Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Milo Chiến Binh
ần đầu tiên trong đời Yossarian phải cầu xin. Sau khi thượng sĩ White Halfoat chết trong bệnh viện vì viêm phổi thật và Nately nộp đơn xin thế chỗ, y đã quỳ xuống mà cầu xin Nately đừng xung phong bay nhiều hơn bảy mươi trận. Nhưng Nately đơn giản là không chịu nghe lời.
“Tôi cần phải bay nhiều hơn nữa,” Nately vụng về quả quyết với một nụ cười rụt rè. “Không thì họ cho tôi về vườn mất.”
“Vậy thì sao?”
“Tôi không muốn về chừng nào chưa thể đưa được cô ấy cùng về.”
“Cô ta đối với cậu quan trọng tới vậy cơ à?”
Nately chán nản gật đầu. “Tôi có thể sẽ chẳng bao giờ được gặp lại cô ấy nữa.”
“Vậy thì xin nghỉ bay luôn đi,” Yossarian thúc giục. “Cậu đã hoàn thành đủ số trận, mà cậu cũng đâu có cần tiền thù lao bay. Nếu đã chịu đựng được việc làm trợ lý cho đại úy Black thì sao cậu không xin làm ở vị trí của thượng sĩ White Halfoat ấy?”
Nately lắc đầu, má sạm đi vì xấu hổ và tủi nhục tiếc nuối. “Họ sẽ không giao việc đó cho tôi đâu. Tôi đã nói với trung tá Korn rồi đấy chứ, và ông ấy bảo tôi rằng tôi sẽ phải bay thêm, không thì họ sẽ cho tôi về nhà.”
Yossarian cáu tiết chửi bậy. “Như thế thật là hèn hạ.”
“Tôi cũng chả ngại đâu. Tôi đã bay bảy mươi trận mà vẫn lành lặn đây. Bay thêm mấy trận nữa cũng được thôi.”
“Đừng manh động cho đến khi tôi nói chuyện với ai đó về vụ này nhé,” Yossarian quyết định và đi nhờ Milo giúp đỡ, gã này lại lập tức tới gặp đại tá Cathcart để xin được bay ra trận nhiều hơn.
Milo đã và đang nhận được rất nhiều biệt đãi. Gã đã anh dũng bay vào hiểm nguy và vào vòng chỉ trích khi bán xăng và vòng bi cho quân Đức với giá cả hợp lý để kiếm lời đồng thời giúp giữ cân bằng lực lượng giữa các bên tham chiến. Nghị lực của gã trong lửa đạn thật phong nhã và vô hạn. Với lòng tận tụy vì mục đích trên và nằm ngoài mức nghĩa vụ, sau đó gã còn tăng giá thức ăn trong các nhà ăn của mình lên cao tới mức tất cả các sĩ quan và binh lính đã phải cống sạch tiền lương cho gã chỉ để được ăn. Lựa chọn khác của họ - tất nhiên là luôn có lựa chọn khác, bởi vì Milo căm ghét sự ép buộc và là một chiến sĩ hết mình tranh đấu vì quyền tự do lựa chọn - là chết đói. Mỗi khi cuộc tấn công này gặp phải một làn sóng chống đối của kẻ thù, gã luôn cố thủ tại vị trí, không màng đến sự an toàn hay danh tiếng của bản thân mà chỉ gan dạ viện tới luật cung cầu. Và khi có ai đó ở chỗ nào đó nói không, Milo mới bất đắc dĩ mà lùi bước, dũng cảm bảo vệ, ngay cả khi phải rút lui, cho cái quyền lâu đời của con người tự do là được trả nhiều hết mức cần thiết cho những gì họ cần để sinh tồn.
Milo từng bị bắt quả tang ăn cướp của đồng đội, và kết quả là giá trị cổ phiếu của gã tăng cao chưa từng thấy. Gã đã chứng tỏ mình nói được làm được khi một thiếu tá xương xẩu quê Minnesota bĩu môi phản đối và đòi nhận được phần của mình trong xanh đi ca mà Milo luôn miệng nói tất cả mọi người đều sở hữu. Milo đã giải quyết thách thức đó bằng việc viết luôn “Một cổ phiếu” lên mảnh giấy gần nhất vớ được rồi chuyển nó đi với vẻ khinh bỉ đầy đức hạnh giúp cho gã giành được lòng ngưỡng mộ lẫn sự đố kỵ của gần như tất cả những ai quen biết gã. Gã đang ở trên tột đỉnh vinh quang và đại tá Cathcart, người luôn biết và ngưỡng mộ thành tích chiến đấu của gã, đã rất kinh ngạc trước sự nhún nhường cung kính mà Milo thể hiện tại trụ sở liên đoàn trong lúc đưa ra một lời thỉnh cầu không tưởng là được giao thêm nhiều nhiệm vụ nguy hiểm hơn nữa.
