Hồ Quý Ly epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 3
on gà chọi của quan cai ngục gáy dồn báo hiệu bình minh. Có lẽ con gà xoàng nhất trong lũ gà ở đây, bởi vì nó gáy muộn nhất. Tiếng gáy lại quê mùa, như tiếng ho sù sụ của một ông già, chẳng có khí thế gì hết. Nhưng nghe nói nó lại là con gà chọi hay... Thời nhà Trần, cái thú chơi gà chọi được mọi người ưa chuộng. Tại Thăng Long, từ nhà quan đến nhà dân, không mấy nhà không nuôi gà chọi. Gặp ngày lễ tết, ngoài chợ, ngoài chùa, dưới gốc đa đầu làng, đâu đâu cũng có đám chọi gà. Gặp buổi thanh bình, con gà chọi hay, có nhà giầu mua tới vài chục quan tiền. Sử Văn Hoa chợt thở dài: "Rõ thật lẩm cẩm! Sao lại nghĩ tới gà chọi. Mình có thời giờ đâu, mà cũng có tiền đâu, để nghĩ tới việc chơi gà," Bỗng nghĩ miên man, bỗng nhớ tới người vợ già cô đơn ở cái làng heo hút phía nam kinh thành.
Ngày xưa, hồi trẻ, ông nghèo lắm. Cha mẹ mất sớm, một nhà sư ở vùng Hải Đông đem ông về nuôi. Thấy ông thông minh, Thiền sư Vân Tiên dạy ông học. Dạy đủ tao giáo, Nho, Phật, Lão. Sắp đến kỳ vua mở khoa thi, Sư Vân Tiên bảo:
- Số của con còn nhiều duyên nợ trần gian. Con phải đi thi để gánh hết duyên nghiệp của mình. Đạo là con thuyền lớn để mọi người cùng đi. Tăng và tục cũng chẳng khác gì nhau. Con nên nhớ câu: ở đâu có tâm tức là có đạo.
Văn Hoa lạy tạ thiền sư, khăn gói lên đường ra Thăng Long. Gần đến khoa thi, anh học trò nghèo Văn Hoa phải đến nghe giảng tại trường học của một bậc đại nho mở bên bờ sông Tô Lịch, phường Giang Khẩu.
Hàng ngày, Văn Hoa vẫn thường gặp một cô hàng bán rượu đến cửa trường bán cho các thày khoá. Thấy một anh học trò nghèo, quần áo rách, mặt mũi sáng sửa, không bao giờ mua rượu, cô lấy làm lạ, bèn lân la hỏi chuyện. Anh trả lời:
- Quê tôi miền Hải Đông, tiền bạc chẳng dư dật, lấy đâu ra để tiêu xài chè rượu. Vả lại, tôi ở chùa từ nhỏ... Nhà chùa có ngũ giới, trong đó cấm rượu là một...
- Thày ra Thăng Long có nơi nào ở trọ?
- Tôi trọ ở chùa Tiên.
Ngôi chùa này ở nam kinh đô, nằm cạnh Thái Hồ, trước có hoà thượng người Chiêm Thành trụ trì. Các sư thày cũng người Chiêm có nghề đục đá. Họ đục hình những con voi, con hươu, con trâu... đặt hai hàng từ cổng chùa đi vào và trong vườn chùa. Tượng hình khéo léo tinh xảo, tạo nên một nét riêng, không giống mọi ngôi chùa khác: Hoà thượng bị giết khi Chế Bồng Nga ra đốt phá Thăng Lon,. các sư thày sợ hãi nên cũng bỏ đi hết cả. Ngôi chùa Chiêm Thành biến thành ngôi chùa hoang, làm nơi trú ngụ cho những kẻ phiêu bạt vô gia cư và những thày khoá ở tỉnh xa về Thăng Long trọ học. Cô hàng rượu đến thăm, thấy cảnh đổ nát của ngôi chùa, và cảnh cơm niêu nước lọ của Văn Hoa nên động lòng thương, vẫn thường qua lại giúp đỡ.
Văn Hoa thi đỗ. Nhiều nhà tai mắt ở Thăng Long gọi đến gả con cho nhưng Văn Hoa không nhận. Ông đến làng Mơ hỏi cô bán rượu làm vợ. Nhà vợ nghèo, ông làm quan cũng thanh bạch, nên khi làm nhà viết sử danh tiếng, được vua đặt cho họ Sử, ông cũng chẳng biết hưởng thụ ăn chơi gì. Cũng bởi vậy nên ông mới thở dài khi nghe tiếng gà và nghĩ đến thú chơi gà chọi. Nói đúng sự thực, từ khi làm quan ông cũng có hưởng thụ một chút: đó là thú uống rượu. Ông đã phá một trong ngũ giới. Đặc biệt, ông chỉ uống rượu làng Mơ, do chính tay vợ nấu.
Hồi mới bị bắt, Sử Văn Hoa trằn trọc mấy ngày đêm không ngủ, suốt ngày đêm ngồi lặng im, mắt thao láo nhìn chòng chọc vào không trung, cứ như thể đôi mắt mở to ấy không hề biết chớp. Ngục quan vốn là người quen, liền mang một bình rượu Kẻ Mơ đến, rồi lén đem vào cho ông.
