Truy Tìm Dracula epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 30
úng 4 giờ 02 phút, Barley và tôi đáp chuyến tàu tốc hành đivề miền Nam, đến Perpignan. Barley quẳng hành lý qua bậc thang lêntàu dựng đứng rồi đưa tay ra giúp tôi lên theo. Chỉ có vài hành khách trênchuyến tàu, thậm chí khi tàu đã chuyển bánh thì toa tàu chúng tôi bước vào vẫntrống trơn. Tôi bắt đầu thấm mệt; nếu ở nhà vào giờ này thì bà Clay đã bắt tôingồi vào bàn ăn trong nhà bếp, cùng với một cốc sữa và một lát bánh nướng vàngngậy. Trong thoáng chốc, tôi hầu như cảm thấy nhớ tiếc sự chăm sóc phiền phứccủa bà. Barley ngồi xuống bên tôi, mặc dù còn bốn chỗ ngồi khác để anh lựachọn, và tôi dúi tay vào dưới cánh tay mặc áo len của anh. "Anh phải học bàiđây," anh nói, nhưng không mở sách ra ngay; có quá nhiều thứ cần phải xem khiđoàn tàu tăng tốc chạy qua thành phố. Tôi nghĩ đến những lần ở đây cùng cha - leo lên dốcMontmartre, hay ngắm nhìn chú lạc đà u sầu ủ rũ trong Vườn Báchthảo. Paris giờ dường như là một thành phố tôi chưa từng nhìn thấy.
Tôi thấy buồn ngủ khi nhìn Barley mấp máy môi đọc cuốn sáchcủa Milton, và đã lắc đầu từ chối vì đang lơ mơ ngủ khi anh nói muốn xuốngtoa ăn để uống trà. "Em đúng là kiệt sức rồi," anh nói, mỉm cười. "Vậy thì emcứ ở đây mà ngủ, anh sẽ mang sách theo. Khi nào em thấy đói chúng ta có thể trởlại toa ăn dùng bữa."
Mắt tôi gần như khép lại ngay khi anh ta rời khỏi toa, vàkhi lại mở mắt ra tôi thấy mình đang nằm cuộn tròn trên chiếc ghế trống trơn,như một đứa bé con, chiếc váy vải bông dài kéo lên trên mắt cá chân. Có ngườinào đó đang ngồi đọc báo ở băng ghế đối diện, nhưng không phải là Barley. Tôingồi bật dậy ngay. Người đàn ông đang đọc tờ Le Monde, tờ báo trải rộng che gầnhết người ông ta - tôi hoàn toàn không thấy được phần thân trên và gương mặtngười đàn ông đó. Một chiếc cặp da đen đặt trên ghế bên cạnh ông ta.
Trong một thoáng, tôi đã tưởng tượng đó là cha, một cảm xúcvừa biết ơn vừa bối rối dâng tràn trong tôi. Rồi tôi nhìn thấy đôi giày ngườiđàn ông, cũng là loại giày da màu đen và rất bóng, mũi giày có những lỗ nhỏ sắpthành những hình thanh tú, đầu dây buộc là các tua núm màu đen. Ông ta bắt chânchữ ngũ, mang vớ lụa đen mịn và mặc quần com lê cũng màu đen không chê vào đâuđược. Không phải là giày của cha; thực ra, có một cái gì đó không bình thường ởđôi giày đó, hoặc với đôi bàn chân mang nó, dù tôi không thể hiểu điều gì khiếntôi cảm nhận như vậy. Tôi nghĩ một người đàn ông xa lạ không nên vào trongkhoang lúc tôi đang ngủ - chuyện này cũng có gì đó thật khó chịu, mong là ôngta đã không nhìn ngắm gì lúc tôi đang ngủ. Tôi bực mình tự hỏi liệu mình có thểđứng lên, mở cửa khoang mà không làm cho ông ta để ý hay không. Đột nhiên tôinhận ra ông ta đã kéo rèm ngăn giữa khoang tàu của chúng tôi và lối đi lại.Không ai đi ngang qua có thể nhìn thấy chúng tôi. Hay là Barley đã kéo rèm lạitrước khi đi để tôi ngủ cho yên?
Tôi liếc nhìn đồng hồ. Đã gần năm giờ. Bên ngoài, phong cảnhbao la lướt qua; chúng tôi đang tiến vào miền Nam. Người đàn ông phía sau tờbáo vẫn tiếp tục bất động, tôi bắt đầu run mặc dù không muốn chút nào. Một látsau, tôi nhận ra điều gì đã khiến tôi hoảng sợ. Dù đã thức giấc rất lâu, vàsuốt thời gian đó tôi đã nhìn và lắng nghe, nhưng ông ta vẫn không lật mộttrang báo nào.
