Chương 30
áu tuần sau, Teddy ra khỏi thang máy đi xuôi hành lang về căn hộ của hai mẹ con, kéo lệt xệt ba lô dưới đất. Lần đầu tiên nó thấy ghét trường học. Hôm nay cô Pearson thông báo với cả lớp là chúng nó sẽ phải làm một đề tài nghiên cứu xã hội vào cuối năm, và Teddy biết chắc nó sẽ tạch. Cô Pearson không thích nó. Cô nói sẽ loại nó khỏi lớp năng khiếu nếu thái độ của nó không cải thiện.
Chỉ là – kể từ hồi tới Wynette, dường như nó chẳng còn biết đến vui vẻ nữa. Nó luôn luôn cảm thấy thấp thỏm. Giống như có con quái vật nấp trong tủ áo chực chờ nhảy xổ vào nó. Và giờ nó có nguy cơ bị đá khỏi lớp năng khiếu.
Teddy biết cách nào đó nó phải nghĩ ra một đề tài nghiên cứu thật hay ho, đặc biệt là vì nó đã làm hỏng bét đề tài khoa học về sâu bọ. Đề tài này phải hơn đứt đề tài của mọi đứa khác – kể cả thằng hâm Milton Grossman người định viết thư cho thị trưởng Ed Koch và đề nghị cho nó làm việc cùng ông một ngày. Cô Pearson rất thích ý tưởng đó. Cô nói sáng kiến của Milton xứng đáng làm nguồn cảm hứng cho cả lớp. Teddy chẳng hiểu một thằng suốt ngày ngoáy mũi và bốc mùi băng phiến có thể truyền cảm hứng kiểu gì.
Khi nó đi qua cửa, Consuela từ dưới bếp lên và thông báo, “Có một bưu phẩm gửi cho cháu, ở trong phòng cháu đó.”
“Bưu phẩm ấy ạ?” Teddy cởi áo khoác và đi vào hành lang. Giáng sinh đã qua, sinh nhật nó tận tháng Bảy, ngày Valentine còn hai tuần nữa mới đến. Sao nó lại có bưu phẩm nhỉ?
Bước vào phòng, nó trông thấy một thùng carton to tổ chảng với địa chỉ gửi từ Wynette, Texas, nằm giữa sàn. Nó thả áo khoác xuống, đẩy kính trở lại sống mũi, và cắn móng tay. Một phần trong nó muốn chiếc hộp gửi từ Dallie, nhưng một phần khác trong nó thậm chí không muốn nghĩ tới Dallie. Cứ mỗi lần nghĩ đến, nó lại cảm thấy con quái vật trong tủ đang đứng ngay sau nó.
Cắt lớp băng dính bọc ngoài bằng cây kéo sắc nhất, nó mở he hé nắp hộp và ngó nghiêng tìm một lá thư. Tất cả những gì nó thấy là một chồng những chiếc hộp nhỏ hơn, nó bắt đầu mở từng cái một. Khi đã mở hết, nó ngồi ngây mặt, nhìn đống quà xung quanh, một dãy quà hợp không chịu nổi với một thằng bé chín tuổi cứ như người ta đọc được tâm trí nó vậy.
Một bên là một núi đồ chơi chơi khăm tuyệt diệu, như đệm xì hơi, kẹo cay xè, và một viên đá lạnh giả bằng nhựa với một con ruồi chết bên trong. Vài món rất hấp dẫn với đầu óc của nó - một cái máy tính điện tử và trọn bộ biên niên sử Narnia. Một cái hộp khác chứa những món đồ đại diện cho cả thế giới phái mạnh: một con dao quân đội Thụy Sĩ chính hiệu, một cái đèn pin với tay cầm bằng cao su đen, một bộ tuốc nơ vít dành cho người lớn hiệu Black & Decker. Nhưng món quà yêu thích nhất của nó nằm dưới đáy hộp. Bóc lớp giấy lụa, nó kêu lên đầy phấn khích khi trông thấy món trùm cuối, chiếc áo nỉ đẹp và xịn nhất nó từng thấy.
Nổi bật trên nền xanh hải quân ở mặt trước là hình vẽ một người phóng mô tô rậm râu mắt liếc đầy khiêu khích với con ngươi bật ra ngoài và nước dãi chảy khỏi miệng. Bên dưới chiếc xe là tên của Teddy viết bằng chữ Day-Glo màu cam và lời tựa “Sinh ra để phá đảo.” Teddy ôm chiếc áo vào ngực. Trong chốc lát nó để cho bản thân tin rằng Dallie đã gửi cho nó tất cả những thứ này, nhưng rồi nó hiểu người ta không gửi những món quà như vậy cho kẻ mà họ nghĩ là ẻo lả, và bởi nó biết Dallie nhìn nhận ra sao về nó, nó cũng biết những món quà hẳn là từ Skeet. Nó siết chiếc áo chặt hơn và tự nhủ mình thật may mắn khi có một người bạn như Skeet Cooper, người có thể nhìn xuyên qua cặp mắt kính và những thứ khác để thấy một đứa trẻ thật sự.
Theodore Day – Sinh ra để phá đảo! Nó yêu âm thanh của những từ đó, cảm giác của chúng, sự ngông nghênh của chúng, cái ý nghĩ một đứa trẻ còi cọc như nó, một thằng hề ở các môn thể thao và thậm chí sắp bị đuổi khỏi lớp năng khiếu, lại sinh ra để phá đảo.
Trong lúc Teddy sướng mê tơi với chiếc áo, Francesca sắp kết thúc buổi ghi hình. Khi chấm đỏ trên camera tắt, Nathan Hurd bước đến chúc mừng cô. Nhà sản xuất của cô hói và béo tròn, ngoại hình tầm tầm nhưng đầu óc như cái máy phát điện. Nhiều nét ở ông làm cô nhớ đến Clare Padgett, người hiện đang khiến phòng tin tức ở một đài truyền hình tại Houston muốn tự sát. Cả hai đều cầu toàn đến điên rồ, và cả hai đều biết chính xác cách khiến lái cô.
“Tôi yêu cái lúc họ rời khỏi chương trình thế chứ,” Nathan nói, cái cằm hai ngấn của ông rung rinh khoái trá. “Chúng ta cứ dẫn chương trình như thế - tỷ lệ người xem sẽ banh nóc nhà.”
Cô vừa kết thúc chương trình về việc truyền giáo qua truyền thông trong đó khách mời danh dự, đức cha Johnny T.Platt, đã ra về trong bực bội sau khi bị cô dụ dỗ mà tiết lộ nhiều hơn mong muốn về những cuộc hôn nhân thất bại và quan điểm cổ lỗ của ông ta đối với phụ nữ.
