Xứ Cát epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 28
Ở tuổi mười lăm, Người đã học được sự im lặng.
- trích "Chuyện thuở thiếu thời của Muad'Dib" của Công chúa Irulan
Trong khi đánh vật với các bộ phận điều khiển của chiếc tàu chim, Paul dần dần nhận thức được mình đang phân loại những lực đan bện vào nhau của cơn bão, trí tuệ còn hơn cả Mentat của cậu tính toán dựa trên những chi tiết cực nhỏ. Cậu cảm nhận được những vùng hoạt động của bụi, những đám bụi cuồn cuộn, sự trộn lẫn những luồng khí xoáy, một con lốc xoáy ngẫu nhiên.
Buồng lái con tàu là một căn buồng giận dữ được chiếu rọi bởi ánh sáng xanh lục của bảng điều khiển. Dòng chảy màu nâu vàng của bụi cát bên ngoài có vẻ như chỗ nào cũng giống chỗ nào, song giác quan nội tại của cậu bắt đầu nhìn xuyên qua bức màn bụi đó.
Ta phải tìm ra đúng con lốc xoáy, cậu nghĩ.
Từ nãy đến giờ cũng khá lâu rồi, cậu đã cảm thấy sức mạnh của cơn bão đang giảm dần, nhưng nó vẫn làm họ rung chuyển. Cậu chờ một luồng khí xoáy khác.
Cơn lốc xoáy bắt đầu như một đám cuồn cuộn đột khởi khiến toàn bộ con tàu rung lên cành cạch. Paul cưỡng lại mọi nỗi sợ để nghiêng tàu về bên trái.
Jessica nhìn thấy động tác điêu luyện đó trên quả cầu chỉ độ cao.
"Paul!" nàng thét lên.
Cơn lốc xoáy khiến họ quay mòng mòng, tròng trành, chao đảo. Nó nhấc bổng con tàu lên như một mẩu vỏ bào trên mạch nước phun, bắn con tàu phọt ra ngoài - một hạt bụi có cánh lọt thỏm trong lòng đám bụi xoáy tròn được ánh trăng thứ hai soi sáng.
Paul nhìn xuống, trông thấy cột gió nóng hiện rõ hình thù nhờ bụi vừa mới nuốt chửng họ, trông thấy cơn bão đang tàn kéo về phía xa như một con sông cạn kéo vào sa mạc - cái chuyển động màu xám dưới ánh trăng càng lúc càng nhỏ dần trong khi họ cưỡi trên dòng khí đi lên.
"Mình thoát khỏi nó rồi," Jessica thì thầm.
Paul vừa xoay tàu tránh bụi bằng động tác chúi xuống nhịp nhàng vừa quan sát bầu trời đêm.
"Chúng ta thoát khỏi chúng rồi," cậu nói.
Jessica cảm thấy tim đập thình thịch. Nàng buộc mình phải bình tĩnh, nhìn về phía cơn bão đang yếu dần. Cảm giác về thời gian của nàng cho biết họ đã bay trong khối hỗn hợp các lực cơ bản đó suốt gần bốn tiếng đồng hồ, nhưng một phần tâm trí nàng thì ước tính quãng thời gian đó lâu bằng cả đời người. Nàng thấy mình như được sinh ra lần nữa.
Nó giống như lời kinh vậy, nàng nghĩ. Chúng ta đã đối mặt nó và không cưỡng lại. Cơn bão đã đi ngang qua chúng ta và quanh chúng ta. Nó đã qua, còn chúng ta thì ở lại.
"Con không thích âm thanh phát ra từ chuyển động của cánh tàu," Paul nói. "Chỗ đấy có hỏng hóc gì đó rồi."
Cậu cảm thấy cái âm thanh kèn kẹt khó nghe, cảm thấy sự tổn thương của con tàu qua đôi tay cậu đặt trên bàn điều khiển. Họ đã ra khỏi cơn bão, nhưng vẫn chưa vào trọn vẹn trong phạm vi thị kiến tiên tri của cậu. Thế nhưng họ đã thoát, và Paul cảm thấy chính mình run rẩy khi tiến đến gần một sự khải thị.
Cậu rùng mình.
