Chương 36
GƯƠI BIẾT MÌNH ĐANG ĐI ĐÂU ĐẤY CHỨ?
Tôi thức tỉnh giữa bóng tối. Tôi tỉnh ngay lập tức, hai mắt mở thao láo, nhưng tôi chẳng nhìn thấy gì cả. Tôi có thể cảm nhận được nhờ các đặc điểm của thành phần không khí nơi đây (độ ẩm, độ đặc loãng) rằng mình đang ở trong một không gian kín. Không khí nặng nề đến nỗi gần như không thể thở nổi, với mùi gỗ mục, và tôi đang nằm ngửa. Một cảm giác ngột ngạt đáng sợ bao trùm lên tôi.
TA Ở ĐÂY RỒI.
Tôi có thể nghe được - không, cảm nhận được - sự sung sướng trong giọng nói của con rắn; mụ ta đang hạnh phúc với việc ký sinh trong xương sống của tôi hơn bao giờ hết. Morphine đã giúp kiềm chế mụ ta nhưng giờ đây, tại nơi này, cái rào chắn đó đã bị dỡ bỏ. Con rắn cuồng loạn ăn mừng.
NGƯƠI CHẲNG THỂ CẢN ĐƯỢC ĐÂU.
Tôi cố vươn hai cánh tay ra nhưng tay tôi chạm vào những rào chắn ở mọi phía, chỉ cách có độ chục phân. Gỗ phẳng và nhẵn. Gần một mét chiều rộng, gần hai mét chiều dài; kích thước cơ thể tôi. Đối với con người, chỉ có duy nhất một cái hộp có kích cỡ thế này.
NGƯƠI ĐANG NẰM TRONG QUAN TÀI.
Điều này không có thật. Tôi cố nhớ lại mọi thứ. Tôi đã biết chuyện gì sẽ xảy ra nếu ngưng dùng morphine, vì thực sự tôi cũng đang trong tình trạng đó, không phải trong cái mộ tưởng tượng này. Tôi đã nghiên cứu, như một sinh viên khẩn khoản cầu nguyện bài kiểm tra sẽ bị hoãn lại, về việc cai nghiện. Đột ngột bỏ morphine không phải chuyện gì nguy hiểm đến tính mạng, như chuyện hay xảy ra với những loại thuốc gây nghiện khác, nhưng nó có thể gây ra những ảo giác kỳ lạ. Rõ ràng đây là một trong số những ảo giác ấy.
Có quá nhiều lý do để không tin vào chuyện này. Làm sao tôi có thể bị lôi ra từ phòng ngủ rồi bị chôn mà không hề hay biết? Nếu gỗ quan tài đã mục ruỗng đến mức này, làm sao tôi có thể ở dưới đất lâu đến thế? Làm sao trong đây vẫn còn có ôxy? Tất cả những chuyện này đều không thể xảy ra; vì thế, tôi chỉ đang bị ảo giác thôi.
Nhưng liệu những người bị ảo giác có đủ tỉnh táo để nhận ra điều đó không? Không phải tất cả mọi ảo giác đều được mặc định, theo nghĩa thông thường, là rất vô lý sao? Tôi không hề có cảm giác mình đã bị tách rời khỏi hiện thực; thực sự, chuyện này quá giống thực tế. Những người đang bị ảo giác có thể phân biệt chất lượng không khí không? Họ có nghĩ được là gỗ đóng quan tài mất bao lâu để mủn ra không, hay họ có nghĩ được bọn sâu bọ cần bao lâu để chui vào quan tài không? Nếu tôi thực sự đang chịu tác dụng của việc ngừng dùng thuốc đột ngột, tại sao tôi lại không lên cơn thèm thuốc? Vì thế dù tôi biết rằng chuyện này không thể có thật, tôi vẫn phải băn khoăn vì sao tôi lại hỏi cái câu logic đến thế?
Tôi liền nhận ra ngay những con nghiện cố bỏ thuốc sẽ mất tỉnh táo y như kiểu những triệu phú vô lo vô nghĩ mất tiền của: dần dần, rồi độp một cái. Sau khi xem xét mọi thứ cẩn thận, tôi ngay lập tức mất luôn khả năng kiểm soát xem cái gì mới được coi là đối lập hoàn toàn với một khám phá bất ngờ: thay vì tất cả những suy nghĩ của tôi cùng xuất hiện rõ ràng, chúng cùng nhau bật khỏi trí óc tôi như những nạn nhân cố gắng thoát khỏi tâm chấn động đất vậy.
Dù rõ ràng không có chỗ để nạy nắp quan tài lên, tôi vẫn điên cuồng tung những cú đấm của mình ra xung quanh, đập vào miếng gỗ bị đè nặng dưới ba tấc đất. Tôi cào xé cho đến lúc móng tay của mình tứa ra và kêu gào cho tới khi không còn chút hy vọng nào trong cổ họng. Khi còn nằm viện, tôi tin rằng mình đã biết thế nào là sợ hãi khi chờ tới đợt cắt lọc tiếp theo. Nhưng đó chỉ là trò vớ vẩn; tôi chả biết gì cả. Tỉnh dậy trong một cái quan tài và biết rằng mình chỉ còn cách chờ chết? Đó mới là sợ hãi.
Sự chống trả quá khích chẳng thấm vào đâu của tôi đã tỏ ra rất vô dụng, dĩ nhiên. Vì thế tôi ngừng lại. Dù có thể phá được lớp gỗ này ra thì tôi vẫn cứ phải chết thôi, chỉ khác mỗi phương thức: thay vì chết do thiếu ôxy, tôi sẽ bị ngạt thở trong đống đất đang bao kín quan tài. Thiếu không khí còn hơn là bị đất đè cho chết ngạt. Và thế là, yên lặng bao trùm lên cái hộp của tôi như chiếc chăn đắp trên một thây ma. Không có gì để làm ngoài việc chờ đợi, tôi quyết định sẽ làm gì cho ra dáng một chút.