“Ơn trời là tôi đã chỉ có mấy phút trống không thì chúng ta phải quay lại,” cô nói khi gỡ microphone khỏi chiếc khăn quàng họa tiết paisley quấn quanh cổ chiếc váy.
Nathan đi cùng cô ra khỏi studio. Giờ khi buổi ghi hình đã xong và Francesca không phải dồn hết sự tập trung vào việc mình đang làm, cảm giác nặng nề quen thuộc lại chụp lấy cô. Sáu tuần đã trôi qua kể từ khi cô trở về từ Wynette. Cô đã không gặp lại Dallie kể từ lúc anh sầm sầm lao ra khỏi nhà. Nỗi lo lớn nhất của cô là phải dàn xếp thế nào để đưa anh trở lại cuộc sống của Teddy. Tại sao một việc rất sai trái với cô lại có cảm giác vô cùng đúng đắn như vậy? Và rồi cô nhận ra Nathan đang nói chuyện với mình.
“…báo chí ra ngày hôm nay cũng nói về buổi lễ ở Tượng Nữ thần Tự do. Chúng ta sẽ làm một chương trình về người nhập cư cho tháng Năm – người giàu và người nghèo, kiểu thế. Cô thấy sao?”
Cô gật đầu đồng ý. Cô đã đỗ kỳ thi nhập tịch hồi đầu tháng Một, và không lâu sau nhận được thư của Nhà Trắng mời tham gia buổi lễ tổ chức vào tháng Năm này ở Tượng Nữ thần Tự do. Một số nhân vật nổi tiếng, những người mới được trở thành công dân Mĩ, sẽ cùng nhau tuyên thệ. Ngoài Francesca, trong nhóm còn có những vận động viên gốc Hispanic, một nhà thiết kế thời trang người Hàn Quốc, một vũ công ballet Nga, và hai nhà khoa học rất được kính trọng. Nhân sự kiện trùng tu Tượng Nữ thần Tự do thành công năm 1986, Nhà Trắng dự định sẽ tổ chức một buổi phát biểu của Tổng thống, thể hiện tình yêu nước cũng như củng cố vị trí của ông với những cử tri vô thần.
Nathan dừng bước khi họ đến văn phòng của ông. “Tôi có vài kế hoạch mới mẻ cho mùa sau, Francesca. Thiên về chính trị hơn. Cô lại có biệt tài bóc tách –"
“Nathan,” cô chần chừ một lát rồi, biết mình đã trì hoãn quá lâu, liền lấy quyết tâm. “Chúng ta cần nói chuyện.”
Ông nhìn cô vẻ cảnh giác trước khi phất tay bảo cô vào trong. Cô chào người thư ký rồi đi vào phòng riêng của ông. Ông đóng cửa và ghé cái mông núng nính ngồi lên một góc bàn giấy, làm giãn căng những đường may vốn đã phải làm việc quá sức trên lớp vải chino.
Francesca hít sâu một hơi và thông báo cho ông cái quyết định cô đã đưa ra sau nhiều tháng cân nhắc. “Tôi biết ông sẽ không vui với chuyện này, Nathan, nhưng khi hợp đồng của tôi với nhà đài sẽ ký tiếp vào mùa xuân, tôi đã bảo trợ lí thương lượng lại.”
“Đương nhiên cô sẽ thương lượng lại rồi,” Nathan thận trọng nói. “Tôi chắc chắn nhà đài sẽ đưa thêm một khoản gọi là khích lệ. Nhưng không quá nhiều.”
Vấn đề không nằm ở tiền và cô lắc đầu. “Tôi sẽ không làm show hàng tuần nữa, Nathan. Tôi muốn giảm xuống còn mười hai số đặc biệt một năm – mỗi tháng một show.” Cảm giác nhẹ nhõm tràn ngập khi cô nói những lời cuối cùng.
Nathan nhảy dựng khỏi góc bàn. “Tôi không tin cô. Nhà đài sẽ không bao giờ chấp thuận. Cô sẽ phá hủy tỷ lệ người xem.”
“Tôi sẽ nắm lấy cơ hội ấy. Tôi không muốn sống như thế này nữa, Nathan. Tôi chán tình trạng luôn luôn mệt mỏi. Tôi chán nhìn người khác nuôi dạy con mình rồi.”
Nathan, người chỉ gặp con gái vào cuối tuần và phó mặc chuyện chăm con cho vợ, dường như chẳng biết cô đang nói về chuyện gì. “Phụ nữ coi cô là hình mẫu lí tưởng,” ông nói, xem ra định đánh vào lương tâm chính trị của cô. “Một vài người nói cô đã cống hiến hết mình.”
“Cũng có thể…tôi không chắc nữa.” Cô gạt chồng tạp chí sang bên và ngồi xuống sofa. “Tôi nghĩ phụ nữ đang nhận ra rằng họ mong muốn nhiều hơn là một bản sao năng nổ của đàn ông. Chín năm trời tôi làm mọi thứ theo cách của đàn ông. Tôi giao việc nuôi dạy con cái cho người khác. Tôi lên lịch trình cho bản thân dày đặc đến nỗi khi thức giấc trong một phòng khách sạn tôi phải lấy một món đồ nào đó trong ngăn kéo ra để biết mình đang ở thành phố nào, tôi đi ngủ với nỗi lo lắng thường trực về những việc phải làm ngày hôm sau. Tôi mệt mỏi rồi, Nathan. Tôi yêu công việc, nhưng tôi mệt vì yêu nó hai tư giờ một ngày, bẩy ngày một tuần. Tôi yêu Teddy, và tôi chỉ còn chín năm trước khi nó vào đại học. Tôi muốn ở bên nó nhiều hơn. Đây là lối sống duy nhất tôi đã sống, và thành thực mà nói, tôi chẳng vui vẻ gì với cách sống ấy.”
Ông cau mày. “Cứ cho là nhà đài sẽ đồng ý, điều mà tôi hết sức nghi ngờ, thì cô sẽ mất rất nhiều tiền.”
“Đúng,” Francesca tự giễu. “Tôi sẽ phải cắt giảm ngân sách quần áo từ hai mươi nghìn xuống mười nghìn dollar. Tôi chỉ có thể trông thấy hàng triệu bà mẹ làm việc quần quật lo lắng đến mất ngủ trong khi nghĩ cách làm sao để mua cho con đôi giày đến trường.” Một người phụ nữ cần bao nhiêu tiền? cô tự hỏi. Bao nhiêu quyền lực? Cô có phải người phụ nữ duy nhất trên đời chán ngán việc bám lấy những tiêu chuẩn đánh giá của đàn ông về sự thành đạt.
“Cô thực sự muốn gì, Francesca?” Nathan hỏi, đổi chiến thuật từ công kích về hòa hoãn. “Biết đâu chúng ta có thể tìm ra sự thỏa hiệp nào đó.”
