Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Bẫy-22
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Tầng Hầm
C
ái chết của Nately gần như đã giết chết cha tuyên úy. Cha tuyên úy Shipman đang yên vị trong lều, vật lộn với đống giấy tờ qua cặp kính mắt, thì chuông điện thoại reo và tin từ phi trường về vụ va chạm máy bay trên không đã đến với gã. Ngay lập tức ruột gan gã như biến thành đất sét khô. Tay gã run rẩy khi đặt điện thoại xuống. Bàn tay còn lại cũng bắt đầu run. Thảm họa này khủng khiếp tới mức gã không dám nghĩ gì thêm về nó. Mười hai người đã bị giết - quá rùng rợn, quá, quá kinh khủng! Cảm giác kinh hoàng trong gã cứ tăng dần lên. Theo bản năng gã cầu nguyện cho Yossarian, Nately, Hungry Joe và những người bạn khác của gã không bị liệt kê vào danh sách nạn nhân, sau đó lại ân hận tự nhiếc móc bản thân, bởi vì cầu cho họ được an toàn cũng có nghĩa là cầu cho cái chết đến với những chàng trai trẻ mà gã không quen biết khác. Giờ thì đã quá muộn để cầu nguyện rồi; nhưng gã chỉ biết làm mỗi một việc đó thôi. Tim gã đập với một kiểu tiếng ồn như thể đến từ nơi nào đó ngoại thân, và gã biết sẽ chẳng bao giờ còn có thể ngồi trên ghế khám răng, chẳng bao giờ liếc nhìn những dụng cụ mổ, chẳng bao giờ chứng kiến một vụ tai nạn ô tô hoặc nghe một tiếng thét lúc nửa đêm, mà không phải trải qua cảm giác trống ngực dồn dữ dội ấy và khiếp sợ rằng mình sắp chết. Gã sẽ chẳng bao giờ xem một vụ đánh nhau nào nữa mà không sợ rằng mình sẽ ngất xỉu và đập đầu xuống vỉa hè mà vỡ sọ, hoặc bị đau tim hay xuất huyết não. Gã tự hỏi liệu mình có thể gặp được vợ và ba đứa con nhỏ nữa hay không. Gã tự hỏi liệu mình có nên gặp lại vợ nữa hay không, khi mà đại úy Black đã gieo vào đầu gã mối nghi ngờ mãnh liệt về sự chung thủy và nhân cách của tất cả phụ nữ. Có quá nhiều người đàn ông khác, gã cảm thấy, có thể thỏa mãn nhu cầu tình dục của cô ấy tốt hơn gã. Khi nghĩ tới cái chết vào lúc này, gã luôn nghĩ về vợ, và khi nghĩ về vợ, gã luôn nghĩ tới việc để mất cô.
Một phút sau, cha tuyên úy mới cảm thấy đủ khỏe để có thể đứng dậy và ủ rũ miễn cưỡng lê bước sang lều bên cạnh tìm trung sĩ Whitcomb. Họ cùng đi trên chiếc xe Jeep của trung sĩ Whitcomb. Cha tuyên úy nắm chặt tay lại để giữ cho chúng khỏi run lên trên lòng gã. Gã nghiến chặt răng và cố không nghe trung sĩ Whitcomb hớn hở ríu rít nói về sự kiện bi thảm này. Mười hai người chết có nghĩa là sẽ có thêm mười hai bức thư chia buồn theo mẫu sẽ được gửi trong cùng một gói tới người thân của người chết với chữ ký của đại tá Cathcart, mang lại cho trung sĩ Whitcomb hy vọng có được một bài báo về đại tá Cathcart trên tờ The Saturday Evening Post đúng dịp lễ Phục sinh.
Ở phi trường sự câm lặng nặng nề bao phủ, chế ngự mọi chuyển động như một bùa chú tàn ác, nhẫn tâm đang áp chế những sinh linh có thể phá vỡ nó. Cha tuyên úy kinh sợ. Gã chưa bao giờ chứng kiến một sự câm lặng vĩ đại và hãi hùng tới vậy. Gần hai trăm con người mệt mỏi, thê lương, cúi đầu, cầm bộ dù, đứng thành một đám đông buồn rười rượi lặng lẽ bên ngoài phòng tác chiến, khuôn mặt họ bần thần nhìn theo các góc độ khác nhau nhưng đều chung vẻ thất vọng choáng váng. Dường như họ không muốn rời đi, không thể di chuyển. Cha tuyên úy nghe rất rõ tiếng động yếu ớt mà những bước đi của gã tạo ra khi tiến lại chỗ họ. Mắt gã vội vã, cuống cuồng lục tìm khắp cái mớ hỗn độn bất động toàn những hình hài ủ rũ ấy. Cuối cùng gã cũng soi ra được Yossarian, lòng gã mừng mênh mang, nhưng rồi mồm gã từ từ há hốc ra trong nỗi kinh hoàng khôn kham khi thấy rõ ở y vẻ phờ phạc, u ám của nỗi tuyệt vọng thẳm sâu, đờ đẫn. Gã lập tức hiểu ra, chùn lại vì đau đớn và lắc đầu nhăn nhó vừa cự tuyệt vừa van lơn không muốn tin, rằng Nately đã chết. Nhận thức này đã giáng cho gã một cú sốc đến tê liệt. Một tiếng nức nở bật ra từ gã. Chân gã như cạn máu, và gã tưởng mình sắp sụm xuống đến nơi. Nately đã chết. Mọi hy vọng rằng mình đã nhầm của gã bị cuốn sạch đi khi tên Nately nổi lên rất rõ, lặp đi lặp lại, trên nền những tiếng rì rầm vốn không thể nghe rõ mà lần đầu tiên gã chợt nghe thấy. Nately đã chết: thằng bé đã bị giết chết. Một tiếng thút thít dâng lên trong cổ họng cha tuyên úy, và quai hàm gã bắt đầu rung rung. Mắt gã ầng ậng nước và gã khóc. Gã rón rén tiến lại gần Yossarian để khóc than bên cạnh y, chia sẻ với y nỗi buồn đau không lời. Vào khoảnh khắc ấy, một bàn tay chợt tóm chặt lấy cánh tay gã và một giọng nói lỗ mãng vang lên, “Cha tuyên úy Shipman phải không?”