“Anh muốn bay ra trận thêm nữa ư?” đại tá Cathcart há hốc miệng. “Để làm quái gì cơ?”
Milo bẽn lẽn trả lời, mặt ngoan hiền cúi xuống, “Tôi muốn thực hiện nghĩa vụ của mình, thưa sếp. Đất nước đang có chiến tranh và tôi muốn chiến đấu để bảo vệ nó như tất cả các chiến hữu của mình.”
“Nhưng Milo, anh cũng đang làm nhiệm vụ của mình,” đại tá Cathcart thốt lên cùng một tiếng cười rền vang sảng khoái. “Tôi không thể tìm được ai làm được nhiều việc có ích cho mọi người hơn anh. Ai đã mang lại cho bọn họ món bông bọc sô cô la kia chứ?”
Milo chậm rãi lắc đầu buồn bã. “Nhưng trong thời chiến mà chỉ làm một sĩ quan cấp dưỡng tốt thôi thì không đủ, thưa đại tá Cathcart.”
“Tất nhiên là đủ chứ, Milo. Tôi không biết sao anh lại nghĩ vậy.”
“Tất nhiên là không đủ, thưa đại tá,” Milo phản đối, giọng có phần cương quyết, ngước đôi mắt quỵ lụy lên một cách chủ ý, vừa đủ để bắt được ánh mắt của đại tá Cathcart. “Vài người đã bắt đầu nói ra nói vào.”
“Ồ, vậy sao? Cho tôi biết tên bọn họ đi nào, Milo. Hãy cho tôi biết tên bọn họ, tôi sẽ để mắt sao cho họ phải bay tất cả những trận nguy hiểm nhất của liên đoàn.”
“Đừng, thưa đại tá, tôi e rằng họ đã đúng,” Milo nói, đầu lại rũ xuống. “Tôi được điều tới đây với tư cách một phi công, và đáng ra tôi phải bay ra trận nhiều hơn và dành ít thời gian hơn cho nhiệm vụ sĩ quan cấp dưỡng.”
Đại tá Cathcart ngạc nhiên nhưng cũng sẵn lòng hợp tác. “Chậc, Milo, nếu anh thực sự cảm thấy như vậy thì chúng ta cũng có thể thu xếp việc đó theo bất cứ kiểu gì anh muốn. Anh đã ở nước ngoài được bao lâu rồi nhỉ?”
“Mười một tháng, thưa sếp.”
“Và anh đã bay được bao nhiêu trận?”
“Năm.”
“Năm ư?” đại tá Cathcart hỏi.
“Năm, thưa sếp.”
“Năm ấy hả?” đại tá Cathcart trầm ngâm vuốt má. “Như vậy thì chưa được tốt lắm, nhỉ?”
“Thật vậy sao?” Milo hỏi bằng giọng sắc lẹm, mắt lại ngước lên.
Đại tá Cathcart nao núng. “Trái lại, như vậy là rất tốt, Milo ạ,” gã vội vàng sửa lại. “Không tệ một chút nào.”
“Không, thưa đại tá,” Milo nói, với một tiếng thở dài đăm chiêu héo úa, “như vậy thì không được tốt lắm. Mặc dù sếp quả là rất rộng lượng khi nói rằng như vậy đã tốt rồi.”
“Nhưng như vậy thực sự không tệ, Milo. Không tệ chút nào, khi xem xét tới tất cả những đóng góp giá trị khác của anh. Năm trận ư, anh nói vậy đúng không? Chỉ có năm?”
“Chỉ năm, thưa sếp.”
