đến cái cổ áo thắt thòng lọng của người ông, hình thức thay thế tạm thời cho cái cổ áo xếp nếp trang trọng, chàng nhớ đến ánh vàng xin xỉn của chiếc thau rửa tội với tiếng cố - cố - cố đầy kính cẩn trên môi cùng những mối thâm tình mà nó đại diện, và chàng lại phải ngầm liên hệ đến những diễn biến phức tạp gần đây của cuộc đời mình.
Přibislav Hippe không còn xuất hiện lần nào như người thật trước mắt chàng như mười một tháng trước đây nữa. Quá trình thích nghi với khí hậu trên này của chàng đã kết thúc rồi, chàng không còn thấy ký ức tái hiện đầy sống động, thân xác chàng không còn nằm sõng sượt trên băng ghế trong lúc linh hồn phiêu du ở một hiện thực xa vời - những giây phút xuất thần như thế chẳng trở lại lần nào nữa. Sự rõ rệt và sinh động của ký ức, nếu như chàng cố gắng tìm về, tự giới hạn ở mức độ thông thường và hợp lý; thường thì trong những dịp ấy Hans Castorp lại rút từ túi áo ngực ra kỷ vật mà chàng cẩn thận gói trong một cái phong bì có lớp lót cất trong ví: một bản kính mỏng, nếu soi xuống đất thì chỉ thấy tối đen, nhưng nếu đưa lên ngược sáng sẽ trở nên trong suốt và lờ mờ hiện lên những hình thù rất đỗi nhân bản: bức chân dung mờ ảo bên trong cơ thể một con người, bộ khung xương sườn, trái tim, vòng cung cơ hoành và hai lá phổi, ngoài ra còn thêm cặp xương quai xanh và xương cánh tay, bọc ngoài là một lớp vỏ nhờ nhờ sương khói, đó là da thịt mà trong tuần lễ hóa trang Hans Castorp đã liều lĩnh nếm mùi. Thử hỏi có gì là lạ, nếu trái tim thổn thức của chàng bỗng ngừng đập hay bồi hồi loạn nhịp, mỗi khi chàng mê mẩn ngắm nhìn vật kỷ niệm kia, gợi lại trong đầu “tất thảy” để trải nghiệm và suy ngẫm, mình dựa vào lưng chiếc ghế gỗ đơn sơ, hai tay khoanh trước ngực, đầu nghiêng xuống một bên vai, trong tai tiếng thác đổ ào ào và trước mắt màu hoa Aquilegia tím ngắt?
Hình hài hoàn mỹ của sự sống, cơ thể một con người, khi ấy lại bồng bềnh trước mắt chàng như trong những đêm dài nghiên cứu suốt mùa đông băng giá dưới bầu trời sao lấp lánh, cùng với nó chàng trẻ tuổi Hans Castorp thấy nổi lên đôi điều thắc mắc và lạ lẫm, những điều mà Joachim có lẽ không cần để tâm tới, nhưng là một người dân sự chàng thấy mình phải có trách nhiệm tìm hiểu, những điều mà bản thân chàng hồi ở dưới đồng bằng chưa hề lưu ý và có lẽ sẽ chẳng bao giờ lưu ý tới, nhưng ở trên này, ở độ cao năm ngàn foot, đoạn tuyệt với thế gian và vạn vật, chàng tự buộc mình phải nghĩ đến - cũng có thể đó là hậu quả sự tăng cường hoạt động do chất độc hòa tan trong cơ thể chàng, hậu quả là sinh hoạt sôi động bên trong thể hiện ra ở hơi nóng râm ran thiêu đốt trên gương mặt. Chàng nghĩ tới Settembrini trong mối tương quan nhân bản, ông già quay đàn thùng và ông thầy luân lý, có người cha chào đời ở xứ Hy Lạp văn hiến, ưa định nghĩa lòng nhân ái bằng các khái niệm chính trị, cách mạng và hùng biện, trân trọng đặt mũi giáo của người dân lên bàn thờ nhân loại; chàng nghĩ cả tới người đồng đội Krokowski và những trắc nghiệm tâm lý mà thời gian gần đây ông ta bày ra với chàng trong gian phòng tối tăm dưới hầm, nghĩ tới tính hai mặt của phân tâm học và về ý nghĩa của nó đối với hành động và tiến bộ, về sự gần gũi của nó đối với nấm mồ và về bản chất khó lường như con dao hai lưỡi của nó. Chàng gợi lên trong trí hình ảnh hai người ông, một người ông cách mạng và một người ông bảo thủ, cả hai đều bận đồ đen mặc dù do những nguyên nhân khác hẳn nhau, chàng đặt họ kề cận nhau và đối lập với nhau để cân nhắc phẩm giá từng người; xa hơn nữa chàng còn loay hoay tìm cách lý giải những cặp phạm trù phức tạp như khuôn phép và tự do, tinh thần và thể xác, danh dự và ô nhục, thời gian và vĩnh cửu - để bị rơi vào một cơn choáng váng tuy ngắn ngủi nhưng dữ dội khi sực nhớ ra rằng, hoa Aquilegia lại nở và thời gian đã khép lại chu kỳ của một năm.
Chàng nghĩ ra một từ đặc biệt để diễn tả tâm trạng nghiêm trang của mình ở nơi ẩn dật tịch liêu đẹp như tranh vẽ nọ, và gọi nó một cách tinh nghịch là “cai trị”, mặc dù trò chơi yêu thích ấy luôn gợi lên trong chàng cảm giác kinh hãi gắn liền với tất cả các hình thức nổi loạn của trái tim và làm tăng cường hơi nóng trên mặt chàng đến mức gần như không chịu nổi. Chàng cũng thấy không có gì là khiếm nhã nếu như sự căng thẳng gắn liền với công việc quan trọng này khiến chàng lại phải tựa cằm vào cổ áo, vì theo chàng tư thế ấy rất hợp với tâm trạng kính cẩn lúc “cai trị” mà hình ảnh cao quý trong tưởng tượng gợi ra trong thâm tâm chàng.
Ông Naphta xấu xí gọi hình ảnh thiêng liêng ấy là “Homo Dei”, khi ông ta cao giọng đả phá học thuyết xã hội của người Anh. Có gì là lạ, nếu Hans Castorp vì nghĩa vụ công dân và lợi ích của việc ‘cai trị’ mà tự cảm thấy mình có trách nhiệm cùng Joachim đến thăm con người nhỏ bé này?
Settembrini không muốn thế - Hans Castorp cũng đủ thông minh và nhạy cảm để nhận ra điều đó. Ngay trong lần gặp mặt tình cờ đầu tiên ông văn sĩ đã tỏ ra không khoái chí và cố dùng uy tính người thầy để tìm cách ngăn chặn một cuộc làm quen giữa Naphta với hai người trẻ tuổi - đúng ra là với mình, tên học trò cá biệt ranh mãnh tự nhủ - mặc dù bản thân ông ta không ngần ngại giao thiệp và tranh luận thả giàn với ông kia. Các nhà sư phạm đều thế cả. Các ông thầy cho phép mình lao theo những ham muốn mà họ tự tin là mình ‘chế ngự’ được, trong khi ấy họ lại ra sức cấm cản thế hệ trẻ bằng cách nhồi vào những khối óc non nớt kia niềm tin rằng người trẻ tuổi thì không có khả năng ‘chế ngự’ những ham muốn này. Rất may là ông già quay đàn thùng không có quyền cấm đoán chàng trẻ tuổi Hans Castorp một điều gì, của đáng tội ông ta cũng chưa bao giờ có ý định thử làm điều này trong thực tế. Thế nên tên đệ tử trái nết chỉ cần nhắm mắt làm ngơ trước lời kêu gọi của lương tâm và giả bộ ngây thơ viện dẫn phép lịch sự ra làm cái cớ nhận lời mời của Naphta - và chàng ta đã tới thăm đáp lễ ông này, với sự tham gia chẳng biết là tự nguyện hay miễn cưỡng của Joachim, chỉ mấy ngày sau cuộc gặp gỡ đầu tiên, vào một buổi chiều chủ nhật sau cữ nằm nghỉ chính.
Từ ‘Sơn trang’ xuống ngôi nhà nhỏ tường phủ kín dây nho dại chỉ mấy phút đi bộ. Họ bước vào cửa chính, bỏ qua cánh cửa thông sang gian hàng tạp hóa ở bên phải, leo lên cái cầu thang hẹp bậc gỗ nâu xỉn dẫn thẳng tới một cánh cửa bên cạnh nút chuông chỉ có độc tấm bảng nhỏ đề tên Lukaček, ông thợ may trang phục phụ nữ. Người mở cửa cho họ là một thiếu niên mặc đồng phục gia nhân áo khoác kẻ sọc, chân mang ghệt, tóc húi cao, hai má đỏ hồng. Họ hỏi thăm nhà giáo sư Naphta, và vì không mang theo danh thiếp nên họ bắt thằng bé lặp lại tên từng người để vào thưa với ông ta. Cánh cửa đối diện với cầu thang chỗ họ đứng để ngỏ, cho phép khách nhìn thông thống vào trong tiệm may, nơi ông Lukaček ngồi xếp chân bằng tròn múa kim nhoay nhoáy, mặc dù ngày hôm ấy là chủ nhật. Ông thợ may là một người đàn ông xanh xao đầu sói sọi, có bộ ria như thò ra từ cái mũi nhòm mồm quá khổ rủ xuống hai bên mép khiến nét mặt ông ta đầy vẻ âu sầu.
“Chào ông!” Hans Castorp bắt chuyện.
“Rước ông lại chơi!” Ông ta đáp lời theo lối dân địa phương, giọng Thụy Sĩ chẳng ăn nhập gì với cái tên và hình thức bề ngoài của ông ta, vang lên hoàn toàn bất ngờ, thậm chí có thể bảo là không đúng chỗ.
“Ông siêng quá nhỉ?” Hans Castorp gật đầu tiếp tục gợi chuyện. “Hôm nay là chủ nhật cơ mà!”
“Phải làm gấp”, Lukaček đáp cụt ngủn, tay vẫn vung kim lia lịa.
“Chắc là đơn đặt hàng đặc biệt”, Hans Castorp phỏng đoán, “cần xong gấp cho kịp một dịp lễ lạt gì đó, phải không ông?”
Ông thợ may để mặc câu hỏi lơ lửng một lát trong không trung, ghé răng cắn đứt sợi chỉ và xâu vào kim một sợi mới, xong đâu đó mới thủng thẳng gật đầu.
“Áo đẹp không ông?” Hans Castorp vẫn chưa chịu thôi. “Có tay hay là không tay?”
“Có tay, áo một mệ già”, Lukaček đáp giọng khê đặc thổ ngữ Bohemia. Sự xuất hiện trở lại của thằng nhỏ gia nhân cắt đứt câu chuyện người trong kẻ ngoài cửa. Ông Naphta mời khách vào, thằng bé long trọng tuyên bố và mở một cánh cửa khác cách đó hai hay ba bước chân xế về bên phải, nó cẩn thận nhấc tấm rèm che cửa sang bên để hai người trẻ tuổi bước vào. Đằng sau cánh cửa, ông Naphta chân đi giày vải đã đứng sẵn đón họ trên tấm thảm trải sàn màu rêu.