Tiếng thở của tôi vọng lại, như thể cỗ quan tài là một căn phòng tồi tàn nhỏ bé bằng bê tông. Tôi sẽ nghe cho tới khi không còn nghe được nữa, rồi hơi thở yếu ớt cuối cùng của tôi sẽ tan vào bóng tối. Tôi sẽ ra đi thật nhẹ nhàng, tôi hứa với bản thân mình như vậy, bởi vì tôi - sau tai nạn thảm khốc này - đã sống lâu hơn khả năng của mình rất nhiều.
Rồi tôi nhận ra rằng chuyện này ngu ngốc đến thế nào, nghĩ về cái chết khi đang bị ảo giác. Không vấn đề gì. Bình tĩnh tự tin. Tôi đã dạy cho Marianne Engel hồi ở Đức thế nào nhỉ?Mọi bí quyết đều nằm ở cách thở. Hãy giữ chắc vũ khí bằng cách thở chậm lại. Hít vào, thở ra, hít vào, thở ra. Từ tốn. Tôi là vũ khí, tôi tự nhủ; một vũ khí sống, được tôi luyện trong lửa, và không gì có thể cản lại được.
Và rồi. Tôi đã cảm thấy. Một cái gì đó. Và cái gì đó chỉ có thể diễn tả bằng một từ tôi không muốn dùng chút nào: kỳ-bí, một từ ngu ngốc tôi bắt buộc phải đem ra sử dụng vì, rất không may mắn, đó là từ duy nhất chính xác. Tôi cảm thấy một cái gì đó đang hiện hữu. Và nó đang ở ngay bên cạnh tôi. Một người phụ nữ. Tôi không hiểu tại sao mình lại biết đó là một phụ nữ, nhưng sự thật là thế. Không phải là Marianne Engel, vì tiếng thở không giống. Mãi đến lúc ấy tôi mới biết mình có thể nhận ra cô bằng nhịp thở, nhưng tôi đã làm được và đây không phải cô. Tôi đột nhiên nghĩ tiếng thở đó có thể xuất phát từ con rắn. Có lẽ mụ già đã trườn khỏi xương sống của tôi để trực diện đối đầu với tôi. Rốt cuộc thì, chẳng ai có thể cứ nói sau lưng người khác mãi được.
Nhưng không, đây là một cơ thể người đang bình thản nằm cạnh tôi. Thật nực cười, vì quan tài - cái quan tài tưởng tượng - chẳng còn chỗ cho thêm một ai nữa. Tuy nhiên, để chắc chắn, tôi hích nhẹ vào lớp gỗ bên cạnh mình. Hơi thở của cô rất nhịp nhàng, không hiểu sao làm cho tôi cảm thấy rùng rợn.
Một bàn tay chạm vào tôi. Tôi hẩy ngay ra. Tôi ngạc nhiên thấy mình có thể cảm nhận được da thịt cô; tôi đã nghĩ thực thể này là một thứ gì đó phi vật chất. Những ngón tay của cô rất nhỏ nhắn nhưng cô vẫn đủ sức nắm lấy tay tôi.
Tôi cố tỏ ra can đảm trong khi đòi cô nói cho mình biết cô là ai, nhưng giọng tôi đã bị khản đặc. Không có câu trả lời. Chỉ có tiếng thở đều đều của cô. Tôi hỏi lại lần nữa: "Cô là ai?"
Ngón tay cô nắm chặt hơn một chút, đan vào ngón tay tôi. Tôi hỏi một câu khác. "Cô đang làm gì ở đây?"
Vẫn chỉ có tiếng thở nhẹ nhàng, đều đặn của cô. Với những câu hỏi không lời đáp, tôi đã cảm thấy bớt sợ hơn. Cách cô nắm tay tôi không còn đe dọa nữa, mà như đang trấn an tôi, rồi tôi nhanh chóng thấy mình đang bay lên, gần như thế - không, không phải gần như thế, mà chắc chắn là - đang bay lên. Lưng tôi bắt đầu nhấc khỏi đáy quan tài nơi tôi vừa nằm.
Tôi cảm thấy mình là một diễn viên trong trò ảo thuật bay với hai tay được giữ bởi một nhà ảo thuật. Tôi cảm thấy chúng tôi đang xuyên qua nắp quan tài, rồi xuyên qua lớp đất đá. Một quầng sáng màu cam lướt qua mí mắt tôi khi chúng tôi đến gần mặt đất, và tôi thậm chí còn không chắc mình còn thở không nữa.
Đất vỡ ra xung quanh khi tôi nhìn thấy ánh mặt trời, và màu cam đó rừng rực trước mắt. Tôi được nâng lên cao, cách vài phân so với mặt đất. Đất rớt khỏi ngực tôi và tôi có thể cảm thấy nó trượt xuống những dẻ xương sườn, rơi khỏi hông. Tôi đang trôi trong không trung mà không có chỗ nào để bấu víu; người phụ nữ đã không phá huyệt ra cùng tôi. Chỉ có một cánh tay của cô là trồi lên, kết nối tôi với mặt đất như sợi dây gắn với quả bóng bay. Tay cô giữ tôi trong thoáng chốc rồi thả ra và bị kéo lại vào trong mộ. Đó là lúc tôi nhận ra rằng cô không thể rời khỏi đó được: cô không phải là khách đến thăm quan tài của tôi, tôi mới là khách của cô.
Cơ thể tôi nằm trên một đống đất đá. Mắt tôi đã quen dần với ánh sáng. Tôi đang ở trên một ngọn núi và tôi có thể nghe thấy tiếng sông chảy róc rách gần đó. Thật thanh bình, chỉ trong giây lát, cho đến khi mặt đất dưới chân tôi lại bắt đầu rung chuyển. Trong giây phút hoảng loạn, tôi lo rằng người phụ nữ câm lặng đó đã quyết định kéo tôi lại xuống đất, nhưng chuyện xảy ra khác hẳn. Từ tứ phía, đất đá khẽ rung chuyển từng đợt, như những con chuột chũi dùng móng vuốt cào cấu để cố trồi lên mặt đất vậy.