“Chỉ năm.” Đại tá Cathcart trở nên trầm cảm nặng nề một lúc lâu vì không biết Milo thực sự đang nghĩ gì, và không biết có phải mình vừa gây ra một vết đen mếch lòng gã không. “Năm là rất tốt, Milo,” gã hồ hởi bình luận, chợt thấy một tia hy vọng. “Như vậy là trung bình hai tháng một trận. Và tôi cá là anh chưa tính tới lần anh ném bom chúng ta.”
“Tính rồi, thưa sếp. Đã tính rồi.”
“Vậy ư?” đại tá Cathcart hỏi, hơi băn khoăn. “Nhưng thực ra vụ đó anh không trực tiếp ở trên máy bay, có phải không? Nếu tôi nhớ không nhầm thì anh ở trên đài kiểm soát cùng với tôi, có phải không?”
“Nhưng đó vẫn là trận của tôi,” Milo phản đối. “Tôi đã tổ chức nó, và chúng ta đã sử dụng máy bay và quân nhu của tôi. Tôi đã vạch kế hoạch và giám sát toàn bộ trận đánh.”
“Ồ, dĩ nhiên rồi, Milo, dĩ nhiên rồi. Tôi đâu có phản đối gì. Tôi chỉ kiểm tra các con số để đảm bảo rằng anh không bỏ sót những gì anh xứng đáng hưởng. Anh cũng đã tính cả lần mà chúng tôi ký hợp đồng để anh ném bom cây cầu ở Orvieto rồi chứ?”
“Ồ không thưa sếp. Tôi không nghĩ là có thể tính cả vụ đó vào được, bởi vì hồi đó tôi đã điều khiển hỏa lực phòng không ở Orvieto chứ không ở trên máy bay.”
“Tôi thấy như vậy cũng chẳng ảnh hưởng gì, Milo. Đó vẫn là trận của anh. Phải nói là một trận rất tốt nữa là khác. Chúng ta không hạ được cây cầu, nhưng chúng ta đã có được ảnh chụp hình bom nổ rất đẹp. Tôi nhớ tướng Peckem đã bình luận về điều đó. Không, Milo, tôi nhất định phải đề nghị anh tính cả trận Orvieto vào nữa.”
“Nếu như sếp cứ khăng khăng như vậy, thưa sếp.”
“Tôi thật lòng đề nghị đấy, Milo. Giờ thì, xem nào, anh đã có tổng cộng sáu trận, cực kỳ tốt, Milo ạ, cực kỳ tốt, thật vậy đấy. Trong vòng vài phút đã tăng được từ năm lên sáu trận, tức là tăng hai mươi phần trăm, không tệ chút nào, Milo, không tệ chút nào.”
“Rất nhiều người đã bay được bảy mươi trận,” Milo chỉ ra.
“Nhưng họ chưa bao giờ làm ra món bông bọc sô cô la, đúng không? Milo, anh đã làm được nhiều hơn phần của mình.”
“Nhưng họ đang giành hết mọi vinh quang và cơ hội,” Milo tiếp tục nói với vẻ hờn dỗi viền trong tiếng sụt sùi. “Thưa sếp, tôi muốn lên đó và chiến đấu như tất cả các chiến hữu khác. Đó là lý do tại sao tôi ở đây. Tôi cũng muốn giành được huân huy chương.”
“Phải, Milo, tất nhiên rồi. Tất cả chúng ta đều muốn dành nhiều thời gian hơn để chiến đấu. Nhưng những người như anh và tôi lại phụng sự theo kiểu khác. Nhìn vào bảng thành tích của tôi mà xem,” đại tá Cathcart bật ra một tiếng cười cầu tài. “Tôi cá là mọi người ít ai biết được, Milo, rằng bản thân tôi chỉ bay có bốn trận, phải vậy không?”
“Không, thưa sếp,” Milo trả lời. “Nói chung mọi người đều tưởng ông chỉ mới bay được có hai trận. Và một trong hai trận là khi Aarfy vô tình điều khiển máy bay đưa ông vào vùng địch trong lúc hai người đang tới Naples mua một cái tản nhiệt nước ở chợ đen.”
Đại tá Cathcart, mặt đỏ lên vì xấu hổ, đành từ bỏ ý định tiếp tục tranh cãi. “Được rồi, Milo. Tôi không thể bày tỏ sao cho hết lòng ngưỡng mộ trước điều anh đang muốn làm. Nếu thực sự việc ấy quan trọng với anh đến vậy thì tôi sẽ bảo thiếu tá Major phân cho anh bay thêm sáu mươi tư trận nữa để anh cũng có được bảy mươi trận.”