- Này, tiên sinh uống đi cho nó hạ cái uất xuống.
- Không uống?
- Rượu Kẻ Mơ đấy.
- Hả?
- Vợ ông mang đến đấy.
- Thế hả?
- Uống đi? Kẻo phụ lòng bà ấy.
- Ừ, thì uống...
Sử Văn Hoa bưng vò rượu lên uống ừng ực như tu nước lã. Đôi mắt ông vẫn chòng chọc như mất hồn. Lúc đó ngục quan mới tỉ tê.
- Ông có biết con gà chọi của tói không?
- Sao lại gà chọi hở?
- Trông nó như con gà gỗ ấy!
- Sao lại gà gỗ hử... à.. à... Nó đá hay hả...
- Lúc tôi mới mua về, nó hăng lắm. Nghe thấy tiếng gà lạ, là nó giương cổ gáy đáp lại. Tôi nghĩ nó vẫn còn hăng lắm, chưa đá được. Một tháng sau, trông thấy bóng gà lạ, nó vẫn còn sục sặc lồng lộn. Tôi lại nghĩ: nó vẫn còn hăng, Chưa được! Ba tháng sau, nó như con gà gỗ, nghe gà lạ, trông thấy gà lạ, nó cứ dửng dưng như không. Lúc đó tôi mới bảo: Được rồi đây... Từ đó con chọi của tôi đá rất hay, nổi tiếng khắp kinh thành...
Nghe ngục quan nói, đôi mắt Sử Văn Hoa như dần dần hồi tỉnh. Nét mặt bừng bừng nhìn vào không trung của ông dãn ra. Ông lặng lẽ ngồi rất lâu, rồi bỗng giật mình. Ông quay lại, lấy hai cái chén rót rượu và đưa cho ngục quan một chén.
- Kẻ tù tội này đã cả đời đèn sách mà không đạt đạo được như bác. Nhờ bác đem lời vàng ngọc của Nam Hoa Kinh ra chỉ dẫn, tôi mới giật mình tỉnh ngộ. Xin bác nhận cho một lạy này để tỏ lòng cảm tạ của tôi.
Sử Văn Hoa cúi xuống vái. Ngục quan đỡ dậy:
- Bác là người chép sử cả một thời. Điều ấy mấy ai làm được. Mong bác bình tĩnh giữ gìn. Chẳng nên để chuyện không may làm rối trí...
o O o
Cũng từ hôm đó, Sử thay đổi hẳn. Ông đã bình tĩnh trở lại. Và ở ngay trong ngục thất, ông đêm ngày suy ngẫm về cuốn sách mà cả đời ông ao ước viết. Lúc này đây, ông viết nó trong óc, viết nó trong tưởng tượng. Ông dàn ý, ông tính toán phần dài phần ngắn, ông xem xét lại các sự việc, các nhân vật, các chi tiết, ông luận bàn, ông đánh giá... Thật điên rồ. Trong một hoàn cảnh ngặt nghèo như thế này... Và mạng sống như treo đầu sợi tóc. Thế mà lại viết sách... Không giấy... Không bút... Thật hoang đường? Nhưng có lẽ nhờ sự hoang đường ấy nên ông còn bám vào cuộc sống. Có lẽ nhờ nó nên ông không tự vẫn, cái điều mà khi mới sa ngục thất ông vẫn hằng trông thấy ở cuối chân trời, nơi con mắt chòng chọc điên rồ của ông vẫn thường chằm chằm nhìn vào. Ông thở dài. Số phận thật kỳ lạ, tại sao ông sinh ra đời lại để làm một sử quan, người chép sử. Cả một đời ông mê man trong đống sách. Ông vui buồn, giận hờn, căm tức, bi ai, sống cùng số phận của biết bao nhân vật lịch sử từ xưa tới nay. Ông đã nhìn thấy trong đống giấy biết bao nhiêu cuộc hưng vong. Ông đã từng nghiên cứu về cuộc đời của biết bao nhân vật kiệt xuất. Chợt thấm thía nghĩ tới câu: "Thiên địa bất nhân, dĩ vạn vật vi sô cẩu" 2.
Mưu sâu kế lạ ư? Tàn bạo giết chóc đến sởn gáy ư? Tư tưởng thâm trầm nhân nghĩa ư? Cứu dân độ thế ư?... Tất cả rút cuộc cũng chỉ có thể làm cho cái khí âm dương của đất trời ngơi nghỉ lại trong chốc lát, trong cái thế hoà hoãn. Cũng ví như kẻ du hành đi trên cánh đồng nắng chang chang bỗng gặp một gốc cổ thụ bên đường, anh ta dừng chân ngơi nghỉ, để rồi lại tiếp tục dấn thân vào con đường nắng chang chang trước mặt. Cánh đồng nắng là chủ yếu, gốc cây bên đường là chốc lát. Điều kỳ lạ: con người phải mất bao tâm huyết vật lộn để tìm bóng mát ấy, nhưng tại sao phút mát mẻ kia, cái bóng cây an dịu kia lại chỉ là thoảng qua, chỉ là ngắn ngủi.