Hai anh em sững sờ trước sự xa hoa của gian phòng rộng có hai cửa sổ, họ gần như lóa mắt, hoàn toàn bị bất ngờ vì dáng vẻ nghèo nàn bên ngoài ngôi nhà, cây cầu thang cũ rích và khúc hành lang trần trụi không hề báo trước một sự thay đổi đột ngột nhường này, sự tương phản gay gắt tạo cho quang cảnh sang trọng trong phòng khách của Naphta một vẻ mê hoặc thần thoại, điều mà dĩ nhiên là nó không có và cả Hans Castorp lẫn Joachim Ziemßen đều tin rằng không thể có. Mặc dù vậy phải công nhận gian phòng được bài trí rất cầu kỳ, lộng lẫy, có điều nó thiếu mất nét nam tính dẫu cho đủ cả bàn viết lẫn giá sách, bởi quá nhiều lụa là: lụa đỏ bầm màu rượu chát buông chùng trước cửa ra vào, vắt ngang trên khung cửa sổ, cả đến lớp vải bọc đệm những chiếc ghế kê bên bức tường hẹp đối diện với cánh cửa thứ hai, trước một tấm thảm thêu căng gần kín tường, cũng bằng thứ lụa ấy. Đó là mấy chiếc ghế bành kiểu Baroque có tay dựa êm kê xúm xít quanh một chiếc bàn tròn nẹp kim loại, đằng sau là một cái ghế sô pha dài cùng kiểu chất đầy những chiếc gối lụa xinh xinh. Tủ sách chiếm cả bức tường giữa hai cánh cửa đi, có cửa kính mặt sau căng lụa màu lục, cũng bằng thứ gỗ gụ đỏ thẫm như chiếc bàn viết có nắp vòm cung kê giữa hai khung cửa sổ. Nhưng nổi bật lên trên tất cả là một tác phẩm nghệ thuật trong góc phòng bên trái bộ bàn ghế, một nhóm tượng gỗ tô màu đặt trên bệ cao bọc lụa đỏ - một tác phẩm điêu khắc chủ đề tôn giáo khá rùng rợn, tả thực một cách thô thiển và đầy ấn tượng: Đức Mẹ đội mũ trùm đầu, cặp chân mày chau lại trên sống mũi, miệng mở ra méo xệch trong một tiếng thét đau thương, ôm trong lòng Chúa Jesus tử nạn, thân thể Đấng cứu thế được đẽo gọt với tỉ lệ sai lệch đến nực cười chứng tỏ một sự mù tịt kiến thức giải phẫu học của tác giả, mái đầu quấn vòng gai nhọn gục xuống, nét mặt cứng đờ, tay chân bê bết máu, những giọt máu rỉ ra từ vết thương bên mạn sườn và các vết đóng đinh ở bàn tay bàn chân đông lại thành cục to bằng quả nho. Đương nhiên vật trưng bày đặc biệt này mang lại cho gian phòng đầy lụa một sắc thái riêng. Ngoài ra có thể thấy bàn tay sắp đặt của chủ nhân trong từng chi tiết nhỏ nhặt nhất: những mảng tường ít ỏi lộ ra phía trên tủ sách và cạnh hai khung cửa sổ cũng được dán loại giấy có sọc xanh đồng màu với tấm thảm màu rêu trải trên sàn nhà đánh xi đỏ. Chỉ riêng cái trần thấp là không cách gì che giấu được vẻ nghèo nàn. Nó vẫn trần trụi và đầy vết nứt, chỉ có vật trang trí duy nhất là chùm đèn pha lê Venezia nhỏ treo toòng teng. Hai ô cửa sổ đều che rèm lụa màu kem rủ xuống tận sàn.
“Chúng tôi mạo muội đến đây mong được ông chỉ giáo thêm!” Hans Castorp nói mà mắt vẫn dán vào bức tượng để trong góc, chẳng nhìn nhõi gì đến chủ nhân gian phòng mặt mày rạng rỡ lên tiếng cảm ơn hai anh em họ đã giữ lời hứa. Ông ta đưa bàn tay phải nhỏ nhắn ra dấu mời họ ngồi xuống mấy chiếc ghế bọc lụa, nhưng Hans Castorp đi thẳng một mạch tới chỗ bức tượng gỗ và dừng lại ngay đằng trước, mắt như bị hút vào đó, hai tay chống bên hông, đầu nghiêng về một phía.
“Ông có một báu vật!” Chàng thốt lên khe khẽ. “Thật là tinh xảo. Đã ai nhìn thấy một nỗi thống khổ rõ ràng đến thế này chưa? Đồ cổ phải không, thưa ông?”
“Thế kỷ thứ mười bốn”, Naphta đáp. “Có lẽ là ở vùng sông Rhine. Nó gây được ấn tượng nơi ông?”
“Một ấn tượng áp đảo”, Hans Castorp đáp. “Nó không thể nào không gây ấn tượng với người xem. Tôi chưa bao giờ ngờ rằng trên đời có vật gì vừa xấu xí - xin lỗi ông - lại vừa đẹp đến mức khủng khiếp thế này.”
“Các tạo vật của thế giới tâm linh và biểu cảm”, Naphta trịnh trọng, “luôn xấu trong cái đẹp và đẹp trong sự xấu xí, đó là nguyên tắc. Đáng nói đến ở đây là vẻ đẹp tinh thần chứ không phải thể xác, xác thịt là thứ tuyệt đối ngu muội. Hơn nữa đẹp là một khái niệm trừu tượng”, ông ta thêm vào. “Vẻ đẹp thể xác rất trừu tượng. Chỉ có cái tâm, lòng mộ đạo là thật mà thôi.”
“Cảm ơn ông đã diễn đạt rạch ròi và chính xác đến vậy”, Hans Castorp trầm ngâm. “Thế kỷ thứ mười bốn phải không ông?” Chàng hỏi lại. “Tức là năm một ngàn ba trăm bao nhiêu đấy. Chà, đó là thời Trung cổ như người ta vẫn gọi trong sách vở, ở đây tôi cũng ít nhiều nhận ra dấu ấn của thời kỳ ấy, theo những gì tôi hình dung về giai đoạn lịch sử này trong thời gian gần đây. Thực ra tôi chẳng hiểu biết bao nhiêu về lịch sử, vì tôi là một con người của tiến bộ kỹ thuật, mong ông hiểu cho. Nhưng ở trên này những hình dung về thời Trung cổ bỗng thường xuyên ám ảnh tôi. Thời ấy chưa làm gì có thuyết xã hội học kinh tế, cái ấy hẳn đã rõ. Người nghệ sĩ sáng tạo ra báu vật này là ai vậy, thưa ông?” Naphta nhún vai.
“Cái ấy thì có gì là hệ trọng?” Ông ta bảo. “Chúng ta chẳng nên hỏi tên người nghệ sĩ, cũng như hồi ấy, khi tác phẩm ra đời, có ai hỏi đến tác giả đâu. Kiệt tác ấy không do một quý ông nào đó giữ bản quyền, nó là một tác phẩm vô danh, một sáng tạo tập thể. Cũng phải nói thêm rằng nó ra đời trong một giai đoạn đã khá tiến bộ của thời Trung cổ, theo trường phái Gothic, một Signum mortificationis[260]. Ở đó ông sẽ không tìm thấy những cố gắng nương nhẹ và tô hồng với dụng ý làm đẹp như người ta ưa thể hiện Đấng cứu thế ở thời tiền Gothic, thời đại thịnh hành của trường phái nghệ thuật Roman; như ông thấy đấy, Chúa Jesus ở đây không có vòng hào quang bao quanh đầu, không kiêu hãnh vượt lên trên thế gian và chiến thắng mọi khổ hình. Ở đây nỗi đau khổ tột cùng và sự yếu hèn của xác thịt được phơi bày một cách trần trụi. Phải đợi đến thời Gothic mỹ thuật mới thể hiện được đúng ý nghĩa của sự yếm thế và khổ hạnh. Chắc ông không biết tác phẩm Bàn về nỗi khổ nhân gian của Innozenz Đệ tam[261] đâu nhỉ, đó là một áng văn rất dí dỏm được soạn từ cuối thế kỷ thứ mười hai, nhưng mãi đến khi tác phẩm điêu khắc này ra đời nó mới có một hình ảnh minh họa xứng đáng.”
“Thưa ông Naphta”, Hans Castorp lên tiếng sau khi hít vào một hơi dài. “Mỗi một lời ông nói ra đều vô cùng lý thú đối với tôi. Lúc nãy ông nhắc đến ‘Signum mortificationis’ phải không ạ? Tôi sẽ cố ghi nhớ từ này. Và ông còn nói đến ‘vô danh và tập thể’, có vẻ như điều đó cũng rất đáng bỏ công suy nghĩ. Rất tiếc ông đã phỏng đoán chẳng hề sai, rằng tôi không biết tới trước tác của vị Giáo hoàng kia - tôi đoán chừng Innozenz Đệ tam là một vị Giáo hoàng. Không biết tôi hiểu có đúng không, nhưng hình như ông bảo rằng áng văn này trình bày về sự khổ hạnh và đồng thời lại dí dỏm? Thật tình mà nói tôi chưa bao giờ hình dung là hai điều đó có thể đi đôi được với nhau, nhưng ngẫm cho cùng tôi vỡ lẽ ra rằng một luận văn bàn về nỗi khổ của con người hẳn phải có lúc tức cười, khi vạch trần những sa ngã của xác thịt. Chẳng biết có cách nào kiếm ra được cuốn sách ấy không? Nếu cố moi óc nhớ lại tất cả vốn liếng tiếng Latinh hồi còn đi học thì có lẽ tôi cũng đọc được.”
“Tôi có quyển sách ấy đấy”, Naphta đáp, đầu hất nhẹ về phía tủ sách. “Xin ông cứ tự nhiên. Nhưng sao ta cứ đứng mãi thế này? Mời các ông ngồi xuống, từ chỗ ghế sô pha ông cũng có thể tiếp tục ngắm bức tượng được mà. Vả lại đã tới lúc lót dạ một chút...”
Đúng là thằng nhỏ giúp việc đã bưng lên một khay trà, kèm theo một chiếc giỏ mạ bạc rất đẹp đựng đầy bánh ga tô xốp. Nhưng thử đoán xem ai bám sát gót nó, đi qua cánh cửa để ngỏ, vào phòng với bước chân nhẹ nhàng nhún nhảy và nụ cười mỉm tinh tế, không ngừng thốt lên những tiếng kêu kinh ngạc “quỷ thật” và “chết nỗi”? Chính là ông Settembrini, người trọ ở tầng trên, vị khách không mời mà tới để nhập bọn với họ. Qua khung cửa sổ tí xíu phòng mình, Settembrini kể, ông ta nhìn thấy hai anh em họ tới chơi và đã vội vàng kết thúc trang bách khoa toàn thư đang soạn dở để xuống làm người khách tình nguyện dưới này. Có vẻ như không ai lấy làm lạ về sự hiện diện của ông ta. Nội mối thâm giao của ông ta với hai thành viên của ‘Sơn trang’ cũng đủ làm lý do chính đáng cho sự có mặt của ông ta ở đây, chưa kể quan hệ hàng xóm láng giềng và những cuộc tranh luận nảy lửa, mặc dù có khác biệt sâu sắc về tư tưởng nhưng vẫn để lộ ra mối quan hệ mật thiết giữa họ, cứ nhìn cái cách chủ nhà chào hỏi ông ta không câu nệ và chẳng chút ngạc nhiên thì rõ. Điều đó không ngăn cản Hans Castorp nảy ra hai nghi vấn về lý do thực sự khiến ông người Ý có mặt ở đây. Thứ nhất, chàng có cảm giác ông Settembrini không muốn để Joachim và chàng, nói đúng ra là ông ta không muốn chàng gặp riêng ông Naphta bé nhỏ xấu xí, và lấy sự hiện diện của mình làm đối trọng sư phạm để cân bằng lại những ảnh hưởng của ông kia; thứ hai, chàng ngờ rằng ông ta không để lỡ một dịp may đánh đổi gian phòng áp mái của mình trong chốc lát với căn hộ đầy lụa là của Naphta và cơ hội thưởng thức một bữa trà chiều thịnh soạn, bằng chứng là ông ta đang khoan khoái xoa xoa hai bàn tay vàng vọt, lưng bàn tay mé ngón út mọc lưa thưa mấy cọng lông đen, nhặt một miếng bánh ga tô trong giỏ và ngồi nhấm nháp lát bánh cắt mỏng hình bán nguyệt có những sợi sôcôla xuyên qua lớp bột xốp với thái độ tán thưởng ra mặt.