“Cảm ơn đại tá, cảm ơn sếp. Sếp không biết điều này có ý nghĩa như thế nào đâu.”
“Ồ đừng nhắc đến làm gì, Milo. Tôi hiểu rất rõ mà.”
“Không, đại tá, tôi không cho rằng sếp hiểu được điều này có ý nghĩa như thế nào đâu.” Milo phản đối kịch liệt. “Sẽ phải có ai đó thay tôi điều hành xanh đi ca ngay. Việc đó phức tạp lắm, và tôi có thể bị bắn rơi bất cứ khi nào.”
Vừa nghĩ đến chuyện đó mặt đại tá Cathcart đã lập tức ngời lên và gã bắt đầu xoa hai tay vào nhau với vẻ thích thú thèm thuồng. “Anh biết đấy, Milo, tôi nghĩ trung tá Korn và tôi có lẽ sẽ sẵn lòng điều hành xanh đi ca thay anh,” gã buột miệng đề xuất, thiếu điều còn liếm môi thèm muốn. “Kinh nghiệm của chúng tôi về cà chua mận ở chợ đen sẽ rất có ích. Chúng tôi có thể bắt đầu từ đâu nhỉ?”
Milo điềm tĩnh quan sát đại tá Cathcart với vẻ ôn tồn, ngây thơ. “Cảm ơn sếp, sếp quả rất tốt bụng. Hãy bắt đầu với một bữa ăn không muối cho tướng Peckem và một bữa không chất béo cho tướng Dreedle.”
“Đợi tôi lấy bút chì đã. Tiếp theo sẽ là gì?”
“Những cây tuyết tùng.”
“Cây tuyết tùng?”
“Từ Li Băng.”
“Li Băng?”
“Chúng ta có những cây tuyết tùng từ Li Băng cần phải chuyển đến nhà máy cưa ở Oslo để chế biến thành ván ốp cho nhà thầu ở Cape Cod. Trả tiền khi nhận hàng. Sau đó sẽ là đậu Hà Lan.”
“Đậu Hà Lan?”
“Chúng đang ở vùng biển quốc tế. Chúng ta đang có nhiều tàu chở đậu Hà Lan ở vùng biển quốc tế trên đường từ Atlanta tới Hà Lan dùng để thanh toán cho số hoa tulip đã được chuyển tới Geneva để đổi lấy số pho mát đang vận chuyển tới Vienna M.I.F.”
“M.I.F. là sao?”
“Trả tiền trước. Nhà Hapsburgs ở Áo không được ổn định lắm.”
“Milo.”
“Và đừng quên số kẽm mạ trong nhà kho ở Flint. Phải đưa bốn xe chở kẽm từ Flint bằng máy bay tới chỗ các thợ rèn ở Damascus trước buổi trưa ngày mười tám, giá F.O.B. Calcutta(72) hai phần trăm mười ngày E.O.M.(73) Một chiếc tiêm kích Messerschmitt chở đầy cây gai dầu đến hạn thanh toán ở Belgrade bằng một chiếc C-47 rưỡi chà là tách hạt từ Khartoum. Dùng tiền kiếm được nhờ bán cá cơm ở Lisbon để trả tiền bông Ai Cập bị trả lại từ Mamaroneck và mua càng nhiều cam càng tốt ở Tây Ban Nha. Luôn trả tiền mặt cho naranja.”
“Naranja?”
“Đó là từ mà người ta dùng để gọi cam ở Tây Ban Nha, và đó là cam Tây Ban Nha. À - tí quên. Còn có hóa thạch người Piltdown.”
“Hóa thạch người Piltdown ư?”
“Vâng, hóa thạch người Piltdown(74). Viện Smithsonian lần này không thể mua được người Piltdown thứ hai với mức giá chúng ta đưa ra, nhưng họ đang mong chờ cái chết của một nhà hảo tâm giàu có và được yêu mến, và…”
“Milo.”