“Tôi muốn thời gian,” Francesca mệt mỏi trả lời. “Tôi muốn có thể đọc một cuốn sách chỉ vì tôi muốn đọc nó, không phải vì tác giả sẽ xuất hiện trong chương trình của tôi hôm sau. Tôi muốn trải qua nguyên một tuần không có ai dính cái lô cuốn nóng rẫy vào tóc tôi. Tôi muốn đi cùng Teddy trong một chuyến dã ngoại của lớp nó.” Và cô bộc bạch ý nghĩ đang dần lớn lên trong mình. “Tôi muốn dành phần năng lượng đã dồn vào công việc và làm điều gì đó ý nghĩa cho tất cả những cô bé mười bốn tuổi đang bán thân trên đường phố ở đất nước này vì chúng không còn nơi nào để đi.”
“Chúng ta sẽ làm thêm những chương trình về trẻ bụi đời,” ông nói vội. “Tôi sẽ sắp xếp để cô có thời gian nghỉ nhiều hơn. Tôi biết chúng tôi đang bắt cô làm việc vất vả, nhưng –"
“Chuyện này không phải để kinh doanh, Nathan,” cô nói, đứng lên khỏi ghế. “Cái vòng quay này sẽ chậm lại một thời gian.”
“Nhưng Francesca –"
Cô hôn phớt lên má ông rồi chuồn lẹ khỏi văn phòng trước khi ông kịp nói thêm điều gì. Cô biết sự nổi tiếng của mình không có sức nặng đến độ nhà đài sẽ không dám sa thải cô nếu họ cảm thấy cô không biết điều, nhưng cô phải nắm lấy cơ hội đó. Những sự việc trong sáu tuần vừa rồi đã cho cô thấy mình ưu tiên thứ gì hơn, và chúng cũng dạy cô một điều quan trọng về bản thân – cô không còn phải chứng minh bất cứ điều gì hết.
***
Đặt chân vào văn phòng mình, Francesca thấy một tập tin nhắn đang đợi sẵn. Cô cầm cái đầu tiên lên, rồi để luôn sang bên không buồn đọc. Ánh mắt cô chạm phải cặp hồ sơ trên bàn, nó tóm tắt sự nghiệp golf thủ chuyên nghiệp của Dallas Beaudine. Cô đã thu thập thông tin cùng lúc cố gắng đẩy Dallie khỏi tâm trí. Mặc dù lơ đãng lật những trang giấy, nhưng cô không đọc lại những cái đã xem nát nước. Tất cả những bài báo, những cuộc gọi cô đã thực hiện, những mẩu thông tin cô lượm lặt được đều chỉ về một hướng. Dallas có mọi tài năng cần thiết để trở thành một nhà vô địch; có điều anh dường như không khát khao nó cho lắm. Cô nghĩ đến lời nhắn nhủ của Skeet và tự hỏi nó có liên quan gì đến Teddy, nhưng câu trả lời cứ né tránh cô.
Stefan đang ở thành phố và cô đã hứa đi cùng anh đến một bữa tiệc không công khai ở La Cote Basque tối đó. Cả buổi chiều cô đắn đo muốn hủy, nhưng cô biết cách lẩn trốn đó thật hèn nhát. Stefan muốn ở cô thứ mà giờ cô hiểu mình không thể cho anh, và sẽ là không công bằng nếu cứ trì hoãn không nói chuyện với anh.
Stefan đã đến New York hai lần từ khi cô trở về từ Wynette, cả hai lần cô đều gặp anh. Tất nhiên anh đã biết vụ bắt cóc Teddy, nên cô buộc phải kể cho anh một số chuyện xảy ra ở Wynette, nhưng tuyệt không đả động gì đến Dallie.
Cô ngắm bức ảnh Teddy trên bàn. Thằng bé đang dập dềnh trong một đường ống ở công viên Flinchstones, hai cẳng chân khẳng khiu lấp loáng nước. Nếu Dallie đã không muốn liên lạc lại với cô, chí ít anh ta cũng nên cố gắng gần gũi Teddy chứ. Cô thấy buồn và hụt hẫng. Cô những tưởng Dallie là người tốt hơn so với sự thật. Tối hôm ấy khi quay về, cô tự đe mình phải chấp nhận việc mình đã mắc một sai lầm trầm trọng và phải quên nó đi.
Trước khi sửa soạn cho cuộc hẹn với Stefan, cô ngồi với Teddy trong lúc nó ăn tối và nghĩ mới hai tháng trước thôi mình còn vô tư lự biết bao. Giờ cô cảm thấy như mình đang mang cả đống rắc rối của cuộc đời trên vai. Lẽ ra cô đừng bao giờ có cái thứ tình một đêm quái quỷ ấy với Dallie, cô sắp làm tổn thương Stefan, và đài truyền hình rất có thể sẽ sa thải cô. Cô quá khổ sở để mà cổ vũ cho Holly Grace, và cô lo lắng cực độ về Teddy. Nó trở nên khép kín và lầm lì thấy rõ. Nó sẽ không nói về những việc đã xảy ra ở Wynette, và nó cưỡng lại mọi cố gắng gặng hỏi của cô về bài vở của nó ở trường.
“Mọi chuyện giữa con với cô Pearson hôm nay thế nào?”
Cô lấy giọng vui vẻ hỏi, khi nhìn nó lấy dĩa moi đậu ra từ dưới món khoai tây đút lò.
“Cũng ổn ạ.”
“Chỉ ổn thôi à?”
Nó đẩy ghế ra khỏi bàn và bê đĩa đi. “Con còn nhiều bài tập phải làm. Con không đói lắm.”
Cô nhăn trán nhìn nó rời khỏi bếp. Giá mà giáo viên của Teddy không hung thần ác sát như vậy. Không như những giáo viên cũ, cô Pearson có vẻ quan tâm đến thứ hạng hơn quá trình học tập. Quan điểm mà Francesca cho rằng tai hại khi làm việc với những học sinh đặc biệt. Teddy chưa từng lo lắng về điểm số cho đến năm nay, nhưng giờ hình như suy nghĩ của nó chỉ xoay quanh chúng. Khi Francesca xỏ người vào chiếc váy Armani đính cườm để đến chỗ hẹn với Stefan, cô quyết định sắp xếp một cuộc gặp nữa với hiệu trưởng nhà trường.
***
Bữa tiệc ở La Cote Basque diễn ra vui tươi, với đồ ăn ngon và một cơ số kha khá những gương mặt nổi tiếng trong đám đông, nhưng Francesca chẳng có lòng dạ nào để thưởng thức. Một toán paparazi đợi sẵn khi cô và Stefan bước ra khỏi nhà hàng lúc nửa đêm. Cô kéo cao cổ áo choàng lông quấn kín cằm và tránh những chớp nháy lia lịa. “Quỷ bắt áo lông chồn,” cô làu bàu.