Gã ngạc nhiên quay lại đối mặt với một đại tá béo mập, hung hăng, đầu to, để ria, da nhẵn nhụi, bóng nhẫy. Gã chưa từng gặp người này. “Đúng vậy. Có chuyện gì thế?” Những ngón tay túm chặt lấy cánh tay của cha tuyên úy tới mức làm gã đau, và gã cố vặn vẹo thoát ra trong tuyệt vọng.
“Đi theo tôi.”
Cha tuyên úy rúm người lại trong bối rối sợ hãi. “Đi đâu? Tại sao? Mà ông là ai đấy?”
“Cha nên đi theo chúng tôi, thưa Cha,” một viên thiếu tá gầy gò, mặt diều hâu xuất hiện ở phía bên kia cha tuyên úy véo von xen vào với vẻ buồn rầu tôn kính. “Chúng tôi là người của chính phủ. Chúng tôi muốn hỏi Cha vài câu.”
“Câu hỏi kiểu gì cơ? Có chuyện gì vậy?”
“Anh không phải là cha tuyên úy Shipman sao?” viên đại tá béo phì gặng hỏi.
“Chính là anh ta đó,” trung sĩ Whitcomb trả lời.
“Đi theo họ đi,” đại úy Black lớn tiếng nói với sang phía cha tuyên úy cùng một nụ cười khẩy thù địch và khinh bỉ. “Vào trong xe đi nếu anh biết điều gì là tốt cho anh.”
Những bàn tay kéo cha tuyên úy đi mà gã không thể cưỡng lại được. Gã muốn hét lên nhờ Yossarian giúp nhưng dường như y ở quá xa không thể nghe thấy. Một số người ở gần đó đã bắt đầu như hồi tỉnh mà nhìn gã với vẻ tò mò. Cha tuyên úy cúi đầu giấu mặt đi, đỏ bừng vì xấu hổ, mặc cho người ta dẫn mình tới cửa sau một chiếc xe công vụ và bắt ngồi xuống giữa viên đại tá mập ú mặt tròn hồng hào và viên thiếu tá gầy gò, ủ ê và ngọt xớt. Gã tự động chìa hai cổ tay ra cho hai người đó, băn khoăn trong một thoáng rằng liệu họ có muốn gông gã lại hay không. Một sĩ quan khác đã ngồi sẵn ở ghế trước. Một quân cảnh cao lớn đầu đội mũ sắt trắng miệng huýt sáo vào xe ngồi sau vô lăng. Cha tuyên úy không dám ngước mắt lên cho tới khi chiếc xe đã đóng chặt cửa lắc lư rời khỏi khu vực phi trường và những bánh xe ỉ ôi tăng tốc trên con đường nhựa gồ ghề.
“Các ông đưa tôi đi đâu vậy?” gã hỏi, giọng thỏ thẻ vì e dè và tội lỗi, mắt vẫn chưa dám nhìn thẳng. Gã nghĩ họ bắt gã để kết tội gã về vụ va chạm trên không và cái chết của Nately. “Tôi đã làm gì?”
“Tại sao anh không câm mồm lại và để cho chúng tôi hỏi?” viên đại tá nói.
“Đừng nói với anh ta kiểu đó,” viên thiếu tá nói. “Không cần phải tỏ ra thiếu tôn trọng như vậy.”
“Vậy thì hãy bảo anh ta câm miệng lại và để cho chúng ta hỏi đi.”
“Thưa Cha, làm ơn câm miệng lại và để cho chúng tôi hỏi,” viên thiếu tá thúc giục với vẻ cảm thông. “Như vậy sẽ tốt hơn cho Cha.”
“Không cần phải gọi tôi là Cha,” cha tuyên úy nói. “Tôi không phải là người theo Công giáo Roma.”
“Tôi cũng vậy, thưa Cha,” viên thiếu tá nói. “Chỉ đơn giản tôi là một người rất mộ đạo, và tôi thích gọi tất cả những người phụng sự Chúa là Cha.”
“Anh ta thậm chí còn không tin có những gã vô thần ở trong các hố cá nhân,” viên đại tá chế giễu, thân thiện huých khuỷu tay vào sườn cha tuyên úy. “Nào, cha tuyên úy, nói cho anh ta đi. Trong các hố cá nhân có bọn vô thần phải không?”
“Tôi không biết, thưa sếp,” cha tuyên úy trả lời. “Tôi chưa từng ở trong một hố cá nhân nào.”
Viên sĩ quan ở ghế trước quay ngoắt xuống, lộ mặt gây sự. “Anh cũng chưa từng ở thiên đường, có phải không? Nhưng anh vẫn biết là có thiên đường, đúng chứ hả?”
“Hay là không?” viên đại tá nói.
“Cha đã phạm tội rất nặng, thưa Cha,” viên thiếu tá nói.
“Tội gì cơ?”