“Nước Pháp muốn có tất cả mùi tây của chúng ta, và tôi nghĩ chúng ta nên bán cho bọn họ, bởi vì chúng ta cần đồng franc để đổi lấy đồng lire để đổi lấy đồng mark dùng để mua chà là. Tôi cũng đã đặt một lượng lớn gỗ bấc Peru để phân phối cho mỗi nhà ăn trong xanh đi ca theo cổ phần.”
“Gỗ bấc ư? Nhà ăn thì cần gỗ bấc để làm gì?”
“Thời buổi này không dễ kiếm được gỗ bấc tốt đâu, thưa đại tá. Tôi chỉ nghĩ không nên bỏ lỡ cơ hội mua được chúng.”
“Đúng là không nên,” đại tá Cathcart ngờ ngợ nói, vẫn mơ mơ hồ hồ, với vẻ mặt của một kẻ đang say sóng. “Và tôi đồ rằng giá cũng rất hời.”
“Giá,” Milo nói, “thì hơi ác liệt - đúng là cắt cổ! Nhưng vì ta đã mua từ một trong những chi nhánh của mình nên chúng ta vui lòng trả giá đó. Và nhớ trông nom số da sống nữa.”
“Tổ ong(75) ư?”
“Da sống.”
“Da sống ư?”
“Da sống. Ở Buenos Aires. Chúng cần được phơi nắng.”
“Phơi nắng ư?”
“Ở Newfoundland. Và phải được chuyển tới Helsinki N.M.I.F trước khi tuyết tan đầu mùa xuân. Tất cả những gì chuyển tới Phần Lan trước khi tuyết tan đầu xuân đều theo kiểu N.M.I.F.”
“Không tiền trước ư?” đại tá Cathcart đoán.
“Đúng, thưa đại tá. Ông có khiếu đấy ạ, thưa sếp. Tiếp theo là nút bần.”
“Nút bần?”
“Cái đó phải chuyển tới New York, giày thì tới Toulouse, thịt giăm bông tới Thái Lan, mua đinh từ Wales và bán quýt cho New Orleans.”
“Milo.”
“Chúng ta còn có than ở Newcastle, thưa sếp.”
Đại tá Cathcart vung hai bàn tay lên. “Milo, ngừng lại ngay!” gã kêu lên, gần như bật khóc. “Không cần nữa. Anh cũng như tôi - là không thể thiếu được!” Gã đặt bút chì sang một bên và cuồng nộ đứng bật dậy. “Milo, anh không thể bay thêm sáu mươi tư trận nữa. Anh thậm chí không thể bay thêm dù chỉ một trận. Cả hệ thống sẽ tan tành nếu anh có mệnh hệ nào.”
Milo điềm đạm gật đầu với vẻ khoan khoái tự mãn. “Thưa sếp, có phải sếp đang không cho tôi bay thêm một trận nào nữa không ạ?”
“Milo, tôi cấm anh bay thêm bất cứ trận nào nữa,” đại tá Cathcart tuyên bố với giọng chắc nịch đầy quyền uy.
“Nhưng như thế thì không công bằng, thưa sếp,” Milo nói. “Thế còn thành tích của tôi thì sao? Những người khác giành được danh vọng, huân chương và được mọi người biết đến. Tại sao tôi lại bị trừng phạt thế này chỉ vì tôi làm một sĩ quan cấp dưỡng giỏi đến thế?”
“Milo, như thế quả là không công bằng. Nhưng tôi cũng không biết phải làm sao nữa.”
“Có lẽ chúng ta kiếm người khác bay ra trận thay cho tôi chăng?”
“Nhưng có lẽ chúng ta có thể kiếm được người khác bay ra trận thay cho anh,” đại tá Cathcart gợi ý. “Những công nhân mỏ than đang đình công ở Pennsylvania và West Virginia có được không?”
Milo lắc đầu. “Thế thì sẽ mất quá nhiều thời gian để đào tạo bọn họ. Sao không sử dụng những người trong phi đoàn của chúng ta luôn, thưa sếp? Rốt cuộc thì tôi làm việc này là vì bọn họ. Bù lại bọn họ cũng phải sẵn lòng làm việc gì đó cho tôi chứ.”
“Nhưng tại sao lại không sử dụng những người trong phi đoàn nhỉ, Milo?” đại tá Cathcart thốt lên. “Rốt cuộc thì anh làm tất cả những việc này là vì bọn họ. Bù lại bọn họ cũng phải sẵn lòng làm việc gì đó cho anh chứ.”
