Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Xứ Cát
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 37
T
rong mọi vật đều có một mẫu hình nào đó vốn là một phần của vũ trụ. Nó có sự cân đối, thanh lịch và tao nhã, những phẩm tính mà ta luôn thấy ở những gì người nghệ sĩ đích thực nắm bắt được. Ta có thể tìm thấy nó vào những lúc chuyển mùa, trong dáng vẻ cát trườn dọc theo gờ đá, trong những chùm nhánh của bụi cây creosote hay trong mẫu hình những chiếc lá của nó. Chúng ta cố sao chép những mẫu hình đó trong cuộc sống và xã hội của chúng ta, tìm kiếm những tiết tấu, vũ điệu, những hình thức mang lại niềm thanh thản. Thế nhưng, cũng có thể nhìn thấy hiểm họa ẩn trong việc đi tìm sự hoàn hảo tối hậu. Rõ ràng mẫu hình tối ưu hàm chứa sự bất biến của nó. Trong sự hoàn hảo như vậy, mọi vật đều tiến về cái chết.
- trích từ "Tuyển Dụ ngôn của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
Paul Muad'Dib nhớ lại rằng đã có một bữa ăn nồng đượm tinh chất hương dược. Chàng bám lấy ký ức này bởi nó là một mỏ neo và từ vị trí này chàng có thể tự nhủ rằng trải nghiệm vừa rồi của chàng ắt phải là một giấc mơ.
Ta là một nhà hát của các vở diễn, chàng tự nhủ. Ta là con mồi của sự thấu thị bất toàn, của ý thức giống nòi và cái mục đích kinh khủng của nó.
Thế nhưng, chàng không thoát khỏi nỗi sợ rằng bằng cách nào đó chàng đã vượt quá chính mình, đã đánh mất vị trí của mình trong thời gian, nên quá khứ, tương lai và hiện tại đã hòa nhập vào nhau không phân biệt được. Đó là một kiểu mỏi mệt về thị giác và, chàng biết, nó bắt nguồn từ sự cần thiết phải liên tục nắm giữ tương lai tiên tri như một loại ký ức mà về thực chất là một cái thuộc về quá khứ.
Chani đã sửa soạn bữa ăn cho ta, chàng tự nhủ.
Thế nhưng Chani đang ở mãi phía Nam - ở cái xứ lạnh nơi mặt trời thì nóng - náu mình ở một trong các thành trì sietch mới, an toàn cùng đứa con của hai người, Leto II.
Hay đó là điều vẫn chưa xảy ra?
Không, chàng tự trấn an mình, bởi Alia-Kẻ-Xa-Lạ, em gái chàng, đã đến đó cùng mẹ chàng và Chani - một chuyến đi dài hai mươi dùi gọi về phía Nam, ngồi trên chiếc kiệu dành cho Mẹ Chí tôn gắn chặt lên lưng một Ngài tạo chưa thuần.
Chàng gạt sang một bên ý nghĩ về việc cưỡi những con sâu khổng lồ, tự hỏi: Hay Alia vẫn chưa ra đời nhỉ?
Khi đó mình đang trong cuộc razzia, Paul nhớ lại. Chúng ta đang đột kích nhằm giành lại nước của những người phe ta đã chết ở Arrakeen. Và ta tìm thấy di hài của cha ta trên giàn hỏa táng. Ta cất giữ sọ cha ta vào một mô đá Fremen nhìn xuống Đèo Harg.
Hay chuyện đó chưa xảy ra?
Những vết thương của ta là thật, Paul tự nhủ. Những vết sẹo của ta là thật. Ngôi miếu thờ đầu lâu cha ta là thật.
Vẫn trong trạng thái như mơ, Paul nhớ lại rằng Harah, vợ của Jamis, đã có lần xộc vào phòng chàng mà nói đang có một trận đánh nhau trong hành lang của sietch. Đó là sietch trung gian trước khi phụ nữ và trẻ em được cho tiến sâu hơn về phía Nam. Khi đó Harah đứng nơi lối vào buồng trong, những món tóc đen của chị ta cột ra phía sau bằng chuỗi vòng đếm nước. Chị ta vẹt những tấm rèm ngăn cửa buồng sang bên, bảo rằng Chani vừa giết ai đó.
Điều này đã xảy ra, Paul tự nhủ. Điều này là thực, không phải sinh ra ngoài dòng thời gian của nó và có thể thay đổi được.
Paul nhớ lại chàng đã hộc tốc lao ra, thấy Chani đang đứng dưới những chiếc đèn cầu hành lang màu vàng, quấn quanh người tấm áo dài xanh rực rỡ, mũ trùm hất ra sau, khuôn mặt nhỏ nhắn của nàng đỏ bừng lên vì gắng sức. Nàng đang tra dao vào vỏ. Một nhóm người lộn xộn đang hối hả khiêng một vật nặng đi về phía cuối hành lang.
Và Paul nhớ khi đó chàng tự nhủ: Mỗi khi người ta đang khiêng một cái xác đi, chỉ nhìn là biết.
Những vòng đếm nước của Chani - mà nàng mang công khai trong sietch này trên một sợi dây đeo quanh cổ - kêu lanh canh khi nàng ngoảnh lại phía chàng.
"Chani, chuyện gì vậy?" chàng hỏi.
"Em loại bỏ một kẻ đến thách anh đấu tay đôi, Usul ạ."
"Em đã giết anh ta?"
"Vâng. Nhưng có lẽ em nên nhường hắn lại cho Harah."
(Và Paul nhớ lại khuôn mặt những người đang đứng quanh họ biểu lộ lòng cảm kích khi nghe những lời đó. Ngay cả Harah cũng bật cười.)
"Nhưng anh ta tới thách thức anh mà."
"Chính anh đã dạy em cung cách huyền thuật kia mà, Usul."
"Thì hẳn thế! Nhưng em không nên..."
"Em sinh ra trong sa mạc, Usul ạ. Em biết cách dùng dao pha lê."
Chàng nén giận, cố nói ôn tồn. "Có thể đúng vậy, Chani à, nhưng..."
"Em không còn là đứa trẻ săn bọ cạp trong sietch dưới ánh sáng đèn cầm tay nữa, Usul ạ. Em không chơi trò trẻ con nữa."
Paul nhìn nàng trừng trừng, nhận thấy sự tàn bạo kỳ quặc ẩn dưới vẻ tự nhiên như không của nàng.
"Hắn không xứng đáng, Usul ạ," Chani nói. "Em sẽ không quấy rầy những lúc trầm tư mặc tưởng của anh vì những hạng người như vậy đâu." Nàng lại gần hơn, lén nhìn chàng, hạ giọng xuống để chỉ mình chàng nghe.
"Và, anh yêu ạ, khi người ta biết được rằng một kẻ thách đấu có thể sẽ phải đối mặt với em và sẽ bị đẩy đến cái chết ô nhục bởi tay người đàn bà của Muad'Dib thì số kẻ thách đấu sẽ bớt đi."
Phải, Paul tự nhủ, nhất định điều đó đã xảy ra. Đó là quá khứ-sự thật. Và con số những kẻ thách đấu nhằm kiểm tra lưỡi dao mới của Muad'Dib quả thật đã giảm rất nhiều.
Ở đâu đó, trong một thế giới không-phải-của-giấc-mơ, dường như có gì đó chuyển động, tiếng kêu của một con chim đêm.
Mình mơ, Paul tự trấn an mình. Ấy là do bữa ăn bằng hương dược.
Thế nhưng, đâu đó trong chàng vẫn có cảm giác bị bỏ rơi. Chàng tự hỏi liệu có thể nào linh hồn-ruh của chàng bằng cách nào đó đã chuồi vào cái thế giới nơi người Fremen tin rằng hiện hữu đích thực của chàng ở đấy - vào alam al-mithal, thế giới của những cái tương đồng, cõi siêu hình nơi mọi giới hạn vật lý đều bị triệt tiêu. Và chàng biết nỗi sợ khi nghĩ về một nơi như thế, bởi triệt tiêu mọi giới hạn cũng có nghĩa là triệt tiêu mọi điểm tham chiếu. Trong quang cảnh một huyền thoại chàng không thể xác định được vị trí của chính mình mà nói: "Ta là ta bởi ta ở đây."
Mẹ chàng từng nói: "Người ta vốn bị chia rẽ, một số người, trong cách họ nghĩ về con."
Mình phải thức tỉnh khỏi giấc mơ, Paul tự bảo mình. Bởi điều này đã xảy ra - những lời đó từ mẹ chàng, Lệnh bà Jessica mà nay là Mẹ Chí tôn của người Fremen, những lời đó đã đi qua thực tại.
Paul biết, Jessica sợ mối quan hệ tôn giáo giữa chàng với người Fremen. Bà không ưa cái sự thật rằng người dân cả vùng sietch lẫn graben đều gọi Muad'Dib là Người. Và bà đi dò hỏi khắp các bộ tộc, cử gián điệp Sayyadina của mình đi, thu thập những câu trả lời của họ rồi nghiền ngẫm về chúng.
Bà đã trích dẫn một châm ngôn Bene Gesserit cho chàng: "Khi tôn giáo và chính trị đi trên cùng một cỗ xe, những người ngồi trên xe tin rằng không gì có thể cản đường họ. Chuyển động của họ trở nên nhanh đến điên rồ; nhanh nữa, nhanh nữa, nhanh hơn nữa. Họ dẹp sang bên mọi ý nghĩ về trở ngại mà quên rằng vực thẳm chỉ bày ra trước mắt kẻ đang mù quáng lao vùn vụt khi đã quá muộn."