"Căn hộ của Turgut nằm tại một khu vực khác của Istanbul,trên bờ biển Marmara, chúng tôi đáp chuyến phà từ một bến cảng náo nhiệt có tênlà Eminưn đến đó. Helen đứng tựa lan can, dõi nhìn những chú mòng biển đang baylượn theo con tàu, và quay lại nhìn hình bóng đồ sộ của khu thành cổ. Cha đếnđứng cạnh cô, Turgut đưa tay chỉ cho chúng ta thấy những ngọn tháp và mái vòm,giọng ông ta át hẳn tiếng ầm ì của động cơ tàu. Khi bước xuống phà, chúng tanhận ra khu vực ngoại ô nơi ông ta ở hiện đại hơn những gì chúng ta đã nhìnthấy trước đó, nhưng trong trường hợp này hiện đại chỉ có ý nghĩa là thế kỷ thứmười chín. Khi đi dọc theo những con đường càng lúc càng yên tĩnh hơn, xa dầnđịa điểm con phà đổ khách, cha nhìn thấy một Istanbul thứ hai, mới lạ trong mắtcha: những hàng cây trang nghiêm rủ bóng, những ngôi nhà xây dựng bằng đá và gỗxinh xắn, những chung cư dường như được bốc ra từ một khu ngoại ô Paris, nhữngvỉa hè gọn gàng, những chậu hoa, những gờ tường chạm trổ. Đây đó, dấu vết củađế quốc Hồi giáo xa xưa đột ngột hiện ra dưới hình dạng một khung cửa vòm đổnát hoặc một thánh đường Hồi giáo nằm tách biệt lẻ loi, một căn nhà kiểu Thổvới tầng hai nhô ra ở trên. Nhưng trên con đường nơi nhà Turgut tọa lạc, phươngTây đã tràn qua để lại những dấu ấn lịch thiệp và hoàn hảo. Sau này cha đã thấynhững bản sao khác của nó tại những thành phố khác - Praha và Sofia, Budapestvà Matxcơva, Belgrade và Beirut. Nét thanh lịch này được vay mượn khắp nơitrong thế giới phương Đông.
" ‘Xin mời vào.’ Turgut dừng lại phía trước một dãy nhà cổ,dẫn chúng ta lên một cầu thang đôi phía trước, và kiểm tra một hòm thư nhỏ cóghi tên GIÁO SƯ BORA - có vẻ không có gì. Ông ta mở cửa và bước tránh qua mộtbên. ‘Xin mời, chào mừng các bạn đã đến nơi trú ngụ của tôi, ở đây mọi thứ đềulà của bạn. Tiếc là vợ tôi không có nhà - bà ấy đang dạy ở nhà trẻ.’
"Trước tiên chúng ta bước vào căn phòng sảnh có sàn và tườnggỗ bóng láng, ở đó chúng ta bắt chước Turgut, cởi giày ra rồi xỏ chân vào nhữngđôi dép thêu ông ta trao cho. Sau đó ông đưa chúng ta vào phòng khách, Helenkhẽ thốt lên trầm trồ, cha cũng không thể nào không lặp lại tiếng trầm trồ đó.Gian phòng tràn ngập một thứ ánh sáng xanh nhạt dễ chịu, hòa lẫn với chút ánhhồng và vàng dịu. Một lát sau, cha nhận ra đó là ánh sáng mặt trời chiếu xuyênqua một lùm cây bên ngoài hai khung cửa sổ lớn. Căn phòng xếp đầy những thứ đồgỗ khác thường, rất thấp, bằng thứ gỗ màu sậm có chạm khắc, có đệm lót và bọcbằng nhiều loại vải sặc sỡ. Chạy quanh theo ba bức tường là một băng ghế dàivới những chiếc gối phủ ren. Phía trên băng ghế, những bức tường được sơn trắngvà trang trí bằng những bức tranh in, tranh phong cảnh Istanbul, bức chân dungcủa một ông lão đội mũ đuôi seo và một bức khác hình một người đàn ông trẻ hơnmặc com lê đen, một tờ giấy da được đóng khung, đầy những nét chữ Ả- rập tinhtế. Có những bức ảnh sepia chụp cảnh thành phố, màu nâu đỏ đã phai và các tủ nhỏxếp đầy những bộ đồ cà phê bằng đồng. Trong các góc phòng là những chiếc bìnhgốm tráng men nhiều màu, đầy ắp hoa hồng. Dưới chân bình là những tấm thảm dàymàu đỏ thẫm, hồng và xanh nhạt. Ở ngay giữa phòng là một khay tròn lớn có chânđứng bóng láng và trống không, tựa như đang chờ đợi bữa ăn kế tiếp.