Trong cuộc vật lộn lịch sử dài dàng dặc ấy, nhà chép sử chỉ là kẻ vật lộn trên đống giấy. Ông trói gà không chặt, ông chưa bao giờ biết đến trận mạc gươm đao, ông chưa bao giờ trải hiểm nguy. Ấy thế mà cái hiểm nguy trên đống giấy, nghĩ cho kỹ, lại còn gớm ghê hơn cả cái hiểm nguy chốn trận tiền. Sau khi thi đỗ ông được bổ làm một chức quan khiêm nhường, người chép sử. Văn Hoa là người nhẫn nại, tỉ mỉ, chăm chỉ đều đặn như một cỗ máy. Hàng ngày, hàng tháng, hàng năm, ông cặm cụi ghi chép những sự việc xảy ra cả trên trời, cả dưới đất, không bỏ sót việc gì. Ngòi bút của ông có lúc là sâu bệnh, châu chấu, bão lụt, mất mùa; có lúc là náo động cung đình, tranh quyền cướp vị; có lúc là thắng giặc khải hoàn; có lúc ngòi bút ông run rẩy theo chân của Chế Bồng Nga vào điên đảo Thăng Long; có lúc nó ghi tội giết vua; nhưng nó cũng không quên những vụ án oan khuất kêu trời chẳng thấu...
Hồi Nghệ Hoàng ốm nặng cho vời Sử vào cung đoán mộng và giải bài thơ: "Con khỉ mõm đỏ, leo lên lầu gà trắng". Hồi ấy, Hồ Quý Ly đã căm ông lắm. Bởi vì trong triều người ta đồn rằng Sử Văn Hoa đã tiết lộ tuổi của Quý Ly là tuổi khỉ và hé ra bằng cách bóng gió rằng Quý Ly định cướp ngôi nhà Trần. Nhưng Sử được Nghệ Hoàng che chở, vả lại nếu bắt Sử chẳng hoá ra có tật giật mình, do vậy bận ấy Sử Văn Hoa thoát nạn. Tuy nhiên, nhà chép sử vẫn luôn luôn nằm dưới con mắt theo dõi chặt chẽ của những người thân tín của thái sư. Nhưng đến khi Sử dâng tấu biểu can ngăn việc xây dựng Tây Đô thì Hồ Quý Ly không thể chịu đựng nổi ông ta nữa. Như ta đã biết, Sử viết: "Động An Tôn là nơi nhỏ hẹp, hẻo lánh, là chốn sơn cùng thuỷ tận, không thể định cư được. Trông cậy vào chốn hiểm trở phỏng có ích gì? Cổ nhân có câu: "Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở".
Thật hỗn xược? Hắn dám chê ta không có đức: Hắn muốn bóng gió đến chỗ lòng dân chẳng theo ta. Chưa ai nói, hắn đã nói. Việc chưa làm, hắn đã lu loa. Không thể để yên cho một kẻ dám ngang nhiên chê bai ta. Hồ Quý Ly sai bắt Sử Văn Hoa, tống giam vào ngục tối. Hồ Nguyên Trừng xin nhận xét xử vụ này. Khi điều tra, một số người muốn ngoắc vụ Văn Hoa vào vụ cô cung nữ Ngọc Kiểm, bởi vì gốc rễ cũng là chuyện dời đô. Có người còn định tạo chứng cứ giả, nhưng Nguyên Trừng không cho:
- Ông ta ngay thẳng, thấy không bằng lòng thì nói. Đừng làm chuyện ám muội, oan uổng. Ông ta là người viết sử. Giết oan ông ta sẽ để tiếng xấu ngàn thu đấy.
Chính vì vậy, Sử cứ bị giam hoài, dằng dai mãi vẫn chưa xử án được.
Cuốn sách mà cả đời Sử Văn Hoa ao ước viết, cuốn sách mà Sử đã ngày đêm suy ngẫm, sau khi được viên ngục quan giúp cho bình tĩnh trở lại, đó là một quyển quốc sử. Hoài bão của ông là phải viết một quyển quốc sử cho thật đàng hoàng, thật trung thực. Một đất nước mà thiếu sử sách cho hệ thống, rành mạch để nói lên sự nối tiếp quật cường và nền văn hiến của dân tộc thì sẽ khó trở thành một đất nước thực sự. Cụ lang Phạm, ông ngoại Nguyên Trừng, ưu ái nói rằng: Sử là cái kho trí nhớ của người nước Nam ta. Đến kẻ phản loạn như Phạm Sư Ôn cũng không nỡ giết ông vì ông là người chép sử. Cứ nhớ mãi hàm râu quai nón và giọng nói ồm ồm của ông ta: "Vì Sử Văn Hoa không biết nịnh nọt, cũng không quá khích đại ngôn, ta tha cho về. Để cho ông ta được sống làm người chép sử". Còn bao nhiêu người dân bình thường khác trông thấy ông nghèo nàn, nhưng nghe nói ông là người chép sử, ai cũng quý mến, trọng vọng. Thế đấy! "Chép sử" hai chữ ấy nó thiêng liêng... Vậy làm sao ông có thể phụ những tấm lòng của những con người như vậy? Sử Văn Hoa bị tống ngục đã lâu vẫn chẳng hề thấy ai hỏi tới. Sử nghĩ: "Quái lạ! Hay người ta đã bỏ quên ta? Tại sao không thấy động tĩnh gì? Thực ra, không phải như vậy. Người ta sục sạo đi tìm chứng cứ, song chẳng tìm thấy gì. Người ta muốn đưa ra chứng cứ giả, song Nguyên Trừng không nghe. Thả cũng khó, mà giam lại cũng dở. Đình uý ty biết Sử Văn Hoa nguy hiểm, nhưng để buộc Hoa vào tội chết thì chứng cứ lại chưa đủ. Còn ý kiến thả Hoa ra cũng chẳng ai dám quyết, bởi vì bắt Hoa là lệnh của thái sư. Người ta cứ lần lửa, lần lữa mãi. Cuối cùng, có khi lần lữa cũng là một đối sách hay.