“Đó không phải là quan điểm phổ biến đâu, em yêu,” Stefan đáp, dẫn cô ra chiếc limousine.
“Tại cái áo này mà ra,” cô cằn nhằn sau khi chiếc limousine đã hòa vào dòng xe cộ trên đại lộ số Năm, “chứ cánh báo chí mấy khi quấy rầy anh. Mà là em. Nếu em mặc cái áo mưa cũ mọi khi, chúng ta đã có thể lọt qua mà không bị ai chú ý…,” cô nói luyên thuyên về áo lông chồn để câu giờ trong khi cố tìm dũng khí để làm tổn thương anh. Cuối cùng cô im bặt và để cho những kỷ niệm cũ vẫn gặm nhấm cô mỗi buổi tối choán lấy – nghĩ về tuổi thơ của mình, về Chloe, về Dallie. Stefan thỉnh thoảng lại nhìn cô, dường như anh cũng chìm trong những suy nghĩ riêng. Khi xe đi qua cửa hiệu Cartier, cô quyết định không thể chần chừ thêm, cô chạm vào cánh tay anh. “Chúng ta đi bộ một lát được không?”
Đã nửa khuya, đêm tháng Hai giá lạnh, và Stefan nhìn cô vẻ bồn chồn – như thể anh đoán được chuyện gì sắp đến – tuy nhiên anh vẫn bảo tài xế dừng xe. Khi họ bước xuống vỉa hè, một chiếc xe ngựa hai bánh chạy qua, móng ngựa gõ đều đều trên đá. Họ sóng bước đi dọc Đại lộ số Năm, hơi thở phả thành khói trong không khí.
“Stefan,” cô lên tiếng, tựa má một khắc ngắn ngủi vào ống tay áo khoác bằng len mềm của anh.
“Em biết anh đang tìm một người phụ nữ để cùng chung sống, nhưng em e rằng em không phải là người đó.”
Cô nghe thấy anh hít sâu một hơi, rồi thở ra. “Tối nay em cũng mệt rồi. Hay là ta hãy khoan bàn đến chuyện này.”
“Em nghĩ nó đã bị trì hoãn đủ lâu rồi,” cô nhẹ nhàng đáp.
Cô nói liền một mạch, và đến cuối cùng cô có thể thấy cô đã làm tổn thương anh, nhưng có lẽ không nặng nề như cô đã sợ. Cô ngờ rằng ở một nơi nào đó trong anh, anh đã biết từ lâu cô không phải là người phù hợp để làm công chúa của anh.
***
Hôm sau Dallie gọi điện đến văn phòng gặp Francesca. Anh vào đề luôn không rào đón, như thể anh vừa nói chuyện với cô hôm qua thay vì sáu tuần và không hề có những cảm xúc tiêu cực giữa họ.
“Hey, Francie, ngót nửa Wynette đang muốn hành hình cô đấy.”
Cô bất giác nhớ đến những cơn tam bành thịnh nộ mình thường có hồi trẻ, nhưng cô giữ giọng bình tĩnh và tự nhiên, mặc dù sống lưng cứng lại căng thẳng. “Có lí do gì đặc biệt không?”’ cô hỏi.
“Cách cô quay ông mục sư tít mù trên ti vi tuần trước là một sự ô nhục. Người dân ở đây rất coi trọng các nhà truyền giáo, và Johnny Platt là một nhân vật được yêu quý.”
“Đó là kẻ lừa đảo,” cô trả lời, điềm tĩnh hết sức có thể. Những móng tay bấm sâu vào lòng bàn tay. Tại sao Dallie không chỉ việc nói thẳng ra những gì chứa trong đầu? Tại sao anh cứ phải vòng vèo làm gì cho phức tạp?
“Có thể, nhưng họ xem ông ta là phiên bản không chính thức của ‘hòn đảo của Gilligan,’ * thế nên khi người ta cân nhắc lựa chọn, không ai quá lo lắng chương trình của ông ta bị hủy bỏ.” Một khoảng dừng ngắn, đăm chiêu. “Tôi hỏi cô điều này, Francie – và nó là sở trường của cô – việc Gillian và những người bạn bị đắm tàu của anh ta ở trên hòn đảo đó lâu như thế, làm thế nào những người phụ nữ đó chẳng bao giờ bị hết phấn mắt? Và giấy vệ sinh? Cô có nghĩ viên thuyền trưởng và Gillian chỉ sống bằng chuối suốt thời gian đó không?”
Francesca muốn hét vào mặt anh, nhưng cô không dại mà cắn câu anh ta. “Tôi còn có cuộc họp, Dallie. Anh gọi có chuyện gì không?”
“Thực ra là tuần tới tôi sẽ bay đến New York để gặp mấy tay ở đài truyền hình lần nữa, và tôi nghĩ có thể tôi sẽ ghé qua vào khoảng bẩy giờ tối thứ Ba để chào Teddy và nhân thể đưa cô đi ăn tối.”
“Tôi không đi được,” cô nói lạnh nhạt, lửa giận tỏa ra ngùn ngụt.
“Chỉ một bữa ăn thôi mà, Francie. Cô không cần phải làm quá lên như thế.”
Nếu anh ta không chịu nói thẳng ý nghĩ của mình, thì cô sẽ nói. “Tôi sẽ không gặp anh, Dallie. Anh đã có cơ hội của mình, và đã thổi bay nó.”
Im lặng kéo dài. Cô buộc mình phải gác máy, nhưng không sao nhúc nhích nổi. Cuối cùng khi Dallie lên tiếng, cái giọng vui vẻ của anh biến mất. Anh để lộ sự mệt mỏi và bối rối. “Tôi xin lỗi vì đã không gọi sớm hơn, Francie. Tôi cần có thời gian.”
“Còn bây giờ tôi cần có thời gian.”
“Được rồi,” anh nói chậm rãi. “Chỉ cần cho tôi qua gặp Teddy thôi.”
“Tôi không nghĩ vậy.”
“Tôi phải bắt đầu sửa chữa mọi chuyện với nó, Francie. Tôi sẽ từ tốn. Chỉ vài phút thôi.”
Bao năm qua cô đã trở nên cứng rắn; cô phải như vậy. Nhưng lúc này khi cô cần đến sự cứng rắn nhất, tất cả những gì cô làm được chỉ là nhớ lại cảnh thằng bé con đang moi đậu dưới miếng khoai tây đút lò ra. “Chỉ vài phút thôi đấy,” cô nhượng bộ.
“Tuyệt!” Anh tỏ ra hớn hở như một thiếu niên. “Thế là tốt lắm rồi, Francie.” Đoạn thêm vào rất nhanh. “Sau khi gặp Teddy, tôi sẽ đưa cô đi ăn tối.” Cô chưa kịp mở miệng phản đối, anh đã cúp máy.