" ‘Căn nhà đẹp quá,’ Helen trầm trồ, quay sang vị chủ nhà,cha còn nhớ cô trông dễ thương như thế nào khi sự chân thành làm dịu đi nhữngnếp nhăn khắc nghiệt quanh miệng và mắt. ‘Chẳng khác gì cảnh trong Nghìn lẻ mộtđêm.’
"Turgut bật cười, khiêm tốn xua tay ra vẻ không dám nhận lờikhen tặng, nhưng rõ ràng ông ta rất hài lòng. ‘Là do vợ tôi đấy,’ ông ta nói.‘Bà ấy rất yêu thích đồ thủ công mỹ nghệ cổ của đất nước chúng tôi, gia đìnhbên ngoại cũng để lại cho vợ tôi nhiều món rất đẹp. Có khi còn có món gì đó từthời đế chế của Quốc vương Mehmed cũng nên.’ Ông ta cười với cha. ‘Tôi pha càphê không ngon như bà nhà tôi - bà ấy vẫn hay bảo tôi thế - nhưng tôi sẽ cố hếtsức.’ Ông ta mời chúng ta ngồi xuống bộ ghế gỗ thấp, sát bên nhau, cha cảm thấythích thú khi nghĩ về tất cả những vật dụng truyền thống cho thấy sự sung túckia: đệm, trường kỷ và - nhất là - ottoman, loại ghế dài có đệm.
"Nỗ lực lớn nhất của Turgut hóa ra lại là bữa trưa. Ông tatừ chối mọi đề nghị giúp đỡ tha thiết của cha và Helen, một mực tự nấu rồi tựmang vào từ gian bếp nhỏ ở bên kia phòng đợi. Cha không thể hình dung bằng cáchnào ông làm xong được bữa ăn trong một thời gian ngắn như vậy - chắc có lẽ thứcăn đã được chuẩn bị sẵn trong nhà bếp. Ông mang ra mấy khay gồm nước xốt và xalát, một tô dưa, một món thịt hầm rau cải, những xiên thịt gà nướng, món dưaleo nghiền cùng sữa chua quen thuộc, cà phê, và rất nhiều kẹo hạnh nhân tẩmmật. Chúng ta đã ăn uống rất ngon miệng, Turgut cứ thúc ép ăn cho đến lúc chúngta phải rên lên. ‘Ôi,’ ông ta nói, ‘tôi không thể để bà nhà tôi nghĩ là tôi đãbỏ đói các bạn.’ Sau bữa ăn là một ly nước đặt gần bên một cái đĩa đựng chất gìđó màu trắng và tỏa mùi thơm ngát. ‘Tinh chất hoa hồng,’ Helen cho biết, saukhi nếm thử. ‘Rất tuyệt. Ở Rumani người ta cũng dùng thứ này.’ Cô cho một ítchất trắng vào ly rồi nhâm nhi ly nước, cha cũng làm theo. Cha không chắc sauđó thứ nước này có ảnh hưởng gì đến việc tiêu hóa của mình hay không, nhưng giờkhông phải lúc cho những lo lắng như vậy.
"Khi đã no gần như muốn vỡ bụng, chúng ta ngả người dựa lưngvào những chiếc trường kỷ thấp - bây giờ cha mới hiểu công dụng của chúng: nơinghỉ ngơi sau một bữa ăn thịnh soạn - Turgut đưa mắt nhìn chúng ta với vẻ hàilòng. ‘Các bạn chắc chắn mình no rồi chứ?’ Helen bật cười còn cha thì khẽ rềnrĩ, nhưng Turgut vẫn rót đầy ly nước và cốc cà phê cho chúng ta. ‘Rất tốt. Giờhãy bàn tiếp về những vấn đề mà chúng ta chưa kịp thảo luận. Trước hết, tôikinh ngạc khi nghĩ đến chuyện các bạn cũng quen biết giáo sư Rossi, nhưng tôivẫn chưa hiểu rõ mối quan hệ của các bạn. Ông là giáo sư hướng dẫn của anh,đúng không anh bạn trẻ?’ Ông ta ngồi xuống ghế đệm dài, nghiêng người về phíachúng ta, đầy vẻ mong đợi câu trả lời.