Lúc đầu, chúng chỉ là những tia sáng lóe lên trong nắng. Nhưng rồi hình dạng thật của chúng bắt đầu hiện ra: những bông hoa, với những cánh hoa không màu. Khi nhìn gần hơn, tôi nhận ra rằng chúng được làm từ thủy tinh. Hoa loa kèn. Cả ngàn bông loa kèn thủy tinh nở khắp mọi nơi, với ánh sáng rực rỡ dường như tỏa ra từ chính chúng vậy.
Tôi rướn người bẻ một bông. Ngay khi tôi chạm vào, bông hoa đóng băng lại dưới ngón tay tôi. Biến từ thủy tinh thành băng, cả một nghìn bông hoa - như thể đều được gắn kết với nhau bởi một linh hồn - bắt đầu nổ tung ra thành từng mảnh nhỏ. Mỗi tiếng nổ là một từ được thoát ra, trong giọng thì thầm của một người phụ nữ, và tất cả hợp với nhau thành một bản giao hưởng nghe như tiếng của tình yêu thuần khiết. Aishiteru, aishiteru, aishiteru.
Những bông hoa loa kèn nổ tung rơi xuống núi như những quân cờ domino đổ ập về phía chân trời. Trong niềm hân hoan của câu hát Aishiteru vang vọng khắp bầu trời, ngọn núi rung lên dữ dội rồi sụp đổ, thành những bình nguyên trải ra mọi hướng. Chỉ vài giây sau khi chuyện này xảy ra, khắp xung quanh tôi những bông hoa vụn vỡ đã trở thành một cánh đồng băng trải dài ngút tầm mắt.
Tôi chăm chú nhìn cánh đồng băng hoang dại này và nó cũng tàn nhẫn nhìn thẳng vào tôi. Gió rét buốt như đến từ Nam Cực cứ quật liên hồi vào thân thể đang run bần bật của tôi. Giờ tôi mới nhận ra mình hoàn toàn trần trụi, không có gì trên người ngoài sợi dây chuyền mặt khắc hình thiên thần không bao giờ rời khỏi cổ tôi.
Ngôi mộ đã biến mất - dĩ nhiên, khi giờ đây cả ngọn núi cũng đã biến mất - nhưng có một chiếc áo nhà sư tuềnh toàng đang nằm tại nơi từng là ngôi mộ. Khi tôi nhặt nó lên ướm thử vào người mình, vài hạt đất nhỏ rơi ra rồi bị điệu vũ ba lê mạnh mẽ của gió thổi đi mất. Chiếc áo nhà sư quá nhỏ so với người tôi nhưng vì nó là tất cả những gì tôi hiện có, tôi đã mặc nó vào. Bạn có thể tưởng tượng một người bị bỏng như tôi mặc chiếc áo ni cô bé xíu thì trông lố bịch đến thế nào nhưng khi bạn đang chết rét thì lo lắng về thẩm mỹ chẳng có ích lợi gì đâu.
Chiếc áo giống hệt cái tôi đã thấy người phụ nữ Nhật Bản mặc hôm lễ hội Halloween. Không nghi ngờ gì nữa, cái áo và ngôi mộ này, thuộc về Sei.
Sự trống trải lạnh lẽo của thế giới mới này như nuốt chửng tôi. Địa điểm tồn tại của tôi thay đổi đến chóng mặt: từ cái nơi bé và tối nhất tôi có thể tưởng tượng ra, đến nơi rộng lớn và sáng sủa nhất. Trong hàng dặm quanh đấy, tôi là vật thể cao nhất, trông thật hoành tráng chỉ vì có hai chân để đứng được, thế nhưng tôi vẫn cảm thấy mình thật bé nhỏ giữa bầu trời bao la. Đứng trên một bình nguyên bằng phẳng làm bạn cảm thấy vừa vĩ đại lại vừa nhỏ bé.
Chiếc áo mỏng manh chẳng chống rét được mấy, gió lạnh thấu xương. Tôi nhìn thấy gì đó, tôi đã bắt đầu bị mù tuyết, nhưng vẫn cố nheo mắt để xác định cho rõ vật kia: một sinh vật nặng nề bước đi giữa không gian trống trải ghê hồn. Hình thù đó có vẻ đang đi thẳng về phía tôi, nhưng rất khó nói chắc được giữa một nơi bằng phẳng thế này. Tôi tiến về phía nó. Nó có là gì đi nữa thì cũng không thể tệ hơn việc cứ đứng thế này, đợi đông thành đá được.
Một lúc sau tôi nhận ra cái vật thể đang tiến về phía mình ấy là một người đàn ông. Anh ta hẳn đến cứu tôi, vì nếu không đến cứu tôi thì chắc chỉ để giết tôi mà thôi. Chi tiết đầu tiên tôi nhìn ra là những lọn tóc đỏ và dày của anh ta, nổi bật trên nền tuyết trắng như vết máu đọng trên tấm khăn trải giường. Thứ tôi thấy tiếp theo là anh ta choàng áo lông thú dày cộp và đi đôi ủng cũng dày không kém. Quần anh ta làm bằng da thuộc dày dặn và áo khoác cũng được làm từ da thú. Hình như anh ta mang một chiếc túi da trên vai. Anh ta thở ra khói liên tục. Râu anh ta đọng đầy những hạt tuyết nhỏ li ti. Anh ta ở gần tôi lắm rồi. Khóe mắt anh ta hằn những nếp nhăn và tôi tin anh ta trông già hơn tuổi thật rất nhiều.
Khi đến trước mặt tôi, anh ta giơ cái túi đeo trên vai ra và nói, "Farðu í petta." Tôi hiểu câu đó có nghĩa là gì: Anh mặc những cái này vào.