Câu chuyện tiếp tục xoay quanh tác phẩm điêu khắc, mối quan tâm chính của Hans Castorp, chàng vẫn vừa dán mắt vào góc ấy khi nói, vừa hướng lời về phía ông Settembrini, tìm cách lôi kéo ông ta vào việc phân tích bình luận tác phẩm nghệ thuật này - mặc dù có thể thấy rõ mối ác cảm không giấu giếm của ông người Ý đối với món đồ trang trí kệch cỡm kia, thể hiện cả trên nét mặt và trong cử chỉ: ông ta cố ý chọn chỗ ngồi quay lưng lại góc đặt bức tượng. Thừa lịch thiệp để không nói huỵch toẹt ra tất cả những suy nghĩ trong đầu mình, ông ta giới hạn ở chỗ phê phán những khiếm khuyết về tỉ lệ và hình thức các nhân vật trong nhóm tượng là phản tự nhiên, và cho rằng nguyên nhân của nó không phải nằm ở sự thiếu hiểu biết của người xưa, mà là một sự ác ý có chủ tâm, nảy sinh từ một nguyên tắc cơ bản thù địch với các giá trị chân thiện mỹ - tới đây Naphta nhảy vào tán thưởng bằng giọng mỉa mai. Đúng thế, không thể bảo sự mất cân đối ở đây là sai sót về mặt kỹ thuật, mà đó chính là sự tự giải phóng một cách có ý thức của tinh thần, một sự hạ bệ thiên nhiên bằng thái độ không quy phục, được thể hiện rõ rệt qua tôn giáo. Nhưng khi Settembrini vừa mới cất giọng hùng hồn phê phán thái độ rẻ rúng thiên nhiên và lơ là việc nghiên cứu các quy luật tự nhiên là sai lầm lớn nhất trong lịch sử nhân loại, chỉ trích sự phủ nhận hình thức đến mức ngu xuẩn của thời Trung cổ và các thời đại rập khuôn theo nó, ca ngợi di sản của nền văn hóa cổ đại Hy Lạp-La Mã, ca ngợi vẻ đẹp cổ điển, ca ngợi hình thức, trí tuệ và tính hồn nhiên lạc quan, những điều có tác dụng hỗ trợ đặc biệt cho nền văn minh nhân loại, thì Hans Castorp đâm vào ngang xương với câu hỏi, nếu thiên nhiên và các sản phẩm của nó tốt đẹp như thế thì cớ sao Plotinus lại tuyên bố ông ta lấy làm hổ thẹn vì thân thể của mình, điều này có bằng chứng rành rành trên giấy trắng mực đen, và tại sao Voltaire lại phẫn nộ nhân danh trí tuệ phản kháng trận động đất kinh hoàng ở Lisbon? Nực cười ư? Những cử chỉ của các vĩ nhân kia có vẻ nực cười, nhưng nếu xem xét kỹ trên mọi phương diện người ta sẽ thấy sự ngây ngô nực cười ấy hoàn toàn có thể coi là những phản kháng tinh thần, và như thế thái độ thù địch phản tự nhiên của nghệ thuật Gothic rốt cục cũng đáng trọng như cử chỉ nổi loạn của các ông Plotinus và Voltaire, vì nó biểu thị cùng một cố gắng tự giải phóng mình khỏi định mệnh và sự thật nghiệt ngã, cùng một lòng tự trọng đầy kiêu hãnh, không chịu khuất phục một sức mạnh ngu tối, sức mạnh thiên nhiên...
Naphta phá lên cười sằng sặc, tiếng cười gợi nhớ đến tiếng gõ đĩa mẻ kết thúc bằng một trận ho sù sụ. Settembrini nghiêm giọng trách:
“Ông kỹ sư, ông xem sự khôi hài của ông làm hại chủ nhà của chúng ta đến mức nào, chẳng lẽ đấy lại là cách ông thể hiện lòng biết ơn đối với những bánh trái hậu hĩnh kia hay sao. Mà liệu ông có bao giờ biết ơn người nào chưa nhỉ? Theo tôi lòng biết ơn phải thể hiện ra ở chỗ biết sử dụng quà tặng vào những mục đích tốt đẹp...”
Vì Hans Castorp xấu hổ im thin thít, ông ta lại thủng thẳng nói tiếp với vẻ duyên dáng thường ngày:
“Ai cũng biết là ông tinh quái lắm, ông kỹ sư. Đôi khi ông lôi cả cái thiện ra mà bỡn cợt, nhưng trước sau tôi vẫn không mảy may nghi ngờ cảm tình của ông hướng tới những gì được coi là tốt đẹp trên đời. Đương nhiên ông thừa biết rằng sự phản kháng của tinh thần chống lại thiên nhiên chỉ đáng ca ngợi nếu nó gắn liền với nhân phẩm và vẻ đẹp của con người, chứ còn sự chống đối cốt chà đạp và hạ nhục con người hoặc dẫn đến hậu quả ấy thì thật đáng lên án. Ông cũng biết rằng thời đại sản sinh ra cái hiện vật quái gở đằng sau lưng tôi đây là một giai đoạn lịch sử dã man vô nhân tính và khát máu đến mức nào. Xin ông hãy nhớ đến Konrad von Marburg[262], quan tòa của Tòa án giáo hội, nổi tiếng tàn bạo khi xử những kẻ bị quy cho là theo tà đạo, và cơn giận điên cuồng nhân danh đức tin của y đối với tất cả những gì dám chống lại sự thống trị của thế lực siêu nhiên. Chắc chắn ông không đời nào coi thanh gươm và đống củi thiêu người là những công cụ thể hiện lòng nhân ái...”
“Không phải để thể hiện nó, mà là để phục vụ nó”, Naphta cắt lời. “Dưới sự điều khiển của hội đồng tu sĩ, giáo hội đã cố gắng thanh trừ hết các phần tử ung nhọt của thế giới. Tất cả các hình phạt do nhà thờ định ra, không ngoại trừ thiêu sống và rút phép thông công, đều nhằm mục đích cứu vớt linh hồn con người khỏi sự nguyền rủa đời đời, đó là điều mà những người phe Jacobin[263] không thể viện dẫn để biện hộ cho sự hiếu sát của họ. Tôi xin lưu ý quý vị rằng, các hình thức trừng phạt bằng nhục hình nếu không vì niềm tin vào một đời sống vĩnh hằng sau khi chết thì đều vô nghĩa và đầy thú tính. Và sự hành hạ lăng nhục con người đúng ra có tiểu sử trùng lặp hoàn toàn với quá trình phát triển trí tuệ của nhân loại. Những thế kỷ Phục hưng, Khai sáng và cả thời đại khoa học kỹ thuật hiện đại với sự phát triển vượt bậc về kinh tế xã hội ở thế kỷ thứ mười chín chẳng mang lại điều gì hay ho, không những tỏ ra hoàn toàn vô tích sự mà còn tiếp tay thêm cho sự hạ nhục con người, mở đầu bằng trò hề thiên văn học hiện đại, khiến trái đất của chúng ta, nơi vẫn được coi là trung tâm của vũ trụ, đấu trường huyền bí thiêng liêng của cuộc so tài khốc liệt giữa Chúa và quỷ giành giật tạo vật quý giá nhất, bỗng bị hạ bệ thành ra một hành tinh nhỏ bé tầm thường, đặt dấu chấm hết tạm thời cho vai trò đặc biệt của trái đất trong vũ trụ, làm lung lay nền tảng của môn chiêm tinh học.”
“Tạm thời?” Khi đặt câu hỏi mỉa mai này nét mặt ông Settembrini bất giác có cái vẻ rình rập của một thành viên Tòa án giáo hội, chỉ chờ đối phương lỡ lời để buộc tội.
“Dĩ nhiên. Tạm thời trong vòng vài trăm năm”, Naphta lạnh lùng đáp. “Nếu đánh giá của tôi không quá sai lầm thì trường phái kinh viện sẽ được phục hồi danh dự cả trên phương diện này, quá trình ấy đã bắt đầu từ lâu rồi. Copernicus[264] sẽ phải chịu thua Ptolemaeus[265]. Thuyết nhật tâm sẽ vấp phải những chống đối tinh thần quyết liệt, các nỗ lực này thể nào cũng phải dẫn tới mục tiêu mong đợi. Khoa học sẽ buộc phải chấp nhận quan điểm triết học thể hiện qua giáo lý nhà thờ mà công nhận trái đất ở vị trí xứng đáng với giá trị độc tôn của nó.”
“Sao? Sao? Chống đối tinh thần nào? Buộc phải chấp nhận quan điểm triết học nào? Mục tiêu nào? Ông phát biểu duy tâm như vậy mà coi được ư? Còn khoa học tự nhiên?
Còn nhận thức khách quan? Chân lý, thưa ông, luôn luôn gắn liền với tự do, và những chứng nhân lịch sử đã đổ máu để bảo vệ chân lý - mà ông quy kết cho là những kẻ hạ bệ trái đất - chính là những viên ngọc quý đời đời trang điểm cho hành tinh tươi đẹp của chúng ta!!!”
Ông Settembrini có cách đặt câu hỏi tu từ một cách hùng hồn không thể tả. Ông ta ngồi ưỡn ngực, đầu ngẩng cao, ào ào trút những lời lẽ kiêu hãnh xuống đầu ông Naphta bé nhỏ, đến câu cuối còn cất cao giọng khiến người nghe chắc mẩm đối phương của ông chỉ còn cách ngậm miệng vì xấu hổ. Miếng bánh ga tô ông ta cầm khư khư trên tay suốt thời gian tranh luận bị bỏ trở xuống đĩa, ông ta tỏ ý không muốn cắn vào đó nữa sau những câu hỏi gay gắt vừa rồi.
Naphta đáp, bình tĩnh một cách đáng ngại.
“Ông bạn thân mến, trên đời này không có nhận thức khách quan. Tính hợp thức của các giáo lý Thiên Chúa giáo có thể gói trọn trong câu châm ngôn của Thánh Augustine[266]: ‘Có niềm tin mới có nhận thức’, đó là điều hiển nhiên không ai có thể phủ nhận. Niềm tin là cốt lõi của nhận thức, tri thức chỉ là thứ yếu. Khoa học với sự chính xác tuyệt đối mà ông nhắc tới chỉ là huyền thoại. Một niềm tin, một thế giới quan, một tư tưởng, tóm lại: một ý chí, luôn luôn tồn tại, và nhiệm vụ của lý trí là phải giải thích, phải chứng minh nó. Mục tiêu cuối cùng trong mọi trường hợp là lời kết luận ‘Quod erat demonstrandum’[267]. Bản thân khái niệm chứng minh, xét về phương diện tâm lý, đã bao hàm yếu tố duy tâm. Các triết gia trường phái kinh viện từ hồi thế kỷ mười hai và mười ba đã thống nhất với nhau rằng, không có điều gì thần học bảo là sai mà triết học có thể bảo là đúng. Nếu ông không vừa ý ta có thể gạt thần học sang bên, nhưng nếu một người theo chủ nghĩa nhân văn mà không nhận thức được một điều cơ bản rằng, điều gì triết học đã bảo là sai thì khoa học không thể coi là đúng, thì không đáng được mang danh hiệu này. Tuyên bố của Giáo hội trong trường hợp Galilei[268] chỉ khẳng định rằng, các phát biểu của ông ta hoàn toàn phi lý về mặt triết học. Không có lý lẽ nào xác đáng hơn thế nữa.”