“Giờ thì chúng tôi vẫn chưa biết,” viên đại tá nói. “Nhưng chúng tôi sẽ tìm ra. Và chúng tôi tin chắc rằng đó là một tội rất nghiêm trọng.” Chiếc xe ngoặt khỏi đường lớn rẽ vào trụ sở liên đoàn, bánh xe rít lên, chỉ hơi giảm tốc một chút và tiếp tục phi vòng qua bãi để xe tới phía sau tòa nhà. Ba sĩ quan cùng cha tuyên úy ra khỏi xe. xếp thành một hàng, họ dẫn cha tuyên úy tới cầu thang gỗ ọp ẹp đi xuống tầng hầm và đưa gã vào một căn phòng ẩm ướt, u ám với trần xi măng thấp và những bức tường đá dang dở. Góc nào cũng chăng đầy mạng nhện. Một con rết lớn đang bò qua sàn tới ẩn mình dưới một ống nước. Họ đẩy cha tuyên úy tới ngồi trên một chiếc ghế cứng, lưng thẳng đặt sau một chiếc bàn nhỏ, trống trơn.
“Cứ tự nhiên nhé, cha tuyên úy,” viên đại tá thân mật yêu cầu, bật một chiếc đèn rọi lên và chiếu thẳng vào mặt cha tuyên úy. Gã đặt một bộ tay gấu(76) bằng đồng và một hộp diêm lên bàn. “Chúng tôi muốn anh thư giãn.”
Mắt cha tuyên úy như lồi ra trong kinh ngạc. Răng gã va vào nhau lập cập và tay chân bỗng nhũn như chi chi. Gã chẳng còn chút sức lực nào. Họ có thể làm bất cứ điều gì họ muốn với gã, gã chợt nhận ra; những kẻ tàn bạo này có thể đánh gã đến chết ở ngay tại đây dưới tầng hầm này, mà không có ai can thiệp để cứu gã, không có ai, có lẽ, ngoài viên thiếu tá mộ đạo đáng mến mặt xương đang mở cho vòi nước nhỏ tong tong ồn ã vào bồn rồi quay lại chỗ cái bàn đặt xuống một khúc ống cao su dài nặng bên cạnh bộ tay gấu bằng đồng.
“Mọi thứ sẽ ổn thôi, cha tuyên úy,” viên thiếu tá động viên. “Cha không có gì phải sợ nếu như Cha không có tội. Cha sợ gì chứ? Cha đâu có tội, phải không?”
“Chắc chắn là anh ta có tội rồi,” viên đại tá nói. “Tội lỗi kinh khủng luôn.”
“Tội gì cơ?” cha tuyên úy nài nỉ, cảm thấy mỗi lúc một hoang mang mà không biết mình phải cầu xin ơn huệ của ai trong đám bọn họ. Viên sĩ quan thứ ba không đeo quân hàm và im lặng ẩn mình sang một bên. “Tôi đã làm gì nào?”
“Đó chính là những gì mà chúng tôi sẽ tìm ra,” viên đại tá trả lời, đẩy một tập giấy và một chiếc bút chì qua bàn tới chỗ cha tuyên úy. “Hãy viết tên của anh cho chúng tôi, được không? Viết bằng chữ viết tay của anh.”
“Chữ viết tay của tôi ư?”
“Đúng thế. Viết vào bất cứ chỗ nào trên trang giấy cũng được.” Khi cha tuyên úy viết xong, viên đại tá lấy tập giấy lại và cầm nó lên đối chiếu với một tờ giấy khác mà gã vừa lấy ra từ một cặp hồ sơ. “Thấy không?” gã nói với viên thiếu tá, kẻ đã tới bên gã và đang long trọng nhòm qua vai.
“Chúng không phải là một, phải vậy không?” viên thiếu tá thừa nhận.
“Tôi đã bảo anh là chính anh ta làm chuyện đó mà.”
“Làm chuyện gì?” cha tuyên úy hỏi.
“Cha tuyên úy, điều này quả là một cú sốc lớn đối với tôi đấy,” viên thiếu tá buộc tội bằng một giọng buồn đau trĩu nặng.
“Điều gì cơ?”
“Cha không thể biết được tôi đã thất vọng vì Cha tới mức nào.”
“Thất vọng vì cái gì?” cha tuyên úy hỏi, càng cuống hơn. “Tôi đã làm gì?”
“Vì cái này,” viên thiếu tá đáp, và, với một vẻ ghê tởm vỡ mộng, ném lên bàn tập giấy mà cha tuyên úy vừa viết lên. “Đây không phải là chữ viết tay của Cha.”
Cha tuyên úy chớp mắt lia lịa vì kinh ngạc. “Nhưng đó tất nhiên là chữ viết tay của tôi mà.”
“Không, đó không phải, cha tuyên úy. Cha lại nói dối rồi.”
“Nhưng tôi vừa viết đó thôi!” cha tuyên úy giận dữ kêu lên. “Anh vừa thấy tôi viết còn gì.”
“Chính thế,” viên thiếu tá cay đắng trả lời. “Tôi đã nhìn thấy cha viết. Cha không thể chối là Cha đã viết. Một người đã dối trá đến cả chữ viết tay của mình thì chuyện gì cũng sẽ dối trá được.”
“Nhưng ai đã dối trá về chữ viết tay của tôi cơ?” cha tuyên úy chất vấn, thoáng quên nỗi sợ hãi trong làn sóng giận dữ và phẫn nộ đột ngột dâng trào. “Anh điên rồi hả? Cả hai người đang nói về cái gì vậy?”
“Chúng tôi đã bảo Cha viết tên của mình bằng chữ viết tay của mình. Và Cha đã không làm điều đó.”