“Vậy là công bằng.”
“Vậy là công bằng.”
“Họ có thể lần lượt, thưa sếp.”
“Họ thậm chí có thể lần lượt thay phiên nhau bay ra trận thay cho anh, Milo.”
“Ai sẽ là người được tính thành tích?”
“Anh sẽ được tính thành tích, Milo. Và nếu ai đó giành được huân chương khi bay một trong những trận của anh thì anh sẽ có huân chương đó.”
“Ai sẽ chết nếu như anh ta bị giết?”
“Ôi, anh ta chết, dĩ nhiên rồi. Xét cho cùng, Milo này, vậy là công bằng mà. Mỗi tội là…”
“Ông sẽ phải tăng chỉ tiêu lên.”
“Tôi có lẽ sẽ phải tăng chỉ tiêu lên một lần nữa, và tôi không chắc người của tôi sẽ chịu bay tiếp. Họ vẫn đang rất cay cú bởi vì tôi đã nâng chỉ tiêu lên mức bảy mươi. Nhưng nếu tôi có thể bắt được một trong số những sĩ quan thông thường bay thêm thì đám còn lại có lẽ cũng sẽ chịu thôi.”
“Nately sẽ bay thêm, thưa sếp,” Milo nói. “Tôi vừa được tiết lộ một tin cực kỳ mật là cậu ta sẽ làm bất cứ điều gì có thể để ở lại nước ngoài với cô gái mà cậu ta yêu.”
“Nhưng Nately sẽ bay thêm!” đại tá Cathcart tuyên bố, và ông vỗ hai tay vào nhau thành một tràng pháo tay vang dội của niềm vui chiến thắng. “Đúng vậy, Nately sẽ bay thêm. Và lần này tôi sẽ tăng chỉ tiêu vọt hẳn tám mươi luôn, điều đó sẽ là một cú đấm lòi mắt tướng Dreedle ra. Và đây cũng là cách hay để đưa con chuột cống chấy rận Yossarian đó trở lại chiến trường để biết đâu người ta có thể bắn chết gã.”
“Yossarian ư?” Một cú rùng mình quan tâm sâu sắc chợt lướt qua nét mặt đơn thuần, chất phác của Milo, và gã trầm ngâm gãi gãi mép bộ ria màu nâu đỏ của mình.
“Ờ, Yossarian. Tôi nghe nói gã đang đi khắp nơi rêu rao rằng gã đã hoàn thành hết nhiệm vụ và chiến tranh đã kết thúc với gã. Chậc, có lẽ gã đã hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ của mình. Nhưng gã vẫn chưa hoàn thành chỉ tiêu nhiệm vụ của anh, có phải không? Ha! Ha! Gã sẽ ngạc nhiên lắm đây!”
“Thưa sếp, Yossarian là bạn của tôi,” Milo phản đối. “Tôi ghét phải chịu trách nhiệm cho bất cứ điều gì khiến cho anh ta phải quay lại chiến trường. Tôi nợ Yossarian rất nhiều. Liệu có cách nào tách riêng được trường hợp của anh ta không?”
“Ồ, không, Milo.” Đại tá Cathcart tặc lưỡi lên mặt dạy dỗ, tỏ ra sốc trước lời đề nghị của Milo. “Chúng ta không bao giờ được phép thiên vị bất cứ ai. Chúng ta cần phải đối xử công bằng với tất cả mọi người.”
“Tôi sẽ trao tất cả những gì tôi có cho Yossarian,” Milo liều lĩnh kiên trì kháng cự nhân danh Yossarian. “Nhưng vì tôi không có gì cả nên tôi không thể trao cho anh ta cái gì, có phải không? Do vậy anh ta sẽ phải mạo hiểm mà làm như tất cả những người khác thôi, nhỉ?”
“Như vậy là công bằng, Milo.”
“Vâng, thưa sếp, như vậy là công bằng,” Milo đồng ý.
“Yossarian không tốt hơn những người khác, và anh ta không có quyền mong đợi chút đặc quyền nào cả, có phải không?”
“Đúng là không, Milo. Như vậy là công bằng.”