Paul nhớ lại lúc đó chàng đang ngồi ở nhà mẹ, nơi căn buồng trong che rèm thẫm màu, bề mặt thảm có những bức dệt hoa văn lấy cảm hứng từ huyền thoại Fremen. Chàng ngồi đó, nghe mẹ nói từ đầu tới cuối, lưu ý cách mẹ chàng luôn luôn quan sát - ngay cả khi mắt bà hạ xuống. Khuôn mặt trái xoan của bà có những nếp nhăn mới nơi khóe miệng, nhưng tóc bà vẫn giống như đồng sáng bóng. Tuy nhiên, đôi mắt to màu xanh lục của bà bị ẩn dưới lớp phủ màu xanh nước biển do hương dược.
"Người Fremen có một tôn giáo đơn giản, thực tế," chàng nói.
"Chẳng có gì ở tôn giáo là đơn giản hết," bà cảnh cáo.
Nhưng Paul, nhìn thấy cái tương lai bị che phủ vẫn đang treo lơ lửng bên trên họ, thấy bừng bừng tức giận. Chàng chỉ có thể nói: "Tôn giáo thống nhất các lực lượng của chúng ta. Nó là bí thuật của chúng ta."
"Con cố ý nuôi dưỡng cái phong thái này, cái vẻ anh hùng đảm lược này," bà bắt bẻ. "Con chẳng bao giờ thôi tiêm nhiễm giáo điều cho kẻ khác."
"Chính mẹ dạy con như thế mà," chàng nói.
Nhưng hôm đó bà đã quá đủ những cãi cọ và tranh luận. Đó là ngày làm lễ cắt bao quy đầu cho Leto bé. Paul ít nhiều đã hiểu nguyên cớ khiến bà bứt rứt. Bà chưa bao giờ chấp nhận mối quan hệ của chàng - cuộc "hôn nhân non trẻ" - với Chani. Nhưng Chani đã cho ra đời một đứa con trai của nhà Atreides, và Jessica nhận ra bà không đủ sức khước từ đứa con cùng với mẹ nó.
Jessica cuối cùng đã xao động dưới cái nhìn đăm đăm của chàng, bà nói: "Con nghĩ ta là một người mẹ quái dị."
"Dĩ nhiên là không."
"Mẹ thấy cách con nhìn mẹ mỗi khi mẹ ở bên em gái con. Con không hiểu về em gái con."
"Con biết vì sao Alia lại khác biệt," chàng nói. "Nó hãy còn chưa sinh ra, vẫn là một phần của mẹ, khi mẹ chuyển hóa Nước của Sự sống. Nó..."
"Con chẳng biết gì về chuyện đó hết!"
Và Paul, đột nhiên không thể diễn đạt những điều chàng biết được ngoài thời điểm của nó, chỉ nói: "Con không nghĩ mẹ là người quái dị."
Bà nhận thấy nỗi đau buồn của chàng, liền nói: "Có một điều, con ạ."
"Vâng?"
"Mẹ yêu Chani của con. Mẹ chấp nhận nó."
Điều này là thực, Paul tự nhủ. Đây không phải là cái thị kiến bất toàn cần phải được thay đổi bằng cách vặn mình hầu thoát khỏi thời điểm ra đời của thời gian.
Sự yên lòng đó giúp chàng bám chắc được vào thế giới này theo một cách mới. Từng mẩu thực tại đặc quánh bắt đầu rỏ qua trạng thái mơ mà rơi vào nhận thức của chàng. Chàng đột nhiên biết mình đang ở trong một hiereg, một trại sa mạc. Chani đã dựng lều sa mạc trên cát bột vì chỗ đó mềm. Điều đó chỉ có nghĩa là Chani đang ở gần đây - Chani, linh hồn chàng, Chani sihaya của chàng, ngọt như dòng suối trong sa mạc, Chani vươn dậy từ những vườn quả mãi phía Nam.
Giờ đây chàng nhớ lại nàng đã hát một bài hò sa mạc cho chàng trong giấc ngủ.
"Linh hồn em ơi,
Đêm nay đừng nếm thiên đường,
Em thề có Shai-hulud
Rằng anh sẽ đi tới đó,
Tuân theo mối tình em."
Và nàng đã hát bài hát đi đường mà những kẻ yêu nhau cùng hát trên mặt cát, tiết tấu bài hát giống như những đụn cát trôi chầm chậm dưới chân:
"Nói em nghe về cặp mắt anh
Rồi em sẽ nói anh nghe về trái tim anh.
Nói em nghe về đôi chân anh
Rồi em sẽ nói anh nghe về đôi tay anh.
Nói em nghe về khi anh ngủ
Rồi em sẽ nói anh nghe về khi anh thức.
Nói em nghe anh ước mong gì
Rồi em sẽ nói anh nghe anh cần có những gì."
Chàng đã nghe ai đó gảy đàn baliset trong một căn lều khác. Và khi đó chàng nghĩ đến Gurney Halleck. Được nhạc cụ thân quen gợi nhớ, chàng nghĩ đến Gurney mà chàng đã thấy mặt giữa một băng buôn lậu nhưng Gurney thì không thấy chàng, không thể thấy hay biết về chàng, nếu không thì hẳn ông đã vô tình dẫn bọn Harkonnen đến chỗ đứa con của vị Công tước mà chúng đã giết.
Nhưng phong cách của người chơi đàn trong bóng đêm, nét khác biệt của những ngón tay trên các dây đàn baliset khiến ký ức Paul nhớ lại người chơi kia trên thực tế là ai. Đó là Chatt Nhảy xa, chỉ huy quân Fedaykin, thủ lĩnh biệt đội tử thần bảo vệ cho Muad'Dib.
Khi đó chúng ta đang ở trong sa mạc, Paul nhớ lại. Chúng ta đang ở trong biển cát trung tâm ngoài tầm bọn tuần tra Harkonnen. Ta đang ở đây, bước đi trên cát, dụ một Ngài tạo tới để cưỡi bằng chính tài khéo léo của ta, để ta có thể là một Fremen toàn vẹn.
Giờ thì chàng cảm thấy khẩu súng maula trên thắt lưng, con dao pha lê. Chàng cảm thấy sự im lặng bao trùm quanh mình.
Đó chính là sự im lặng đặc biệt trước buổi sáng khi những con chim đêm đã bay đi còn sinh vật ban ngày thì vẫn chưa tỏ dấu hiệu cảnh giác trước kẻ thù của chúng, mặt trời.
"Anh phải cưỡi cát dưới ánh sáng ban ngày để Shai-hulud có thể thấy mà biết rằng anh không sợ," Stilgar đã nói. "Vậy nên chúng ta sẽ thay đổi lịch sinh hoạt thường ngày mà ngủ trong đêm nay."
Lặng lẽ, Paul ngồi dậy, cảm thấy cái lơi lỏng của một bộ sa phục mặc chùng bao quanh người chàng, đằng sau đó là cái vách lờ mờ của căn lều sa mạc. Chàng đi thật nhẹ, nhưng Chani vẫn nghe thấy.
Nàng nói từ trong ánh nhá nhem của căn lều, lại thêm một cái bóng nữa ở đó: "Trời chưa sáng hẳn mà, anh yêu."
"Sihaya," chàng đáp, giọng nửa nói nửa cười.
"Anh đã gọi em là dòng suối sa mạc của anh, nhưng hôm nay em là con dê của anh," nàng nói. "Em là Sayyadina, kẻ trông coi sao cho nghi lễ được tuân thủ."
Chàng bắt đầu siết chặt bộ sa phục. "Có lần em nói với anh những lời trong Kitab al-Ibar," chàng nói. "Em đã bảo anh: 'Đàn bà là cánh đồng của ngươi; hãy đi đến cánh đồng của ngươi mà cày cấy.' "
"Em là mẹ đứa con đầu lòng của anh," nàng tán thành.
Chàng thấy nàng vận bộ đồ màu xám, đang chuẩn bị bộ sa phục của nàng trước khi tiến ra sa mạc, từng động tác một đều khớp với động tác của chàng. "Có thể nghỉ được bao nhiêu thì anh nên nghỉ hết bấy nhiêu."
Chàng nhận thấy tình yêu nàng dành cho mình khi nàng nói vậy, liền nhẹ nhàng khiển trách nàng: "Sayyadina Người Canh giữ thì không được căn dặn hay cảnh báo ứng viên."
Nàng lướt đến bên chàng, chạm lòng bàn tay lên má chàng. "Hôm nay, em sẽ vừa là người canh giữ vừa là người phụ nữ của anh."
"Lẽ ra em nên dành nhiệm vụ này cho người khác," chàng nói.
"Dù trong hoàn cảnh tốt nhất đi nữa thì chờ đợi cũng là khổ lắm rồi," nàng nói. "Em chỉ mong sớm được ở bên anh thôi."
Chàng hôn lòng bàn tay nàng trước khi buộc chắc tấm che mặt trong bộ sa phục của mình, đoạn quay lại phá cái niêm bịt kín lều. Không khí tràn vào họ mang theo cái lành lạnh chưa-hẳn-là-khô-ráo sẽ làm ngưng tụ những giọt sương li ti lúc bình minh. Cùng với nó mùi hương của khối tiền-hương dược cũng tràn vào, cái khối mà họ đã phát hiện ra về phía Đông Bắc, và điều đó cho họ biết hẳn sẽ có một Ngài tạo đâu đó gần đây.
Paul bò qua cửa lều, đứng trên cát, duỗi các cơ để xua giấc ngủ. Ánh dương mờ nhạt xanh như ngọc khắc lên chân trời phía Đông. Những chiếc lều của dân tộc Fremen chàng là những đụn cát giả nho nhỏ bao quanh chàng trong ánh sáng nhá nhem. Chàng thấy bên trái có chuyển động - đội cảnh vệ, và biết họ đã nhìn thấy chàng.