"Cha liếc nhìn Helen, cô khẽ gật đầu. Cha băn khoăn tự hỏiphải chăng cái tinh chất hoa hồng kia đã làm cô bớt đi tính đa nghi. ‘Chà! Giáosư Bora ạ, cho đến thời điểm này e rằng chúng tôi chưa hoàn toàn cởi mở vớiông,’ cha thú nhận, ‘nhưng, ông thấy đó, chúng tôi đang thực hiện một nhiệm vụkỳ dị, và không biết phải tin vào ai.’
" ‘Tôi hiểu.’ Ông ta mỉm cười. "Có lẽ các bạn khôn ngoan hơncác bạn nghĩ đấy.’
"Câu nói trên đã làm cha khựng lại, nhưng Helen lại gật đầu,và cha lại tiếp tục. ‘Giáo sư Rossi là một mối quan tâm đặc biệt của chúng tôi,không chỉ vì ông là giáo sư hướng dẫn của tôi, mà còn vì một số thông tin ôngđã cung cấp cho chúng tôi - cho tôi - và vì ông ta - vâng, ông ta đã mất tích."
"Ánh mắt Turgut chợt đanh lại. ‘Mất tích là sao, anh bạn?’
" ‘Đúng là vậy.’ Cha ngập ngừng tiết lộ với ông ta mối quanhệ giữa cha và thầy Rossi, công việc của cha với ông về luận văn tốt nghiệp, vàcuốn sách kỳ lạ mà cha tìm thấy trong ngăn làm việc riêng tại thư viện. Khi chabắt đầu mô tả cuốn sách, Turgut như bật người lên, đập hai tay vào nhau nhưngkhông nói gì, chỉ chăm chú lắng nghe. Cha tiếp tục kể việc đã mang cuốn sáchđến cho thầy Rossi xem, và câu chuyện mà ông đã kể với cha về việc chính ôngcũng tìm thấy một cuốn sách như vậy. Cha ngưng lại lấy hơi và thầm nghĩ, như vậylà ba cuốn sách. Bây giờ chúng ta biết rõ có ba cuốn sách kỳ lạ như thế này - một con số bí ẩn. Chúng chắc chắn có liên quan đến nhau, nhưng chính xác thìliên quan như thế nào? Cha thuật lại những gì thầy Rossi đã kể cha nghe về việcnghiên cứu của ông tại Istanbul - đến đây Turgut lắc đầu tựa như không hiểu - và việc thầy Rossi đã tìm thấy trong trung tâm lưu trữ bức hình con rồng khớpvới các nét vẽ trên những tấm bản đồ cổ.
"Cha kể lại cho Turgut nghe thầy Rossi đã biến mất như thếnào, về cái bóng kỳ lạ mà cha thấy thoáng lướt qua phía trên cửa sổ phòng làmviệc của thầy trong buổi tối ông ấy mất tích, và thoạt tiên cha đã một mìnhkhởi sự cuộc tìm kiếm ra sao trong khi chỉ mới nửa tin nửa ngờ câu chuyện thầyấy kể. Đến đây cha dừng lại, lần này để xem Helen sẽ nói gì, vì cha không muốntiết lộ chuyện riêng tư của cô mà không được cô cho phép. Cô ngồi thụt sâu vềphía sau trường kỷ, khẽ cựa người và bình thản nhìn cha, rồi trước sự ngạcnhiên của cha, đích thân cô kể lại với Turgut câu chuyện của mình và tất cả mọiđiều từng kể với cha, bằng giọng trầm, đôi lúc khàn khàn - câu chuyện cô đã rađời như thế nào, mối thù hận cá nhân đối với thầy Rossi, cô đã miệt mài lao vàonghiên cứu câu chuyện Dracula ra sao, và cuối cùng là ý định tìm hiểu về truyềnthuyết về hắn ngay tại thành phố này. Chân mày của Turgut như dựng lên tận rìamái tóc bôi sáp trơn bóng. Những lời nói, cách phát âm rõ ràng và sâu lắng, tríóc tuyệt vời, và có lẽ cả đôi gò má ửng hồng phía trên cổ áo xanh nhạt của cô,tất cả đã mang vẻ thán phục đến trên mặt Turgut - hoặc chỉ là cha thấy như vậy,và lần đầu tiên từ khi gặp Turgut cha cảm thấy sự thù địch với ông ta nhói lêntrong mình.