Cô gục đầu xuống bàn và rên lên. Cô chẳng có chính kiến gì hết; cô yếu xìu như cọng mì Spaghetti vậy.
Lúc người gác cửa gọi điện lên vào tối thứ Ba thông báo Dallie đến, Francie đã như cái xác không hồn vì lo lắng. Cô đã thử ba bộ đồ bảo thủ nhất trước khi nổi loạn chọn một trong những bộ khiêu khích nhất – chiếc bustier satin màu xanh bạc hà đi cùng chân váy ngắn bằng nhung màu ngọc bích. Những sắc màu làm tôn lên sắc xanh của mắt cô và, ít nhất là theo tưởng tượng của cô, khiến cô trông nguy hiểm hơn. Việc cô có thể đang ăn vận quá đà cho một buổi tối với Dallie chẳng làm cô nhụt chí. Mặc dù cô ngờ rằng họ sẽ đến một quán rượu bụi bặm với những quyển thực đơn bọc plastic, đây vẫn là thành phố của cô và Dallie sẽ phải là người thích nghi với nó.
Sau khi ốp cho mái tóc thành một kiểu xõa tự nhiên. Cô đeo hai chuỗi pha lê có tua rua của Tina Chow lên cổ. Mặc dù có niềm tin vào sức mạnh của bản thân hơn là sức mạnh huyền bí trong những chiếc vòng cổ thời trang của Tina Chow, cô vẫn quyết định không nên coi nhẹ bất cứ thứ gì giúp cô vượt qua cái chỉ có thể là một buổi tối khó khăn này. Cô biết mình không bắt buộc phải ăn tối với Dallie – cô thậm chí không phải có mặt ở đây khi anh đến – nhưng cô muốn gặp lại anh. Đơn giản thế thôi.
Cô gần như nhảy dựng lên khi nghe tiếng Consuelo mở cửa. Cô ép mình phải ngồi chờ trong phòng cho đến khi bình tĩnh hơn, nhưng rút cục hồi hộp chỉ tăng mà không giảm, nên đành đi ra phòng khách đón anh.
Anh xách một chiếc hộp gói bọc kĩ lưỡng đứng bên lò sưởi ngắm con khủng long đỏ chóe treo bên trên. Anh quay lại khi nghe tiếng động rồi nhìn cô chằm chằm. Anh mặc bộ vét xám cắt may rất chuẩn, áo sơ mi với cổ tay áo kiểu Pháp, và cà vạt màu xanh lam sẫm. Cô chưa bao giờ trông thấy anh trong bộ vét, và một cách vô thức cô chờ anh bắt đầu kéo cổ áo và tháo cà vạt. Cả hai anh đều không làm.
Mắt anh đánh giá chiếc váy ngắn, chiếc bustier màu xanh, và anh lắc đầu vẻ ngưỡng mộ. “Chà, Francie, cô hợp với trang phục của gái làng chơi hơn bất cứ người phụ nữ nào tôi biết.”
Cô muốn cười phá lên, nhưng dùng chiêu giễu cợt có lẽ khôn ngoan hơn. “Nếu cái tính hợm hĩnh ngày xưa của tôi có bất ngờ quay lại, nhớ nhắc tôi hãy ở cùng anh năm phút.”
Anh cười tươi, rồi bước đến lướt qua môi cô một nụ hôn phớt nhẹ đẫm hương kẹo cao su. Da ở một bên má cô nổi gai ốc. Nhìn thẳng vào mắt cô, anh nói. “Cô gần như là người phụ nữ đẹp nhất thế giới, cô biết mà.”
Cô lảng nhanh khỏi anh. Anh bắt đầu nhìn quanh phòng khách, ánh mắt lướt từ chiếc ghế lười bọc vải vinyl mà cam đến chiếc gương kiểu Louis XVI. “Tôi thích chỗ này, nó thật sự thoải mái.”
“Cảm ơn,” cô đáp có phần cứng nhắc, vẫn đang cố chấp nhận sự thật rằng họ lại mặt đối mặt và anh có vẻ ung dung hơn cô nhiều. Họ sẽ nói gì với nhau tối nay? Họ tuyệt nhiên không có chủ đề nào để nói mà không gây tranh cãi, xấu hổ, hoặc bùng nổ cảm xúc.
“Teddy có nhà không?” Anh chuyển cái hộp từ tay trái qua tay phải.
“Thằng bé ở trong phòng.” Cô cảm thấy không cần giải thích rằng Teddy không có biểu cảm gì khi cô bảo nó là Dallie sắp đến.
“Cô có thể bảo nó ra ngoài này một lát không?”
“Tôi – tôi ngờ rằng chuyện đó sẽ không dễ dàng như vậy.”
Mặt anh trầm xuống. “Vậy thì chỉ cho tôi phòng của nó.”
Cô chần chừ, rồi gật đầu và dẫn anh đi xuôi hành lang. Teddy đang ngồi ở bàn học lười nhác đẩy tới đẩy lui chiếc xe Jeep biệt đội G.I.Joe.
“Ông muốn gì?” nói hỏi, khi ngước lên thấy Dallie đứng phía sau Francesca.
“Ta mang cho cậu một thứ,” Dallie nói. “Coi như quà Giáng sinh muộn.”
“Tôi không cần,” Teddy sưng sỉa đáp. “Mẹ mua cho tôi tất cả những thứ tôi thích rồi.” Nó đẩy chiếc xe qua mép bàn rơi xuống thảm. Francesca bắn cho nó một tia nhìn cảnh cáo, song Teddy vờ như không thấy.
“Vậy thì cậu tặng lại cho bạn bè là được.” Dallie bước tới đặt cái hộp xuống giường của Teddy.
Teddy ngờ vực nhìn nó. “Có cái gì trong đó?”
“Có lẽ là đôi bốt cao bồi.”
Có tia sáng lóe lên trong mắt Teddy. “Bốt cao bồi? Bác Skeet gửi à?”
Dallie lắc đầu.
“Bác Skeet gửi cho tôi rất nhiều quà,” Teddy tuyên bố.
“Quà gì vậy?” Francesca hỏi.
Teddy nhún vai. “Chỉ là một cái đệm xì hơi và vài thứ.”
“Bác ấy thật tốt,” cô nói, tự hỏi sao Teddy không nhắc chuyện này với cô.
“Chiếc áo nỉ có vừa không?” Dallie hỏi.
Teddy ngồi thẳng lên trong ghế nhìn Dallie chằm chằm, đôi mắt cảnh giác sau gọng kính. Francesca nhìn cả hai thắc mắc, không biết họ đang nói về chuyện gì.
“Vừa,” Teddy nói, giọng lí nhí gần như không nghe thấy.