“Nhưng hiển nhiên là tôi đã viết. Nếu không phải là chữ viết tay của tôi thì còn là chữ viết tay của ai khác đây?”
“Của ai đó.”
“Ai?”
“Đó chính là điều mà chúng tôi sẽ tìm ra,” viên đại tá đe dọa.
“Nói đi, cha tuyên úy.”
Cha tuyên úy nhìn từ người này sang người kia với sự hoài nghi và cơn kích động mỗi lúc một tăng. “Chữ viết tay đó là của tôi,” gã kịch liệt khẳng định. “Nếu đó không phải thì đâu là chữ viết tay của tôi?”
“Ngay đây,” viên đại tá trả lời. Và với một vẻ đậm chất bề trên, gã thảy xuống bàn bản sao của một mẩu V-mail với tất cả nội dung thư đã bị xóa đi ngoại trừ dòng “Mary thân yêu” còn viên sĩ quan kiểm duyệt thì viết, “Anh khát khao em đến nát tan. R.O. Shipman, Cha tuyên úy, Quân đội Mỹ, R.O. Shipman, Cha tuyên úy, Quân đội Mỹ.” Viên đại tá mỉm cười khinh bỉ khi nhìn gương mặt cha tuyên úy đỏ ửng lên. “Thế nào, cha tuyên úy? Anh có biết ai viết dòng đó không?”
Khá lâu sau cha tuyên úy mới trả lời; gã đã nhận ra đó là chữ viết tay của Yossarian. “Không.”
“Anh biết đọc chứ, có phải không?” viên đại tá châm chọc. “Tác giả đã viết tên của mình lên đó.”
“Đó là tên của tôi.”
“Thế thì chính anh đã viết ra nó. Q.E.D.(77)”
“Nhưng tôi không viết ra nó. Đó cũng không phải là chữ viết tay của tôi.”
“Vậy thì anh đã lại ký tên của anh bằng chữ viết tay của ai đó,” viên đại tá nhún vai bác bỏ. “Chuyện là thế đấy.”
“Ôi, thật lố bịch!” cha tuyên úy hét lên, đột ngột cạn sạch kiên nhẫn. Gã đứng bật dậy trong lửa giận bừng bừng, hay nắm tay siết chặt lại. “Tôi sẽ không chịu đựng chuyện này thêm một chút nào nữa đâu! Các người có nghe thấy không? Mười hai người vừa bị giết, và tôi không có thời gian cho những câu hỏi ngớ ngẩn như này. Các người không có quyền giữ tôi ở đây, tôi sẽ không chấp nhận điều đó.”
Không nói một lời, viên đại tá đẩy mạnh ngực cha tuyên úy một cái khiến cho gã rơi lại xuống ghế, và đột nhiên cha tuyên úy lại cảm thấy yếu ớt và sợ hãi vô cùng. Viên thiếu tá cầm khúc ống cao su lên và bắt đầu đập đập nó lên lòng bàn tay đầy đe dọa. Viên đại tá nhấc bao diêm lên, lấy ra một que và tì nó lên mặt đánh lửa, mắt sáng quắc chờ đợi hành vi chống đối tiếp theo của cha tuyên úy. Cha tuyên úy tái mét và sợ đến cứng người. Ánh đèn rọi sáng chói cuối cùng cũng khiến gã quay mặt đi; tiếng nước nhỏ giọt ngày càng to và gây khó chịu tới mức gần như không chịu nổi. Gã ước họ cho gã biết họ muốn gì để gã còn biết đường mà thú tội. Gã căng thẳng chờ đợi khi viên sĩ quan thứ ba, nhận được dấu hiệu từ viên đại tá, lững thững bước tới từ phía bức tường và ngồi xuống bên bàn, chỉ cách cha tuyên úy có vài xăng ti mét. Mặt gã vô cảm, mắt gã soi mói và lạnh lùng.
“Tắt đèn đi,” gã ngoái lại nói với giọng trầm, điềm tĩnh. “Nhìn rất khó chịu.”
Cha tuyên úy quay sang gã mỉm cười biết ơn. “Cảm ơn sếp. Và làm ơn tắt cả vòi nước nữa.”
“Vòi nước thì cứ để đấy,” viên sĩ quan này nói. “Tôi thấy không sao.” Gã kéo ống quần lên một chút, như thể để gìn giữ mấy đường li điệu đà. “Cha tuyên úy này,” gã thân mật hỏi, “anh theo giáo phái nào?”
“Tôi theo dòng Anabaptist, thưa sếp.”
“Đó là một giáo phái đầy khả nghi, có phải không nhỉ?”
“Đầy khả nghi ư?” cha tuyên úy ngạc nhiên ngơ ngác hỏi. “Tại sao lại thế, thưa sếp?”
“À thì tôi chả biết một chút gì về nó. Anh cũng phải thừa nhận thế chứ, phải không? Chẳng phải riêng việc tôi chả biết chút gì về nó cũng đã khiến nó khá là khả nghi rồi sao?”
“Tôi không biết nữa, thưa sếp,” cha tuyên úy trả lời đầy khách sáo, hơi lắp bắp mất tự nhiên. Gã bối rối trước việc tay này không đeo quân hàm và thậm chí còn không biết là gã có phải nói “thưa sếp” nữa hay không. Tay này là ai vậy? Và hắn có quyền được tra hỏi gã không?
“Cha tuyên úy, tôi đã từng học tiếng Latin. Tôi nghĩ việc tôi cảnh báo trước anh như thế sẽ công bằng hơn đối với anh trước khi tôi hỏi câu tiếp theo. Từ Anabaptist có nghĩa rằng anh không phải là một giáo sĩ Baptist, phải vậy không?”