Họ biết mối hiểm nguy chàng đối mặt hôm nay. Người Fremen nào cũng đều từng đối mặt với nó. Họ cho chàng dăm khoảnh khắc riêng tư vào giờ chót này để chàng có thể chuẩn bị.
Việc đó phải được làm trong hôm nay, chàng tự nhủ.
Chàng nghĩ đến cái sức mạnh chàng đã sử dụng khi đối mặt với cuộc thảm sát - những người già gửi con trai đến chỗ chàng để được huấn luyện cách giao chiến huyền thuật, những người già giờ đây lắng nghe chàng trong cuộc họp hội đồng và làm theo các kế hoạch của chàng, những người quay trở lại gặp chàng với lời khen cao nhất của người Fremen dành cho chàng: "Kế hoạch của Người đã thành công, thưa Muad'Dib."
Thế nhưng ngay cả những chiến binh Fremen tầm thường non nớt nhất cũng có thể làm một việc mà chàng chưa bao giờ làm. Và Paul biết, vị thế thủ lĩnh của chàng bị phương hại bởi vì bất cứ ai cũng biết sự khác biệt này giữa chàng và họ.
Chàng chưa hề cưỡi sâu cát.
Ồ, chàng đã đi cùng những người khác trong các chuyến hành trình và cuộc đột kích nhằm huấn luyện, song chàng chưa hề thực hiện chuyến đi của riêng chàng. Chừng nào việc đó chàng còn chưa làm, chừng đó thế giới của chàng vẫn bị ràng buộc bởi khả năng của những người khác. Không một người Fremen đích thực nào dung thứ điều đó được. Chừng nào chính chàng chưa tự làm điều đó thì ngay cả những vùng đất rộng lớn ở phía Nam - rộng tới khoảng hai mươi dùi gọi bên ngoài erg - vẫn còn ngoài tầm với của chàng trừ phi chàng ra lệnh người ta đưa kiệu tới để chàng ngồi lên đó như một Mẹ Chí tôn hay như một kẻ ốm, kẻ bị thương.
Ký ức đưa chàng quay lại cuộc vật lộn với ý thức nội tại của chàng trong suốt đêm qua. Chàng nhìn thấy một sự song hành kỳ lạ ở đây - nếu chàng làm chủ được Ngài tạo, sự cai trị của chàng sẽ được củng cố; nếu chàng làm chủ được con mắt hướng nội, điều đó tự nó hàm chứa thước đo sức mạnh chỉ huy. Nhưng bên ngoài cả hai thứ đó vẫn là khu vực bị che mờ, cái Bất An Vĩ Đại nơi toàn vũ trụ dường như bị kéo vào.
Những khác biệt trong các phương cách chàng lĩnh hội vũ trụ ám ảnh chàng - sự chính xác sánh với sự không chính xác. Chàng thấy nó trong nguyên trạng. Thế nhưng, khi cái bây giờ đã ra đời, khi nó gặp những áp lực của thực tại, nó có sự sống của riêng nó và phát triển với những khác biệt tinh tế của riêng nó. Cái mục đích kinh khủng vẫn còn đó. Ý thức giống nòi vẫn còn đó. Và trên tất cả vẫn sừng sững cuộc thánh chiến, đẫm máu và cuồng dại.
Chani lại gần chàng bên ngoài lều, hai tay ôm lấy hai cùi chỏ, liếc nhìn chàng bằng khóe mắt theo đúng kiểu nàng vẫn nhìn mỗi khi muốn tìm hiểu tâm trạng chàng.
"Kể em nghe lần nữa về nước trên thế giới quê hương anh đi, Usul," nàng nói.
Chàng nhận thấy nàng đang cố làm chàng nghĩ đến chuyện khác, cố làm cho tâm trí chàng bớt căng thẳng trước cuộc sát hạch chết người. Tâm trạng chàng nhẹ nhõm dần, và chàng nhận thấy một số người trong đám Fedaykin của chàng đang dỡ lều.
"Anh muốn em kể cho anh về sietch và về con của chúng ta hơn," chàng nói. "Leto của chúng ta đã giữ gìn mẹ ta trong lòng bàn tay nó chưa?"
"Nó còn gìn giữ cả Alia nữa," nàng nói. "Với lại nó lớn nhanh lắm. Nó sẽ là một đấng nam nhi cao lớn."
"Ở phía Nam thì thế nào?" chàng hỏi.
"Khi cưỡi Ngài tạo thì anh sẽ tự thấy," nàng nói.
"Nhưng anh muốn thấy nó trước tiên qua mắt của em kia."
"Cô đơn cùng cực," nàng nói.
Chàng chạm tay vào chiếc khăn choàng nezhoni lộ ra trên trán nàng, dưới chiếc mũ sa phục. "Sao em không nói về sietch nhỉ?"
"Em đã nói rồi mà. Sietch là chốn cô đơn không có đàn ông. Nó là nơi làm việc. Chúng em làm việc trong các nhà máy và phòng trồng trọt. Có những vũ khí cần phải chế tạo, những cây cột cần phải trồng để chúng em có thể tiên đoán thời tiết, có hương dược cần thu thập để mang đi mua chuộc. Có những cồn cát cần phải trồng cho lớn lên rồi sau đó neo chúng lại. Có vải vóc và mền thảm cần phải dệt, những tế bào nhiên liệu cần phải nạp. Có trẻ con cần được huấn luyện để sức mạnh của bộ tộc không bao giờ mai một."
"Vậy trong sietch không có gì thú vị sao?" chàng hỏi.
"Bọn trẻ con thì thú vị. Chúng em theo đúng các nghi thức. Chúng em có đủ thức ăn. Đôi khi một người trong bọn em có thể đi về phía Bắc để được ở bên người đàn ông họ yêu. Cuộc sống phải tiếp diễn."
"Em gái anh, Alia, nó đã được dân em chấp nhận chưa?"
Chani ngoảnh lại phía chàng dưới ánh bình minh đang rạng. Mắt nàng xoáy sâu vào chàng. "Đó là một chuyện cần phải bàn vào lúc khác, anh yêu ạ."
"Ta hãy bàn ngay bây giờ."
"Anh nên để dành sức lực cho cuộc sát hạch," nàng nói.
Chàng nhận thấy mình đã chạm đến một điều nhạy cảm, nghe thấy sự dè dặt trong giọng nàng. "Điều chưa biết mang lại những mối lo riêng của nó," chàng nói.
Ngay sau đó nàng gật đầu nói: "Hãy còn sự... hiểu lầm bởi sự kỳ lạ của Alia. Đám phụ nữ sợ vì con bé chưa lớn hơn đứa nhỏ còn ẵm ngửa bao nhiêu mà đã... đã nói về những chuyện chỉ người lớn mới nên biết. Họ không hiểu... sự chuyển hóa trong dạ con đã khiến Alia trở thành... khác biệt."
"Có chuyện không hay sao?" chàng hỏi. Và chàng nghĩ: Mình đã thấy những viễn cảnh có chuyện không hay xảy ra với Alia.
Chani nhìn về phía đường nét ngày càng rõ của bình minh. "Một số phụ nữ đã tụ tập lại để gửi lời thỉnh cầu lên Mẹ Chí tôn. Họ đòi bà phải yểm trừ con quỷ ẩn trong đứa con gái của bà. Họ dẫn lời trong kinh sách: 'Chớ để cho một mụ phù thủy sống giữa chúng ta.' "
"Và mẹ anh nói gì với họ?"
"Bà trích dẫn luật, xong thì lệnh cho đám phụ nữ về, khiến họ bỏ đi mà trong bụng rối bời. Bà nói: 'Nếu Alia khơi dậy điều bất trắc, thì đó là lỗi của kẻ cầm quyền đã không tiên đoán được mà ngăn chặn điều bất trắc.' Và bà cố giải thích cho họ sự chuyển hóa đã tác động thế nào đến Alia trong dạ con. Nhưng đám phụ nữ tức tối vì đã bị bà làm cho bẽ mặt. Họ vừa bỏ đi vừa lầm bầm."
Sẽ có bất trắc xảy ra vì con bé Alia, chàng nghĩ.
Một đợt cát rắn như pha lê thổi qua, xát vào phần mặt lộ ra ngoài của chàng, đưa lại mùi của khối tiền hương dược. "El Sayal, cơn mưa cát đem lại buổi sáng," chàng nói.
Chàng nhìn ra ánh sáng nhợt nhạt của quang cảnh sa mạc, cái quang cảnh không biết đến lòng trắc ẩn, cái thứ cát vốn dĩ là hình thức mải chìm đắm vào chính nó. Ánh sét khô khốc lóe lên vạch rõ một góc tối phía Nam, dấu hiệu cho thấy một cơn bão đã hình thành điện tích tĩnh ở đó. Sấm ì ùng nổ từng tràng sau đó một hồi lâu.
"Cái giọng nói làm cho đất này thật đẹp," Chani nói.
Thêm nhiều thuộc hạ nữa của chàng đang rục rịch ra khỏi lều. Đám cận vệ đang từ các rìa xung quanh tiến lại. Ai nấy quanh chàng đều di chuyển nhịp nhàng theo tập quán cổ xưa mà không cần ai ra lệnh.
"Ra lệnh càng ít càng tốt," cha chàng từng có lúc bảo chàng... cách đây lâu lắm. "Một khi đã ra lệnh về việc gì, con phải luôn luôn ra lệnh về việc đó."
Điều đó thì người Fremen biết tự bản năng.
Thầy quản nước của cộng đồng bắt đầu bài kinh buổi sáng, song giờ đây thêm vào đó lời gọi tiến hành nghi lễ khai tâm cho một kỵ sĩ cát.
"Thế giới này là một tấm thân đã chết," thầy quản nước ngâm nga, giọng ông ta rền rĩ vang khắp các đụn cát. "Ai có thể cự tuyệt Thiên thần Chết? Điều gì Shai-hulud ra lệnh thì phải được thực hiện."