“Ái chà, nhưng các phát biểu của thiên tài tội nghiệp Galilei đã được chứng minh là hoàn toàn đúng! Không, chúng ta phải tranh luận một cách nghiêm túc hơn, thưa giáo sư! Xin ông hãy trả lời giùm tôi một câu hỏi, trước mặt hai thanh niên ham học và cầu tiến bộ này: Ông có tin vào chân lý, một chân lý khách quan và khoa học, mà cố gắng đạt tới nó là mục tiêu phấn đấu cao nhất về tư tưởng, và thắng lợi của nó trước uy quyền của nhà thờ là trang sử vẻ vang nhất trong đời sống tinh thần của nhân loại?”
Hans Castorp và Joachim đồng loạt quay đầu từ Settembrini sang Naphta, người thứ nhất nhanh hơn người thứ hai một tích tắc. Naphta trả lời:
“Không thể có thắng lợi như ông nói, vì nhà thờ chính là con người, là quyền lợi, nhân phẩm, là sự cứu rỗi của họ, giữa nó và chân lý không thể tồn tại một mâu thuẫn nào. Hai cái ấy trùng hợp với nhau.”
“Chân lý sẽ...”
“Điều gì có ích cho con người, đó là chân lý. Con người là tổng hòa của thiên nhiên, trong thiên nhiên chỉ có con người là tạo vật cao quý nhất, thiên nhiên được tạo lập chỉ để phục vụ con người. Con người là mẫu mực cho vạn vật và sự cứu rỗi con người là nguyên tắc hình thành chân lý. Một nhận thức lý thuyết không có mối liên hệ thực tế với tư tưởng cứu rỗi con người sẽ vô bổ tới mức không còn tí giá trị chân lý nào nữa và phải bị bác bỏ. Trong lịch sử tồn tại nhiều thế kỷ của mình, Cơ Đốc giáo đã luôn nhất quán về tính thứ yếu của khoa học tự nhiên đối với con người. Lactantius[269], người từng được Constantinus Đại đế[270] chọn làm thầy dạy con trai mình, đã hỏi một câu thế này, ông ta được lợi lộc gì về phần hồn nếu biết sông Nil bắt nguồn từ đâu hay các nhà vật lý thiên văn ba hoa gì về bầu trời? Ông hãy thử trả lời ông ta câu hỏi ấy! Người ta đánh giá triết học Hoàng đế La Mã đầu tiên chấp nhận Cơ Đốc giáo là quốc đạo. Platon[271] cao hơn tất cả các trường phái khác, vì đối tượng của nó không phải là nhận thức về khoa học tự nhiên mà là nhận thức về Chúa. Tôi có thể đảm bảo với ông rằng nhân loại đang quay trở lại với nhận thức này, trên quan điểm nhiệm vụ của khoa học chân chính không phải là chạy theo những phát kiến tai hại mà là loại trừ triệt để những kiến thức bất lợi hoặc vô bổ đối với đời sống tinh thần, tóm lại là phải đề cao nhận thức theo bản năng, biết chừng mực và có sự lựa chọn. Bảo rằng nhà thờ ngăn chặn ánh sáng để duy trì bóng tối thì thật là ấu trĩ. Nhà thờ đã ba lần có lý khi lên án những nỗ lực ‘vô điều kiện’ nhằm đạt tới một nhận thức về sự vật, có nghĩa là những nỗ lực không đếm xỉa gì tới tinh thần, tới mục tiêu cứu rỗi linh hồn, và chính cái ‘vô điều kiện’, cái khoa học tự nhiên phản triết học ấy mới là điều đưa con người trở về u tối và càng ngày càng chìm đắm trong bóng tối.”
“Những điều ông đang nói đích thị là chủ nghĩa thực dụng”, Settembrini phản đối, “chỉ cần quy chiếu sang lĩnh vực chính trị là sẽ thấy ngay tất cả sự hủ bại của nó. Thế ra, cái gì phục vụ nhà nước thì cái ấy là chân lý và công lý. An ninh, danh dự, quyền lực của nhà nước là tiêu chuẩn đạo đức của xã hội. Hay lắm! Với triết lý ấy ông sẽ mở đường cho tất cả các loại tội phạm thả sức hoành hành, lúc bấy giờ cái chân cái thiện của nhân loại, công bằng cá nhân và dân chủ sẽ đi đời nhà ma...”
“Tôi muốn đóng góp vào đây chút ít logic”, Naphta bật lại. “Giả sử Ptolemaeus và triết học kinh viện nói đúng, vũ trụ hữu hạn cả về thời gian lẫn không gian. Khi ấy Chúa là đấng siêu nhiên, sự đối lập giữa Chúa và thiên nhiên được giữ vững, con người sẽ là một thực thể nhị nguyên, và như thế vấn đề lớn nhất của linh hồn là xung đột giữa cảm xúc và ngoại cảm còn tất cả các xung đột xã hội chỉ là thứ yếu. Tôi thấy chỉ có một chủ nghĩa cá nhân như vậy là đảm bảo tính nhất quán. Ngược lại, cứ cho là các nhà thiên văn học thời Phục hưng của ông đã tìm ra chân lý, và vũ trụ vô cùng vô tận. Như vậy chẳng làm gì có cả ngoại cảm lẫn thuyết nhị nguyên, thế giới bên kia lồng vào làm một với thế giới bên này, sự đối lập giữa Chúa và thiên nhiên không tồn tại, trong trường hợp ấy linh hồn con người không còn là đấu trường của hai nguyên tắc thù địch mà sẽ là một sự hòa trộn, đồng nhất giữa phần con và phần người, và xung đột nội tâm của con người sẽ chỉ còn là xung đột quyền lợi giữa chung và riêng, và mục đích của nhà nước, đúng như tính chất trần tục của nó, sẽ thành tiêu chuẩn đạo đức. Cái này hay là cái kia.”
“Tôi phản đối!” Settembrini kêu lên, duỗi thẳng cánh chìa tách trà đang cầm trên tay về phía chủ nhà. “Tôi phản đối luận điệu cho rằng mô hình nhà nước hiện đại là mưu ma chước quỷ nhằm nô lệ hóa cá nhân! Tôi phản đối ba lần cái giải pháp mập mờ nửa Phổ nửa Gothic mà ông định bày vẽ cho chúng tôi! Dân chủ không có mục đích nào khác ngoài mục đích điều chỉnh tự do cá nhân trong khuôn khổ nhà nước chuyên chế, bất kể dưới hình thức nào. Chân lý và công lý là những viên ngọc quý của tự do cá nhân, một đôi khi trong cuộc xung đột với quyền lợi nhà nước ta có cảm tưởng như nó ở thế yếu, nhưng thực ra nó không ngừng giám sát hoạt động của nhà nước để bảo vệ một hạnh phúc cao hơn, có thể gọi là hạnh phúc siêu nghiệm. Thời Phục hưng mà ông dám bảo là khởi đầu của sự sùng bái nhà nước! Thật là phản logic! Những thành quả của cuộc vật lộn - tôi xin nhấn mạnh từ này: những thành quả của cuộc vật lộn tinh thần ở các thời đại Phục hưng và Khai sáng, thưa quý ông, chính là sự tôn trọng cá nhân, nhân quyền, tự do!”
Các thính giả thở hắt ra, vì họ đã vô tình nín thở suốt thời gian ông Settembrini phản biện. Hans Castorp không ngăn được một cái đập tay xuống cạnh bàn, mặc dù chỉ dám đập nhẹ thôi. “Tuyệt!” Chàng nói qua kẽ răng, và cả Joachim cũng tỏ ra đặc biệt hài lòng, mặc dù nghe kỹ cũng có một chút ý chê bai Phổ trong lời phát biểu vừa rồi của ông Settembrini. Nhưng sau đó cả hai lại đồng loạt quay đầu về phía nhân vật kia, Hans Castorp hồi hộp chống cùi chỏ lên bàn, đặt cằm tựa vào nắm tay, tư thế gần giống như lúc chàng nhắm mắt vẽ heo, có điều bây giờ chàng mở cả hai mắt trao tráo nhìn vào mặt ông Naphta.
Ông này ngồi bình tĩnh và sắc sảo, hai bàn tay gầy guộc đặt trong lòng. Ông ta bảo:
“Tôi tìm cách đưa logic vào câu chuyện, còn ông lại trả lời một cách hết sức cảm tính. Dĩ nhiên tôi cũng biết rằng tất cả những thứ được mệnh danh là tự do tư tưởng, cá nhân chủ nghĩa, nhân văn nhân đạo đều là sản phẩm của thời Phục hưng; nhưng nhấn mạnh của ông hoàn toàn không gây được ấn tượng gì đối với tôi, vì cái thời “vật lộn”, thời đại anh hùng lý tưởng của ông đã chìm sâu vào quá khứ rồi, các lý tưởng của nó hoặc đã chết ngắc hoặc đang hấp hối, và nhân tố sẽ kết liễu đời nó đã đặt chân lên ngưỡng cửa. Nếu tôi không lầm thì ông tự nhận mình là một người cách mạng. Nhưng nếu ông tưởng rằng thành quả của cuộc cách mạng tương lai là tự do thì ông nhầm to. Nguyên tắc tự do đã hình thành, phát triển và sống sót qua năm thế kỷ. Một nền giáo dục tự xưng là con đẻ của thời Khai sáng, lấy phê bình, giải phóng và phát triển cá nhân làm công cụ giáo dục để giải quyết triệt để những mô hình xã hội nhất định - một nền giáo dục như thế có thể đem lại những thành quả hình thức nhất thời và có tính tượng trưng, nhưng sự lạc hậu của nó thì không một người hiểu biết nào có thể nghi ngờ được. Tất cả các tổ chức thực sự quan tâm đến giáo dục đều đã biết từ lâu rằng, mọi cố gắng của các nhà sư phạm đều chỉ nhằm đạt đến một điều: đó là sự phục tùng tuyệt đối, mối liên hệ bền vững, là kỷ luật, là sự hy sinh, là chối bỏ cá nhân, cưỡng bức nhân cách. Rút cuộc tuổi trẻ mắc phải một sai lầm tai hại khi họ tưởng rằng tự do đem lại sự thỏa mãn tinh thần. Thực ra chỉ có phục tùng mới đem lại sự thỏa mãn tuyệt đối.”
Joachim ưỡn ngực vươn người ngồi thẳng dậy. Hans Castorp đỏ mặt. Ông Settembrini bồn chồn vân vê bộ ria mép đẹp của mình.
“Không!” Naphta bồi thêm. “Không phải sự giải phóng và phát triển cá nhân là bí quyết và nhu cầu của thời đại chúng ta. Cái mà thời đại cần, cái mà nó đòi hỏi, cái mà nó sẽ có - là khủng bố.”
Ông ta nói ra những lời này bằng giọng khẽ khàng, toàn thân không cử động, chỉ có đôi tròng mắt kính sáng loáng lên. Ba người kia khi nghe thấy cái từ cuối cùng ai nấy đều giật thót mình, kể cả ông Settembrini, mặc dù sau đó ông ta lấy lại bình tĩnh ngay lập tức và mỉm cười bảo:
“Xin cho tôi được hỏi một điều”, ông ta bảo, “ai hay là cái gì - ông thấy đấy, tôi hoang mang đến độ không biết đặt câu hỏi như thế nào cho đúng - theo ý ông thì ai hay cái gì là chủ thể của - tôi thực lòng không muốn nhắc lại cái từ ấy - của hành động khủng bố mà ông nói đến?”