“Ổ không thưa sếp. Không chỉ đơn giản có vậy.”
“Anh có phải là một giáo sĩ Baptist không?”
“Không thưa sếp.”
“Vậy thì anh không phải là một giáo sĩ Baptist, có phải không?”
“Thế thì sao ạ, thưa sếp?”
“Tôi không hiểu tại sao anh lại tranh cãi với tôi về điểm này. Anh vừa thừa nhận xong. Giờ, cha tuyên úy, việc anh không phải là giáo sĩ Baptist cũng không nói được điều gì về anh, có phải vậy không? Anh có thể là bất cứ thứ gì hay bất cứ ai.” Gã rướn người về phía trước một chút, cử chỉ của gã khoác thêm vẻ sắc sảo và trịnh trọng. “Anh thậm chí còn có thể là,” gã nói, “Washington Irving, nhỉ?”
“Washington Irving?” cha tuyên úy ngạc nhiên hỏi lại.
“Thôi đi nào, Washington,” viên đại tá béo ú cáu kỉnh chen vào. “Tại sao anh không thành khẩn thú tội đi cho xong? Chúng tôi biết anh đã trộm trái cà chua mận đó.”
Sau một lúc im lặng vì bị sốc, cha tuyên úy thở phào và cười khúc khích. “Ồ, hóa ra là chuyện đó hả!” gã thốt lên. “Giờ thì tôi đã bắt đầu hiểu rồi. Tôi không trộm trái cà chua mận đó, thưa sếp. Đại tá Cathcart đã đưa nó cho tôi. Ông có thể hỏi lại ông ấy nếu như không tin tôi.”
Cửa mở ở bức tường phía bên kia phòng và đại tá Cathcart bước vào tầng hầm như thể chui ra từ trong tủ.
“Xin chào đại tá. Thưa đại tá, anh ta tuyên bố rằng ông đã đưa cho anh ta trái cà chua mận đó. Có đúng vậy không?”
“Tại sao tôi lại phải đưa cho anh ta một trái cà chua mận?” đại tá Cathcart nói.
“Xin cảm ơn đại tá. Đó là tất cả những gì chúng tôi cần hỏi.”
“Rất hân hạnh, thưa đại tá,” đại tá Cathcart đáp, rồi bước ra khỏi tầng hầm và đóng cửa lại.
“Thế nào, cha tuyên úy. Giờ thì anh có gì để nói?”
“Ông ta đã đưa nó cho tôi thật mà!” cha tuyên úy rít qua kẽ răng trong giận dữ và sợ hãi. “Ông ta đã đưa nó cho tôi thật mà!”
“Anh không định kết tội một thượng cấp của anh là kẻ nói dối chứ, cha tuyên úy?”
“Tại sao thượng cấp của anh lại phải đưa cho anh một quả cà chua mận, cha tuyên úy?”
“Có phải đó là lý do tại sao anh cố đưa nó cho trung sĩ Whitcomb không, cha tuyên úy? Bởi vì nó là một quả cà chua ăn cắp được?”
“Không, không, không,” cha tuyên úy phản đối, khổ sở tự hỏi tại sao bọn họ lại không thể hiểu. “Tôi muốn tặng nó cho trung sĩ Whitcomb bởi vì tôi không muốn nó.”
“Nếu anh không muốn thì tại sao anh lại đánh cắp nó từ chỗ đại tá Cathcart?”
“Tôi không đánh cắp nó từ chỗ đại tá Cathcart!”
“Vậy nếu anh không đánh cắp nó thì tại sao anh lại có tội?”
“Tôi không có tội!”
“Nếu anh không có tội thì tại sao chúng tôi lại phải tra hỏi anh?”
“Ôi tôi không biết,” cha tuyên úy rên lên, các ngón tay vặn chặt lấy nhau ở trong lòng, lắc cái đầu khốn khổ đang cúi gằm “Tôi không biết.”
“Anh ta cho rằng chúng ta thừa thời gian đấy,” viên thiếu tá khịt mũi khinh bỉ.
“Cha tuyên úy,” viên sĩ quan không đeo quân hàm tiếp tục hỏi với nhịp độ từ tốn hơn, rút ra một tờ giấy màu vàng có chữ đánh máy từ cặp tài liệu, “Tôi có ở đây một bản tuyên bố có chữ ký của đại tá Cathcart khẳng định rằng anh đã lấy trộm quả cà chua mận đó từ chỗ ông ấy.” Gã đặt úp tờ giấy đó xuống một bên cặp tài liệu, rồi lấy thêm tờ thứ hai. “Và tôi có một bản khai có tuyên thệ được công chứng của trung sĩ Whitcomb, trong đó anh ta tuyên bố rằng anh ta biết quả cà chua đó là đồ ăn cắp từ cái cách mà anh đã cố đẩy nó sang cho anh ta.”
“Tôi xin thề trước Chúa rằng tôi không lấy trộm nó, thưa sếp,” cha tuyên úy van vỉ trong cùng quẫn, gần như phát khóc. “Tôi xin thề độc với ông rằng đó không phải là một quả cà chua ăn cắp.”
“Cha tuyên úy, anh có tin Chúa không?”
“Có, thưa sếp. Dĩ nhiên là có tin rồi.”
“Thế thì quả là kỳ cục, cha tuyên úy ạ,” viên sĩ quan nói, lấy ra thêm một tờ giấy màu vàng có chữ đánh máy nữa, “bởi vì lúc này trong tay tôi đang có một bản tuyên bố nữa của đại tá Cathcart mà trong đó ông ta thề rằng anh đã từ chối hợp tác với ông ta trong việc tổ chức cầu nguyện tại phòng tác chiến trước mỗi trận đánh.”