***
Chiếc taxi chạy trong yên lặng, với Francesca giấu mình trong chiếc áo khoác đính cườm cổ áo nhung dựng cao và Dallie nhìn thẳng vào tài xế. Dallie đã gạt đi câu hỏi của cô về sự việc với Teddy và, mặc dù trái với tính cách mình, cô không nài ép anh.
Xe dừng lại trước nhà hàng Lutece. Cô ngạc nhiên và thất vọng một cách vô lí. Cho dù Lutece có thể là nhà hàng tốt nhất New York, cô không thể không gợn lên ý nghĩ rằng Dallie đang dùng chiêu trò để gây ấn tượng với cô. Tại sao anh không đưa cô đến nơi nào anh cảm thấy thoải mái, thay vì một nhà hàng rõ ràng quá xa lạ với phong cách của anh? Anh giữ cửa cho cô khi họ bước vào, anh giúp cô cởi áo khoác và chuyển cho người giữ đồ. Francesca hình dung một buổi tối ngột ngạt phía trước, khi cô cố dịch cả quyển thực đơn và danh sách rượu mà không làm anh mất mặt.
Bà chủ nhà hàng trông thấy Francesca liền tươi cười chào cô. “Mademoiselle Day, chúng tôi luôn hân hạnh được phục vụ cô.” Rồi bà quay sang Dallie. “Monsieur Beaudine, gần hai tháng rồi nhỉ. Chúng tôi thấy nhớ anh đấy. Tôi vẫn giữ bàn cũ cho anh.”
Bàn cũ! Francesca nhìn sững Dallie khi anh và bà chủ nhà vui vẻ hàn huyên. Cô lại mắc sai lầm cũ. Một lần nữa cô đã tin vào cái hình ảnh Dallie tự tạo ra cho mình mà quên rằng đây là người đàn ông đã dành mười lăm năm qua ăn chơi ở các câu lạc bộ độc tôn nhất ở nước Mĩ.
“Những con sò tối nay đặc biệt ngon,” madame giới thiệu khi dẫn họ đi theo hành lang xây gạch của nhà hàng tới bàn đã đặt.
“Mọi thứ ở đây đều ổn,” Dallie tiết lộ với cô khi cả hai đã yên vị trong những chiếc ghế liễu gai. “Trừ việc tôi phải có được phần dịch sang tiếng Anh của bất cứ món nào trông đáng ngờ trước khi tôi ăn nó. Lần trước họ làm tôi hoảng hồn với món gan sống.”
Francesca cười. “Anh quả thực là một người kì lạ, Dallie.”
“Tại sao?”
“Thật khó hình dung có người nào tỏ ra thoải mái ở Lutece cũng như ở trong một quán rượu Texas.”
Anh nhìn cô chăm chú. “Theo tôi thấy cô khá thoải mái ở cả hai nơi.”
Nhận xét của anh làm Francesca bối rối. Cô đã trở nên quá quen với việc chỉ nhìn thấy những khác biệt giữa họ nên không kịp thích nghi với ý nghĩ họ có điểm chung. Họ bình luận về thực đơn một lúc, Dallie đưa ra những nhận xét ngỗ ngược về bất cứ món ăn nào anh thấy quá cầu kỳ. Trong lúc miệng nói, mắt anh như uống lấy cô. Cô bắt đầu cảm thấy mình đẹp lên theo một cách chưa từng có trước đây – một vẻ đẹp nội tâm xuất phát từ bên trong. Tâm trạng mơ màng này làm cô hốt hoảng, nên rất mừng rỡ khi bồi bàn xuất hiện nhận order của họ.
Người bồi bàn đi rồi, Dallie lại quét mắt qua cô, nụ cười của anh chậm rãi và mờ ám. “Đêm hôm đó là khoảng thời gian rất tuyệt đối với tôi.”
Ồ không, anh đừng tưởng, cô nghĩ. Anh ta sẽ không dễ dàng thắng cô trong chuyện đó đâu. Trò này cô đã chơi với người giỏi nhất, và con cá sẽ ngọ ngoạy chán ở lưỡi câu. Cô giương tròn mắt thật ngây thơ, mở miệng định hỏi anh đang nói về cái đêm nào, song chẳng hiểu sao lại thấy mình đang mỉm cười. “Tôi cũng có khoảng thời gian rất tuyệt.”
Anh đưa tay qua bàn siết chặt tay cô, rồi buông ra rất nhanh như khi chạm vào. “Tôi xin lỗi vì đã lớn tiếng với cô như thế. Holly Grace làm tôi tức giận, cô ấy không nên phá đám chúng ta. Chuyện xảy ra không phải lỗi của cô, tôi không nên đổ thừa cho cô.”
Francesca gật đầu, không thực sự chấp nhận lời xin lỗi của anh, nhưng cũng không quăng trả nó lại anh. Cuộc trò chuyện lảng sang những hướng an toàn hơn cho đến khi bồi bàn xuất hiện với món ăn đầu tiên. Sau đó Francesca hỏi Dallie về cuộc gặp của anh với đài truyền hình. Anh trả lời một cách qua loa, khiến cô thêm tò mò muốn đào sâu thêm một chút.
“Theo tôi hiểu thì nếu anh kí hợp đồng với nhà đài, anh sẽ phải ngừng chơi ở hầu hết các giải đấu lớn.” Cô nhấc một con ốc sên khỏi cái liễn sứ nhỏ nơi nó nằm ngập trong sốt bơ cùng thảo mộc.
Anh nhún vai. “Chẳng bao lâu nữa tôi sẽ quá già để thi đấu. Có thể tôi sẽ kí nếu có giá hời.”
Những sự kiện và dấu mốc trong sự nghiệp của Dallie tua qua đầu cô. Cô di ngón tay vẽ vòng tròn trên khăn trải bàn và rồi, như một nhà thám hiểm ít từng trải cẩn thận đặt chân vào vùng đất lạ, nhận xét, “Holly Grace bảo rằng có thể anh sẽ không tham gia giải U.S Classic năm nay.”
“Có thể vậy.”
“Tôi không nghĩ anh sẽ để cho mình ngơi nghỉ chừng nào chưa thắng một giải đấu chính.”
“Tôi đã cống hiến đủ cho sự nghiệp của mình rồi.” Những đốt ngón tay anh hơi gồ lên quanh cốc soda anh cầm. Sau đó anh bắt đầu kể về sự tâm đầu ý hợp giữa Miss Sybil và Doralee. Vì Francesca vừa mới nói chuyện điện thoại với cả hai người này, nên cô để ý đến cách anh đổi chủ đề hơn là những gì anh nói.
Bồi bàn đem ra những món chính. Dallie chọn món sò điệp dùng với nước sốt đen từ cà chua và tỏi, còn cô chọn món bánh bột ngàn lớp nhồi thịt cua và nấm dại. Cô cầm dĩa lên và thử lần nữa. “Giải U.S Classic sắp tới cũng quan trọng như các giải Master đúng không?”