"Khi Helen kết thúc câu chuyện, trong một khoảnh khắc, tấtcả chúng ta đều ngồi lặng im. Ánh nắng màu xanh lá chiếu vào gian phòng xinhđẹp này dường như trầm lắng hơn quanh chúng ta và một cảm giác hão huyền xa xôilen lén chiếm ngự tâm tư cha. Cuối cùng Turgut phá vỡ sự im lặng. ‘Cám ơn cácbạn đã kể những trải nghiệm rất khác thường của mình. Cô Rossi ạ, tôi rất tiếckhi nghe chuyện đau lòng của gia đình cô. Tôi vẫn mong muốn biết được vì saogiáo sư Rossi buộc lòng phải viết cho tôi là ông không biết gì về trung tâm lưutrữ của chúng tôi ở nơi này, đó có vẻ là một lời nói dối, đúng chứ? Nhưng việcbiến mất của một học giả tài ba như vậy quả thực là kinh khủng. Giáo sư Rossiđã bị trừng phạt vì một chuyện gì đó - hoặc ông ta đang bị trừng phạt ngay lúcnày, lúc chúng ta đang ngồi ở đây.’
"Tựa như bị một ngọn gió lạnh xua đi, cảm giác lừ đừ vụt tanbiến khỏi đầu óc cha. ‘Nhưng điều gì khiến ông quả quyết như vậy? Và chúng taphải xoay xở thế nào để tìm ra ông ấy, nếu điều này là sự thật?’
" ‘Tôi cũng là một người duy lý như anh,’ Turgut bình thảntrả lời, ‘nhưng theo bản năng, tôi tin những gì giáo sư Rossi đã kể với anh tốihôm đó. Và chúng ta tìm được bằng chứng cho những điều ông ấy nói qua những gìviên thủ thư già đã kể lại với tôi - có một nhà nghiên cứu nước ngoài đã kinhhãi bỏ chạy khỏi nơi đó - cũng như việc tôi tìm thấy tên giáo sư Rossi trong sổđăng ký. Đó là chưa kể đến sự xuất hiện của một gã ác ôn khóe miệng còn vươngmáu…’ ông ta dừng lại. ‘Và giờ lại còn việc rối bời đáng sợ này nữa, tên củaông ta - tựa đề bài viết của ông ta - bằng cách nào đó đã được bổ sung vào bảnthư mục trong trung tâm lưu trữ. Chính sự bổ sung này làm cho tôi bối rối vàngạc nhiên! Các đồng nghiệp thân mến, các bạn đã đúng khi tìm đến Istanbul. Nếugiáo sư Rossi có mặt ở đây, thì chúng ta sẽ tìm ra ông ta. Từ lâu chính tôicũng tự hỏi liệu có thể ngôi mộ Dracula tọa lạc ở Istanbul này hay không. Theotôi, có vẻ như nếu có một ai đó mới bổ sung tên ông Rossi vào bản danh mục kiathì rất có cơ may là ông Rossi đang ở đây. Vì các bạn đã tin tưởng là sẽ tìmthấy ông Rossi tại nơi Dracula được chôn cất. Tôi cũng sẽ hết lòng giúp đỡ cácbạn trong việc tìm kiếm này. Tôi cảm thấy… có trách nhiệm với các bạn trongviệc này.’
" ‘Bây giờ tôi có một câu hỏi dành cho ông.’ Helen nhíu mắtnhìn Turgut và cha. ‘Giáo sư Bora, sao ông lại đến nhà hàng chúng tôi ngồi ăntối hôm qua? Theo tôi, có vẻ như việc ông xuất hiện ngay khi chúng tôi vừa đếnIstanbul để tìm kiếm cái trung tâm lưu trữ mà ông rất quan tâm trong những nămvừa qua, không phải là một sự trùng hợp hoàn toàn ngẫu nhiên.’
"Turgut đứng dậy, lấy trong bàn bên cạnh một hộp nhỏ bằng đồngrồi mở ra, mời chúng ta hút thuốc, cha từ chối nhưng Helen nhận một điếu và đểTurgut châm lửa cho. Ông cũng châm cho mình một điếu rồi ngồi xuống, cả hai đưamắt nhìn nhau, trong một khoảnh khắc cha có cảm giác mình là người ngoài cuộc.Rõ ràng, loại thuốc lá này có hương vị nhẹ và rất thơm; cha tự hỏi liệu đây cóphải là đặc sản xa xỉ nổi tiếng của Thổ Nhĩ Kỳ tại Mỹ hay không, Turgut nhẹnhàng nhả khói, Helen bỏ đôi dép thêu ra rồi duỗi thẳng hai chân, tựa như đãquen với kiểu nằm ườn người trên những tấm đệm Đông phương. Đây là một khíacạnh mà cha chưa từng nhìn thấy ở cô, sự duyên dáng thoải mái bộc lộ khi nghecâu thần chú của lòng hiếu khách.