Tôi mở chiếc túi ra và thấy một bộ quần áo đầy đủ làm bằng da dày phủ lông để bảo vệ tôi. Tôi hối hả mặc quần áo vào, và nhanh chóng cảm thấy người mình ấm lên hẳn. "Hvað heitir pú?" Tên anh là gì? Tôi bất ngờ khi thấy miệng mình cũng phát ra tiếng Iceland.
"Tôi là Sigurðr Sigurðsson, và anh sẽ đi cùng tôi." Câu trả lời đã giúp tôi khẳng định chắc chắn nhân dạng của anh ta mà khi nãy tôi đã đoán ra; nhưng không chắc lắm, bởi vì ở đây - bất kể đây là đâu đi nữa - Sigurðr cũng không bị thiêu cháy dù đó là cách chấm dứt cuộc đời anh. Điều đó làm tôi băn khoăn tại sao thân thể tôi vẫn đầy thương tổn.
"Chúng ta đang đi đâu vậy?" tôi hỏi.
"Tôi không biết."
"Khi nào chúng ta sẽ đến đó?"
"Tôi không biết," anh ta liếc mắt nhìn về phía đường chân trời. "Tôi đã đi được khá lâu, tôi nghĩ chắc cũng gần tới rồi."
Sigurðr đeo một cái vỏ kiếm ở thắt lưng, thứ đã lắc qua lắc lại trên hông Sei khi họ khiêu vũ. Anh ta rút thanh Sigurðrsnautr chuôi chạm hình mãng xà ra, rồi đưa thắt lưng và bao kiếm cho tôi. "Đeo cái này vào, anh sẽ cần đến nó đấy."
Tôi hỏi tại sao. Anh ta trả lời là mình cũng không biết.
Tôi ném áo nhà sư của Sei đi, nghĩ nó đã vô dụng khi giờ đây tôi đã có bộ quần áo bằng da. Sigurðr nhặt nó lên và đưa lại cho tôi. "Dưới Địa ngục, anh sẽ phải dùng đến tất cả mọi thứ mình có."
Tôi buộc chiếc áo lại quanh eo, làm thành chiếc thắt lưng thứ hai cùng với chiếc mà Sigurðr vừa mới tặng cho tôi. Tôi hỏi anh ta tại sao lại biết chúng tôi phải đi theo hướng nào.
"Tôi không biết," anh ta trả lời. Sigurðr là người khá kiệm lời. Anh ta dùng thanh kiếm của mình làm gậy đi đường, mặt băng bị cắt ra dưới mỗi nhát kiếm. Đối với một người không biết mình đang đi về đâu, những bước chân của anh ta thật quyết đoán làm sao.
"Đây có phải chỉ là ảo giác không?" Tôi cảm thấy mình cực kỳ ngớ ngẩn khi đang ở trong một ảo giác mà hỏi xem liệu đó có phải là ảo giác không bằng một ngôn ngữ tôi không hề biết. (Trên thực tế, có bao nhiêu người trên cả thế giới này biết từ "ảo giác" trong tiếng Iceland là ofskynjun?) Sigurðr trả lời rằng anh ta không nghĩ đây lại là một ofskynjun, nhưng cũng không chắc lắm.
Chúng tôi cứ đi. Đi mãi. Hằng ngày trời, nhưng mặt trời không bao giờ lặn. Có lẽ bạn nghĩ đây là một kiểu nói quá, rằng tôi thực sự chỉ muốn nói là hàng giờ, và thời gian ấy dài lê thê như thể bao ngày đã trôi qua mà thôi. Nhưng không, tôi muốn nói là hằng ngày trời. Chúng tôi cứ đi trong trạng thái cực kỳ mệt mỏi nhưng chúng tôi lại không bao giờ cảm thấy cần ngủ, và dù đầu gối tôi chẳng tử tế gì, tôi vẫn cảm thấy mình có thể đi mãi không thôi. Tôi nghĩ về những nơi ở vùng cực Bắc của thế giới, nơi mặt trời mọc liên tục trong suốt sáu tháng liền. Liệu chúng tôi có phải đi xa đến thế không?
Sigurðr vẫn tiếp tục đóng vai người nói ít, và nói tối nghĩa; hầu như trong suốt cuộc hành trình, âm thanh duy nhất phát ra từ người anh ta là tiếng nhạc nhẹ nhàng từ dưới chiếc áo da, quanh vùng cổ. Được một lúc thì tôi dừng nói chuyện với anh ta, trừ việc cố làm anh ta cười. Tôi chưa bao giờ thành công cả. Thỉnh thoảng tôi không đi tiếp chỉ để phá vỡ sự đơn điệu. Tôi nài nỉ Sigurðr chờ chỉ một phút thôi nhưng anh ta luôn nói rằng chẳng có thời gian nghỉ ngơi đâu. Khi tôi hỏi tại sao, anh ta trả lời, "Vì chúng ta cần phải đến đó."
Khi tôi hỏi Sigurðr "đó" là ở đâu, anh ta không biết. Vì thế tôi nói với anh ta rằng, khi anh ta không biết nơi đó là ở đâu, tôi chẳng thấy có lý do gì phải tiếp tục đi theo anh ta cả. Anh ta khịt mũi, nói tôi được phép chọn làm cái việc ngu ngốc ấy, và cứ tiếp tục đi mà không cần có tôi. Ngay trước khi anh ta khuất khỏi tầm nhìn, tôi lại hộc tốc chạy đuổi theo. Vì dĩ nhiên là tôi cần anh ta - một mình tôi thì làm được gì ở cái chỗ này chứ? Và thế là chúng tôi lại nặng nhọc tiến về phía trước, tiến về cái nơi anh ta không thể định nghĩa được còn tôi thì không thể tưởng tượng nổi.
Ảo giác lẽ ra phải đẹp hơn thế này, tôi nghĩ vậy. Đi dọc bình nguyên băng giá trong hằng ngày trời thật là một việc buồn tẻ và tôi phải ngạc nhiên khi thấy mình có thể tưởng tượng ra một thứ vớ vẩn như thế, trong thời gian lâu đến thế. Lạnh cắt da cắt thịt; tuyết cuộn xoáy bay tứ tung; và sự mệt mỏi làm tôi đau đớn đến nỗi nghĩ rằng đây chẳng phải tưởng tượng. Điều duy nhất có vẻ thiếu thực tế ở đây là khả năng đi liên tục mà không cần nghỉ ngơi hay ăn uống gì của tôi.