Sau một hồi ngơ ngác, cha tuyên úy gật đầu nhớ ra. “Ồ, điều đó không hoàn toàn chính xác, thưa sếp,” gã sốt sắng giải thích. “Chính đại tá Cathcart cũng đã từ bỏ ý nghĩ đó khi ông ta nhận ra rằng lính cũng cầu nguyện tới cùng một Chúa như sĩ quan.”
“Ông ta làm gì cơ?” viên sĩ quan thốt lên kinh ngạc.
“Thật là nhảm nhí!” viên đại tá mặt mũi đỏ gay tuyên bố, và bực bội đạo mạo quay mặt đi.
“Anh ta hy vọng chúng ta sẽ tin điều đó thật ư?” viên thiếu tá kêu lên như không thể tin nổi.
Viên sĩ quan không có quân hàm khùng khục cười nhạo báng. “Cha tuyên úy, chẳng phải là anh đang đi hơi quá xa rồi ư?” gã hỏi với một nụ cười khoan dung nhưng lạnh nhạt.
“Nhưng, thưa sếp, đó là sự thật, thưa sếp! Tôi xin thề đó là sự thật.”
“Tôi không thấy chuyện đó có phải sự thật hay không thì có nghĩa lý gì,” viên sĩ quan thờ ơ đáp và lại với sang cặp tài liệu đầy giấy má. “Cha tuyên úy, có phải để trả lời câu hỏi của tôi, anh đã nói rằng anh có tin vào Chúa? Tôi không nhớ nữa.”
“Vâng, thưa sếp. Tôi đã nói vậy, thưa sếp. Tôi rất tin Chúa.”
“Vậy thì quả là rất kỳ cục, cha tuyên úy, bởi vì tôi có ở đây một bản khai có tuyên thệ của đại tá Cathcart trong đó khẳng định rằng anh đã từng nói với ông ta rằng vô thần thì không phải là phạm pháp. Anh có nhớ mình đã từng nói như vậy với ai không?”
Cha tuyên úy gật đầu không chút do dự, giờ thì đã cảm thấy vững tin hơn. “Vâng, thưa sếp. Đúng là tôi đã nói như vậy. Tôi nói vậy bởi vì điều đó là đúng. Vô thần không phải là phạm pháp.”
“Nhưng chẳng có lý do gì để tự dưng tuyên bố như vậy, phải không, cha tuyên úy?” viên sĩ quan gay gắt mắng, mặt cau lại không tán thành, rồi lại lấy ra một tờ đánh máy, có công chứng. “Và đây là một bản tuyên bố có tuyên thệ của trung sĩ Whitcomb với nội dung là anh đã phản đối kế hoạch gửi thư chia buồn với chữ ký của đại tá Cathcart tới người thân của những người bị thương hoặc bị chết trận. Có phải vậy không?”
“Vâng, thưa sếp, đúng là tôi đã phản đối kế hoạch đó,” cha tuyên úy trả lời. “Và tôi tự hào vì mình đã làm điều đó. Những bức thư đó không chân thành và không trung thực. Mục đích duy nhất của chúng là đem lại vinh quang cho đại tá Cathcart.”
“Nhưng điều đó thì có khác gì?” viên sĩ quan đáp lời. “Chúng vẫn đem lại sự khuây khỏa và niềm an ủi cho những gia đình nhận thư, có phải vậy không? Cha tuyên úy, thực sự là tôi không thể hiểu được lối suy nghĩ của anh.”
Cha tuyên úy rơi vào thế bí và không thể kiếm được câu trả lời. Gã cúi đầu, cảm thấy cứng lưỡi và ngu ngốc.
Viên đại tá mập mạp hồng hào mạnh mẽ bước tới với một ý tưởng bất ngờ. “Sao chúng ta không nện cho phòi bộ óc đáng nguyền rủa của anh ta ra nhỉ?” gã hào hứng nhiệt thành gợi ý.
“Đúng, chúng ta có thể nện cho phòi bộ óc đáng nguyền rủa của anh ta ra, phải không?” viên thiếu tá mặt diều hâu nhất trí. “Anh ta chỉ là một giáo sĩ Anabaptist.”
“Không, trước hết chúng ta cần phải chứng minh được anh ta có tội đã,” viên sĩ quan không có quân hàm thận trọng từ tốn phẩy tay gạt đi. Gã nhẹ nhàng chuồi người xuống sàn và đi vòng sang phía bên kia bàn, chống bàn tay lên mặt bàn đối mặt với cha tuyên úy. Vẻ mặt gã sầm sì và nghiêm khắc, kiên nghị và hãm tài. “Cha tuyên úy,” gã đanh thép tuyên bố như tòa án, “chúng tôi chính thức buộc anh tội giả danh Washington Irving và đã tùy tiện kiểm duyệt, một cách đồng bóng và trái phép, thư từ của các sĩ quan và binh lính. Anh có tội hay vô tội?”
“Vô tội, thưa sếp.” Cha tuyên úy lè cái lưỡi khô ra liếm cặp môi khô và căng thẳng rướn người ra phía trước, ngồi mím trên mép ghế.
“Có tội,” viên đại tá nói.
“Có tội,” viên thiếu tá nói.
“Vậy là có tội,” viên sĩ quan không đeo quân hàm kết luận và viết một từ lên một trang giấy trong cặp hồ sơ. “Cha tuyên úy,” gã tiếp tục nói, mắt ngước lên nhìn, “chúng tôi cũng buộc anh tội đã gây ra những tội ác và vi phạm mà thậm chí chúng tôi còn chưa phát hiện ra. Có tội hay vô tội?”