Paul lắng nghe, nhận ra đó cũng là những lời bắt đầu bài ca chết chóc của đội quân Fedaykin dưới trướng chàng, những lời mà đội quân cảm tử thường hô vang khi lao mình vào chiến trận.
Hôm nay liệu sẽ có một ngôi miếu thờ bằng đá ở đây để đánh dấu sự ra đi của một linh hồn khác không? Paul tự hỏi.Liệu trong tương lai người Fremen có dừng chân ở đây, mỗi người đắp thêm một tảng đá và tưởng nhớ đến Muad'Dib người đã chết ở nơi này?
Chàng biết điều đó nằm trong những khả năng khác nhau của ngày hôm nay, một sự thực nằm dọc theo những con đường tương lai tỏa ra từ vị trí này trong không-thời gian. Cái thị kiến bất toàn này ám ảnh chàng. Chàng càng cưỡng lại cái mục đích kinh khủng của mình, càng chiến đấu hòng ngăn không cho cuộc thánh chiến xảy ra thì cơn nhiễu loạn giăng chằng chịt qua tầm năng lực tiên tri của chàng càng lớn. Toàn bộ tương lai của chàng đang trở nên giống như một dòng sông hối hả tuôn về phía vực thẳm - cái điểm nút dữ dội mà bên ngoài đó chỉ có mỗi sương mù và mây phủ.
"Stilgar đang tới," Chani nói. "Giờ thì em phải đứng tách ra, anh yêu ạ. Giờ thì em phải là Sayyadina trông coi nghi lễ sao cho nó được thuật lại một cách trung thực trong Biên niên sử." Nàng nhìn lên chàng và, trong một khoảnh khắc, sự kiềm chế của nàng trôi tuột mất, nhưng rồi nàng lấy lại tự chủ. "Khi chuyện này kết thúc, em sẽ tự tay làm bữa sáng cho anh," nàng nói. Nàng quay đi.
Stilgar tiến lại gần chàng ngang qua mặt cát bột, làm vẩn lên những đám bụi nhỏ. Hai hốc mắt đen thẫm của ông nhìn chằm chằm vào Paul bằng cái nhìn hoang dã. Bộ râu xồm đen nhánh thấp thoáng phía trên mặt nạ sa phục, những đường nét gồ ghề của đôi má, từ mọi cử động của chúng thì trông chúng như được gió tạc nên từ đá tự nhiên của hành tinh này.
Trên gậy của ông ta mang lá cờ của Paul - lá cờ xanh lục và đen kèm theo một ống dẫn nước trong chiếc gậy - vốn đã là một truyền thuyết ở đất này. Nửa phần tự hào, Paul nghĩ: Ta không thể làm dù chỉ một việc đơn giản nhất mà không khiến nó trở thành truyền thuyết. Họ sẽ để ý xem ta sẽ chia tay thế nào với Chani, ta chào hỏi Stilgar thế nào khi ông ta đến - nhất cử nhất động của ta ngày hôm nay. Dù ta sống hay chết, nó vẫn là truyền thuyết. Ta không được chết. Chừng đó nó sẽ chỉ là truyền thuyết và không gì ngăn được cuộc thánh chiến.
Stilgar cắm cây gậy xuống cát bên cạnh Paul, buông thõng tay xuống hai bên sườn. Cặp mắt màu-xanh-trong-màu-xanh vẫn bình tĩnh, chăm chú. Và Paul chợt nghĩ cặp mắt của chính chàng cũng đã nhuốm cái mặt nạ màu sắc này do hương dược.
"Người ta khước từ ban cho chúng ta chuyến đi thiêng," Stilgar nói với vẻ nghiêm trang theo nghi thức.
Như Chani đã dạy, Paul trả lời: "Ai có thể khước từ trao cho một người Fremen quyền đi bộ hay cưỡi Ngài tạo đến bất cứ nơi nào anh ta muốn?"
"Tôi là một Naib," Stilgar nói, "không bao giờ để ai bắt sống. Tôi là một chân của tam vị chết, người sẽ hủy diệt kẻ thù của chúng ta."
Im lặng trùm xuống họ.
Paul liếc nhìn những người Fremen khác đứng rải rác trên cát phía xa Stilgar, cách họ đứng bất động trong khoảnh khắc cầu nguyện cá nhân này. Và chàng nghĩ người Fremen là một dân tộc mà sự sống của họ bao hàm giết chóc, toàn bộ một dân tộc mà từng ngày một đều sống với nỗi căm hận và thống khổ, chưa từng một lần suy ngẫm xem cái gì có thể thay thế cho thống khổ hay căm hận, ngoại trừ một giấc mơ mà Liet-Kynes đã truyền cho họ trước khi ông chết.
"Vị Chúa tể từng dẫn dắt chúng ta qua sa mạc và hầm nô lệ, người đó đâu rồi?"
"Người mãi mãi cùng chúng ta," những người Fremen ngâm nga.
Stilgar thẳng vai lên, bước lại gần Paul hơn rồi hạ giọng. "Giờ thì, hãy nhớ những gì tôi đã nói với anh. Hãy làm một cách đơn giản và dứt khoát - chẳng có gì khó cả. Người Fremen chúng tôi cưỡi Ngài tạo ngay từ mười hai tuổi. Anh thì lớn hơn sáu tuổi so với độ tuổi đó và không sinh ra cho cuộc sống này. Anh không phải gây ấn tượng với ai về lòng gan dạ của anh. Chúng tôi biết anh là người dũng cảm. Anh chỉ phải làm một việc là gọi Ngài tạo đến rồi cưỡi lên Ngài."
"Tôi sẽ nhớ."
"Hãy cố làm cho được. Tôi đã dạy anh thì sẽ không để anh làm xấu mặt tôi đâu."
Stilgar rút từ dưới áo choàng ra một cây gậy bằng nhựa dài chừng một mét. Cây gậy có một đầu nhọn, đầu kia có một quả chuông buộc bằng lò xo. "Đích thân tôi đã chuẩn bị cái dùi gọi này. Đồ tốt đấy. Cầm đi."
Paul cảm thấy bề mặt nhựa trơn nhẵn ấm áp khi chàng nhận chiếc dùi gọi.
"Shishakli cầm các móc của anh," Stilgar nói. "Cậu ấy sẽ đưa cho anh ngay khi anh bước lên đụn cát đằng kia." Ông chỉ về bên phải. "Hãy gọi một Ngài tạo lớn, Paul ạ. Hãy chỉ đường cho chúng tôi."
Paul để ý giọng điệu của Stilgar - nửa theo nghi thức, nửa là của một người bạn đang lo lắng.
Trong khoảnh khắc đó, mặt trời dường như bất chợt vụt lên trên chân trời. Bầu trời nhuốm màu xanh xám như bạc, báo trước hôm nay sẽ là một ngày cực nóng, cực khô ngay cả với Arrakis.
"Đến lúc ban ngày thiêu đốt rồi," Stilgar nói, lúc này giọng ông hoàn toàn theo nghi thức. "Đi đi, Usul, hãy cưỡi Ngài tạo, hãy chu du trên cát như một thủ lĩnh của con người."
Paul chào ngọn cờ của chàng, nhận thấy lá cờ hai màu xanh lục và đen đang rủ xuống bởi cơn gió bình minh lúc này đã lặng. Chàng quay về phía đụn cát mà Stilgar đã chỉ - một sườn dốc bẩn thỉu màu nâu vàng với cái chỏm hình chữ S. Hầu hết đám người thì đang di chuyển theo hướng ngược lại, trèo lên đụn cát đối diện, nơi họ hạ trại.
Một dáng người mặc áo choàng vẫn nán lại trên lối đi của chàng: Shishakli, đội trưởng Ferdaykin, duy chỉ cặp mắt có hàng mi xếch là lộ ra giữa chiếc mũ và mặt nạ của bộ sa phục.
Khi Paul lại gần, Shishakli chìa ra hai chiếc que mảnh trông như cây roi. Hai chiếc que dài khoảng một mét rưỡi, một đầu bịt thép dẻo lấp lánh, đầu kia xù xì để cầm cho chắc.
Paul nhận lấy cả hai bằng tay trái theo nghi thức yêu cầu.
"Đó là móc của tôi," Shishakli nói bằng giọng khàn khàn. "Chưa bao giờ làm hỏng việc đâu."
Paul gật đầu, vẫn giữ sự im lặng cần thiết, đi ngang qua anh ta để trèo lên sườn đụn cát. Trên mỏm đụn cát, chàng ngoái lại, thấy đám đông đang tản mác như một bầy côn trùng, áo dài của họ dập dờn. Giờ đây chàng đứng một mình trên đỉnh cát, chỉ có đường chân trời trước mặt, đường chân trời phẳng lì, bất động. Stilgar đã chọn cho chàng một đụn cát tốt, cao hơn các đụn xung quanh nên có điểm nhìn thuận lợi hơn.
Paul khom mình cắm sâu chiếc dùi gọi vào mặt đón gió nơi cát nén chắc hơn nên sẽ truyền tiếng trống ở mức tối đa. Đoạn chàng do dự, ôn lại những bài học, ôn lại những nhu cầu có ý nghĩa sinh tử đang đối mặt với chàng.
Khi chàng ném cái chốt đi, chiếc dùi gọi sẽ bắt đầu gọi. Băng qua cát, một con sâu khổng lồ - một Ngài tạo - sẽ nghe tiếng trống mà tìm tới. Với những que móc giống như cây roi, Paul biết, chàng có thể cưỡi lên cái lưng nhô cao uốn cong của con sâu. Chừng nào mép trước một khoang thân của sâu còn bị một cái móc mở banh ra, khiến cát lọt vào làm trầy lớp bên trong nhạy cảm hơn, con vật sẽ không chui xuống dưới bề mặt sa mạc. Trên thực tế, nó sẽ rướn cao tấm thân khổng lồ để cho phần khoang bị mở banh kia nhô lên khỏi bề mặt cát càng xa càng tốt.