"Cuối cùng Turgut lên tiếng. ‘Sao tôi lại gặp được các bạntrong nhà hàng ư? Tôi đã tự nêu câu hỏi này với bản thân mình nhiều lần, nhưngbản thân tôi cũng không tìm được câu trả lời thích đáng. Nhưng với tất cả lòngtrung thực của mình, tôi có thể nói với các bạn rằng khi ngồi xuống gần bàn cácbạn tôi chưa biết các bạn là ai hoặc các bạn đang làm gì ở Istanbul. Thực ra,tôi thường đến đó bởi vì đó là nơi chốn ưa thích của tôi trong khu phố cổ,thỉnh thoảng tôi vẫn tản bộ đến đó vào những lúc rảnh rỗi giữa các giờ dạy.Ngày hôm đó, tôi đã đến mà hầu như chẳng chủ định, và khi thấy không có aingoài hai người ngoại quốc, tôi cảm thấy cô đơn, không muốn ngồi một mình tronggóc. Vợ tôi thường nói tôi vốn là một người khó kết bạn.’
"Ông ta mỉm cười, gạt tàn thuốc vào một chiếc đĩa đồng, rồiđẩy nó về phía Helen. ‘Nhưng đó cũng đâu phải là một thói quen tệ hại, đúngkhông? Dù sao chăng nữa, tôi đã ngạc nhiên và xúc động khi nhận ra các bạn quantâm đến trung tâm lưu trữ của chúng tôi, và bây giờ khi đã biết câu chuyệncòn- hơn- cả- khác- thường của các bạn, tôi cảm thấy bằng cách nào đó mình sẽ làngười trợ giúp cho các bạn tại Istanbul này. Xét cho cùng, tại sao các bạn lạiđến ngồi ăn tại nhà hàng ưa thích của tôi? Tại sao tôi đã vào đó ăn tối với mộtquyển sách? Thưa cô, tôi thấy cô tỏ vẻ nghi ngờ, nhưng tôi sẽ không có câu trảlời dành cho cô, ngoại trừ phải nói rằng sự ngẫu nhiên này cho tôi niềm hyvọng. "Trong trời đất này còn có nhiều điều chúng ta không thể giải thích…" ’Ông ta đăm chiêu nhìn Helen và cha, mặt ông đầy vẻ chân thành, cởi mở, và khábuồn rầu.
"Helen nhả một bụm khói thuốc Thổ Nhĩ Kỳ vào ánh nắng mờ mờ.‘Vậy thì, kể như ổn,’ cô nói. ‘Chúng ta nên hy vọng. Còn giờ thì chúng ta sẽlàm gì với niềm hy vọng này? Chúng ta đã xem các tấm bản đồ gốc, và cũng đã xembản thư mục của Giáo đoàn Rồng, mà Paul rất khao khát muốn xem. Nhưng tất cảnhững chuyện đó đưa chúng ta đến đâu?’
" ‘Xin các bạn hãy theo tôi,’ Turgut đột ngột nói. Ông tađứng bật dậy, và cái không khí uể oải của buổi chiều cũng lập tức biến mất.Helen dụi tắt điếu thuốc, đứng dậy theo, ống tay áo của cô cọ vào tay cha. Chacũng đứng dậy. ‘Mời các bạn đến phòng làm việc của tôi một lát.’ Turgut mở mộtcánh cửa khuất sau những lớp rèm len và lụa cổ, rồi lịch sự đứng nép qua mộtbên."
Tôi ngồi yên, rất yên, trên ghế tàu, nhìn chằm chằm vào tờbáo của người đàn ông ngồi đối diện. Tôi cảm thấy mình nên cử động một chút,một cách tự nhiên, nếu không tôi có thể làm hắn để ý, nhưng hắn hoàn toàn bấtđộng, đến mức tôi có cảm tưởng không nghe được tiếng thở của hắn, và tôi nhậnra chính mình cũng thấy khó thở. Sau một lúc, nỗi sợ hãi tồi tệ nhất của tôitrở thành hiện thực: hắn lên tiếng mà không bỏ tờ báo xuống. Giọng của hắngiống hệt như đôi giày và chiếc quần may đo rất khéo của hắn, hắn nói tiếng Anhbằng một âm điệu mà tôi hầu như không xác định được, mặc dù nghe như có chút âmhưởng giọng Pháp - hoặc có thể, tôi đang bị ảnh hưởng bởi những tiêu đề chữPháp đang nhảy múa và đan xen vào nhau trên tờ Le Monde dưới ánh mắt kinh hoàngcủa tôi. Những chuyện kinh khủng đang xảy ra tại Campuchia, Algeria, những nơimà tôi chưa bao giờ nghe nói đến, mà đấy là trình độ tiếng Pháp của tôi cònđược cải thiện rất nhiều trong vòng một năm qua. Nhưng gã đàn ông đó đang nóitừ phía sau tờ báo, không hề nhúc nhích tờ báo một li. Khi nghe hắn nói tôi nổida gà vì không tin điều mình nghe được. Giọng hắn hòa nhã, có học thức. Gã chỉhỏi độc nhất một câu: "Cha cháu đâu rồi, cháu gái?"