Dĩ nhiên đây chỉ là ảo giác. Một ảo giác quá thật, quá lạnh lẽo, quá dai dẳng. Việc ngừng dùng thuốc kích thích lẽ ra không gây ra hậu quả thế này. Trừ phi...
"Sigurðr, tôi đã chết chưa?"
Anh ta cuối cùng cũng cười, "Anh chỉ là khách ở đây thôi."
Nếu nơi đây thuộc về Sigurðr, cũng như cỗ quan tài là của Sei, tôi muốn biết nhiều hơn về nó. Về tất cả mọi thứ. Tôi quyết định loại hết tế nhị qua một bên. "Âm thanh phát ra từ cổ anh - có phải là của chiếc vòng cổ đính đá quý từng thuộc về Svanhildr không?"
Anh ta ngừng bước, có lẽ đang quyết định có nên xác nhận hay không. Anh ta chọn có. "Ừ."
"Anh cũng có cả sợi dây gắn đầu mũi tên chứ?"
"Cái đó đã được trao cho Friðleifr rồi."
"Tên cậu ấy đã được đổi thành Sigurðr, anh biết mà."
Anh ta không nói gì một lúc lâu, cho tới khi trả lời với giọng nhẹ nhàng nhất tôi từng được nghe từ miệng anh. "Ừ, tôi biết. Đó là một niềm vinh hạnh lớn."
"Anh có thể kể cho tôi nghe về Einarr chứ?"
Câu hỏi làm anh ta bước tiếp. "Câu chuyện đó không dành cho anh."
"Tôi đã được nghe kể về nó rồi."
Sigurðr quay lại nhìn thẳng vào mắt tôi. "Không. Anh chỉ được nghe phiên bản của Marianne Engel về câu chuyện của tôi thôi. Làm sao anh lại dám nghĩ mình hiểu được trái tim tôi, trong khi anh thậm chí còn không hiểu được trái tim của chính bản thân mình?"
Hãy để một người Viking dạy bạn nghệ thuật nói năng khi bạn ít ngờ đến nhất. Tôi ngậm miệng lại và đi tiếp.
Tôi cứ nghĩ có gì đó ở ngay phía trước, nhưng mãi vẫn chẳng thấy gì, tôi cứ nghĩ là chúng tôi sẽ đi đến một ngọn đồi nhìn xuống một thung lũng, hoặc một thảm rêu mọc trên những mỏm đá granite, nhưng mỗi "đỉnh đồi" chúng tôi gặp đều chỉ là đường chân trời hiện tại được thay thế bằng một đường chân trời mới. Tôi cầu mong sự đơn điệu này được phá vỡ, bởi cái gì cũng được. Một hòn đá tảng. Một vết móng guốc nai sừng tấm Bắc Mỹ. Một con chó kéo xe bị đông cứng. Tên một người được khắc vào băng tuyết với những chữ cái vàng rực trong nắng. Nhưng chúng tôi chỉ gặp thêm nhiều băng, nhiều tuyết. Vào ngày thứ tư (tôi nghĩ đó là ngày thứ tư), tôi dừng lại. Bỏ cuộc.
"Chẳng có gì ở đây cả. Bất cứ cái gì anh nghĩ mình có thể tìm thấy..." Giọng tôi lạc đi. "Sigurðr, anh đã đến 'nơi đó' hơn một nghìn năm rồi, vậy mà anh thậm chí còn chẳng biết đó là nơi nào."
"Anh đi cho tới khi nào đến nơi thì thôi," anh ta nói, "và giờ anh đi được đủ xa rồi."
Nơi này chẳng khác bất cứ chỗ nào trên cái bình nguyên này cả. Tôi xoay đủ mọi hướng, vung hai cánh tay lên để nhấn mạnh điểm này. "Anh nói về cái gì vậy?"
"Nhìn lên trời đi."
Tôi ngước mắt lên. Dù sự thật là chẳng có ai trong hàng dặm xung quanh, vẫn có một mũi tên từ đâu phóng thẳng về phía tôi.
Tôi muốn di chuyển nhưng người cứ đông cứng lại, phản ứng duy nhất của tôi là lấy hai tay che đầu. (Mặc dù, sau khi nghe tất cả những câu chuyện của Marianne Engel, quyết định có vẻ logic hơn phải là lấy tay che ngực mới phải.) Mũi tên hụt khỏi tôi độ vài phân, cắm thẳng xuống đất, và mặt đất nứt toác ra như một con quái vật bạch tạng bị gãy móng vuốt. Hàng tảng băng khổng lồ văng lên rồi nứt vỡ, điên cuồng lao vào chúng tôi. Một tảng lớn đập trúng vào vai phải của tôi, hất tôi vào một tảng xù xì khác. Trong giây phút tôi ngộ ra, chuyện này giống y như lúc tôi lái xe lao xuống vực, tất cả mọi thứ chuyển động chậm lại khi tôi nhìn sự cố xảy ra. Nước chậm chạp phun ra từ một vết nứt trên mặt đất, và cuối cùng tôi đã hiểu được tại sao chẳng có điểm gì nổi bật để chúng tôi có thể phân biệt cảnh này với cảnh kia trong suốt quãng đường chúng tôi đi. Chúng tôi có ở trên mặt đất đâu, chúng tôi đang ở trên một khối băng khổng lồ. Những tảng băng nhọn hoắt xoay tròn xung quanh tôi và chẳng mấy chốc tôi đã thấy mình bị trọng lực kéo sụp xuống lòng biển mới vừa được phát hiện.