“Phải, tôi cho là vậy.” Dallie xiên một miếng sò điệp bằng dĩa và quét qua lớp sốt đặc. “Cô biết hôm trước Skeet nói gì với tôi không? Anh ta bảo theo như anh ta thấy thì cô là kẻ dạt vòm thú vị nhất chúng tôi từng cho quá giang. Đó là một lời khen vì anh ta từng không chịu nổi cô.”
“Tôi hãnh diện quá.”
“Một thời gian dài anh ta dành lời khen đó cho một gã lang thang cụt tay có thể ợ theo bài ‘Tom Dooley,’ nhưng tôi nghĩ anh ta đã đổi ý trong chuyến thăm đáng nhớ mới đây của cô. Tất nhiên anh ta luôn có thể nghĩ lại.”
Anh nói chuyện sôi nổi. Cô mỉm cười và gật gù và chờ anh lắng xuống, làm tiêu tan nghi ngờ của anh bằng cung cách thoải mái và cái nghiêng đầu chăm chú của mình, ru ngủ anh để anh quên rằng mình đang ngồi đối diện người phụ nữ mười năm qua chuyên khai thác những bí mật mà người ta muốn giấu kín nhất, người phụ nữ có thể ra đòn quyết định rất tài tình, êm ái, mà nạn nhân thường là chết với nụ cười trên môi. Cô từ từ cắt khúc măng tây. “Tại sao anh không chờ đến sau giải U.S Classic rồi hãy bước vào buồng bình luận? Anh sợ điều gì?”
Anh xù lông lên như con nhím bị đe dọa. “Sợ ư? Từ khi nào cô trở thành chuyên gia về golf để biết vận động viên họ sợ gì thế?”
“Khi anh dẫn một show truyền hình như tôi, lĩnh vực nào anh cũng sẽ biết một ít,” cô đánh trống lảng.
“Nếu tôi biết sẽ có vụ phỏng vấn thế này, tôi ở nhà cho lành.”
“Nhưng như thế chúng ta sẽ bỏ lỡ một buổi tối vui vẻ bên nhau, đúng không?”
Không có thêm chứng cứ nào ngoài vẻ mặt cau có của anh, Francesca liền tin chắc Skeet Cooper đã nói với cô sự thật, và không chỉ sự vui vẻ của con trai cô phụ thuộc vào giải golf, mà cả niềm vui của cô nữa. Cái cô không biết là sử dụng phát hiện mới này như thế nào. Cô đăm chiêu cầm ly rượu lên, nhấp một ngụm, rồi đổi chủ đề.
Francesca không định kết thúc ở trên giường với Dallie tối đó, nhưng khi bữa ăn trôi đi các giác quan của cô dường như trở nên quá tải. Cuộc trò chuyện ngắt quãng hơn, ánh mắt họ nhìn nhau lâu hơn. Cứ như cô đã dùng ma túy liều cao và không thể phá được bùa mê. Lúc cà phê của họ được đem đến, họ đã không thể rời mắt khỏi nhau và cô chưa kịp định thần, họ đã ở trên giường của Dallie trong khách sạn Essex House.
“Umm, em có vị thật ngon lành,” anh thì thầm.
Cô uốn cong lưng, một tiếng rên sung sướng phát ra từ sâu trong họng, khi anh yêu cô bằng miệng và lưỡi, cho cô toàn bộ thời gian cô cần, đẩy cô lên những cực đỉnh đam mê của chính mình, nhưng không bao giờ cho cô qua đỉnh điểm cao nhất.
“Ôi…xin anh,” cô van nài.
“Chưa được,” anh đáp.
“Em – em không chịu nổi nữa.”
“Anh e rằng em sẽ phải chịu thôi, cưng.”
“Không…làm ơn…” cô với xuống, nhưng anh đã túm hai cổ tay cô ấn xuống hai bên sườn cô.
“Lẽ ra em không nên làm thế. Giờ thì anh phải bắt đầu lại từ đầu.”
Làn da cô ẩm ướt, những ngón tay co quắp lại trong tóc anh, khi cuối cùng anh cũng cho cô sự giải thoát cô khao khát. “Đó là một hành vi đáng nguyền rủa,” cô thở ra sau khi rơi trở lại trái đất. “Anh sẽ phải trả giá cho trò giày vò đó.”
“Em có bao giờ để ý rằng âm vật là bộ phận giới tính duy nhất không có biệt danh xúc phạm không?” Anh rúc vào bầu ngực cô, vẫn nhẩn nha với cô cho dù bản thân anh chưa được thỏa mãn. “Nó có một cái tên viết tắt, nhưng không thực sự tục tĩu như những biệt danh khác. Nghĩ xem. Em có một –“
“Có thể là do đàn ông gần đây mới khám phá ra âm vật,” cô nói vẻ tinh quái. “Chưa đủ thời gian.”
“Anh không nghĩ vậy,” anh đáp, tìm ra đề tài trong khi tranh luận. “Anh cho rằng vì nó là một bộ phận không đáng chú ý cho lắm.”
“Bộ phận không đáng chú ý!” Cô nghẹn thở khi anh lại bắt đầu trò phù thủy của mình.
“Phải,” anh thì thầm khàn khàn. “Giống một chiếc keyboard điện tử bé nhỏ hơn là một chiếc Wurlitzer đồ sộ.”
“Cái đồ tự cao tự đại – " Trong tiếng cười trầm khàn, cô lăn lên bên trên anh. “Ngài hãy chống mắt mà xem! Chiếc keyboard nhỏ bé này sắp khiến cái Wurlitzer đồ sộ của ngài chơi một bản giao hưởng để đời đấy.”
***
Những tháng tiếp theo, Dallie tìm ra nhiều cớ để đến New York. Đầu tiên anh phải gặp mấy thành viên bên mảng thị trường về chương trình quảng cáo anh đang thực hiện cho một chuỗi câu lạc bộ golf. Rồi anh ghé ngang ‘trên đường’ từ Houston đi Phoenix. Sau đó anh có một khao khát tột bậc là được ngồi giữa hệ thống giao thông chật như nêm và hít khói. Chưa bao giờ Francesca được cười nhiều đến thế hay cảm thấy ngỗ ngược và thoải mái như thế. Khi Dallie đã quyết tâm làm chuyện gì thì khó mà cưỡng lại anh, về phần cô lâu nay đã bỏ thói quen tự dối mình, cô đã thôi cố gắng hạ thấp những cảm xúc dành cho anh bằng cách giấu chúng dưới cái mác thuận tiện là nhục dục. Mặc kệ sau này khổ đau ra sao – cô nhận ra mình đã yêu anh. Cô yêu vẻ ngoài của anh, tiếng cười của anh, bản tính phóng khoáng của anh.