Tôi bật ra khỏi ghế và lao nhanh về phía cửa; tôi nghe tiếngtờ báo rơi xuống phía sau mình, nhưng giờ đây tôi chỉ tập trung chú ý vào cáichốt cửa. Nó không cài. Tôi kéo bật cánh cửa trong một khoảnh khắc sợ hãi cùngcực, rồi vọt thẳng ra ngoài, cắm đầu lao theo hướng Barley đã đi về phía toaăn. May mắn trong các khoang trên toa đều lác đác có người; rèm ngăn khoang họkhông đóng, sách báo và giỏ đựng thức ăn nằm yên bên cạnh họ, mặt họ hiếu kỳhướng theo khi tôi chạy vụt qua. Thậm chí tôi không thể dừng lại để nghe xem cótiếng bước chân đuổi theo phía sau hay không. Tôi chợt nhớ mình vẫn còn để vali đồ đạc trong ngăn tàu, trên giá để đồ ở phía trên. Liệu hắn có lấy chúngxuống? Hoặc lục lọi trong đó? Tôi vẫn cầm túi xách tay; khi thiếp ngủ tôi vẫnmắc nó vào cổ tay, như tôi thường làm khi ra ngoài.
Barley ngồi ở gần cuối toa ăn, cuốn sách của anh để mở trênmặt chiếc bàn rộng. Anh đã kêu trà và vài món khác, vì vậy phải một lúc anh mớirời mắt khỏi cái vương quốc nhỏ bé của mình, ngước nhìn lên và nhận ra sự hiệndiện của tôi. Chắc hẳn trông tôi phải hốt hoảng lắm thì anh mới kéo ngay tôivào trong toa như thế. "Chuyện gì vậy?"
Tôi úp mặt vào cổ anh, cố ngăn không bật ra tiếng nức nở."Em thức dậy và có một người đàn ông trong khoang của mình, hắn đọc báo, và emkhông thấy được mặt hắn."
Barley vuốt tóc tôi. "Một người đàn ông với một tờ báo? Emsợ cái gì dữ vậy?"
"Hắn giấu không cho em nhìn thấy mặt," tôi thì thầm, quaynhìn về phía lối vào toa ăn. Không có ai ở đó, không có bóng dáng người nào mặcy phục đen đi vào để tìm kiếm hoặc truy đuổi. "Nhưng hắn nói với em từ phía sautờ báo."
"Thì sao?" Có vẻ như Barley nhận ra anh ta thích mái tócxoăn của tôi.
"Hắn hỏi em cha em đang ở đâu?"
"Cái gì?" Barley ngồi thẳng dậy. "Em chắc chứ?"
"Vâng, bằng tiếng Anh." Tôi cũng ngồi dậy. "Em đã bỏ chạy,em không nghĩ hắn đuổi theo, nhưng hắn đang ở trên tàu. Em phải để hành lýchúng ta ở lại đó."
Barley cắn môi; tôi tưởng chừng như máu sắp bật ra và chảyxuống làn da mặt trắng trẻo của anh. Sau đó anh ra dấu gọi người phục vụ, traođổi với anh chàng này một lúc, và móc trong túi ra một món tiền boa hậu hĩnh đểbên cạnh tách trà. "Trạm dừng sắp đến của chúng ta là Boulois," anh nói."Khoảng mười sáu phút nữa."
"Còn hành lý của chúng ta thì sao?"
"Em còn có cái xắc tay, anh cũng còn ví." Barley chợt dừnglại và nhìn tôi chăm chăm. "Những lá thư…"
"Trong xắc tay," tôi trả lời ngay.