Naphta ngồi im, sắc sảo và sáng loáng. Ông ta đáp:
“Tôi xin được trả lời ông. Tôi cho rằng mình không quá sai lầm khi giả sử chúng ta đồng ý với nhau chọn một tiền đề làm cơ sở, đó là trạng thái sơ khai lý tưởng của nhân loại, khi chưa có nhà nước cũng như quyền lực, thế giới và loài người vừa mới được Chúa tạo lập nên, không có người thống trị mà cũng không có người bị trị, không có luật pháp cũng như hình phạt, không có bất công, không có quan hệ ruột thịt, không phân chia giai cấp, không lao động, không tư hữu, mà chỉ có bình đẳng, bác ái, một trạng thái hoàn hảo về đạo đức.”
“Được lắm. Tôi đồng ý”, Settembrini tuyên bố. “Tôi đồng ý tất cả các giả thiết của ông ngoại trừ điểm quan hệ ruột thịt là điều mà thời nào cũng phải có, vì con người là động vật có xương sống đã đạt đến mức độ phát triển cao, cho nên cũng như các động vật khác...”
“Tùy ông. Tôi ghi nhận ở đây sự nhất trí cơ bản giữa chúng ta về trạng thái khởi thủy của nhân loại ở thiên đường, khi con người còn sống không pháp luật và cận kề bên Chúa, khi họ còn chưa phạm tội tổ tông. Tôi cho rằng chúng ta còn có thể sánh vai đồng hành thêm một khúc đường nữa, đó là việc nhìn nhận nhà nước như một hình thức khế ước xã hội để đối phó với tội lỗi và bảo vệ con người trước bất công, và như vậy nhà nước chứa trong mình nó cội nguồn của quyền lực thống trị.”
“Benissimo[272]!” Settembrini kêu lên. “Khế ước xã hội... đó chính là Khai sáng, đó chính là Rousseau. Tôi không ngờ...”
“Xin ông chớ vội mừng. Tới đây chúng ta chia tay hai ngả, đường ai nấy đi. Từ thực tế lịch sử là tất cả các chế độ thống trị và quyền lực của họ đều bắt nguồn từ quần chúng nhân dân, chính họ đã giao phó quyền lập pháp và sức mạnh của mình cho nhà nước, tức là vào tay vua chúa, những kẻ thống trị, cho nên phái các ông kêu gọi làm cách mạng trước hết là lật đổ chế độ phong kiến giành lại quyền cho dân chúng. Chúng tôi lại khác...”
“Chúng tôi?” Hans Castorp nín thở nghĩ thầm. “Ai là “chúng tôi” ở đây? Lát nữa mình nhất định phải hỏi Settembrini xem ông kia ám chỉ ai mới được.”
“Chúng tôi”, Naphta tiếp tục, “về tinh thần cách mạng có lẽ cũng chẳng kém gì các ông, nhưng chúng tôi luôn đặt nhà thờ lên trên nhà nước, đặt đạo cao hơn đời. Vì nếu như tính vô đạo của nhà nước chưa lồ lộ hiện ra ngoài mặt, thì chỉ cần lưu ý đến sự thật lịch sử nêu trên là đủ thấy: nhà nước được dựng lên theo ý muốn của dân chứ không phải như nhà thờ được xây theo ý Chúa, điều đó chứng tỏ rằng nhà nước nếu chưa hẳn là một sự bày đặt của quỷ thì cũng là một công cụ vá víu tạm thời và đầy thiếu sót mà thôi.”
“Nhà nước, thưa ông...”
“Tôi biết quan điểm của ông về nhà nước quốc gia. “Tổ quốc và danh vọng trên hết.” Đấy là lời Virgil. Ông thêm thắt vào đó một chút chủ nghĩa cá nhân tự do, và gọi đó là dân chủ; nhưng mối quan hệ cơ bản của ông với nhà nước thì chẳng có gì thay đổi. Ông nhắm mắt làm ngơ trước sự thật hiển nhiên: đồng tiền là linh hồn của nhà nước. Hay ông định phủ nhận điều này? Thời cổ đại đã nhiễm tính tư bản rồi, vì tật sùng bái nhà nước. Thời Trung cổ Cơ Đốc giáo ngược lại đã nhận rõ bản chất tư bản chủ nghĩa của nhà nước thế tục. “Đồng tiền là hoàng đế” - đấy là một lời tiên đoán từ thế kỷ thứ mười một. Ông còn muốn chối cãi việc điều đó đã trở thành hiện thực và cùng với nó là sự sa đọa tột cùng của thế giới nữa hay không?”
“Bạn thân mến, ông là người dẫn dắt vấn đề. Tôi chỉ nóng lòng muốn biết lực lượng hùng mạnh kia, chủ thể của hành động ghê gớm ông đề cập tới là ai?”
“Quả là một sự tò mò liều lĩnh đối với người đại diện cho tầng lớp xã hội trọng tự do - nguyên nhân hủy diệt thế giới này. Tôi không cần một câu trả lời của ông, vì lý tưởng chính trị của tầng lớp tiểu tư sản tôi không còn lạ. Mục tiêu của các ông là thành lập một đế quốc dân chủ, hình thức nâng cao của nguyên tắc nhà nước ở phạm vi toàn cầu, một nhà nước chung cho toàn thế giới. Hoàng đế trị vì đế quốc này là ai? Chúng ta đã thấy rõ. Sự không tưởng của ông thật chẳng lời nào tả nổi, nhưng mà ở điểm này chúng ta lại gặp nhau phần nào. Bởi vì cái thế giới tư bản đại đồng của ông hóa ra cũng mang chút hơi hướng siêu việt, thật thế, nhà nước ở quy mô toàn thế giới chính là một siêu nhà nước, và chúng ta nhất trí với nhau ở niềm tin không gì lay chuyển nổi rằng, trạng thái hoàn thiện lúc ban đầu của nhân loại phải tương ứng với một trạng thái kết cục cũng hoàn thiện không kém ở nơi trời và đất hòa nhập vào nhau. Từ thời Giáo hoàng Gregor[273], người sáng lập ra nước Chúa, nhà thờ đã tự coi nhiệm vụ của mình là dẫn dắt loài người quay trở về trong vòng tay của Chúa. Quyền lực của Giáo hoàng không phải do ở ý muốn của bản thân ông ta, mà quyền lực ông ta nắm giữ chính là phương tiện, là con đường dẫn đến sự cứu rỗi, hình thức trung gian giữa nhà nước thế tục và nhà nước trên thiên giới. Trước mặt hai chàng trai ham học đây ông đã lớn tiếng chỉ trích những hành động đẫm máu của nhà thờ, về các hình phạt không khoan nhượng của Tòa án giáo hội - một lý lẽ hết sức khờ khạo, bởi tinh thần thánh chiến tất nhiên không thể hòa bình phi bạo lực được, như Giáo hoàng Gregor đã vạch rõ: ‘Đáng nguyền rủa thay kẻ nào không dám vung gươm làm đổ máu!’ Quyền lực là cái ác, điều đó ai cũng biết. Nhưng khi ngày tận thế đã tới thì sự đối lập giữa thiện và ác, giữa thế giới này và thế giới bên kia, giữa tinh thần và quyền lực tạm thời loại trừ lẫn nhau để trở thành một nguyên tắc chung, đó là sự thống nhất của khổ hạnh và thống trị. Đấy là cái mà tôi gọi là sự cần thiết của khủng bố.”
“Nhưng mà cái lực lượng thực hiện hành động ấy, đó là ai!”
“Ông còn phải hỏi? Chẳng phải những nhà tư tưởng xứ Manchester của ông đã không tìm ra một học thuyết xã hội nào giúp loài người khỏi bị các quy luật kinh tế chi phối, một học thuyết mà các nguyên tắc cơ bản và mục đích tối hậu hoàn toàn trùng lặp với nước Chúa của người Cơ Đốc giáo hay sao? Các cha trong nhà thờ luôn giảng ‘của tôi’ và ‘của anh’ là những từ ngữ xấu xa đáng nguyền rủa, của cải tư hữu là chiếm đoạt và trộm cắp. Họ bác bỏ sở hữu cá nhân, vì theo Chúa và theo quy luật tự nhiên thì trái đất thuộc về tất thảy mọi người, cho nên của cải vật chất nó sinh ra phải để phục vụ nhu cầu chung của xã hội. Các vị ấy dạy rằng, lòng tham, tính xấu bắt nguồn từ tội tổ tông, là đại diện của quyền sở hữu và hàng loạt đặc quyền đặc lợi khác. Họ cũng đủ nhân đạo, đủ phản thương mại để mệnh danh các hoạt động kinh tế là mối hiểm họa đối với sự cứu rỗi linh hồn, tức là mối hiểm họa đối với nhân loại. Họ căm ghét đồng tiền và các hoạt động thương mại thông qua tiền, họ gọi sự giàu có tư bản là củi nuôi ngọn lửa địa ngục. Nguyên tắc kinh tế coi giá cả là kết quả của mối quan hệ cung-cầu bị họ khinh bỉ tận đáy lòng, hoạt động đầu cơ dựa trên sự dao động của thị trường bị họ nguyền rủa là nhẫn tâm lợi dụng hoàn cảnh khó khăn của đồng loại. Còn một hình thức bóc lột trong mắt họ bị coi là đồi bại hơn nữa: đó là bóc lột thông qua thời gian, một hành vi vô liêm sỉ tột cùng, thủ lợi bằng lãi mẹ đẻ lãi con do thời gian không ngừng trôi, và bằng cách ấy lạm dụng thời gian, một tạo tác của Chúa, để làm lợi cho người này và làm hại người khác.”
“Benissimo!” Hans Castorp kêu lên, trong lúc cao hứng vô tình bắt chước ông Settembrini. “Thời gian... một tạo tác của Chúa... Lập luận tối quan trọng!”
“Dĩ nhiên”, Naphta tiếp tục. “Những con người nhân đạo ấy ghê tởm ý tưởng để cho tiền tự sinh ra tiền, cho vay lấy lãi và đầu cơ tích trữ bị họ lên án là bóc lột, theo họ một kẻ giàu có nếu không trộm cắp thì cũng thừa hưởng của trộm cắp. Họ còn đi xa hơn nữa, giống như Thomas Aquinas[274], họ coi thương mại nói chung, hoạt động trao đổi thuần túy, mua và bán để thu lời mà không chế tạo hay cải tạo mặt hàng nào, là một nghề đáng nguyền rủa. Thực ra họ không có ý coi trọng bản thân lao động, vì lao động là một hoạt động mang tính đạo đức chứ không phải tín ngưỡng, để phục vụ cuộc sống chứ không phục vụ Chúa. Và vì lao động chỉ nhằm phục vụ đời sống và kinh tế nên họ đòi hỏi sản xuất phải là điều kiện căn bản của quyền lợi kinh tế và là thước đo giá trị con người. Đối với họ, người nông dân, người thợ thủ công là những con người danh giá chứ không phải thương gia, không phải chủ hãng xưởng công nghiệp. Vì họ muốn hàng hóa được sản xuất theo nhu cầu của con người, và cực lực phản đối sản xuất hàng loạt. Giờ đây tất cả các nguyên tắc và giá trị tinh thần ấy, sau hàng trăm năm bị chôn vùi trong quên lãng, đã được phục hồi trong chủ nghĩa cộng sản hiện đại. Sự trùng hợp hoàn hảo cho đến tận ý nghĩa của việc đòi quyền thống trị, lao động quốc tế chống lại hoạt động thương mại và đầu cơ quốc tế, giai cấp vô sản toàn thế giới ngày nay đại diện cho tính nhân đạo và các tiêu chuẩn của nước Chúa đứng ra đương đầu với giai cấp tư sản-tiểu tư sản thối nát. Sự chuyên chính của giai cấp vô sản, yêu cầu kinh tế chính trị lành mạnh của thời đại, không có ý thống trị để phục vụ bản thân trong cõi vĩnh hằng, mà chỉ nhân danh thánh giá xóa bỏ có thời hạn sự đối lập giữa tinh thần và quyền lực, vượt ra khỏi sự trần tục bằng cách chế ngự nó, bằng sự quá độ, sự siêu nghiệm, để đạt đến nước Chúa. Giai cấp vô sản đã tiếp thu tư tưởng của Giáo hoàng Gregor, tinh thần thánh chiến sục sôi trong họ, và cũng như Gregor thuở trước, họ sẽ không chùn bước trước đầu rơi máu đổ. Nhiệm vụ của giai cấp vô sản là dùng bạo lực để cứu vớt thế giới và để đạt đến mục đích cứu rỗi, trở về làm con dân Chúa, phi nhà nước và phi giai cấp.”