Cảm giác đó đầy sức hút nhưng cũng thật đáng sợ, và cậu nhận ra mình đang chìm đắm trong câu hỏi điều gì đã gây nên cái nhận thức khiến cậu run rẩy đó. Cậu cảm thấy một phần là do cái thực đơn giàu hương dược ở Arrakis. Nhưng cậu nghĩ một phần của nó có thể là lời kinh Bene Gesserit, như thể những lời đó có sức mạnh riêng.
"Ta sẽ không sợ..."
Nhân và quả: cậu vẫn sống bất chấp những thế lực hiểm ác, và cậu thấy mình đang đứng thăng bằng ở sát mép sự nhận thức về bản thân mà nếu thiếu thần lực của lời kinh kia thì đã không thể nào có được.
Những lời từ Kinh thánh Toàn Nhân loại Màu Cam vang vọng qua ký ức cậu: "Chúng ta thiếu những giác quan gì để đến nỗi không nhìn hay nghe thấy cái thế giới khác bao quanh chúng ta?"
"Quanh đây toàn đá," Jessica nói.
Paul tập trung vào việc hạ cánh con tàu, lắc đầu cho tỉnh táo. Cậu nhìn vào nơi mẹ chỉ, thấy những khối đá đen trũi lô nhô trên mặt cát phía trước về bên phải. Cậu cảm thấy gió quanh hai mắt cá chân, cảm thấy bụi khuấy động trong phòng lái. Có một lỗ thủng ở đâu đó, không chỉ là do cơn bão.
"Tốt nhất là ta nhảy xuống cát," Jessica nói. "Cánh tàu có thể sẽ không hãm hoàn toàn được."
Cậu gật đầu chỉ về phía trước nơi những mỏm đá bị cát bào mòn nhô lên dưới ánh trăng bên trên những đụn cát. "Con sẽ hạ xuống gần các tảng đá kia. Mẹ kiểm tra đai an toàn đi."
Nàng làm theo, thầm nghĩ: Chúng ta có nước, có sa phục. Nếu tìm được thức ăn, chúng ta có thể sống được một thời gian dài trên sa mạc này. Người Fremen sống ở đây. Những gì họ làm được, ta cũng làm được.
"Ngay khi dừng lại thì chúng ta phải lập tức chạy đến những tảng đá kia," Paul nói. "Con sẽ mang ba lô."
"Chạy tới..." Nàng im bặt, gật đầu. "Sâu cát."
"Sâu là bạn của chúng ta," cậu chỉnh nàng. "Chúng sẽ nuốt chiếc tàu này. Sẽ không còn bằng chứng nào cho thấy ta hạ cánh ở đâu."
Tư duy của nó mới chính xác làm sao, nàng nghĩ.
Họ xuống thấp hơn... thấp nữa...
Họ có cảm giác đang lao vùn vụt - bóng những đụn cát mờ đi, những tảng đá trồi lên như những hòn đảo. Con tàu chạm vào đỉnh một đụn cát khiến nó tròng trành đôi chút, trượt qua một thung lũng cát, lại chạm vào một đụn cát nữa.
Nó đang giảm tốc độ bằng cách cho tàu tiếp xúc với cát, Jessica nghĩ, và cho phép mình khâm phục năng lực của con trai.
"Chuẩn bị mẹ nhé!" Paul cảnh báo.
Cậu kéo cần hãm cánh, đầu tiên nhẹ, rồi càng lúc càng mạnh. Cậu cảm thấy hai cánh khum thành hình chén, tỷ lệ chiều dài so với bề ngang của chúng giảm càng lúc càng nhanh. Gió gào rít qua các lông tơ và lông vũ gối lên nhau của những phiến cánh.
Đột ngột, chỉ với một chút lắc lư cỏn con để cảnh báo, chiếc cánh trái, vốn đã bị bão làm yếu đi, quặt hẳn lên trên hất vào phía trong, đâm sầm dọc hông tàu. Tàu trượt ngang qua đỉnh một đụn cát, lật về bên trái. Nó đổ nhào xuống mặt bên kia đụn cát, chúi mũi vào sâu trong đụn cát bên cạnh giữa cơ man nào là cát đổ như thác. Tàu dừng, trụ trên sườn chiếc cánh gãy, còn cánh phải chĩa thẳng lên những vì sao.