Ta là kỵ sĩ cát, Paul tự nhủ.
Chàng nhìn xuống cặp móc cầm nơi tay trái mà nghĩ, chàng chỉ việc dịch chuyển những cái móc đó xuống đường cong ở mạn sườn khổng lồ của Ngài tạo là có thể buộc con vật vặn mình, rẽ ngoặt, lái nó đến nơi chàng muốn. Chàng đã thấy người ta làm vậy. Chàng đã được người ta giúp leo lên sườn một con sâu rồi cưỡi một đoạn ngắn nhằm huấn luyện cho chàng. Ta có thể cưỡi con sâu bị bắt cho đến khi nó kiệt sức nằm im trên bề mặt sa mạc và ta phải gọi một Ngài tạo mới.
Paul biết, một khi đã qua được cuộc sát hạch này, chàng sẽ đủ tư cách để tiến hành chuyến đi dài hai mươi dùi gọi vào vùng phía Nam - để nghỉ ngơi và hồi phục - về phía Nam nơi đàn bà con gái cùng các gia đình ẩn náu tránh cuộc thảm sát, giữa những vườn quả và khu sietch mới.
Chàng ngẩng đầu lên nhìn về phía Nam, tự nhắc mình rằng Ngài tạo chưa thuần được gọi từ biển cát kia tới là một đại lượng chưa biết, và kẻ gọi nó tới cũng là đại lượng chưa biết y như vậy đối với cuộc sát hạch này.
"Anh phải phán đoán Ngài tạo đang đến gần cho cẩn thận," Stilgar từng giải thích. "Anh phải đứng đủ gần để có thể cưỡi lên nó khi nó đi ngang qua, nhưng không quá gần khiến nó có thể nuốt chửng anh."
Với một sự kiên quyết đột ngột, Paul tháo chốt dùi gọi ra. Cái chuông bắt đầu quay tròn và dùi gọi bắt đầu cất tiếng gọi như gõ trống, một thứ tiếng "ùng... ùng... ùng" đều đặn xuyên qua cát.
Chàng thẳng người lên, nhìn khắp chân trời, nhớ lại lời Stilgar: "Hãy phán đoán cho kỹ đường tiến của Ngài tạo. Hãy nhớ, chẳng mấy khi sâu cát tiến tới gần dùi gọi mà ta không nhìn thấy nó. Nghe thấy cũng vậy. Thường thì ta có thể nghe tiếng nó trước khi nhìn thấy."
Và tâm trí chàng tràn ngập những lời thì thầm căn dặn của Chani giữa đêm khuya khi lòng nàng chất chứa nỗi lo sợ cho chàng: "Khi vào vị trí đứng đợi trên đường đi của Ngài tạo, anh phải đứng thật im. Anh phải suy nghĩ giống như một trảng cát suy nghĩ vậy. Hãy giấu mình dưới áo choàng và trở thành một đụn cát nhỏ ngay trong bản thể anh."
Chầm chậm, chàng nhìn khắp chân trời, lắng nghe, dõi nhìn những dấu hiệu mà người ta đã dạy chàng.
Nó đến từ phía Đông Nam, một tiếng xì xì xa xa, một tiếng cát xào xạc. Ngay sau đó chàng trông thấy hình dáng đằng xa báo hiệu đường tiến của con vật, nổi bật dưới ánh bình minh, và nhận ra rằng trước đây chàng chưa bao giờ thấy một Ngài tạo nào lớn đến thế, chưa bao giờ nghe nói tới một con nào có kích thước này. Nó có lẽ dài tới hơn hai cây số; làn sóng cát cuộn lên ở chỗ cái đầu nó đang trồi dậy trông như cả một ngọn núi lừng lững tiến lại gần.
Đây là điều ta chưa hề thấy cả trong thị kiến tiên tri lẫn trong đời thực, Paul tự cảnh báo mình. Chàng vội vã tiến về phía đường đi của con vật để lấy thế đợi sẵn, lòng bị xâm chiếm hoàn toàn bởi những nhu cầu cấp thiết của khoảnh khắc này.
"Hãy kiểm sát hệ thống tiền tệ và tòa án - để cho đám dân đen nghỉ ngơi." Đó là lời Hoàng đế Padishah khuyên các vị. Và Người bảo các vị: "Nếu các ngươi muốn lợi nhuận, các ngươi phải thống trị." Có sự thật trong những lời này, nhưng ta tự hỏi: "Ai là dân đen và ai là kẻ bị thống trị?"
- Thư mật của Muad'Dib gửi đến Landsraad, trích trong "Arrakis thức tỉnh" của Công chúa Irulan
Một ý nghĩ tự dưng nảy ra trong tâm trí Jessica: Hiện giờ thì bất cứ lúc nào Paul cũng đều có thể đang trải qua cuộc sát hạch kỵ sĩ cát của nó. Người ta cố giấu ta chuyện này, nhưng nó quá rõ ràng.
Và Chani đã đi làm một việc bí ẩn nào đó.
Jessica ngồi trong buồng nghỉ của bà, tranh thủ một khoảnh khắc yên tĩnh giữa những buổi học tối. Đó là một căn phòng dễ chịu, nhưng không rộng như căn phòng bà rất thích hồi còn ở Sietch Tabr trước khi họ chạy trốn cuộc thảm sát. Tuy nhiên, nơi này có những tấm thảm dày trên sàn, những chiếc gối mềm để ngồi, một chiếc bàn cà phê thấp ngay trong tầm tay, những tấm rèm nhiều màu treo trên tường, trên đầu là những chiếc đèn cầu màu vàng. Căn phòng thấm đẫm mùi lông thú găn gắt đặc thù cho một sietch của người Fremen mà bà đã bắt đầu đồng nhất với cảm giác an toàn.
Thế nhưng bà biết mình sẽ không bao giờ thắng nổi cảm giác đang ở một nơi xa lạ. Ấy chính là sự xù xì thô ráp mà những tấm thảm và tấm rèm kia cố che đi.
Một tiếng leng keng-thì thùm-đôm đốp xuyên thấu vào buồng nghỉ. Jessica biết đó là buổi lễ đón đứa bé sắp chào đời, có lẽ là con của Subiay. Gần đến lúc nó ra đời rồi. Và Jessica biết chẳng mấy chốc nữa bà sẽ thấy đứa bé - một thiên thần bụ bẫm mắt xanh mà người ta đưa tới để Mẹ Chí tôn ban phước lành. Bà cũng biết rằng con gái bà, Alia, sẽ có mặt ở buổi lễ rồi về thuật lại với bà.
Vẫn chưa đến giờ cầu nguyện buổi tối dành cho cuộc chia ly. Người ta sẽ chỉ bắt đầu buổi lễ sinh thành vào gần thời điểm tiến hành nghi lễ than khóc những cuộc vây bắt nô lệ ở Poritrin, Bela Tegeuse, Rossak và Harmonthep.
Jessica thở dài. Bà biết bà đang cố tự ngăn mình đừng nghĩ đến đứa con trai cùng những mối nguy mà nó đang đối mặt - những cái bẫy sập tua tủa gai tẩm độc dược, những cuộc đột kích của bọn Harkonnen (dù các cuộc đột kích đó ngày càng ít bởi người Fremen ngày càng tiêu diệt nhiều tàu bay và tàu chiến của chúng nhờ có những vũ khí mới Paul trao cho họ), và những hiểm họa tự nhiên của sa mạc - sâu cát, cái khát và những vực cát sâu.
Bà nghĩ đến việc gọi cà phê, và cùng với ý nghĩ đó là cái nhận thức luôn hiện hữu về nghịch lý trong lối sống Fremen: họ sống trong những hang động sietch này dễ chịu biết bao so với dân pyon sống trong các graben; nhưng những gì họ phải chịu đựng trong cảnh lang thang trên sa mạc cũng nhiều hơn bất cứ điều gì đám lê dân của nhà Harkonnen phải chịu.
Một bàn tay đen đúa lùa qua đám rèm bên cạnh bà, đặt một chiếc tách lên bàn rồi rút lui. Từ chiếc tách dậy lên mùi cà phê pha hương dược.
Một món đồ cúng dâng cho buổi lễ sinh thành, Jessica nghĩ.
Bà cầm tách nhấp từng ngụm, tự mỉm cười với mình. Trong vũ trụ của chúng ta liệu có xã hội nào khác nơi một người ở cương vị ta có thể chấp nhận một thứ đồ uống vô danh rồi nốc cạn mà không hề sợ hãi? Giờ thì ta có thể làm thay đổi bất cứ thứ độc dược nào trước khi nó gây hại cho ta, dĩ nhiên, nhưng người dâng không biết điều này.
Bà uống cạn tách, cảm thấy sinh lực và sự lâng lâng chứa trong tách - nóng và ngon.
Và bà tự hỏi có xã hội nào khác biết tôn trọng sự riêng tư và tự do thoải mái của bà một cách tự nhiên đến nỗi người phục vụ chỉ len vào vừa đủ để đặt quà xuống mà không buộc bà phải tiếp kẻ dâng quà. Lòng tôn trọng cùng tình yêu thương đã đưa món quà đến, chỉ nhuốm thêm chút nào đó nỗi e sợ.