Tôi cảm thấy lạnh thấu xương. Lớp áo da của tôi đã trở nên vô dụng; vô dụng không để đâu cho hết, thực sự là thế, vì chúng ngấm nước và làm tôi chìm xuống sâu hơn. Lúc đầu tôi còn cố quờ quạng bám vào những tảng băng trôi phía trên, bấu tay vào bất cứ chỗ nào tôi có thể bám được. Tôi cảm thấy hơi ấm nơi bụng mình, nhưng rồi nó cũng nhanh chóng tan đi. Tôi thấy những cử động của mình chậm dần, và tiếng răng tôi va lập cập vào nhau mạnh đến nỗi át cả tiếng băng nứt xung quanh; tôi băn khoăn liệu những cái sẹo lồi trên người tôi có tím tái không.
Chẳng thấy Sigurðr đâu cả. Anh ta hẳn đã bị nuốt chửng giữa những tảng băng nhấp nhô rồi. Một tảng băng quét qua sườn trái tôi và một tảng khác đập bốp vào lưng tôi. Chúng lượn lờ xung quanh tôi, khép chặt vòng vây lại và dìm tôi xuống. Bất cứ nhà khoa học nào cũng sẽ giải thích các tảng băng vỡ sẽ tụ lại trên mặt nước, và đây chính là cách chúng đang làm để lấp lại cái hố mà mũi tên gây ra. Thế là thậm chí cả trong một đại dương ảo giác thì dường như các định luật vật lý cơ bản cũng vẫn được áp dụng; điều này, không nghi ngờ gì nữa, sẽ làm Galileo nở nụ cười hạnh phúc.
Tôi không thể ngẩng mặt lên khỏi mặt nước được nữa, băng đập vào hai cái tai như hai bông súp lơ của tôi, và tôi nhắm mắt lại vì đây là điều mà một người sắp chết chìm phải làm. Tôi cảm thấy thân thể mình đã ngưng hoạt động. Vậy đây là cách mọi thứ kết thúc. Trong nước.Tôi trượt xuống dưới, và thực sự cảm thấy có chút thanh thản. Cách này có vẻ dễ chịu hơn.
Tôi không gặp vấn đề gì với việc nín thở trong hàng chục phút, suốt thời gian đó tôi lịm đi, cho tới khi tôi phát chán với việc chờ phổi mình hết hơi. Tôi mở mắt ra, nghĩ rằng mình sẽ không thể bơi xa được vài phân. Trên mặt băng đã khó xác định khoảng cách rồi, dưới cũng vậy: lại một lần nữa không có gì có thể dùng làm hệ quy chiếu. Không cá, không sinh vật nào khác, không tảo biển, chỉ có làn nước trong veo. Bong bóng nổi lên từ những nếp gấp trên quần áo của tôi và cuộn dọc theo người tôi cho tới khi chúng tụ lại ở góc mí mắt. Thật buồn cười. Trong thế giới thực, tôi không thể tiết ra nước mắt, nhưng trong một thế giới dưới nước thì tôi lại tạo ra nước mắt nhờ không khí.
Một quầng sáng hiện lên, xa xa phía trên đầu tôi. Nó phản chiếu vào trong những giọt nước mắt bong bóng của tôi và khiến tôi băn khoăn, Đây có phải là hành lang ánh sáng dẫn người chết lên Thiên đường không? Chẳng giống chút nào. Cách mọi việc diễn ra giống như một con cá răng nhọn khoe những nếp da phủ lân tinh, dụ con mồi lại để ăn thịt. Tuy nhiên, hóa ra quầng sáng đó chẳng phải con đường dẫn lên Thiên đường mà cũng chẳng phải một con cá ăn thịt. Đó là ánh sáng phát ra từ mũi tên lửa đã đâm vào băng, giờ đang nằm trong bàn tay nắm chặt của Sigurðr khi anh ta trồi lên từ dưới biển và bơi thẳng về phía tôi.
Luồng sáng (lửa không bị tắt trong nước: các định luật vật lý tự nhiên không còn chính xác trong một nơi siêu nhiên như thế này nữa) xuyên qua bộ râu của Sigurðr và hất lên những nếp nhăn quanh mắt anh ta. Mái tóc dài màu đỏ xõa trên đầu anh ta như một vầng hào quang làm từ tảo bẹ, và anh ta đang mỉm cười thanh thản, như thể đã có một chuyện gì đó rất tuyệt vời xảy ra vậy. Anh ta giơ mũi tên ra như một vận động viên Olympic truyền đuốc và, cùng lúc, chúng tôi tiếp tục chìm dần xuống nước. Ngón tay tôi nắm chặt lấy mũi tên, tôi cảm thấy cảm giác ấm áp đầy vinh quang đang truyền khắp người mình, và Sigurðr mỉm cười như một người đàn ông đã hoàn thành nhiệm vụ. Như một người đàn ông sẽ còn được nhớ đến trong ký ức mọi người. Anh ta gật đầu đồng thuận và lặn xuống sâu hơn, để tôi tiếp tục chìm một mình.
Tôi chìm xuyên qua đáy đại dương.
Chỉ còn cách mặt đất vài phân thì tôi rơi xuống. Khi tôi nhìn lên, đáy đại dương - dòng nước lẽ ra là cái trần nhà trên đầu tôi - đã biến mất. Chân tôi đang đặt trên nền đất cứng và ánh sáng đã đổi từ màu xanh ngọc của đại dương sang màu xám xịt chết chóc.
Giờ tôi đang ở giữa một cánh rừng tối tăm đầy những thân cây dị dạng xấu xí.
Tôi nghe thấy tiếng chân chạy vội qua thảm rừng, tới từ ít nhất ba hướng. Tiếng cành cây gãy, tiếng bụi rậm sột soạt. Tôi giơ mũi tên lên làm đuốc. Bóng một động vật bốn chân phóng qua giữa những thân cây, rồi một sinh vật khác thoáng lướt qua. Có bao nhiêu chứ? Hai - không, lại thêm một sinh vật nữa! Ba, ít nhất là thế! Chúng là những thứ gì? Đầu tôi loạn lên với những hình ảnh dã thú: một con sư tử, một con báo, có lẽ một con sói. Nếu chúng tấn công tôi, tôi sẽ tự bảo vệ mình bằng cái gì? Tôi có bao đoản kiếm, nhưng không có thanh kiếm; tôi có chiếc áo nhà sư, nhưng tôi không có đức tin.