Đó là lời giải đáp đanh thép của Naphta. Đám thính giả ít ỏi im phăng phắc. Hai người trẻ tuổi nhìn sang ông Settembrini đón đợi phản ứng của ông ta. Cuối cùng ông ta bảo:
“Đáng ngại. Phải thú thật là tôi rất kinh ngạc, tôi không ngờ đến kết cục này. Roma locuta[275]. Mà phán quyết như thế nào kia chứ! Trước mắt chúng ta ông Naphta đã làm một màn ảo thuật ngoạn mục kiểu thầy tu, nếu có gì tỏ ra mâu thuẫn thì sự mâu thuẫn liền được ‘tạm thời xóa bỏ’, a ha! Tôi xin nhắc lại: thật đáng ngại. Thưa giáo sư, chẳng hay ông có nghĩ đến sự kháng cự có thể nảy sinh không, khi cân nhắc hậu quả của điều ông ca tụng? Lúc trước ông vừa mới giảng giải cho chúng tôi về một cá nhân Cơ Đốc giáo mang trong mình nửa phần Chúa và nửa phần tự nhiên, và chứng minh sự ưu việt của nó trước hết nằm trong tư tưởng chính trị. Mấy phút sau ông đã cho nó dẫn dắt chủ nghĩa xã hội đến chỗ độc tài và khủng bố. Hai cái ấy làm sao có thể đi đôi được với nhau?”
“Những điều trái ngược”, Naphta đáp, “luôn luôn đi đôi với nhau. Chỉ có những thứ nửa vời và không hoàn chỉnh là rời rạc. Cái chủ nghĩa cá nhân của ông, tôi mạo muội nhận xét, là thứ nửa nạc nửa mỡ, ba phải. Nó thêm thắt vào cho mô hình nhà nước trần tục của ông một ít Cơ Đốc giáo, một ít ‘quyền cá nhân’, một ít cái được mệnh danh là tự do, chỉ có thế. Ngược lại, chủ nghĩa cá nhân thực thụ bắt nguồn từ tầm quan trọng vũ trụ học, chiêm tinh học của mỗi một linh hồn, một chủ nghĩa cá nhân không theo ý nghĩa xã hội mà theo ý nghĩa tín ngưỡng, một chủ nghĩa cá nhân mà trong đó phần con người không có gì mâu thuẫn với cái tôi và xã hội vì nó nằm trong cặp đối ngẫu giữa bản thân và Chúa, giữa xác thịt và tinh thần - một chủ nghĩa cá nhân đích thực, hoàn toàn thống nhất với cái chung...”
“Vô danh và tập thể”, Hans Castorp chen vào.
Settembrini quắc mắt nhìn chàng.
“Xin ông im đi, ông kỹ sư!” Ông ta quát lên chẳng còn nhã nhặn như thường lệ, lỗi bởi sự căng thẳng khiến ông ta không còn đầu óc đâu mà để ý đến phép xã giao nữa. “Ông hãy lắng nghe, nhưng cái gì chưa tiêu hóa được thì đừng có tuôn ra vội. Đấy là một câu trả lời”, ông ta lại quay sang phía Naphta. “Không mấy thỏa mãn, nhưng dù sao cũng là một câu trả lời. Chúng ta hãy cùng cân nhắc hậu quả... Cùng với việc phủ nhận công nghiệp hóa chủ nghĩa cộng sản Cơ Đốc giáo của ông đã khước từ luôn kỹ thuật, máy móc, văn minh tiến bộ. Cùng với việc bài trừ thương mại, tức là những hoạt động trao đổi thông qua đồng tiền - một nghề ở thời cổ đại được coi trọng hơn hẳn nông nghiệp hay thủ công nghiệp - ông đã bãi bỏ luôn cả tự do. Đây là một sự thật hiển nhiên đập ngay vào mắt người ta, vì cũng giống như ở thời Trung cổ, tất cả các mối quan hệ công tư đều gắn liền với đất đai, kể cả - nói ra điều này hoàn toàn không dễ đối với tôi - kể cả tư cách địa vị. Vì chỉ có đất đai nuôi sống con người, nên cũng chỉ có nó mang lại tự do cho con người. Thợ thủ công và nông dân, dù cho họ có được coi trọng đến mức nào đi chăng nữa, cũng không phải là tầng lớp sở hữu đất đai, cho nên họ phải làm nô lệ cho địa chủ và chúa đất. Thậm chí cho đến giai đoạn sau của thời Trung cổ phần lớn dân thành thị cũng vẫn còn là nô lệ. Nãy giờ ông có đôi khi nhắc tới phẩm giá con người. Thế mà ông lại đồng thời hăng hái bảo vệ một mô hình kinh tế không có tự do và không tôn trọng nhân cách.”
“Về phẩm giá và mất nhân cách”, Naphta trả lời, “còn phải tranh cãi nhiều nữa. Trước mắt tôi tạm hài lòng với việc vạch ra cho ông thấy ở đây tự do không phải là một từ sáo rỗng kêu choang choang mà phải nhìn nhận như một vấn đề nghiêm túc. Ông lập luận rằng, mô hình kinh tế của Cơ Đốc giáo, với đầy đủ sự ưu việt và tính nhân đạo của nó, tước đoạt tự do của con người. Ngược lại, tôi khẳng định rằng, vấn đề tự do, nói một cách cụ thể hơn là vấn đề đô thị, trong lịch sử luôn gắn liền với sự suy đồi vô nhân tính của nền kinh tế, kéo theo những hậu quả tàn bạo của hệ thống thương mại và hoạt động đầu cơ tích trữ với quyền lực ma quỷ của đồng tiền, của hệ thống tài chính.”
“Xin ông đừng ẩn nấp sau những lý sự vòng vo và ngụy biện, mà hãy thú nhận thẳng thắn, không lập lờ rằng ông ủng hộ hành động bạo lực đen tối nhất!”
“Bước đầu tiên dẫn đến tự do và nhân đạo là phải đánh tan nỗi sợ khái niệm ‘bạo lực’ đi.”
“Thôi đủ rồi”, ông Settembrini kết luận giọng hơi rung rung, vừa nói vừa đẩy tách trà và đĩa bánh đã trống trơn ra xa, quả quyết đứng lên khỏi chỗ. “Hôm nay thế là đủ, đi một ngày đàng học thế là nhiều rồi. Ông giáo sư, xin cảm ơn ông về lòng hiếu khách và cuộc mạn đàm trí tuệ vừa rồi. Các bạn tôi ở ‘Sơn trang’ còn phải về làm nhiệm vụ, và tôi thì tha thiết muốn giới thiệu tệ xá của mình với họ trước lúc chia tay. Ta đi thôi, các ông. Tạm biệt đức cha!”
Bây giờ ông ta còn công khai gọi Naphta là “đức cha” nữa! Hans Castorp nhướng mày tự nhủ. Họ để cho ông Settembrini chủ động chấm dứt cuộc chuyện trò và quyết định thay cho mình bất kể Naphta có đồng ý hay không. Hai người trẻ tuổi lịch sự chia tay chủ nhà, không quên cảm ơn sự tiếp đón nồng hậu và được ông ta khuyến khích lần sau cứ tới. Rồi họ lót tót đi theo ông người Ý, Hans Castorp khư khư cắp trên tay cuốn Bàn về nỗi khổ nhân gian dày cộp đóng bìa cứng mốc meo mà chủ nhà dúi cho trước lúc giã từ. Ông Lukaček cau có với bộ ria quặp vẫn ngồi trên bàn cặm cụi may chiếc áo có tay cho một mệ già nào đó, chẳng buồn ngẩng lên nhìn lúc cả đoàn diễu qua cánh cửa mở thông thống để leo mấy bậc thang gần như dốc đứng lên tầng áp mái. Tới nơi mới thấy đây chẳng phải là một tầng gác hoàn chỉnh. Đó chỉ là khoảng không gian dưới cái mái nhà nhọn, rầm kèo lộ hết cả ra dưới lớp ngói lợp, sực mùi gỗ và nóng hầm hập trong bầu không khí mùa hạ như trong một cái nhà kho. Khoảng trống không đều ấy được chia làm hai gian, và đó là tệ xá của con người đại diện cho chủ nghĩa tư bản và tư tưởng cộng hòa, được dùng làm chỗ ngủ và nơi làm việc để ông ta đóng góp trí tuệ cho công cuộc soạn thảo bộ từ điển bách khoa Xã hội học luận về đau khổ. Ông ta vui vẻ chỉ cho hai người bạn trẻ chỗ ở của mình, miêu tả hai cái khoang hẹp ấy một cách văn hoa là biệt lập và ấm cúng - để họ đỡ tốn công tìm từ trong trường hợp muốn khen ngợi căn gác trọ của ông ta - hai anh em vội đồng thanh lên tiếng phụ họa với chủ nhà. Họ thấy căn gác này rất dễ thương, biệt lập và ấm cúng, đúng như lời miêu tả của ông Settembrini. Hai người tham quan một lượt gian phòng ngủ tí xíu với tấm thảm ghép trải trước cái giường vừa ngắn vừa hẹp kê sát bức tường áp mái rồi quay trở lại phòng làm việc cũng với trang bị sơ sài không kém nhưng được giữ gìn ngăn nắp trật tự đến mức lạnh lẽo. Bốn chiếc ghế bành cổ lỗ sĩ thô kềnh kệch, mặt ghế nhồi rơm, chầu chực đối xứng hai bên cửa, cái đi văng dài bị đẩy vào sát tường để cho chiếc bàn tròn phủ khăn xanh đứng trơ trọi giữa phòng, trên bàn đặt một bình nước với cái ly úp ngược trên cổ, chẳng biết nhằm mục đích trang trí hay giải khát, nhưng chỉ gây ấn tượng cô quạnh như mọi đồ vật khác trong phòng. Sách vở, quyển có đóng gáy quyển không, đứng nghiêng nghiêng úp lưng vào nhau trên cái giá nhỏ đóng áp vào tường, cạnh khung cửa sổ mở toang là một cái bục viết chân cao có nắp đóng mở với một tấm dạ dày trải dưới sàn vừa đủ chỗ đặt chân cho một người đứng viết. Hans Castorp thử đứng lên đó - bên chiếc bàn làm việc của ông Settembrini, nơi ông ta dày công nghiên cứu văn chương để soạn nên bộ bách khoa toàn thư về nỗi đau khổ của con người - chàng chống cùi chỏ lên mặt bàn dốc nhẹ và nhận xét rằng chỗ này cũng cho phép người ta đứng làm việc một cách rất biệt lập và ấm cúng. Có lẽ ngày xưa cụ thân sinh ra Lodovico Settembrini cũng đứng như thế trong gian phòng làm việc của mình ở Padua, vùi đầu vào sách vở với cái mũi La Mã vừa dài vừa thẳng? Chủ nhân xác nhận đây đúng là chiếc bàn làm việc của người cha bác học đã quá cố của mình, và cả những chiếc ghế bành nhồi rơm, chiếc bàn cùng cái bình nước đều là đồ vật ông được thừa hưởng của ông cụ, hơn thế nữa, những chiếc ghế bành thậm chí còn là vật sở hữu của ông nội Settembrini - người ông cách mạng, thành viên hội kín Carbonari - và chúng đã có thời đứng trang điểm cho văn phòng luật sư của ông ta ở Milan. Xác nhận ấy gây ấn tượng ngay lập tức cho các vị khách. Hình thù cổ quái của mấy chiếc ghế bỗng có cái gì khiêu khích và bạo động trong con mắt hai người trẻ tuổi, Joachim vừa mới vô tình chọn tư thế ngồi vắt chân chữ ngũ thoải mái trên một trong bốn chiếc ghế, nghe thấy thế vội đứng phắt dậy đưa mắt nhìn nghi ngại và nhất quyết không chịu ngồi xuống nữa. Hans Castorp vẫn đứng bên cái bục viết của Settembrini cha mà ngẫm nghĩ, không hiểu Settembrini con làm thế nào kết hợp được tư tưởng chính trị của người ông với tư tưởng nhân đạo của người cha vào văn chương của chính mình. Rồi cả ba lục tục xuống gác. Ông văn sĩ tình nguyện tiễn chân hai anh em họ về lại an dưỡng đường.