Còn Sử Văn Hoa, những ngày tù ngục đối với ông dần dần cũng quen đi. Mà cũng có thể nói cuộc sống tù ngục này đã rèn rũa làm cho ông đạt tới độ chín cũng được.
Còn nhớ khi mới bị giam, ông thất vọng và căm giận. Đôi mắt ông không chớp, đau đáu nhìn vào hư vô như để tra hỏi. Giá như lúc ấy, những tia mắt nóng của ông có thể thiêu trụi thế gian, ông cũng chẳng từ. Nhưng vị quan ngục đã tỉ tê vào tai ông câu chuyện về gà chọi của Trang Tử. Ông bàng hoàng vì đó là chuyện tu thân. Đối với kẻ sĩ, việc tu thân phải đặt hàng đầu. Ông không như chú gà chọi lúc đầu chỉ mới nghe tiếng gà lạ đã hăng lên gáy đáp lại. Nhưng xét câu chuyện, ông mới ở mức thứ hai, nghĩa là nghe thì chưa sao, nhưng mắt nhìn thấy, lòng còn xáo động. Còn bây giờ, qua ba tháng trầm luân, ông đã như con gà gỗ, lòng dửng dưng điềm tĩnh, nhưng khí lực lại tràn trề. Ông tự nhủ với mình: "Ước gì bút lực của ta cũng được như vậy. Trước kia, ta sôi nổi quá, để bút lực của ta nổi trôi trên trang giấy. Còn bây giờ, làm sao để ngòi bút ta phác ra được những nét trầm tĩnh, có thể nó kém bay bướm hơn xưa, nhưng khí lực của nó thì giàn giụa ẩn ngầm bên dưới..." Trong buổi lấy cung đầu tiên, Hồ Nguyên Trừng bảo ông:
- Tôi biết ông là bậc chính nhân. Ông hiểu lẽ sống chết ở đời. Chỉ mong ông nói hoàn toàn đúng sự thật.
Sử là bạn vong niên với cụ lang Phạm. Ông gặp Nguyên Trừng từ lúc chàng còn nhỏ. Và chính ông đã đoán giấc mộng bay cho chàng. Quan chép sử hiểu Nguyên Trừng vốn ngay thẳng. Ông thầm cảm ơn số phận đã dun dủi cho ông gặp Trừng làm người hỏi cung. Sử Văn Hoa liền thành thật kể cho Trừng nghe chuyện mình đoán mộng cho đức Nghệ Hoàng ra sao, rồi chuyện ông dâng tấu biểu can ngăn việc dời đô...
- Cốt ở đức, không cốt ở nơi hiểm trở - Trừng thở dài nhắc lại câu nói.
Trừng hiểu mấu chốt vấn đề chính là ở đó ông biết không thể phút chốc có thể làm cho cha mình nguôi cơn giận, và cuối cùng ông cũng hiểu mình không thể đứng hẳn về phía quan thái sử, nếu biết Trừng ra mặt bênh Văn Hoa, Quý Ly sẽ không cho phép ông thụ lý vụ án nữa và sẽ trao nó cho người khác. Nếu thế, Sử Văn Hoa sẽ nắm chắc phần chết. Nguyên Trừng nói với Sử:
- Hiện nay điều cốt yếu phải biết nhẫn nại. Ông sẽ phải nhẫn nại trong tù ngục. Còn tôi, tôi sẽ tìm cách kéo dài sự nhẫn nại của cha tôi.
Lúc ấy, Sử đã được quan cai ngục cho uống rượu và kể chuyện con gà gỗ. Ông đã lấy lại được phong độ trầm tĩnh. đức ẩn nhẫn vốn là đức tính hàng đầu của người đạt giả. Nguyên Trừng một hôm nói với Quý Ly:
- Cha vẫn dậy con: lúc này việc quan trọng nhất của chúng ta là chiêu nạp kẻ hiền tài. Con nghĩ Sử Văn Hoa mới chỉ có những lời xấc xược, chứ chưa phải có âm mưu chống lại cha. Có người định làm chứng cứ giả để ghép ông ta vào tội âm mưu. Con sợ rằng giết ông ta sẽ làm cho kẻ sĩ trong thiên hạ không phục.
Quý Ly cười nụ. Thực bụng, ông chỉ chờ Nguyên Trừng nói ra câu đó. Nhưng Quý Ly không trả lời con trai ngay. Ông nghĩ rất lâu, rồi bảo:
- Thôi được. Hãy cứ để ông ta trong ngục thất. Việc đó xét sau.
Thế là vụ án được kéo dài. Và Sử Văn Hoa ngày đêm nằm trong tù, viết quyển sử của mình, viết trong tưởng tượng.