Ngay trước mặt là một con đường đi xuyên qua rừng, qua một ngọn đồi nhỏ, và tôi nghe thấy tiếng một con vật nữa, bạo dạn hơn. Kia, hình ảnh nó thoáng hiện giữa những thân cây. Hình như nó đi bằng hai chân, vì thế có lẽ là một loài vượn người thần thoại nào đấy sống trong rừng chăng? Rõ ràng là không. Khi cái bóng đi ra khỏi góc khuất, tôi có thể thấy đó là một người đàn ông ăn vận giản dị, với một cái bụng bự và hàm râu lởm chởm. Khi nhìn thấy tôi, anh ta cười ngoác miệng và dang rộng hai tay như chuẩn bị ôm chầm một người bạn cũ sau bao năm xa cách. "Ciao!"
"Tu devi essere Francesco." Anh hẳn phải là Francesco. Với Sigurðr, tôi biết tiếng Iceland, với người này, tôi hiểu tiếng Ý.
"Sì," anh ta xác nhận, nắm lấy tay tôi. "Il piacere è mio."
"Không, vinh hạnh ấy là của tôi mới phải. Một người bạn chung của chúng ta đã cho tôi xem vài tác phẩm của anh. Chúng thật tuyệt."
"A, Marianna!" Mắt Francesco sáng bừng lên. "Nhưng tôi chỉ là một người thợ thủ công bình thường. Tôi thấy anh có mang theo mũi tên. Tốt. Anh có thể phải cần đến nó."
"Chúng ta làm gì bây giờ? Xin đừng nói với tôi rằng anh không biết nhé."
Francesco cười cho tới khi cái bụng bự rung lên bần bật. "Sigurðr lúc nào cũng hơi bối rối, nhưng tôi biết chắc là chúng ta đang đi đâu." Anh ta dừng lại một chút để gây hồi hộp. "Thẳng xuống Địa ngục."
Bạn phải cảm phục một người đàn ông có thể nói một điều như thế với khuôn mặt nghiêm nghị đến thế, và tôi không thể nhịn được cười. "Vâng, dù sao tôi cũng nghĩ mình đang quen dần với ý tưởng đó rồi."
"Địa ngục này hơi phức tạp hơn một chút, vì thế tốt hơn là anh không nên cười nhiều đến thế." Nhưng, để trấn an tôi sau khi đã cảnh báo, anh ta nói thêm, "Tôi đã được cử đến đây để dẫn đường cho anh, Marianne đã nhờ. Cô ấy luôn cầu nguyện cho anh."
"Tôi nghĩ đó là hiệu lệnh bắt đầu nhỉ." Thế là chúng tôi bắt đầu chuyến hành trình vào Địa ngục của mình. Tôi có vũ khí phòng thân là một mũi tên lửa, một chiếc áo cà sa quấn quanh thắt lưng, một bộ quần áo chống tuyết của người Viking, một bao kiếm rỗng, và tôi có người dẫn đường là một thợ rèn thế kỷ mười bốn. Tôi không thể được trang bị tốt hơn.
Chúng tôi đi qua một loạt cánh cổng, và chẳng mấy chốc đã đứng trước một dòng sông tôi có thể nhận ra qua những câu chuyện kể trước lúc đi ngủ của Marianne Engel. "Acheron."
Dòng sông thật khủng khiếp, với những tảng băng nhấp nhô giữa rác và những con ác quỷ hình thù quái dị. Những tảng thịt thối lềnh bềnh khắp mặt sông, như thể những cỗ quan tài ngàn năm đã được dốc thẳng xuống dòng sông máu đông này. Mùi hôi thối của xác chết phân hủy nồng nặc. Những sinh vật gần như là người, chỉ giống người ở đặc điểm hình dáng nào đó, vùng vẫy vô vọng giữa dòng nước kinh khủng ấy. Những tiếng hét cầu xin được tha thứ thốt ra từ những cái miệng van nài cầu khẩn; tôi biết những sinh vật này sẽ tiếp tục chìm xuống như thế, không được cứu vớt, mãi mãi.
Một màn sương mù hiện lên từ dưới lòng sông. Trôi bồng bềnh, bình lặng như thể đang bay trên dòng sông, là chiếc đò của Charon, người lái đò bến Mê. Nó/ông ta là một sinh vật nửa người nửa thú hình thù tối đen, cao ít nhất hơn hai mét, mặc một chiếc áo rách như tổ đỉa. Râu ông ta như được làm từ những sợi tảo biển đan lại với nhau và mũi chỉ còn một nửa, với vết sẹo nơi phần còn lại có lẽ đã bị gãy rời trong một trận chiến. Trong cái miệng méo xệch nhô ra hàm răng khấp khểnh, nhọn hoắt, đen xỉn và gãy nát. Da ông ta xám xịt, ướt sượt và thô ráp như da của một con rùa biển bị bệnh, còn bàn tay viêm khớp đang nắm lấy một cái mái chèo bằng gồ sần sùi. Hai hốc mắt của ông ta trống rỗng trừ ánh lửa rực lên bên trong: mỗi con mắt là một bánh xe lửa cháy hừng hực. Vừa lái thuyền vào bờ, ông ta vừa phun ra những từ như sấm rền hơn là tiếng nói. "TÊN NÀY VẪN CHƯA CHẾT."
Dù chẳng phải nhỏ bé gì, Francesco vẫn trông như người tí hon khi đứng trước Charon. Tuy thế, anh ta không chịu cúi đầu chào mà đứng thẳng người lên để trả lời, "Đây là trường hợp vô cùng đặc biệt."