Ba người lặng thinh suốt một khúc đường, nhưng lần này nguyên nhân của sự im lặng là Naphta, và Hans Castorp gan lì đợi: chàng biết chắc thể nào ông Settembrini cũng lên tiếng nói về người cùng ở trọ với mình, chỉ vì lẽ đó mà ông ta đi cùng họ. Chàng đoán chẳng hề sai. Sau khi thở ra một hơi dài như thể lấy đà ông người Ý cất tiếng:
“Thưa các ông, xin các ông hãy cảnh giác.”
Vì ông ta ngừng lời nên Hans Castorp hỏi lại với vẻ ngạc nhiên vờ vịt tự nhiên nhất trần đời: “Cảnh giác ư, tại sao?” Lẽ ra chàng có thể hỏi: ‘Cảnh giác đối với ai?’ Nhưng chàng cố tình chọn cách hỏi có vẻ khách quan hơn, mặc dù ngay đến Joachim cũng thừa biết ông ta muốn nói gì.
“Cảnh giác đối với con người mà chúng ta vừa đến thăm”, Settembrini trả lời, “người mà tôi đã giúp các ông làm quen trái với ý muốn và dự tính của mình. Như các ông biết đấy, số phận đã tình cờ xui khiến các ông gặp ông ta, tôi không thể làm thế nào khác được, nhưng tôi vẫn cảm thấy mình phải có trách nhiệm trong chuyện này, một trách nhiệm nặng nề. Tôi tự thấy mình có nghĩa vụ ít nhất cũng phải lưu ý các ông về những nguy hiểm tinh thần rình rập các ông trong mối quan hệ với con người này, và đề nghị các ông hãy cố gắng hạn chế mối giao lưu ấy trong chừng mực có thể. Ông ta là người xanh vỏ đỏ lòng, hình thức thì logic, nhưng bản chất rất hỗn độn.”
Đương nhiên, Hans Castorp cũng bày tỏ quan điểm của mình, Naphta rõ ràng chẳng phải là người dễ chịu gì, đôi khi ông ta phát ngôn ra những điều không thể chấp nhận được, chẳng lẽ ông ta thực sự tin rằng mặt trời quay quanh trái đất hay sao. Nhưng xét cho cùng thì làm sao hai anh em họ dám có ý nghĩ rằng việc giao thiệp với một người bạn của ông Settembrini lại có thể phương hại cho họ được?
Chính Settembrini cũng thừa nhận mình là người đã giúp họ làm quen với Naphta, họ gặp ông ta cặp kè với ông kia, ông ta đi dạo với ông kia, xuống uống trà ở nhà ông kia, thế có nghĩa là...
“Đúng thế, ông kỹ sư, đúng thế.” Giọng ông Settembrini vẫn nhẹ nhàng nhẫn nại, chỉ hơi thoáng một nét rung. “Đúng là tôi đã xử sự như vậy, và vì thế ông có quyền chất vấn tôi. Được, tôi sẵn sàng trả lời ông. Tôi sống chung dưới một mái nhà với con người này, ra vào chạm trán nhau là điều không thể tránh khỏi, từ chào hỏi đến chỗ làm quen. Ông Naphta là người có đầu óc, hiếm hoi lắm mới gặp được một người như thế. Ông ấy ưa biện luận, tôi cũng vậy. Ai trách thì tôi đành chịu, nhưng tôi không muốn bỏ lỡ cơ hội so lưỡi gươm tư tưởng với một đối thủ ngang sức ngang tài. Quanh đây tôi nào còn ai nữa đâu... Tóm lại, đúng thế, tôi đến chỗ ông ta, ông ta đến chỗ tôi, chúng tôi cùng đi dạo. Và chúng tôi tranh cãi. Chúng tôi cạp nhau tóe máu mỗi ngày, nhưng phải thú thật là những đối kháng và thù địch lại làm cho ông ta càng trở nên hấp dẫn đối với tôi, khiến tôi vẫn tìm cách gặp gỡ ông ta. Tôi cần có sự cọ xát. Tư tưởng không sống được nếu không có cơ hội đấu tranh, và trong cuộc đọ sức ấy tôi đã có vũ khí là quan điểm vững chắc của mình. Còn các ông, liệu các ông có thể tự vệ được không, ông thiếu úy, ông kỹ sư? Các ông chưa đủ miễn dịch để có thể kháng cự lại những nọc độc trí tuệ này, dưới tác động của những lý lẽ ngụy biện nửa cuồng tín nửa bạo lực ấy, các ông có nguy cơ bị tổn hại cả về trí tuệ lẫn linh hồn.”
Vâng, vâng, Hans Castorp đáp, đúng lắm, anh họ chàng và chàng, cả hai không ít thì nhiều đều thuộc loại kém sức đề kháng. Họ là những học sinh cá biệt của trường đời, họ biết chứ. Nhưng ngược lại người ta cũng có thể trích dẫn lời Petrarca, hẳn ông Settembrini còn nhớ[276], vả lại nói gì thì nói những lý luận của Naphta cũng có cái đáng nghe: công bằng mà xét, đoạn ông ta nói về chủ trương cấm cho vay tính lãi theo thời gian rất tuyệt, hơn nữa chàng còn muốn tận dụng cơ hội này để tìm hiểu thêm một đôi điều về giáo dục mà nếu không gặp Naphta thì có lẽ chẳng bao giờ chàng được biết...
Ông Settembrini mím chặt môi, và Hans Castorp vội vã chữa lời, rằng bản thân chàng dĩ nhiên không đứng về phe nào cả và cũng không muốn đánh giá hơn kém gì ở đây, chàng chỉ thấy những điều Naphta nói về khát vọng của tuổi trẻ là rất đáng nghe. “Chỉ xin ông giải thích giúp tôi một điều”, chàng tiếp tục. “Cái ông Naphta này - tôi nói ‘cái ông’ là để tỏ rõ tôi không hề có cảm tình với ông ta, ngược lại là đằng khác, trong thâm tâm tôi vẫn cẩn thận giữ khoảng cách...”
“Làm thế chỉ tốt cho ông thôi!” Settembrini hài lòng.
“... ông ấy có một mớ lý lẽ đả phá đồng tiền, linh hồn của nhà nước theo cách nói của ông ta, và cực lực chống tư hữu, vì tài sản là đồ ăn cắp, tóm lại ông ta phản đối sự giàu sang của tư bản chủ nghĩa mà ông ta gọi là củi nuôi ngọn lửa địa ngục - nếu tôi không lầm thì ông ta đã sử dụng những từ ngữ đại loại như vậy - và ông ta ca ngợi chính sách cấm cho vay nợ lãi thời Trung cổ. Nhưng đồng thời bản thân ông ta lại... Xin lỗi ông, nhưng mà ông ta chắc chắn có... Từ ngoài bước vào chỗ ở của ông ta người ta phải té ngửa vì kinh ngạc. Những lụa là ấy...”
“Chà”, Settembrini mủm mỉm cười, “đấy cũng là một cái gu.”
“... và đồ đạc sang trọng”, Hans Castorp liệt kê, “bức tượng tôn giáo từ thế kỷ mười bốn... ngọn đèn chùm pha lê Venezia... thằng nhỏ gia nhân mặc đồng phục... và bánh ga tô xốp nữa, bao nhiêu thứ. Thế có nghĩa là bản thân ông ta...”
“Ông Naphta”, Settembrini bảo, “cũng chẳng giàu có gì hơn tôi.”
“Thế thì ông ta lấy đâu ra...” Hans Castorp ngớ ra. “Trong lời giải thích của ông có một chỗ không ổn, thưa ông Settembrini.”
“Dĩ nhiên họ không để cho người của họ thiếu thốn rồi.”
“”Họ” là ai?”
“Thì mấy đức cha.”
“Mấy đức cha? Cha nào?”
“Ơ kìa, ông kỹ sư, các cha dòng Tên chứ còn cha nào nữa!”
Sau đó là một quãng lặng. Hai anh em bất ngờ đến nỗi không thốt được lời nào. Cuối cùng Hans Castorp kêu lên:
“Sao cơ, trời đất ơi, lạy Chúa, mẹ kiếp - ông ta là thầy tu dòng Tên?”
“Ông đoán chẳng sai”, ông Settembrini vẫn hết sức lịch thiệp.
“Không, thật tôi chẳng bao giờ... Ai mà ngờ được! Hóa ra vì thế mà lúc nãy ông gọi ông ta là ‘đức cha’?”
“Tôi có hơi cường điệu một chút”, Settembrini bảo. “Ông Naphta không phải là linh mục. Bệnh tật là lý do khiến ông ta tạm thời chưa được phong chức này. Ông ta đã hoàn thành giai đoạn thử thách và trải qua kỳ khấn nguyện thứ nhất thì căn bệnh quái ác này phát ra ngăn cản ông ta tiếp tục việc tu tập. Sau đó ông ta còn giữ chức giám hộ vài năm ở một chủng viện của dòng tu, tức là làm người đứng đầu giám sát, cai quản các chủng sinh ở trường dòng. Việc làm ấy giúp ông ta tạm thời thỏa mãn hứng thú sư phạm của mình. Lên tới trên này ông ta vẫn còn muốn dạy dỗ người khác, bây giờ là dạy tiếng Latinh ở trường trung học Fridericianum. Ông ấy ở đây đã năm năm rồi. Không ai biết bao giờ ông ta có thể rời khỏi chốn này, thậm chí chẳng biết liệu có ngày ấy hay không nữa. Nhưng dù sao ông ta cũng là người của dòng tu, và mặc dù ông ta không còn sinh hoạt chung với họ, họ cũng vẫn lo liệu chu toàn cho ông ta. Như tôi đã nói, bản thân ông ta nghèo rớt mùng tơi, có thể bảo là vô sản tuyệt đối. Tất nhiên đấy cũng là giới luật. Nhưng dòng tu của họ thì giàu nứt đố đổ vách, và họ rất hào phóng với người của mình, như ông thấy đấy.”
“Thần sấm thiên lôi”, Hans Castorp lẩm bẩm. “Vậy mà tôi không hề biết và chẳng bao giờ ngờ được là trên đời lại vẫn còn những chuyện như thế! Một tu sĩ dòng Tên! Thật tình! Nhưng xin ông giải thích giùm tôi một điểm này nữa: Nếu ông ta được họ chu cấp cho đầy đủ như vậy thì tại sao ông ta lại chui rúc... Dĩ nhiên tôi không có ý chê bai chỗ ở của ông, thưa ông Settembrini, ông có một căn gác trọ rất dễ thương chỗ ông Lukaček, biệt lập, thoải mái và thêm vào đó lại còn đặc biệt ấm cúng. Tôi chỉ thắc mắc là: nếu quả thực ông Naphta, nói một cách dân dã là chỉ việc ngồi mát ăn bát vàng, thì tại sao ông ta không kiếm một chỗ ở khang trang hơn, nhà cao cửa rộng hơn, một chỗ nào đó sang trọng hơn chẳng hạn? Ngược lại ông ta náu mình trong một cái hốc bề ngoài xập xệ còn bên trong đầy ắp nhung lụa, cứ như thể ông ta muốn giấu giếm...” Settembrini nhún vai.