Cách đó mấy tháng, Nguyên Trừng vào ngục thăm quan Thái sử:
- Tôi nghe nói ông định viết một cuốn sách?
- Vâng, đúng ra một cuốn sử.
- Sử gì?
- Lê Văn Hưu, thầy tôi, mới chỉ viết lịch sử nước Đại Việt đến hết triều Lý...
- Cụ định...
- Tôi đang viết cuốn "Trần sử" - Một cuốn sách về triều đại đương thời?
- Thật khó?
- Khó vì nó đụng chín đến nhiều người đang sống?
- Chỉ một phần nhỏ.
- Cái gì khó... lại lớn hơn.
Sử Văn Hoa chợt cười to:
- Còn gì nữa ư? Khó vì đầu tôi sắp lìa khỏi cổ - Giọng ông bỗng trở nên bi phẫn - Song giá như tôi được viết nó ra trước khi chết... Như vậy, chết cũng thoả, chết cũng chẳng ân hận gì...
Nguyên Trừng lặng lẽ ra khỏi ngục thất.
Hôm mới bị bắt, Sử Văn Hoa bị cùm chân tay, cổ bị đóng gông, mồm bị đóng hàm thiếc. Người ta sợ ông gào la chửi rủa hay sợ ông tự vẫn? Theo lệ xưa, tội càng nặng gông càng nặng. Sử Văn Hoa tội nặng nên phải đeo chiếc gông sáu chục cân. Sử Văn Hoa vừa già vừa yếu nên khi đeo gông hầu như ông không ngồi nổi dậy. Thành thử ông nằm cả ngày, chỉ có lúc ăn, mới được tháo gông ngồi dậy. Sau khi gặp Nguyên Trừng lần thứ nhất, ông được đổi chiếc gông nhẹ hơn, chỉ nặng hai chục cân. Sau lần gặp thứ hai, ông được tháo bỏ hẳn gông cùm. Phải mất nửa tháng những vết loét ở cổ chân, cổ tay do bị cùm mới lành trở lại. Cũng khi ấy, viên cai ngục hớn hở vào gặp ông:
- Xin có lời mừng tiên sinh. Tâm nguyện của tiên sinh sắp được thành tựu.
Sử nắm lấy tay viên cai ngục.
- Có chuyện gì vậy? Xin bác cho biết.
- Đức ông Nguyên Trừng sai đưa đến đủ cả giấy trắng, bút, nghiên và mực; Viên thư lại nói với tôi rằng gửi cho bác. Lại dặn bác cứ yên tâm viết cuốn sách cho xong. Đức ông nói: "Sách sử là của quý ngàn đời. Phải là người tâm huyết mới viết nổi sách trong tù ngục". Đức ông còn dặn tôi phải chăm sóc cho bác ăn uống tử tế.
Từ hôm đó, Sử Văn Hoa bắt đầu viết cuốn Trần Sử, ông viết hối hả, cứ như thể những ngày cuối cùng của đời ông đã cận kề. Mỗi ngày, ông viết vài trang giấy. Ông làm việc như một kẻ ốp đồng. Cách làm việc của ông như sau: ban đêm suy nghĩ thật kỹ lưỡng, ban ngày viết ra giấy. Trong đêm tĩnh lạng, ông tìm tứ, dàn ý chọn chữ, chọn câu. Có đêm, chữ nghĩa của cả một đoạn văn hiện về trong giấc mơ. Điều kỳ lạ, lúc tỉnh dậy, ông vẫn còn nhớ như in có khi cả một đoạn văn dài; và ngày hôm sau, ông chỉ còn việc phóng bút chép nó lại trên giấy trắng. Lúc còn là khoá sinh. Ông nổi tiếng viết chữ đẹp. Nhưng trong những ngày viết sách lạ lùng ấy, ông không tài nào có thể viết nắn nót, những dòng chữ như run rẩy, hối hả, nóng lòng tuôn ra khỏi chiếc bút lông. Ông viết cả trong lúc ăn, viết cả trong lúc ngủ. Có đêm gặp được ý hay. Ông sợ nó biến mất, thế là vội vã nhỏm dậy, lần mò trong gian ngục tối om, tìm giấy, tìm bút, tìm mực và ghi các ý ấy lại bằng vài ba chữ nguệch ngoạc loằng ngoằng - Nhưng về sau để tiết kiệm những tờ giấy hiếm hoi, ông xin viên cai ngục những hòn than và viết chúng ra trên mặt đất, trong đêm đen.
Sử Văn Hoa quá hối hả, ông chạy đua với thời gian, vì sợ đời mình còn quá ngắn. Ông chẳng còn chú ý đến sức khỏe. Sự mải miết đêm ngày ấy biến ông chỉ còn là bộ xương. Viên cai ngục xót xa, xin với Nguyên Trừng cho vợ con Sử vào thăm, nhưng đức ông không nghe:
- Nhà ngươi nên hiểu, ta không ác với ông Sử đâu. Người như ông Sử đâu có nhiều. Hàng trăm năm mới có vài người. Hoàn cảnh lúc này xáo động, được ngồi tĩnh lạng mà viết một cuốn sách như ông Sử hiện nay đâu có phải lúc nào cũng có thời cơ. Hơn nữa, ông Sử đang phẫn chí, quyết chí... nhà ngươi nên biết chỉ trong những lúc như thế này, may ra mới nảy sinh những cuốn sách hay... mà lại cần cho Đại Việt. Ta nghĩ bổn phận của ta và của ngươi lúc này là phải giữ cho ngọn lửa đang nhen nhóm trong đầu óc ông Sử đừng bị tắt lụi nửa chừng...