Một yếu tố khác của sự kiện này khiến bà buộc phải nhận thức ra: bà vừa nghĩ tới cà phê thì nó liền xuất hiện. Ở đây chẳng có gì là thần giao cách cảm cả, bà biết. Đó là tau, tính đồng nhất thể của cộng đồng sietch, một sự đền bù có được nhờ thứ chất độc tinh tế của thực đơn hương dược mà họ cùng sử dụng. Đám đông quần chúng không bao giờ có thể mong đạt tới sự khải ngộ mà hạt mầm hương dược đem tới cho bà; họ không được huấn luyện, không được chuẩn bị sẵn sàng cho việc đó. Tâm trí họ khước từ những gì họ không thể hiểu hay lĩnh hội. Thế nhưng đôi khi họ vẫn cảm nhận và phản ứng như thể là một sinh vật đơn nhất.
Và ý nghĩ về sự trùng hợp ngẫu nhiên không bao giờ nảy ra trong tâm trí họ.
Paul đã vượt qua cuộc sát hạch trên cát chưa? Jessica tự hỏi. Nó có khả năng, nhưng tai biến có thể hạ gục ngay cả người có khả năng nhất.
Chờ đợi.
Chờ đợi thật u uất ảm đạm, bà nghĩ. Người ta không thể đợi quá lâu. Nếu đợi quá lâu, cái u uất ảm đạm của sự chờ đợi sẽ hạ gục ta.
Có đủ cách chờ đợi trong đời họ.
Mẹ con ta ở đây đã hơn hai năm, bà nghĩ, và ít nhất còn cần gấp đôi khoảng thời gian đó trước khi ta có thể mong giành lại được Arrakis từ tay thống đốc Harkonnen, Mudir Nahya, Rabban Thú dữ.
"Bẩm Mẹ Chí tôn."
Giọng nói từ ngoài các tấm rèm che cửa phòng bà là giọng Harah, người đàn bà khác trong nhà Paul.
"Ta đây, Harah."
Rèm vén lên và Harah như lướt xuyên qua chúng. Chị mang dép xăng đan dùng trong sietch, quấn quanh người chiếc áo choàng màu vàng pha đỏ để lộ hai cánh tay hầu như đến tận vai. Mái tóc đen của chị rẽ ngôi chính giữa, chải lật về phía sau như đôi cánh côn trùng, phẳng lì và bóng loáng ép chặt vào đầu. Những đường nét gồ lên, như của loài ăn thịt, hằn rõ thành một cái cau mày chăm bẳm.
Sau lưng Harah là Alia, một đứa bé-cô gái chừng hai tuổi.
Nhìn thấy con gái, lòng Jessica lại bị xâm chiếm bởi cái cảm giác thường gặp trước sự giống nhau giữa Alia với Paul khi thằng bé ở tầm tuổi này: cũng cái vẻ nghiêm trang qua cặp mắt mở to đáp lại cái nhìn dò hỏi của bà, cũng mái tóc sẫm màu và nét miệng kiên quyết. Nhưng cũng có những khác biệt tinh tế, và chính ở những khác biệt đó mà hầu hết người lớn cảm thấy Alia khiến họ bất an. Đứa trẻ này, dù chỉ lớn hơn đôi chút so với đứa bé mới lẫm chẫm tập đi, có một vẻ đĩnh đạc và hiểu biết vượt xa độ tuổi nó. Người lớn phát hoảng khi thấy nó bật cười trước một trò chơi chữ tinh tế giữa đàn bà với đàn ông. Hoặc họ bất chợt thấy mình đang lắng nghe giọng nói nửa ngọng nghịu của đứa trẻ, cái giọng hãy còn chưa rõ ràng mạch lạc do vòm miệng mềm chưa định hình, và phát hiện trong lời nó nói có những nhận xét ranh mãnh vốn chỉ có thể dựa trên những kinh nghiệm mà không đứa trẻ lên hai nào từng trải được.
Harah buông mình xuống một chiếc đệm, thở dài tức tối, cau mày nhìn đứa bé.
"Alia," Jessica ra hiệu cho con gái.
Đứa bé đi về phía chiếc đệm bên cạnh mẹ, ngồi xuống, ôm chặt bàn tay mẹ. Sự động chạm của da thịt làm phục hồi ý thức tương thông từng có giữa hai mẹ con từ trước khi Alia chào đời. Đó không phải chuyện hai bên cùng có chung ý nghĩ - mặc dù cũng có những lúc đột khởi như vậy nếu họ chạm vào nhau trong khi Jessica đang chuyển hóa chất độc hương dược cho một nghi lễ. Đó là một cái gì đó lớn hơn thế, cái nhận thức tức thời về một tia sáng sự sống khác, một thực thể rõ ràng sắc cạnh, một sự tương đồngvề thần kinh khiến họ tuy hai mà như một về cảm xúc.
Bằng sự trang trọng thích hợp với một thành viên trong gia đình con trai, Jessica nói: "Subakh ul kuhar, Harah. Tối nay chị khỏe chứ?"
Với sự trang trọng tương tự, chị nói: "Subakh un nar. Tôi khỏe." Những lời nói gần như thiếu sinh khí. Lại một lần nữa, chị thở dài.
Jessica cảm thấy sự thích thú của Alia.
"Ghanima của anh con đang phát điên lên với con đấy," Alia nói bằng giọng nửa ngọng nghịu.
Jessica chú ý đến chữ Alia thường dùng để ám chỉ Harah - ghanima. Trong sự tinh tế của ngôn ngữ Fremen, từ đó có nghĩa là "cái gì đó giành được trong cuộc chiến" và với ngụ ý thêm rằng nó không được sử dụng cho mục đích nguyên thủy nữa. Một món trang trí, một mũi giáo dùng làm vật nặng giữ yên rèm cửa.
Harah quắc mắt nhìn đứa trẻ. "Đừng cố lăng mạ ta, bé con. Ta biết vị trí của mình."
"Lần này thì con làm gì hở Alia?" Jessica hỏi.
Harah trả lời: "Hôm nay nó chẳng những không chịu chơi với những đứa trẻ khác mà còn xâm nhập vào nơi..."
"Con trốn sau rèm quan sát đứa bé của Subiay đang được sinh ra," Alia nói. "Nó là con trai. Nó cứ khóc mãi khóc mãi. Bộ phổi mới khỏe làm sao! Khi nó khóc đủ lâu rồi..."
"Con bé bước ra chạm vào thằng bé," Harah nói, "thế là thằng bé nín khóc. Mọi người đều biết, nếu sống trong sietch thì đứa trẻ Fremen nào cũng phải khóc trong ngày sinh, bởi vì nó không bao giờ có thể khóc nữa kẻo rồi nó sẽ làm chúng tôi bị lộ trong hajr."
"Nó khóc đủ rồi," Alia nói. "Con chỉ muốn cảm thấy tia sáng của nó, cuộc sống của nó. Chỉ có vậy. Và khi nó cảm thấy con, nó không muốn khóc thêm nữa."
"Chuyện đó chỉ khiến cho mọi người thêm bàn tán," Harah nói.
"Thằng bé con Subiay có khỏe không?" Jessica hỏi. Bà nhận ra có gì đó làm Harah rất lo lắng và bà lấy làm băn khoăn về điều đó.
"Khoẻ như bất kỳ người mẹ nào có thể mong chờ," Harah nói. "Họ biết Alia không làm đứa bé đau. Họ không phiền lòng lắm về việc Alia chạm vào đứa bé. Ngay lúc đó thằng bé nguôi khóc và trông nó rất vui vẻ. Đó là..." Harah nhún vai.
"Đó là sự kỳ lạ của con gái ta, phải thế không?" Jessica hỏi. "Đó là cái kiểu nó nói về những chuyện vượt quá lứa tuổi nó và những chuyện mà một đứa trẻ bằng tuổi nó không thể biết - những chuyện về quá khứ."
"Làm sao nó biết một đứa bé ở Bela Tegeuse trông thế nào?" Harah gặng hỏi.
"Nhưng thằng bé giống thật mà!" Alia nói, "con của Subiay trông giống hệt đứa con mà Mitha sinh ra trước cuộc chia ly."
"Alia!" Jessica nói. "Mẹ đã nhắc con rồi mà."
"Nhưng, thưa mẹ, con nhìn thấy thế, đó là sự thật và..."
Jessica lắc đầu, nhận ra những dấu hiệu lo âu trên khuôn mặt Harah. Ta đã sinh ra cái gì thế này? Jessica tự hỏi. Một đứa con gái mà ngay khi ra đời đã biết mọi thứ ta biết... và còn hơn thế nữa: mọi thứ từ những hành lang của quá khứ đã được Mẹ Chí tôn ở trong ta mở ra cho nó.
"Không chỉ những chuyện nó nói," Harah nói. "Mà còn các động tác nữa: cái kiểu nó ngồi nhìn chằm chằm vào một tảng đá, chỉ cử động một cơ cạnh mũi, hoặc một cơ ở mặt sau một ngón tay, hay..."
"Đó là cách huấn luyện Bene Gesserit," Jessica nói. "Chị biết đấy, Harah. Chị phủ nhận quyền thừa kế của con gái ta sao?"
"Bẩm Mẹ Chí tôn, bà biết rằng đối với tôi những chuyện này không quan trọng," Harah nói. "Ấy là do đám người kia và cái kiểu bọn họ thì thầm với nhau. Tôi cảm thấy mối nguy hiểm trong đó. Họ nói con gái bà là một con quỷ, rằng những đứa trẻ khác không chịu chơi đùa với nó, rằng nó..."
"Nó cũng còn bé như những đứa trẻ khác vậy," Jessica nói. "Nó không phải con quỷ. Đó chỉ là..."
"Tất nhiên nó không phải!"
Jessica nhận ra mình ngạc nhiên trước sự sôi nổi trong giọng Harah, liền liếc xuống Alia. Đứa bé dường như chìm đắm trong suy nghĩ, bộc lộ một ý thức... chờ đợi. Jessica chuyển sự chú ý sang Harah.