“Tôi không biết, thưa sếp. Làm sao tôi biết được nếu như ông không nói cho tôi xem đó là những tội gì?”
“Làm sao chúng tôi có thể nói cho anh biết được khi chúng tôi cũng không biết?”
“Có tội,” viên đại tá quyết định.
“Tất nhiên là anh ta có tội,” viên thiếu tá hùa theo. “Nếu đó là những tội lỗi và vi phạm của anh ta thì chắc chắn là anh ta đã gây ra chúng.”
“Vậy là có tội,” viên sĩ quan không đeo quân hàm lầm rầm, rồi lại tránh sang một bên phòng. “Giờ thì anh ta thuộc về anh đó, đại tá.”
“Cảm ơn,” viên đại tá tán thành. “Anh làm việc cừ lắm.” Gã quay sang phía cha tuyên úy. “Được rồi, cha tuyên úy, trò chơi kết thúc rồi. Đi dạo chút đi.”
Cha tuyên úy không hiểu. “Ông muốn tôi làm gì cơ?”
“Thôi nào, biến đi, tôi đã bảo anh rồi!” viên đại tá gầm lên, điên tiết trỏ ngón cái qua vai ra dấu. “Biến khỏi đây ngay lập tức!”
Cha tuyên úy sốc trước lời nói và giọng điệu hiếu chiến đó và, trước sự kinh ngạc và hoang mang của chính gã, gã thực sự thất vọng vì bọn họ sắp thả gã đi. “Không phải là các ông định trừng phạt tôi à?” gã ngạc nhiên càu nhàu hỏi.
“Chết tiệt, anh nói đúng rồi đấy, bọn tôi sẽ trừng phạt anh. Nhưng dĩ nhiên là bọn tôi sẽ không để cho anh lảng vảng ở đây trong khi bọn tôi quyết định xem sẽ trừng phạt anh như thế nào và vào lúc nào. Nên là đi đi. Phắn đi.”
Cha tuyên úy rón rén đứng dậy thử bước đi vài bước. “Tôi được tự do đi thật hả?”
“Tạm thời thì là vậy. Nhưng đừng có cố trốn khỏi đảo này. Chúng tôi đã ghi sổ anh rồi, cha tuyên úy. Cứ nhớ rằng chúng tôi đang giám sát anh hai mươi bốn giờ một ngày là được.”
Không thể hiểu nổi tại sao họ lại cho phép gã rời đi. Cha tuyên úy dè dặt bước về phía lối ra, sẵn sàng tinh thần bất cứ lúc nào cũng có thể bị một giọng hống hách ra lệnh cho quay lại hoặc sẽ bị chặn lại giữa đường bởi một cú đấm mạnh vào vai hoặc vào đầu. Nhưng họ chẳng làm gì như vậy. Gã tìm đường qua những hành lang cũ kỹ, tối tăm, ẩm thấp để tới cầu thang. Gã loạng choạng và hổn hển leo hết các bậc thang ra ngoài trời. Ngay khi vừa thoát được, một cảm giác giận dữ mang tính đạo đức chợt ập tới tràn ngập trong gã. Gã điên tiết, điên tiết trước những sự việc bạo tàn xảy ra trong ngày hôm ấy hơn mọi điều gã từng cảm thấy trong suốt cuộc đời mình trước đó. Gã lướt qua cái sảnh mênh mông vang vọng của tòa nhà trong tâm trạng oán giận hừng hực và bất khả dung thứ. Gã không thể chịu đựng chuyện này thêm một chút nào nữa, gã tự nhủ, đơn giản là gã sẽ không thể chịu đựng chuyện này nữa. Khi gã ra tới lối vào tòa nhà, gã phát hiện thấy, với cảm giác may mắn, trung tá Korn đang một mình nhảy nước kiệu lên những bậc thang rộng. Hít một hơi dài để lấy dũng khí, gã dũng cảm tiến tới chặn tay trung tá lại.
“Thưa trung tá, tôi không thể chấp nhận chuyện này thêm một chút nào nữa,” gã tuyên bố với vẻ quyết tâm dữ dội, và thất vọng nhìn tay trung tá tiếp tục nhảy lên các bậc thang mà thậm chí còn không để ý gì tới gã. “Trung tá Korn!”
Cái dáng người béo phệ của viên sĩ quan cấp trên dừng, quay lại và từ từ nhảy từng bậc xuống. “Có chuyện gì vậy, cha tuyên úy?”
“Trung tá Korn, tôi muốn nói chuyện với ông về vụ va chạm sáng nay. Đó quả là một điều khủng khiếp, khủng khiếp!” Trung tá Korn im lặng một lúc, nhìn cha tuyên úy, thoáng vẻ thích thú giễu cợt. “Phải, cha tuyên úy ạ, dĩ nhiên là nó thật khủng khiếp,” cuối cùng gã cũng nói. “Tôi không biết làm sao có thể viết báo cáo về vụ này mà không khiến cho chúng ta mất mặt.”
“Ý tôi không phải là như vậy,” cha tuyên úy gắt gỏng không chút sợ hãi. “Trong số mười hai người đó đã có vài người hoàn thành bảy mươi trận.”
Trung tá Korn phá lên cười. “Liệu có bớt khủng khiếp hơn chút nào không nếu như tất cả bọn họ đều là lính mới?” gã châm chọc hỏi lại.
Một lần nữa cha tuyên úy lại bí. Thứ logic phi đạo đức này dường như lần nào cũng khiến gã rối trí. Khi gã tiếp tục nói thì đã không còn tự tin như trước, giọng gã hơi run. “Thưa sếp, đơn giản là chúng ta không thể bắt người của mình bay tới tám mươi trận trong khi người ở những liên đoàn khác được trở về nhà chỉ sau có năm mươi, năm mươi lăm trận.”