“Chắc hẳn có những lý do tế nhị và cũng tùy thị hiếu riêng”, ông ta bảo. “Tôi đồ rằng ông ta chọn cách tá túc trong nhà một người nghèo để dẹp yên cái lương tâm bài tư bản của mình, nhưng đồng thời vẫn muốn hưởng thụ theo cách mà ông ta muốn. Ngoài ra kín đáo cũng đóng một vai trò không nhỏ trong chuyện này. Dĩ nhiên người ta không muốn chiềng ra trước mắt bàn dân thiên hạ sự sung túc do đi đêm với quỷ. Người ta nấp đằng sau một cái mặt tiền hoàn cảnh để kín đáo hưởng thụ sự vương giả của nhà thờ...”
“Kỳ quá!” Hans Castorp bảo. “Thú thật là điều này thực sự mới mẻ và hoàn toàn bất ngờ đối với tôi. Không, chúng tôi đúng ra phải cảm ơn ông rất nhiều, ông Settembrini, vì ông đã giới thiệu ông ta với chúng tôi. Ông biết không, chúng tôi thế nào cũng còn phải đến thăm ông ta một đôi lần nữa. Nhất định thế. Đây là cơ hội tốt để mở rộng tầm mắt và đặt chân vào một thế giới mà trước nay tôi không ngờ có sự tồn tại của nó. Một tu sĩ dòng Tên chính cống! Bảo rằng “chính cống” là tôi đã cố ý chọn lựa từ ngữ cho phù hợp với những hình dung trong đầu và những nhận xét của mình. Tôi tự hỏi: liệu ông ta có “chính” không? Tôi biết, ông sẽ bảo rằng một người sống trong sự sung túc do đi đêm với quỷ thì chỉ có tà chứ không thể nào chính được. Nhưng ý tôi muốn nói là: liệu ông ta có đích thực là một tu sĩ dòng Tên theo đúng nghĩa của nó không? Đấy, thắc mắc ấy cứ ám ảnh đầu óc tôi.
Ông ta có những nhận định - ông chắc cũng biết tôi muốn nói đến điều gì - về chủ nghĩa cộng sản hiện đại và về tinh thần thánh chiến của giai cấp vô sản khiến họ không chùn tay trước đầu rơi máu đổ - tóm lại, ông ta phát ngôn toàn những điều sởn tóc gáy, so sánh với những điều đó thì ông nội ông với mũi giáo của nhân dân chỉ như con cừu non mà thôi, xin ông thứ lỗi cho cách diễn đạt của tôi. Liệu ông ta có được phép nói thế không? Bề trên của ông ta có tán thành tư tưởng ấy không? Liệu điều đó có phù hợp với giáo lý của Tòa thánh La Mã mà dòng tu của họ không từ thủ đoạn nào tìm cách truyền bá khắp nơi trên thế giới? Chẳng phải nói thế là - họ dùng từ gì ấy nhỉ - tà đạo, lầm đường lạc lối, sai trái? Đó là những thắc mắc của tôi về ông Naphta, và tôi rất mong mỏi được nghe ý kiến của ông.” Settembrini mỉm cười.
“Đơn giản lắm. Ông Naphta trước hết là người của dòng tu Tên Thánh, đích thực và trọn vẹn. Nhưng bên cạnh đó ông ta lại là con người có trí tuệ - nếu không tôi đã chẳng giao thiệp với ông ta làm gì - và vì thế ông ta luôn tìm cách kết hợp, thích nghi, liên hệ, và biến đổi cho phù hợp với tinh thần thời đại. Ông hẳn cũng thấy tôi ngạc nhiên thật sự khi nghe những lý luận của ông ta. Ông ta chưa bao giờ thổ lộ với tôi nhiều như thế. Tôi đã tận dụng sự có mặt của các ông để nhử ông ta ra khỏi chỗ ẩn nấp, để buộc ông ta phải bộc lộ hết quan điểm của mình về vấn đề này. Và ông ta đã nói ra những điều thật kỳ quặc, thật quái gở...”
“Vâng, vâng, nhưng mà tại sao ông ta không trở thành linh mục? Ông ta thừa đủ tuổi để làm linh mục rồi mà.”
“Như tôi đã nói với ông, bệnh tật là lý do khiến ông ta tạm thời chưa được thụ phong.”
“Vâng, nhưng mà chẳng phải ông định nói rằng: nếu ông ta thứ nhất là một tu sĩ dòng Tên và thứ hai là một con người trí tuệ, với những tư tưởng mới - thì có phải điều thứ hai này dính líu tới bệnh tật của ông ta?”
“Ông định ám chỉ điều gì?”
“Không, không, ông Settembrini. Tôi chỉ muốn nói rằng, ông ta có một vết ướt trong phổi, và nó ngăn cản ông ta trở thành linh mục. Nhưng mà những tư tưởng của ông ta cũng có thể ngăn cản ông ta tận tâm với nhà thờ, và như thế - ở một mức độ nào đó - cũng có thể nói rằng các tư tưởng kia cũng giống như vết ướt nọ. Ông ta, theo kiểu của mình, cũng là một dạng học sinh cá biệt của trường đời, một tu sĩ dòng Tên với một vết ướt nho nhỏ.”
Họ đã về tới an dưỡng đường. Trước khi chia tay cả ba còn nán lại thành một nhóm nhỏ trên mảnh sân lưỡi trai trước cổng viện tiếp tục bàn luận sôi nổi và gặt hái được nhiều ánh mắt hiếu kỳ của những bệnh nhân đang thơ thẩn gần đó. Ông Settembrini bảo:
“Tôi xin nhắc lại lần nữa, các bạn trẻ thân mến, hãy đề cao cảnh giác. Tôi không thể ngăn cản các ông vun đắp cho mối quan hệ mới nảy mầm kia lớn mạnh, nếu lòng hiếu kỳ thôi thúc các ông làm điều đó. Nhưng xin các ông hãy trang bị cho trái tim và khối óc mình vũ khí hoài nghi, xin các ông đừng quên phê bình và phản kháng. Đối với các ông tôi chỉ cần một lời để tả con người ấy. Ông ta là một kẻ đầy dục vọng.”
Hai anh em bất giác nhăn mặt. Hans Castorp lên tiếng hỏi:
“Ông ta... sao cơ ạ? Xin lỗi ông, nhưng ông ta thuộc về một dòng tu. Theo chỗ tôi được biết thì ở đó họ có những giới luật nhất định, đấy là chưa kể người ngợm ông ta có tí xíu và lại ốm yếu thế kia...”
“Ông đừng nói năng hồ đồ thế, ông kỹ sư”, Settembrini quở. “Chuyện này chẳng liên quan gì đến thể trạng ốm yếu của ông ta, còn các giới luật cũng chỉ tương đối thôi. Ở đây tôi muốn nói theo một nghĩa khái quát và có tính trí tuệ hơn, điều mà theo thiển ý của tôi các ông có thừa khả năng để hiểu. Hẳn ông còn nhớ cái lần tôi đến thăm ông trên phòng - cách đây đã lâu, lâu lắm rồi - hồi ấy ông còn bị chỉ định nằm yên trên giường, sau lần khám đầu tiên...”
“Tất nhiên! Ông đến trong bóng chiều nhập nhoạng và bật đèn sáng trưng cả phòng, tôi còn nhớ rõ như mới ngày hôm qua...”
“Vâng, hôm ấy ông và tôi đã trò chuyện, như chúng ta ơn Chúa vẫn thường làm, và đã động chạm đến một vài vấn đề quan trọng. Tôi tin rằng chúng ta đã tranh luận về cái chết và sự sống, về sự cao cả của cái chết chừng nào nó còn là một tiền đề và một bộ phận của sự sống, và về sự biến dạng ma quái khi nó bị tách rời trong ý thức như là một yếu tố riêng biệt. Thưa các ông!” Ông Settembrini bước dấn tới sát ngay trước mặt hai chàng trai trẻ, ngón cái và ngón giữa bàn tay trái xòe ra chĩa về phía họ trong khi ngón trỏ bàn tay phải giơ lên cảnh cáo: “... Mong các ông hãy ghi nhớ điều này, ý thức tồn tại hoàn toàn độc lập, tư tưởng của nó hoàn toàn tự do, và nó quy định các giá trị đạo đức trong xã hội. Nếu nó tách riêng ra để đối lập với cái chết thì vô hình trung thông qua tư tưởng nó lại hiện thực hóa cái chết, và trên thực tế, actu[277], các ông hiểu ý tôi chứ, cái chết sẽ trở thành một sức mạnh độc lập đối chọi với sự sống, sẽ trở thành một sự cám dỗ to lớn, và vương quốc của nó là dục vọng. Các ông sẽ hỏi tôi, tại sao lại là dục vọng? Tôi xin trả lời: vì cái chết kết liễu và giải thoát, vì nó là sự cứu rỗi, nhưng không phải cứu rỗi khỏi những cái đen tối, mà là một sự cứu rỗi đen tối. Nó nới lỏng phong tục và đạo đức, nó giải thoát con người khỏi tư cách và hạnh kiểm, nó mở đường cho dục vọng. Tôi nhắc nhở các ông phải cảnh giác trước con người mà tôi đã miễn cưỡng giới thiệu với các ông, tôi yêu cầu các ông khi giao lưu đàm đạo với ông ta phải rào kỹ tim mình bằng ba vòng xét đoán, vì tất cả tư duy của ông ta bị chi phối bởi dục vọng, bởi toàn bộ ý thức của ông ta khuất bóng dưới sức mạnh của cái chết - một sức mạnh tráo trở không lường như hồi đó tôi đã trình bày với ông, ông kỹ sư - tôi không quên những gì mình đã nói, tôi ưa ghi nhớ những lập luận đắc dụng và xác đáng thỉnh thoảng mình có dịp nói ra - một sức mạnh đối nghịch với đạo đức, tiến bộ, lao động và cuộc sống, và bảo vệ những tâm hồn non trẻ khỏi hơi thở xú uế của nó là trách nhiệm cao quý nhất của người thầy.”
Không ai có thể phát biểu hùng hồn hơn ông Settembrini, không ai có thể nói rành mạch và trôi chảy hơn ông ta. Hans Castorp và Joachim Ziemßen bẽn lẽn cảm ơn những lời giáo huấn vừa được nghe, lễ phép chia tay ông ta rồi leo lên mấy bậc tam cấp đi vào cổng ‘Sơn trang’, trong lúc ông Settembrini trở về với cái bục viết đầy tính nhân văn của mình, cao hơn gian phòng đầy lụa của Naphta một tầng thang gác.
Đó là chuyến viếng thăm đầu tiên của hai anh em ở chỗ Naphta, mà diễn biến đã được chúng tôi ghi chép tỉ mỉ ở đây. Sau đó họ còn tới thăm ông ta hai hay ba lần nữa, một lần thậm chí không có mặt ông Settembrini, và lần thăm nào cũng mang đến cho chàng trẻ tuổi Hans Castorp bao nhiêu điều để suy ngẫm trong những lúc chàng ngồi một mình ở chốn tịch liêu tím biếc hoa rừng, hình ảnh cao quý của sự sống tên gọi Homo Dei chập chờn trước mắt, lo ‘cai trị’.
Núi Thần Núi Thần - Thomas Mann Núi Thần