Viên cai ngục vái tạ Nguyên Trừng, rồi lui ra. Ông đã tự biến mình thành một người đày tớ hầu hạ, mà ông chủ chính là viên tử tù Sử Văn Hoa chẳng hề hay biết. Ông đến nhà Sử, bảo vợ con ông ta tự tay nấu cho ông những vò rượu Mơ ngon nhất. Và cứ cách vài ngày, chờ lúc Sử viết xong vài chục trang giấy, ông lại mang rượu thịt vào đánh chén với người tử tù.
Hôm ấy, ông già viết sử có vẻ hứng thú đặc biệt. Đôi mắt sáng quắc của ông ta hình như được tiếp thêm lửa. Chúng long lanh roi rói như biết cười. Ông đi đi lại lại trong phòng giam, miệng đọc bài thơ "Dựng bia" (Lập bi) của Bạch Cư Dị:
Công đức đã sút kém
Văn chương cũng dần suy
Vẫn lấy đá trong núi
Bên đường dựng thành bia...
Khoe tài là Thái Công
Khoe đức là Khổng Ni
Càng nói nhiều càng đắt
Nghìn chữ vạn đồng thuê...
- Ha ha ha ha! Sử Văn Hoa chợt dừng đọc, cười khoái trá. Đúng lúc ấy, viên cai ngục mở cửa buồng giam, bước vào.
- Kìa quan bác! Sao đúng lúc thế? Thật là khéo! Đúng khi tôi thèm uống rượu, bác lại mang rượu vào.
Viên cai ngục:
- Hôm nay mua được chiếc vó bò. Thấy bác ngâm thơ, chắc là viết được một đoạn văn thú vị, nên đánh bạo mang rượu vào mừng bác. Món tương này bà vợ tôi làm đấy. Tương ngô ngọt lịm, hoà với nhánh gừng đập giập, ăn với vó bò thật tuyệt.
Hai ông già xếp bằng tròn trên nền nhà tù ngồi nhắm rượu. Sử tâm sự:
- Kẻ hàn sĩ thật khổ nhục. Tài đến như Bạch Cư Dị vẫn phải viết văn bia kiếm sống. Nhà quyền quý giầu có thuê ông viết kể lể công đức rồi đục đá thành bia để khoe với ngàn đời sau. Các nhà viết văn bia đều đế họ lên, rồi biến ông quan nào cũng đều có tài như Khương Tử Nha và có đức như Khổng Phu Tử. Đêm qua, tôi mơ thấy Bạch Cư Dị đến trong mộng, đọc cho tôi nghe bài thơ "Dựng bia". Quái lạ! Nghe xong tôi giật mình tỉnh dậy và toát mồ hôi lạnh. Tôi sợ bác ạ...
- Làm sao bác sợ?
- Chắc bác hiểu đấy! Tôi sợ mình yếu lòng. Mà lòng ai chẳng yếu... Biết đâu đấy sẽ có lúc tôi cũng chỉ là một kẻ viết văn bia...
- Đấy là bác lo xa.
- Phải lo xa chứ bác. Người ta... ai chẳng có thê nhi.
- Tôi có là tôi nữa không khi người ta bắt nốt vợ con tôi... Tôi thử hỏi lúc đó tôi có trở thành kẻ đi viết văn bia kia không... Vì vậy cả đêm tôi đã nghĩ... Bác là người tri âm. Một lạy này, tôi xin nhờ cậy bác...
- Kìa, bác chớ làm thế... - Viên cai ngục đỡ lấy hai tay vái lạy của Sử Văn Hoa - Bác cứ yên lòng, tôi sẽ xin hết sức giúp bác.
- Có thể tôi sẽ chết. Nhưng tôi chỉ có thể yên tâm nhắm mạt khi vợ con tôi được yên lành. Ngày mai, nhờ bác đến gặp vợ con tôi bảo hãy trốn khỏi nhà - Hãy trốn lúc ban đêm... Trốn thật xa... Mai danh ẩn tích...
Tại sao Sử Văn Hoa lại hối hả như vậy? Tại sao Sử Văn Hoa lại lo lắng như vậy, thậm chí phải nghĩ đến cả kế vẹn toàn, mai danh ẩn tích cho vợ con sau này. Câu hỏi thứ nhất về sự hối hả như ta biết, do Sử nghĩ rằng thái sư sẽ chẳng tha ông; đã bao nhiêu cuộc thanh trừng xảy ra, chắc chắn ông phải hiểu số phận của mình. Vì hiểu số phận còn ngắn ngủi, nên ông phải tìm một cách viết thích hợp. Ông không thể viết theo trình tự thời gian, không thể tỉ mỉ gọt dũa câu văn. không thể chùng chình ở những câu chuyện trên trời dưới biển. Ông tổng kết, chọn lựa trong diễn biến lịch sử, tìm ra những vấn đề, những sự việc, những nhân vật mà ông coi là quan trọng, mấu chốt, rồi viết theo những chủ đề ấy. Có những ngày ông viết về một đời vua. Rồi ngày khác lại viết về một nhân vật. Có khi suốt vài chục trang giấy chỉ là ghi chép, thống kê về một năm nào đó. Ví dụ ghi chép chung quanh cái tết năm Canh Ngọ (1390), lúc Phạm Sư Ôn chiếm Thăng Long ba ngày, và Chế Bồng Nga đồng thời mang quân uy hiếp kinh đô, để rồi dẫn tới chiến công hiển hách của Trần Khát Chân.