“Chúng tôi sẽ xem xét chuyện này,” trung tá Korn chán nản thờ ơ nói, và lại bước đi. “Adios(78), Cha.”
“Nghĩa là sao, thưa sếp?” cha tuyên úy không bỏ cuộc, giọng đã gần như rít lên.
Trung tá Korn khó chịu dừng lại và lùi lại một bước. “Có nghĩa là chúng tôi sẽ suy nghĩ về chuyện đó, Cha ạ,” gã trả lời, châm biếm và khinh miệt. “Anh không muốn chúng tôi làm bất cứ điều gì mà không suy nghĩ đấy chứ, phải không?”
“Không, thưa sếp, tôi thì chắc là không. Nhưng không phải là các ông vẫn đang suy nghĩ về chuyện đó rồi sao?”
“Đúng vậy, Cha ạ, chúng tôi đã và đang nghĩ về chuyện đó. Nhưng để cho anh vui, chúng tôi sẽ nghĩ thêm, và anh sẽ là người đầu tiên chúng tôi nói cho biết nếu như chúng tôi ra được quyết định mới. Còn giờ thì, adios.” Trung tá Korn lại quay đi và bước vội lên các bậc cầu thang.
“Trung tá Korn!” Tiếng kêu của cha tuyên úy khiến trung tá Korn dừng lại thêm một lần nữa. Gã chầm chậm quay đầu lại về phía cha tuyên úy với vẻ sốt ruột rầu rĩ. Lời lẽ phụt ra từ cha tuyên úy thành một dòng hồi hộp. “Thưa sếp, tôi muốn xin phép sếp được đưa vấn đề này lên tướng Dreedle. Tôi muốn đưa kháng nghị của mình lên Không đoàn.”
Quả quai hàm bự chảng u ám của trung tá Korn chợt phình ra vì phải cố nén một tiếng cười hô hố, và phải mất một lúc gã mới đáp được lời. “Được thôi, Cha ạ,” gã hân hoan ranh mãnh trả lời, phải cố lắm mới giữ được mặt nghiêm chỉnh. “Tôi cho phép Cha nói chuyện với tướng Dreedle.”
“Xin cảm ơn sếp. Tôi nghĩ sẽ là công bằng hơn khi tôi muốn báo trước rằng tôi cũng có chút ảnh hưởng tới tướng Dreedle.”
“Cha thật tốt khi cảnh báo trước cho tôi như vậy. Và tôi cũng nghĩ sẽ công bằng hơn khi tôi cảnh báo trước rằng Cha sẽ không gặp được tướng Dreedle ở Không đoàn đâu.” Trung tá Korn nhăn nhở cười hiểm ác rồi phá lên cười hô hố. “Tướng Dreedle đi rồi, thưa Cha. Và tướng Peckem đã tới. Chúng ta có Không đoàn trưởng mới.”
Cha tuyên úy kinh ngạc. “Tướng Peckem!”
“Đúng vậy, thưa Cha. Cha có ảnh hưởng gì tới ông ta không?”
“Ôi tôi thậm chí còn không biết tướng Peckem,” cha tuyên úy khốn khổ nói.
Trung tá Korn lại cười sằng sặc. “Thế thì chán quá, cha tuyên úy ạ, bởi vì đại tá Cathcart lại rất thân thiết với ông ấy.” Trung tá Korn hể hả khùng khục cười trong một vài giây, rồi đột ngột dừng lại. “À mà này, thưa Cha,” gã lạnh lùng cảnh báo, gí ngón tay vào ngực cha tuyên úy đẩy nhẹ. “Trò mèo giữa Cha và bác sĩ Stubbs thế là hết rồi nhé. Chúng tôi biết rõ rằng chính ông ta đã cử Cha tới đây hôm nay.”
“Bác sĩ Stubbs ư?” Cha tuyên úy kinh ngạc lắc đầu phản đối. “Tôi chưa gặp bác sĩ Stubbs bao giờ, thưa trung tá. Tôi bị ba sĩ quan lạ mặt đưa tới đây, rồi họ đẩy tôi xuống tầng hầm dù không được phép, rồi họ tra hỏi và sỉ nhục tôi.”
Trung tá Korn lại trỏ vào ngực cha tuyên úy một lần nữa. “Cha biết quá rõ rằng bác sĩ Stubbs vẫn bảo với người trong phi đoàn của ông ta rằng họ không phải bay quá bảy mươi trận.” Gã cười cay nghiệt. “Chậc, thưa Cha, họ sẽ phải bay quá bảy mươi trận thật đấy, bởi vì chúng tôi đã chuyển bác sĩ Stubbs tới Thái Bình Dương. Vậy nên là, adios, Cha. Adios.”
76. Brass-knuckle: vũ khí dân dụng xuất hiện từ thời Nội chiến Mỹ (giữa thế kỷ 19), được thiết kế như một vòng sắt có lỗ xỏ ngón tay. Khi tung cú đấm, vòng sắt này sẽ va chạm thay cho các khớp xương ngón tay. Tay gấu vốn là biểu tượng của giới giang hồ Mỹ trong suốt thời gian dài nhưng cũng được quân đội ưa thích.
77. Quod Erat Demonstrandum (tiếng Latin): Điều phải chứng minh.
78. Tiếng Tây Ban Nha: Tạm biệt.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Bẫy-22
Joseph Heller
Bẫy-22 - Joseph Heller
https://isach.info/story.php?story=bay_22__joseph_heller