"Tạ ơn Chúa. Có lẽ chúng ta phải bỏ hành lý lại, nhưng khôngsao đâu." Barley nắm lấy tay tôi đi về cuối toa và, trước sự ngạc nhiên củatôi, vào nhà bếp. Người phục vụ cũng vội vàng bám theo phía sau, chỉ cho chúngtôi một hốc nhỏ gần các tủ lạnh. Barley trỏ tay vào một cánh cửa kế bên nó.Chúng tôi đứng ở đó suốt mười sáu phút, tôi giữ chặt chiếc xắc tay. Trong cáihốc nhỏ bé này, dường như có vẻ tự nhiên hơn nếu chúng tôi đứng ôm chặt lấynhau, như hai tình nhân đang chạy trốn. Bất chợt tôi nhớ đến món quà của cha vàđưa tay lên sờ vào nó: chiếc thánh giá vẫn lủng lẳng trên cổ, và tôi biết nó lồlộ ra trước mắt người khác. Hắn chưa bao giờ hạ tờ báo xuống là chuyện chẳng cógì đáng thắc mắc.
Sau cùng tàu bắt đầu chạy chậm lại, tiếng thắng rít lên vàcon tàu giật mạnh rồi dừng lại. Anh chàng phục vụ đẩy một cái cần và cánh cửagần chúng tôi mở ra. Anh ta nhăn nhở nở một nụ cười tỏ vẻ đồng tình với Barley;chắc hẳn anh ta nghĩ đây là một vở hài kịch của trái tim, người cha đang nổicơn lôi đình của tôi đang săn lùng chúng tôi khắp con tàu, hoặc gì đó đại loạinhư vậy. "Bước xuống, nhưng cứ nép sát bên thân tàu," Barley trầm giọng căndặn, chúng tôi cùng nhích dần trên vỉa hè đường ray. Đầu kia là một nhà garộng, trát vữa xtucô, dưới những tán cây óng ánh màu bạc, không khí ấm áp vàngọt ngào. "Em có thấy hắn không?"
Tôi chăm chú nhìn qua phía dưới con tàu, cho đến khi cuốicùng nhìn thấy một người ở xa dọc theo đường ray, giữa đám khách vừa xuống tàu- một dáng người cao, vai rộng, mặc quần áo đen, nhưng về tổng thể ở hắn có cáigì đó không bình thường, một phẩm chất đen tối khiến dạ dày tôi nôn nao. Lúcnày hắn đội một cái mũ màu đen, che sụp xuống làm tôi không thể nhìn rõ mặthắn. Hắn cầm một cặp xách màu sậm và một cuộn gì đó màu trắng, có lẽ là tờ báo."Hắn kìa." Tôi cố không đưa tay ra chỉ, Barley vội kéo tôi nấp sau các bậc cấp.
"Đừng để hắn thấy. Anh sẽ quan sát xem hắn đi đâu. Hắn đangnhìn dáo dác." Barley chăm chú nhìn ra ngoài trong khi tôi rúm người lại phíasau, tim đập thình thịch. Anh giữ chặt cánh tay tôi. "Được rồi - hắn đang đi vềhướng khác. Không, hắn đang quay lại. Đang nhìn vào các cửa sổ toa tàu. Anhnghĩ hắn sẽ lại lên tàu. Lạy Chúa, đúng là một thằng cha máu lạnh - hắn đangnhìn đồng hồ. Hắn đang bước lên tàu. Giờ hắn lại bước xuống và đi về hướng này.Sẵn sàng đi - chúng ta sẽ lên tàu trở lại và chạy suốt cả đoàn tàu nếu cần. Emsẵn sàng chưa?"
Ngay lúc đó, những cánh quạt quay tít, con tàu hú một hồicòi và Barley buột miệng chửi thề. "Khốn kiếp, hắn lại lên tàu. Anh nghĩ hắnvừa nhận ra chúng ta thực sự chưa xuống tàu." Barley đột ngột kéo mạnh tôi, nhảykhỏi các bậc cấp xuống sân ga. Sát bên cạnh chúng tôi, tàu lại hú còi và bắtđầu chuyển bánh. Nhiều hành khách hạ cửa sổ xuống để nhô ra ngoài hút thuốchoặc nhìn ngắm quang cảnh xung quanh. Giữa những ô cửa sổ đó, cách xa chúng tôivài toa tàu, tôi thấy một cái đầu màu đen nhô ra, quay về hướng chúng tôi, đólà một người đàn ông vai rộng bè bè và đang điên cuồng giận dữ, tôi nghĩ vậy.Rồi con tàu tăng tốc, chạy quành theo một khúc cua. Tôi quay qua Barley, chúngtôi đăm đăm nhìn nhau. Ngoại trừ một vài dân làng đang ngồi trong cái ga xépmiền quê đó, chúng tôi trơ trọi giữa một chốn vô danh trên đất Pháp.
Truy Tìm Dracula Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova Truy Tìm Dracula