Và chẳng còn thời gian để Yossarian tự cứu bản thân nữa khi đại tá Cathcart đã ra thông báo tăng chỉ tiêu lên tám mươi trận ngay cuối buổi chiều hôm đó, chẳng còn thời gian để thuyết phục Nately đừng bay nữa, hoặc ngay cả để bàn lại với Dobbs kế hoạch giết đại tá Cathcart cũng không, bởi vì còi báo động đã bất ngờ hụ lên vào sáng sớm hôm sau và mọi người chưa kịp ăn sáng cho tử tế đã bị dồn lên những chiếc xe tải lao với tốc độ tối đa tới phòng tác chiến rồi ra phi trường, nơi những chiếc xe tải chuyên chở nhiên liệu ồn ã vẫn đang bơm xăng vào máy bay và các đội phụ trách vũ khí đạn dược vẫn đang láo nháo làm việc hết công suất để chuyển những quả bom hủy diệt nặng hàng nghìn pound vào khoang chứa bom. Ai nấy đều đang chạy, và động cơ máy bay được bật và khởi động ngay khi các xe nhiên liệu làm xong việc.
Theo tin tình báo thì sáng hôm đó quân Đức sẽ kéo một tàu tuần dương hỏng của Ý từ ụ khô một xưởng tàu ở La Spezia tới một con kênh cửa ngõ cảng rồi đánh đắm nó ở đó hòng khiến cho quân Đồng minh có chiếm được thành phố cũng không thể sử dụng được cảng nước sâu ấy. Riêng lần này thì tin tình báo lại chính xác. Chiếc tàu lớn đó đi nửa đường ngang qua cảng thì họ bay tới từ phía Tây và phá tan nó bằng những đòn trực diện từ tất cả các máy bay, khiến trong lòng tất cả bọn họ đều trào dâng những làn sóng cả dạt dào của tự hào mãn nguyện tập thể cho tới khi họ phát hiện ra mình đang chìm trong hàng rào đạn phòng không dữ dội bắn lên từ mọi khúc quanh của vùng đất núi non hình móng ngựa khổng lồ bên dưới. Ngay cả Havermeyer cũng phải dụng đến bài chuồn quyết liệt nhất có thể khi gã thấy cái khoảng cách mênh mông mà gã cần phải vượt qua để thoát thân, và Dobbs, đang ở vị trí phi công điều khiển trong đội hình bay, đã rẽ trái thay vì rẽ phải, khiến cho máy bay của gã sượt vào một máy bay khác kế bên, và ngoạm mất đuôi của nó. Cánh máy bay của gã thì rụng đến sát sườn, và chiếc máy bay rơi xuống như một tảng đá rồi gần như ngay lập tức biến mất khỏi tầm nhìn. Không có lửa, không có khói, và không có đến cả một tiếng động nghịch tai. Chiếc cánh còn lại nặng nề quay tròn như một máy trộn xi măng trong lúc máy bay cắm mũi xuống dưới theo phương thẳng đứng với tốc độ mỗi lúc một nhanh cho đến khi nó đâm vào mặt nước, cú va chạm làm mặt nước tung bọt nở bung như một đóa hoa súng trắng trên nền biển xanh thẳm, rồi lắng lại thành một suối phun nước nóng những bọt nước màu xanh táo khi máy bay chìm. Tất cả chỉ diễn ra trong vài giây. Không có chiếc dù nào. Và Nately, ở trong chiếc máy bay kia, cũng đã bị giết chết.
72. Bên bán hàng chỉ chịu chi phí đến lúc xếp hàng lên tàu tại Calcutta. Các khoản chi phí khác như cước vận tài, phí bảo hiểm thuộc về trách nhiệm của bên mua hàng.
73. Tức là nếu trả tiền trong vòng 10 ngày kể từ ngày ghi trên hóa đơn thì sẽ được bớt 2%; nếu trả toàn bộ trước cuối tháng thì vẫn chưa bị tính lãi trả chậm.
74. Hóa thạch người Piltdown (Piltdown Man) là các mảnh xương người tiền sử tìm được vào năm 1912 tại Piltdown, được coi là phát kiến lớn cho tới khi bị phát hiện ra là giả mạo vào năm 1953. Hóa thạch người Piltdown có lẽ là trò lừa nổi tiếng nhất trong lịch sử khoa học.
75. Trong tiếng Anh từ hides (da sống) và hives (tổ ong) đọc hơi giống nhau.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22