Charon, giờ đã bước lên bờ, lau móng vuốt với vẻ bất hợp tác. "TÊN NÀY KHÔNG QUA ĐƯỢC."
"Anh ấy đã đến tận đây rồi, vì thế hãy nghe chúng tôi nói. Hãy cho chúng tôi ân huệ này, chúng tôi chỉ là những người quá tầm thường so với ngài. Bao lâu rồi ông mới được người sống viếng thăm?"
"ĐỪNG CÓ HÒNG MÀ PHỈNH TA. HẮN KHÔNG ĐƯỢC PHÉP QUA. NGƯƠI CHƯA ĐỦ MƯU MẸO ĐÂU."
"Charon, đừng từ chối nhanh thế chứ. Những thế lực hùng mạnh hơn chúng tôi rất nhiều đã lên kế hoạch chuyến đi này đấy."
Mắt Charon xoáy vào tôi như đang tìm cớ buộc tội, như thể ông ta đang nhìn vào góc tâm hồn xấu xa nhất của tôi vậy. Tôi thu mũi tên lửa lại gần người mình đến nỗi tôi sợ rằng quần áo mình sẽ cháy bùng lên mất, nhưng tôi cần hơi ấm để chống lại cái nhìn lạnh lẽo của ông ta.
Charon chuyển sự chú ý sang Francesco. "NGƯƠI CÓ THỂ NÓI TIẾP."
"Chúng tôi yêu cầu ngài cho chúng tôi qua. Chúng tôi có mang lệ phí theo đây." Francesco hơi cúi đầu và lấy một đồng tiền vàng ra.
"ĐÂY LÀ LỆ PHÍ CHO MỘT NGƯỜI."
"Dĩ nhiên, ngài nói đúng rồi." Khi Francesco ra hiệu cho tôi tiến lên phía trước, tôi liền lắc đầu. Ai mang tiền vào trong ảo giác chứ? Thế là Francesco đập nhẹ tay lên ngực, để nhắc tôi nhớ cái gì đang treo trên cổ tôi.
Tôi gỡ đồng xu khắc hình thiên thần ra khỏi chiếc dây chuyền và đặt nó vào bàn tay đầy móng vuốt của Charon. Ông ta đặc biệt chú ý đến mặt vẽ cảnh đại thiên thần Michael giết rồng. Một biểu hiện kỳ lạ thoáng hiện trên khuôn mặt người lái đò: tôi có cảm giác đó là một nụ cười mà cái miệng xấu xí của ông ta đang cố nặn ra. Ông ta đứng sang một bên và vung tay lên ra dấu bảo chúng tôi lên thuyền. Francesco gật đầu. "Chúng tôi thực sự rất biết ơn lòng hào hiệp của ngài."
Người lái đò nhúng mái chèo xuống dòng nước bẩn thỉu và đưa chúng tôi ra giữa sông Acheron. Con thuyền, trang trí sọ và dây thừng làm từ tóc người, làm từ gỗ mục, nhưng không một giọt nước nào thấm được qua những lỗ thủng trên thuyền. Những xoáy nước nhỏ cuộn lên ở khắp mọi nơi, kéo những kẻ tội đồ sâu xuống đáy. Thỉnh thoảng, Charon dùng mái chèo của mình để đập vào một kẻ tội đồ nào đó.
Hai bóng hình ở đằng xa cố gắng bơi gần về phía chiếc thuyền trông quen thuộc đến lạ lùng. Một người đàn ông và một phụ nữ, nhưng mọi sự chú ý của tôi đều dồn về phía một người đàn ông đang gào thét, chỉ cách thuyền chúng tôi chưa đầy một mét. Ông ta uống phải một ngụm nước của dòng sông thối rữa ấy khi những kẻ tội đồ khác kéo ông xuống dưới. Ông ta quơ cào lấy mọi thứ trong tầm với và lôi một cái chân gãy rời xuống theo mình.
Nhìn vẻ mặt kinh hãi của tôi, Francesco nói, "Không ai ngẫu nhiên bị rơi vào đây cả. Địa ngục chỉ là lựa chọn vì sự cứu rỗi dành cho tất cả những ai đi tìm nó. Những kẻ bị nguyền rủa đã tự chọn số phận của mình, bằng cách cố tình trở nên nhẫn tâm."
Tôi không thể chấp nhận điều đó. "Chẳng ai lại chọn bị nguyền rủa cả."
Francesco lắc đầu. "Nhưng để bị nguyền rủa thì lại quá dễ dàng."
Hai người đó giờ đã đủ gần để tôi có thể chắc chắn (hết mức có thể, rằng đó, cứ nhìn cái thân thể đang phân hủy của họ mà xem) là Debi và Dwayne Michael Grace. Họ đang cầu xin sự giúp đỡ của tôi, giơ những ngón tay - toàn những ngón tay gãy nát - về phía tôi. Những đám tội đồ còn lại cứ bám lấy họ không chịu nhả ra. Debi lẽ ra đã có thể đến được chỗ chiếc đò, nếu Dwayne không điên loạn bấu chặt lấy dì để tránh bị kéo xuống. Dì cũng ăn miếng trả miếng; cả hai đều cố biến kẻ kia thành đòn bẩy để tránh xa khỏi đám đông. Cuộc vật lộn của họ chỉ tổ đảm bảo rằng cả hai sẽ cùng chìm xuống mà thôi.
Chẳng mấy chốc Charon đã thả chúng tôi xuống bờ bên kia và lái đò trở lại nơi xung đột giữa sông. "Tôi nghĩ mình đã làm khá tốt," tôi nói, cố mỉm cười nhưng không được. "Không phải Dante đã ngất xỉu khi ông ta nhìn thấy Charon à?"
Một ngọn núi đứng sừng sững trước mặt chúng tôi, nổi lên bên bờ sông Acheron, và Francesco lại dẫn đường.
Cô Nàng Mang Trái Tim Đá Cô Nàng Mang Trái Tim Đá - Andrew Davidson Cô Nàng Mang Trái Tim Đá