"Ta tôn trọng việc chị là một thành viên trong gia đình con trai ta," Jessica nói. (Alia ngọ nguậy sát bên tay bà.) "Dù phiền muộn vì những chuyện gì thì chị cũng đều có thể nói thẳng thắn cho ta nghe."
"Tôi sắp không còn là thành viên trong gia đình con trai bà nữa," Harah nói. "Tôi đã đợi lâu đến độ này là vì các con tôi, vì sự huấn luyện đặc biệt mà chúng được hưởng do là con của Usul. Tôi chỉ có thể cho chúng ngần đó mà thôi, bởi ai cũng biết tôi không được chung chăn gối với con trai bà."
Alia lại ngọ nguậy bên cạnh Jessica, nửa thức nửa ngủ, người ấm áp.
"Tuy nhiên chị là người bạn đồng hành tốt của con ta," Jessica nói. Và bà nói thêm với chính mình bởi những ý nghĩ như vậy luôn luôn canh cánh trong bà: Bạn đồng hành... không phải vợ. Rồi những ý nghĩ của Jessica tiến thẳng vào tâm điểm, vào nỗi đau xuất phát từ những lời đồn cửa miệng trong sietch rằng sự gần gụi giữa con bà với Chani đã trở thành một điều thường trực, một mối hôn nhân.
Ta yêu Chani, Jessica nghĩ, nhưng bà tự nhắc mình rằng tình yêu phải nhường chỗ cho nhu cầu của hoàng gia. Hôn nhân của hoàng gia có những lý do khác ngoài tình yêu.
"Bà nghĩ tôi không biết bà trù tính những gì cho con trai bà sao?" Harah hỏi.
"Ý chị là gì?" Jessica gặng hỏi.
"Bà có kế hoạch thống nhất các bộ tộc dưới quyền lãnh đạo của Người," Harah nói.
"Như thế không nên ư?"
"Tôi thấy nguy hiểm cho anh ấy... và Alia là một phần của mối nguy hiểm đó."
Alia nép sát hơn vào mẹ, giờ thì mắt mở to quan sát Harah.
"Tôi đã quan sát hai mẹ con bà bên nhau, cách mẹ con bà chạm vào nhau," Harah nói. "Và Alia cũng như xác thịt của tôi bởi nó là em gái của một người giống như em trai tôi. Tôi đã trông nom canh chừng nó từ khi nó còn bé xíu, từ thời razzia khi chúng ta đến nơi này tị nạn. Tôi đã thấy nhiều điều về nó."
Jessica gật đầu, nhận thấy nỗi bất an bắt đầu dậy lên trong Alia bên cạnh bà.
"Bà biết tôi muốn nói gì," Harah nói. "Cái kiểu nó biết ngay từ đầu rằng chúng ta đang nói gì với nó. Có đứa bé nào còn nhỏ vậy mà đã biết tới kỷ luật nước không? Có đứa bé nào mà lời đầu tiên nói với bảo mẫu của mình là 'Con yêu cô, Harah'?"
Harah nhìn chòng chọc vào Alia. "Tại sao bà nghĩ tôi chấp nhận những lời xúc phạm của nó? Là bởi tôi biết không có ác ý nào trong đó cả."
Alia ngước nhìn mẹ.
"Phải, tôi có khả năng lập luận, thưa Mẹ Chí tôn," Harah nói. "Lẽ ra tôi có thể nằm trong số các Sayyadina. Tôi đã thấy điều mình đã thấy."
"Harah à..." Jessica nhún vai. "Ta chẳng biết nói gì." Và bà thấy ngạc nhiên về chính mình, bởi điều này quả là sự thực.
Alia thẳng người dậy, kênh ngang vai lên. Jessica nhận thấy ý thức chờ đợi ở nó đã chấm dứt, một mối xúc cảm pha trộn giữa sự quả quyết và nỗi buồn.
"Chúng ta đã phạm sai lầm," Alia nói. "Giờ chúng ta cần Harah."
"Ấy là lễ hạt giống," Harah nói, "khi bà chuyển hóa Nước của Sự sống, thưa Mẹ Chí tôn, khi Alia còn chưa ra đời, vẫn đang ở trong bà."
Cần Harah? Jessica tự hỏi.
"Còn ai khác có thể nói giữa mọi người, khiến họ bắt đầu hiểu con?" Alia hỏi.
"Con muốn chị ấy làm gì?" Jessica hỏi.
"Chị ấy biết phải làm gì rồi," Alia nói.
"Tôi sẽ nói cho họ biết sự thật," Harah nói. Khuôn mặt chị dường như đột nhiên trở nên già sọm, u buồn, với làn da màu ô liu chau lại thành những nếp nhăn, một vẻ mê hoặc ẩn trong những đường nét sắc sảo. "Tôi sẽ nói với họ rằng Alia chỉ giả vờ là một đứa bé con, rằng nó chưa bao giờ là một đứa bé cả."
Alia lắc đầu. Lệ chảy tràn xuống má cô, và Jessica cảm nhận được những làn sóng u buồn tràn ra từ đứa con gái, như thể đó chính là cảm xúc của bà.
"Con biết con là quái vật," Alia thì thầm. Câu tóm tắt đầy người lớn đó, thốt ra từ cái miệng trẻ con, nghe như một lời xác nhận cay đắng.
"Con không phải quái vật!" Harah độp lại. "Ai dám nói con là quái vật chứ hả?"
Một lần nữa, Jessica kinh ngạc trước vẻ bảo vệ đầy dữ tợn trong giọng Harah. Đến lúc đó thì Jessica nhận ra Alia đã phán đoán đúng - quả thực họ cần Harah. Bộ tộc sẽ hiểu Harah - hiểu cả lời nói lẫn cảm xúc của chị - bởi rõ ràng chị yêu Alia như yêu đứa con chính mình rứt ruột đẻ ra.
"Ai nói thế?" Harah nhắc lại.
"Không ai cả."
Alia cầm một góc áo aba của Jessica lau nước mắt trên mặt. Cô bé vuốt thẳng chỗ vải áo bị cô làm nhàu ướt.
"Thế thì đừng nói vậy," Harah ra lệnh.
"Vâng, thưa cô Harah."
"Giờ thì," Harah nói, "con có thể kể cho ta nghe chuyện là thế nào để ta biết mà nói cho những người khác. Kể cho ta nghe điều gì đã xảy ra với con."
Alia nuốt nước bọt, ngước nhìn mẹ.
Jessica gật đầu.
"Có lần con thức dậy," Alia nói. "Giống như con vừa ngủ dậy vậy, chỉ có điều con không thể nhớ ra mình có đi ngủ hay không. Con đang ở một nơi ấm, tối. Và con sợ."
Lắng nghe cái giọng có phần ngọng nghịu của đứa con gái, Jessica nhớ lại cái ngày hôm đó trong hang lớn.
"Khi thấy sợ, con cố thoát khỏi đó, nhưng chẳng có cách nào thoát được," Alia nói. "Rồi con thấy một tia sáng... nhưng không hẳn là con thấy. Tia sáng kia ở ngay đó cùng con và con cảm thấy những cảm xúc của tia sáng ấy... xoa dịu con, an ủi con, bằng cách đó nó bảo con rằng mọi chuyện rồi sẽ ổn. Đó là mẹ con."
Harah dụi mắt, mỉm cười khích lệ Alia. Thế nhưng vẫn có một vẻ hoang dại nào đó trong đôi mắt người đàn bà Fremen, một cảm xúc mãnh liệt như thể cặp mắt đó cũng đang cố lắng nghe Alia nói.
Và Jessica nghĩ: Thực ra chúng ta biết được gì về suy nghĩ của một kẻ như vậy... từ những trải nghiệm độc nhất vô nhị của kẻ đó, từ những gì kẻ đó được dạy dỗ, từ tổ tiên kẻ đó?
"Ngay khi con cảm thấy an toàn, thấy yên tâm, thì lại có một tia sáng khác cùng với hai mẹ con ta... và mọi chuyện xảy ra cùng một lúc," Alia nói. "Tia sáng kia là Mẹ Chí tôn già. Người đang... trao đổi những cuộc đời với mẹ con... mọi thứ... và con ở đó cùng với họ, nhìn thấy tất cả... mọi thứ. Rồi chuyện đó kết thúc, và con là chính họ, là tất cả những người khác và là chính con... chỉ có điều phải mất một thời gian dài con mới lại tìm thấy chính mình. Có quá nhiều người khác."
"Việc đó thật tàn nhẫn," Jessica nói. "Không một sinh linh nào nên tỉnh dậy để bước vào ý thức bằng cách đó. Điều kỳ diệu là con đã có thể tiếp nhận tất cả những gì xảy ra với con."
"Con có làm được gì khác đâu!" Alia nói. "Con không biết phải cự tuyệt bằng cách nào, không biết làm sao để giấu ý thức của con đi... hoặc đóng kín nó lại... mọi thứ cứ thế xảy ra... mọi thứ..."
"Chúng ta không biết," Harah lẩm bẩm. "Lúc đưa Nước cho mẹ con để bà chuyển hóa nó, chúng ta không biết con đã có mặt bên trong bà."
"Đừng buồn vì chuyện đó, Harah," Alia nói. "Lẽ ra con không nên cảm thấy tủi thân. Nói gì thì nói, ở đây có lý do để cho con hạnh phúc: con là Mẹ Chí tôn. Bộ tộc ta có hai Mẹ..."
Cô bé ngừng bặt, nghiêng đầu lắng nghe.
Harah trở người trên đệm, tì lên gót chân, nhìn chằm chặp vào Alia, rồi lại hướng sự chú ý vào khuôn mặt Jessica.
"Chị không nghi ngờ gì sao?" Jessica hỏi.
"Su...u...ỵ...t...t," Alia nói.