Một đoạn viết đắc ý của ông là đoạn viết về vua Trần Nhân Tông. Ngọn bút lông của ông đã háo hức muốn viết về ông vua hiếm có ấy từ bao lâu nay. Một ngôi sao sáng nhất trong bầu trời lịch sử Đại Việt. Một ông vua văn võ kiêm toàn: võ - thì hai lần đánh tan giặc Nguyên; văn - thì làm văn hiến Đại Việt rực sáng, người tài mọc lên nhiều như sao sa, lại sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Người đời bảo rằng Trần Nhân Tôn là hoá thân của Phật tổ, đã đầu thai xuống trần đem lại cho dân Việt những giây phút hào hùng và một cuộc sống thịnh trị hoà mục. Một số nhà nho cạn nghĩ, vì bài bổ Phật giáo, vì cho rằng vua đi tu không phải một ông vua sáng; họ không dám dè bỉu vua, nhưng lại tìm hết cách để làm lu mờ cái ánh sáng hiền minh rực rỡ của đức Trần Nhân Tôn. Đó là một đức vua văn hiến; một nước Đại Việt có được tồn tại sánh vai được với thiên hạ hay không, ngoài chiến công hiển hách, còn phải có Văn hiến. Không Văn hiến, dân Nam ta sẽ chỉ còn là một bộ tộc dã man mông muội. Dưới thời đức Nhân Tôn, quyển sử Việt Nam đầu tiên được ra đời. Văn Hoa là người chép sử nên ông hiểu ý nghĩa của một quyển sử, nhất là quyển sử đầu tiên của nước nhà. Một khi quyển sử đầu tiên ra đời, tức là cái hồn của dân Việt đã được định hình rõ nét. Rồi còn sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm nữa, nó là thiền phái Đại Việt. Thật cạn nghĩ khi ghép hết cả chiến công đánh giặc cho Trần Hưng Đạo. Đánh giặc: công lớn nhất là của toàn dân. Có ông vua hiền, có hội nghị Diên Hồng và Bình Than thì mới được lòng dân. Vả lại, phải nhớ tới câu: vua nào tôi ấy. Phải nói vua Nhân Tôn là người đạo đức mới dám đủ gan dùng Trần Hưng Đạo, vốn là con Trần Liễu, kẻ kình địch với ông, cha mình, làm đại tướng thống lĩnh ba quân. Và cái tâm của Trần Nhân Tôn phải đại trí, đại từ, đại bi thế nào mới thu phục nổi cái tâm của Trần Hưng Đạo, vốn là một anh hùng kiệt hiệt một thời... Điều mà Sử Văn Hoa muốn nói lên nhiều nhất: đó là đức vua Nhân Tôn chính là người đã điều hoà được âm dương, vì người có tầm nhìn rộng lớn. Núi sông cũng có âm dương; một đất nước cũng có âm dương: Phật giáo và Nho giáo Phật giáo là phần âm của hồn dân Việt. Đạo Phật giữ phần linh thiêng, phần chìm, phần lặng lẽ và thâm thuý của núi sông. Đã bao đời nay, nó vẫn ngân nga trong tiếng chuông chùa làng, lẩn khuất trong đầu ngọn tre, dưới mái rạ, để xoa dịu, nâng đỡ hồn người dân quê trong những lúc nhiễu nhương loạn lạc, trong những năm lụt hạn đói khát, đem lại cho người dân ta sức chịu đựng dẻo dai để chờ đến buổi bình minh sẽ tới. Còn Nho giáo, phần dương của núi sông; đó là phép tắc, lễ giáo, đó là cương cường xông pha, đó là mở núi lấp biển, đó là vàng son vinh quang... Nhưng vinh quang mãi cũng có ngày tàn lụi - Vả lại chỉ có phần dương ấy con người sẽ trở nên cuồng nộ. Những lúc tàn lụi ấy, những lúc cuồng nộ đến mất trí ấy cái phần âm tĩnh lặng, u uẩn, linh thiêng sẽ giúp ta trở nên cân bằng, biết cắn răng mà chịu, biết nuốt nước mắt vào lòng, biết chấp nhận nhục nhã. để chờ một ngày nào đấy, có thể lại đứng dậy, lại lau sạch khuôn mặt, làm cho đất nước trở nên rạng rỡ.