Tuy nhiên những trở ngại giữa họ sừng sững như núi, và tình yêu của cô ngọt ngào xen lẫn đắng cay. Cô không còn là thiếu nữ hai mốt tuổi mộng mơ, và cô không nhìn thấy bất cứ một tương lai tươi sáng nào. Mặc dù cô biết Dallie quan tâm đến cô, song cảm xúc của anh dường như hời hợt hơn tình cảm của cô.
Và Teddy tiếp tục là vấn đề. Cô cảm thấy Dallie dù rất muốn giành thiện cảm của nó, song anh vẫn cứng nhắc và nghiêm trang với con trai – như thể anh không dám là chính mình. Những chuyến đi chơi của họ thường kết thúc trong thảm họa khi Teddy mắc lỗi và Dallie khiển trách nó. Dẫu ghét phải thừa nhận, song đôi khi cô thở phào khi Teddy có kế hoạch khác và cô với Dallie có thể ở riêng với nhau.
***
Vào ngày Chủ Nhật cuối tháng Tư, Francesca rủ Holly Grace đến chơi và xem vòng cuối của một trong những giải golf lớn trong năm. Dallie đang dẫn trước hai điểm trong sự vui mừng của họ. Holly Grace tin chắc rằng nếu anh đạt kết quả tốt, anh sẽ chơi hết mùa thay vì chui vào phòng bình luận trong hai tuần để tán hươu tán vượn cho giải U.S Classic.
“Ông ấy sẽ đánh hỏng,” Teddy nói khi bước vào phòng và ngồi phịch xuống sàn trước ti vi. “Ông ấy toàn thế.”
“Không phải lần này,” Francesca bảo nó, cáu với cái vẻ biết tỏng của nó. “Lần này anh ấy sẽ làm được.” Tốt hơn anh hãy làm được, cô nghĩ. Tối qua nói chuyện điện thoại, cô đã hứa hẹn với anh một phần thưởng hấp dẫn nếu anh qua được vòng hôm nay.
“Từ khi nào em trở thành fan của golf thế?” anh đã hỏi.
Cô không có ý định kể cho anh về bao nhiêu giờ đồng hồ cô ngồi xem lại thật kỹ con đường sự nghiệp của anh, hay những tuần cô xem băng hình những giải anh thi đấu khi đi tìm chìa khóa mở cửa những bí mật của anh.
“Em trở thành fan sau khi có một cơn cảm nắng không thể tin nổi với Seve Ballesteros,” cô nói tỉnh khô, dựa người vào chồng gối trên giường và gác ống nghe lên vai. “Anh ấy đẹp trai ngời ngời. Anh xem có làm mối anh ấy cho em được không?”
Dallie khịt mũi khi cô nhắc đến anh chàng Tây Ban Nha có vẻ đẹp hắc ám là một trong những tay golf chuyên nghiệp hàng đầu thế giới. “Với giọng điệu đấy thì ok anh sẽ mai mối. Còn ngày mai hãy quên ông già Seve đi và tập trung vào chàng trai tài giỏi của nước Mĩ.”
Giờ khi xem chàng trai đó, cô hoàn toàn thích những gì mình thấy. Anh đạt điểm par ở lỗ thứ mười bốn và mười lăm và điểm birdie ở lỗ mười sáu. Bảng xếp hạng thay đổi và anh vượt lên dẫn đầu. Ống kính bắt hình ảnh Dallie và Sketch đi đến lỗ mười bảy rồi chuyển sang mục quảng cáo ngân hàng Merrills Lynch.
Teddy đứng dậy khỏi chỗ ngồi trước ti vi và biến mất vào phòng riêng. Francesca bày ra một đĩa pho mát và bánh quy giòn, nhưng cô và Holly Grace quá hồi hộp không ăn nổi. “Anh ấy sẽ làm được,” Holly Grace nhắc lại đến lần thứ năm. “Hôm qua lúc nói chuyện anh ấy bảo đang có tinh thần rất tốt.”
“Thật mừng vì hai người lại làm hòa với nhau,” Francesca nói.
“Ồ, cô biết Dallie và tôi mà. Chúng tôi không giận nhau lâu được.”
Teddy trở ra từ phòng ngủ diện bốt cao bồi và áo nỉ xanh navy dài quá mông. “Con kiếm đâu ra thứ kinh khủng đó vậy?” Cô nhìn tay đua mô tô mũi dãi và dòng chữ Day-Glo với vẻ kỳ thị.
“Đó là quà tặng,” Teddy lẩm bẩm, ngồi phịch xuống thảm.
Ra đây là chiếc áo cô đã nghe danh. Cô trầm tư nhìn vào màn hình ti vi đang chiếu cảnh Dallie đặt điểm phát bóng ở lỗ mười bảy, rồi quay nhìn Teddy. “Mẹ thích nó,” cô nói.
Teddy đẩy kính lên sống mũi, hoàn toàn tập trung vào trận đấu. “Ông ta sẽ phát hỏng.”
“Không được nói thế,” Francesca nạt.
Holly Grace nhìn chăm chăm vào màn hình. “Anh ấy phải đặt nó ngay bên kia hố cát, hướng về bên trái đường lăn bóng. Như vậy mới có tầm nhìn tốt tới cờ.”
***
Pat Summerall, bình luận viên đài CBS, nhận xét cảnh đó với người đồng nghiệp Ken Venturi. “Anh nghĩ sao, Ken? Liệu Beaudine có giữ nguyên được kết quả thêm hai lỗ nữa không?”
“Tôi không biết nữa, Pat. Hôm nay trông Dallie rất ổn, nhưng lúc này hẳn anh ấy đang cảm nhận được áp lực, và anh ấy chưa bao giờ đạt phong độ tốt nhất ở những giải đấu lớn này.”
Francesca nín thở khi Dallie phát bóng, và Pat Summerall nói bằng giọng đáng ngại, “Không có vẻ như anh ấy đã đánh đúng hướng.”
“Anh ấy đang lao xuống rất gần hố cát bên trái đường bóng,” Venturi nhận xét.
“Ôi không,” Francesca kêu lên, những ngón tay đan chặt vào nhau khi cô nhìn trân trân quả bóng bay qua màn hình nhỏ.
“Mẹ kiếp, Dallie!” Holly Grace hét vào ti vi.
Quả bóng từ trên trời rơi xuống và vùi mình vào hố cát bên trái đường bóng.
“Con đã bảo ông ấy sẽ đánh hỏng mà,” Teddy nói.
(*)Hòn đảo của Gillian là bộ phim truyền hình nhiều tập của Mĩ, nói về sự sinh tồn của một nhóm người bị đắm tàu dạt lên hoang đảo.
Fancy Pants (Tiếng Việt) Fancy Pants (Tiếng Việt) - Susan Elizabeth Phillips Fancy Pants (Tiếng Việt)