Một tiếng ngân nga nhịp nhàng từ xa vẳng tới qua những tấm rèm ngăn giữa họ với các hành lang của sietch. Tiếng ngân nga càng lúc càng to, giờ thì đưa lại những âm thanh rõ rệt: "Ya! Ya! Yawm! Ya! Ya! Yawm! Mu zein, wallah! Ya! Ya! Yawm! Mu zein, Wallah!"
Những người đang hát đi ngang qua cánh cửa ngoài, giọng họ vang đến tận những buồng trong. Chầm chậm, tiếng hát xa dần.
Khi âm thanh đã đủ xa không còn nghe rõ, Jessica bắt đầu nghi lễ, giọng nhuốm buồn: "Giờ là thời kỳ Ramadhan và tháng Tư trên Bela Tegeuse."
"Gia đình tôi ngồi trên sân nhà, bên cạnh hồ, trong bầu không khí đẫm hơi ẩm tỏa lên từ tia nước hồ phun," Harah nói. "Có một cây cam portigul, tròn trịa, sẫm màu, vươn tay là chạm tới. Có một chiếc giỏ đựng quả mơ mish mish, bánh baklawa và những cốc vại đựng liban - đủ thức ăn ngon. Trong vườn chúng tôi và trong lũ dân tôi luôn luôn có hòa bình... hòa bình khắp trên mảnh đất này."
"Cuộc sống ngập tràn hạnh phúc, cho đến khi bầy cướp kia xuất hiện," Alia nói.
"Máu lạnh điếng trước tiếng kêu của bạn bè," Jessica nói. Và bà cảm thấy các ký ức từ tất cả những quá khứ khác mà bà đang chia sẻ ào ạt tuôn chảy khắp trong bà.
"La, la, la, phụ nữ khóc than," Harah nói.
"Quân cướp đến, băng qua mushtamal, nhảy bổ vào chúng ta với những con dao rỏ máu đã cướp đi mạng sống những người đàn ông của chúng ta," Jessica nói.
Im lặng trùm lên ba người cũng như trùm khắp mọi gian phòng của sietch, cái im lặng trong khi họ nhớ lại và kìm nén nỗi đau hãy còn sống sít nhường kia.
Ngay sau đó, Harah thốt lên lời kết thúc lễ theo nghi thức, đưa vào những lời đó sự khắc nghiệt mà Jessica chưa từng nghe thấy ở chúng.
"Chúng ta sẽ không bao giờ tha thứ và chúng ta sẽ không bao giờ quên," Harah nói.
Trong sự im lặng ưu tư theo sau những lời của chị, họ nghe thấy tiếng nhiều người thì thầm, tiếng nhiều chiếc áo dài sột soạt. Jessica cảm thấy có người đang đứng ngoài các tấm rèm ngăn cách buồng của bà.
"Bẩm Mẹ Chí tôn."
Một giọng phụ nữ, và Jessica nhận ra nó: giọng Tharthar, một trong các bà vợ của Stilgar.
"Gì vậy hở Tharthar?"
"Có chuyện không hay, thưa Mẹ Chí tôn."
Jessica cảm thấy tim mình thắt lại, một nỗi sợ đột ngột cho Paul. "Paul..." bà thở dốc.
Tharthar vạch rèm ra, bước vào buồng. Trước khi rèm buông xuống, Jessica thoáng thấy một đám người xúm xít ở phòng ngoài. Bà ngước nhìn Tharthar, một phụ nữ da sẫm nhỏ bé mặc áo choàng màu đen có vẽ hình màu đỏ, màu xanh tuyệt đối của cặp mắt nhìn xoáy vào Jessica, hai lỗ mũi nhỏ xíu nở to để lộ những vết sẹo do nút thông hơi để lại.
"Chuyện gì thế?" Jessica hỏi gặng.
"Có tin từ ngoài cát," Tharthar nói. "Usul gặp Ngài tạo trong cuộc sát hạch của anh ấy... vào hôm nay. Đám thanh niên nói anh ấy không thể thất bại, trước khi đêm xuống anh ấy sẽ trở thành kỵ sĩ cát. Đám thanh niên đang họp lại để tổ chức razzia. Họ sẽ tấn công về phía Bắc và gặp Usul ở đó. Họ nói họ sẽ làm tiếng khóc dậy lên ở đó. Họ nói họ sẽ buộc anh ấy thách đấu với Stilgar để giành quyền lãnh đạo các bộ tộc."
Thu thập nước, trồng những đụn cát, thay đổi thế giới của họ một cách chậm chạp nhưng chắc chắn, chừng đó việc bây giờ không được coi là đủ nữa, Jessica nghĩ. Những cuộc chinh phạt nhỏ, những cuộc chinh phạt không thể tránh khỏi, chừng đó giờ đây không còn đủ nữa một khi Paul và ta đã huấn luyện họ rồi. Họ cảm thấy sức mạnh của mình. Họ muốn đánh nhau.
Tharthar chuyển trọng tâm từ chân này sang chân nọ, hắng giọng.
Chúng ta biết cái nhu cầu cần chờ đợi một cách thận trọng, Jessica nghĩ, nhưng đó chính là cốt lõi nỗi thất vọng của chúng ta. Chúng ta cũng biết cái hại mà sự chờ đợi kéo dài quá lâu có thể gây ra cho chúng ta. Chúng ta đánh mất ý thức về mục đích của mình nếu sự chờ đợi bị kéo dài.
"Đám thanh niên bảo nếu Usul không thách đấu Stilgar thì chắc hẳn anh ấy đã sợ hãi," Tharthar nói.
Cô ta cụp mắt xuống.
"Ra vậy," Jessica lẩm bẩm. Và bà nghĩ: Ta đã thấy rõ chuyện này sẽ xảy ra. Stilgar cũng vậy.
Một lần nữa, Tharthar hắng giọng. "Ngay cả em trai tôi là Shoab cũng nói vậy," cô nói. "Họ sẽ không để Usul được lựa chọn."
Vậy thì chuyện đó đã xảy ra rồi, Jessica nghĩ. Và Paul sẽ phải tự mình giải quyết. Mẹ Chí tôn không dám dính líu vào chuyện kế vị này.
Alia rút tay ra khỏi tay mẹ, nói: "Con sẽ đi với Tharthar để nghe các thanh niên nói. Có lẽ có cách nào đó."
Jessica bắt gặp cái nhìn của Tharthar, nhưng nói với Alia: "Vậy đi đi. Rồi báo lại cho mẹ biết càng sớm càng tốt."
"Chúng tôi không muốn chuyện này xảy ra đâu, thưa Mẹ Chí tôn," Tharthar nói.
"Chúng ta không muốn," Jessica đồng ý. "Bộ tộc cần toàn bộ sức mạnh của nó." Bà liếc sang Harah. "Chị đi cùng họ chứ?"
Harah trả lời phần không được nói ra của câu hỏi: "Tharthar sẽ không cho phép ai làm hại đến Alia. Chị ấy biết chẳng bao lâu nữa hai chúng tôi, chị ấy và tôi, sẽ là vợ chung của một người đàn ông. Tharthar với tôi, chúng tôi đã bàn chuyện đó rồi." Harah nhìn lên Tharthar, rồi nhìn lại Jessica. "Chúng tôi hiểu nhau."
Tharthar chìa một tay ra cho Alia, nói: "Ta phải nhanh lên. Đám thanh niên đang ra đi đấy."
Họ lách qua những tấm rèm, đứa bé đặt tay mình vào bàn tay nhỏ nhắn của người đàn bà, nhưng có vẻ như đứa bé mới là kẻ dẫn đường.
"Nếu Paul Muad'Dib giết Stilgar, điều đó sẽ không có lợi cho bộ tộc," Harah nói. "Trước đây bao giờ cũng vậy, đó là cách để người này kế vị người kia, nhưng thời thế đã thay đổi."
"Thời thế cũng đã thay đổi đối với chị," Jessica nói.
"Bà không thể nghĩ rằng tôi có hoài nghi gì về kết cục một trận đấu như vậy," Harah nói. "Usul chỉ có thể thắng mà thôi."
"Đó là điều ta muốn nói."
"Và bà nghĩ cảm xúc cá nhân của tôi đã can thiệp vào phán đoán của tôi." Harah nói. Chị lắc đầu, những vòng đếm nước kêu lanh canh trên cổ. "Bà mới nhầm lẫn làm sao chứ! Có lẽ bà cũng nghĩ rằng tôi lấy làm tiếc mình không phải là người được Usul chọn, rằng tôi ghen với Chani?"
"Chị tự lựa chọn lấy bởi chị có thể làm thế," Jessica nói.
"Tôi thương cho Chani," Harah nói.
Jessica cứng đờ người. "Ý chị là sao?"
"Tôi biết bà nghĩ gì về Chani," Harah nói. "Bà nghĩ cô ta không phải người vợ thích hợp cho con trai bà."
Jessica ngả về phía sau, thả lỏng người trên đống đệm. Bà nhún vai. "Có lẽ vậy."
"Có thể bà đúng," Harah nói. "Nếu đúng vậy, bà có thể tìm thấy một đồng minh bất ngờ - ấy là chính Chani. Cô ấy muốn bất cứ điều gì miễn đó là điều tốt nhất cho Người."
Jessica nuốt nước bọt qua cổ họng đột ngột siết chặt lại. "Chani rất thân thiết với ta," bà nói. "Con bé không thể..."
"Thảm ở đây bẩn quá," Harah nói. Chị lướt nhìn khắp phòng, tránh ánh mắt của Jessica. "Lúc nào cũng có quá nhiều người giẫm lên đây. Bà phải cho người ta giặt thảm thường xuyên hơn mới được."
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Xứ Cát
Frank Herbert
Xứ Cát - Frank Herbert
https://isach.info/story.php?story=xu_cat__frank_herbert