Đức Trần Nhân Tôn hiểu rõ lẽ đó, nên ngài đã khuếch trương Thiền phái Trúc Lâm. Ở thời vua trị vì, Nho Phật hoà đồng, nhật nguyệt cân bằng, sáng tối luân phiên, đó là phút Thái hoà trời đất. Vẫn còn câu hỏi: Tại sao Sử Văn Hoa lại quá lo lắng, và nghĩ cả đến việc mai danh ẩn tích cho vợ con? Điều này cũng vì những trang sử, hoặc nói cho đúng hơn, một đoạn sử mà ông viết mới gần đây, đoạn sử có tên "Minh Đạo luận". Trong thiên Thuyết nan, Hàn Phi Tử nói: "Rồng là giống vật có thể cợt đùa, thậm chí có thể cưỡi. Nhưng ở dưới cổ nó, có cái vảy ngược. Ai động đến vảy đó nó giết ngay". Đoàn Xuân Lôi viết bài "Phản Minh Đạo" tức là đã chạm vào cái vảy ngược, lúc đó Trần Nghệ Tôn còn sống, nên chỉ bị lưu đày làm chức học quan bé nhỏ. Còn ông, lúc này Thượng Hoàng Nghệ Tôn đã băng, và quyền hành của quan thái sư đã sắp lên tới đỉnh chót vót, trong khi ông lại đang sa ngục thất vì tội can gián dời đô, nếu ông viết Minh Đạo luận, tức là ông đã mắc chồng thêm tội; vậy ông có nên viết đoạn văn đó hay không? Ông suy nghĩ, đắn đo, viết rồi lại xé, xé rồi lại thấy lòng như lửa đốt. Và ma đưa lối quỷ đưa đường hay sao, mà cây bút lông của ông lại viết đoạn văn đó lần thứ hai; lần này bão tố hơn, sắc sảo hơn, kiên quyết hơn. Viết xong Minh Đạo Luận, Sử Văn Hoa thấy nhẹ người... Ông như bà mẹ mang thai thấy đứa con mình ra đời khỏe mạnh, xinh xắn và giống mình như đúc. Lúc đang viết, ông nghĩ sẽ chỉ dành nó cho riêng mình...
Cứ nửa tuần trăng, viên thư lại của Hồ Nguyên Trừng lại tới cấp giấy bút cho Sử, và mang đi những trang giấy đã viết xong.
Và sáng hôm ấy, lại cũng như ma đưa lối quỷ đưa đường lần thứ hai. Sử Văn Hoa cũng không hiểu tại sao ông lại đưa cho viên thư lại thiên Minh Đạo Luận, mà đêm hôm trước ông vẫn cứ đinh ninh rằng đây chỉ là bản thảo mình viết riêng cho mình. Điều lạ lùng, khi giao đi, ông không hề hối hận. Thậm chí có lúc, ông thấy lòng mình sảng khoái, và tỉnh táo; bằng chứng: sáng hôm ấy ông đã ngỏ lời xin viên ngục quan giúp vợ con ông trốn khỏi làng rồi mai danh ẩn tích. Ông đã tính toán kỹ, nếu việc xảy ra cho vợ con ông, thì nhanh nhất phải mươi ngày, vì còn phải đọc, còn phải cân nhắc, bàn tính, rồi người ta mới xử tội ông, tiếp đó mới đến vợ con ông; và việc mới xảy ra ông đã nhờ viên ngục quan ngay.
Hai hôm sau, viên ngục quan rỉ tai ông rang đã lo việc cho ông xong xuôi.
Và thế là, lúc này đây, ông an tâm chờ đợi điều xấu xảy đến.
o O o
Và nó đã ập đến thật.
Sáng hôm nay, còn rất sớm đã thấy quan Kiểm pháp Nguyên Trừng đích thân vào gặp ông. Nguyên Trừng buồn rầu nói:
- Sáng nay, có lệnh cha tôi đòi gặp mặt ông.
Sử Văn Hoa rất bình tĩnh:
- Có thể lần này chúng ta gặp nhau lần cuối... vì vậy, tôi xin tỏ lòng cảm kích và biết ơn quan Kiểm pháp đã giúp tôi hoàn thành điều tâm nguyện lớn lao nhất của đời tôi.
Hồ Nguyên Trừng:
- Tôi đã đọc xong cuốn Trần Sử của ông. Tôi đã đọc kỹ phần cuối là Minh Đạo Luận. Tôi cứ suy đi tính lại, định bỏ phần đó, không đưa cho cha tôi. Nhưng rồi lại nghĩ: cuốn sách đó là cả đời tâm huyết của ông, nếu thiếu đoạn cuối cùng, cuốn sách sẽ khập khiễng, bất nhất. Và điều đó chắc ông chẳng bằng lòng...
Sử Văn Hoa tươi cười vái tạ:
- Xin cảm ơn quan Kiểm pháp, cảm ơn người tri kỷ đầu tiên của tôi. Xin chớ áy náy. Quyển sách này là của tôi. Tôi xin chịu trách nhiệm đến từng chữ một.
Chú thích
1.Có sách nói Ứng Long đỗ khoa 1374. Có sách lại nói đỗkhoa 1384 (cùng khoa với Xuân Lôi). Tôi chọn 1384 vì hợp với tiểu sử của Nguyễn Trãi hơn. (TG)
2.Câu nói của Lão Tử. Trời đất không có lòng nhân từ (trời đất cứ theo quy luật mà vận hành), xem vạn vật như loài chó rơm (chó rơm: một thứ chó tết bằng rơm, kiểu như vàng mã, tế lễ xong là đem đốt).
Hồ Quý Ly Hồ Quý Ly - Nguyễn Xuân Khánh Hồ Quý Ly