Paul vùng ra khỏi bộ đai an toàn, lao lên phía trên ngang qua mẹ, giật mạnh cửa tàu ra. Cát tuôn ào ào vào buồng lái xung quanh họ, mang theo mùi đá lửa cháy khô khốc. Cậu chộp lấy ba lô nơi ghế sau, thấy mẹ đã tháo đai an toàn. Nàng đặt chân lên sườn chiếc ghế bên tay phải, chui ra ngoài leo lên lớp vỏ bằng kim loại của chiếc tàu. Paul theo sau, túm đai chiếc ba lô lôi xềnh xệch.
"Chạy!" cậu ra lệnh.
Cậu chỉ lên mặt đụn cát và hướng về phía xa xa, nơi họ có thể thấy một ngọn tháp đá bị những luồng gió cát dữ dội tiện ngang.
Jessica nhảy ra khỏi tàu rồi chạy, vừa trườn vừa trượt lên đụn cát. Nàng nghe tiếng Paul hổn hển bám theo sau. Họ trèo lên một gờ cát uốn cong chạy về phía các tảng đá.
"Men theo gờ cát," Paul ra lệnh. "Thế sẽ nhanh hơn."
Họ ì ạch đi về phía dãy đá, cát níu chặt chân họ.
Một âm thanh mới bắt đầu in vào nhận thức của họ: một tiếng thì thầm bị chặn lại, một tiếng xì xì, một tiếng trườn nghe kin kít.
"Sâu đấy," Paul nói.
Tiếng động to dần.
"Nhanh lên!" Paul thở hổn hển.
Bãi đá đầu tiên, như một bãi biển đâm xiên từ cát, chỉ còn cách họ không quá mười mét thì họ nghe thấy tiếng kim loại kêu răng rắc và vỡ vụn sau lưng.
Paul chuyển ba lô sang tay phải, nắm chặt mấy cái quai đeo. Nó đập đập vào sườn trong khi cậu chạy. Tay kia cậu nắm lấy tay mẹ. Họ trèo lên tảng đá nhô cao, vượt qua một cái rãnh ngoằn ngoèo do gió tạc nên, leo tới một bề mặt rải rác đá cuội. Hơi thở trở nên khô khốc và hổn hển trong họng họ.
"Mẹ không chạy xa hơn được," Jessica thở hồng hộc.
Paul dừng lại, đẩy mẹ vào một khe đá, rồi quay lại nhìn xuống sa mạc. Một cái gò đi động chạy song song với hòn đảo đá nơi họ đứng - những gợn cát, những làn sóng cát được trăng soi sáng, một cái hang đùn dưới đất vồng lên gần như ngang tầm mắt Paul cách chừng một ki lô mét. Những đụn cát bị san phẳng trên đường đi của nó uốn cong đi - một hình thòng lọng ngắn cắt ngang khoảnh sa mạc nơi họ đã bỏ lại con tàu hỏng.
Nơi con sâu cát vừa đi qua không còn dấu vết nào của con tàu.
Cái ụ trông như một cái hang đùn dưới đất đó di chuyển ra phía ngoài hướng vào sa mạc, lại vòng trở về cắt ngang qua đường đi của chính nó, vừa đi vừa tìm kiếm.
"Nó to hơn tàu không gian của Hiệp hội," Paul thì thầm. "Con nghe nói ở sâu trong sa mạc thì sâu cát to hơn, nhưng con không biết là... lại to đến thế."
"Mẹ cũng vậy," Jessica thở ra.
Một lần nữa, con vật quay mình rời khỏi những tảng đá, giờ thì nó tăng tốc lao về phía chân trời, vẽ thành một đường vòng cung. Họ lắng nghe cho đến khi tiếng di chuyển của nó khuất hẳn trong âm thanh xao động của cát xung quanh họ.
Paul hít một hơi dài, nhìn lên vách đá dựng đứng như đóng băng dưới ánh trăng, và đọc một đoạn trích từ Kitab al-Ibar: "Hãy đi vào ban đêm, còn suốt ban ngày thì nghỉ ngơi trong bóng đen." Cậu nhìn mẹ. "Chúng ta vẫn còn vài giờ ban đêm nữa. Mẹ đi tiếp được không?"
"Đợi chút xíu thôi."
Paul bước ra bãi đá, khoác ba lô lên vai rồi điều chỉnh quai đeo. Cậu đứng một lát, cận la bàn cầm trên tay.
"Bất cứ khi nào mẹ sẵn sàng," cậu nói.
Nàng len ra khỏi khe đá, cảm thấy sức lực đã hồi phục. "Hướng nào?"
"Gờ đá dẫn đi đâu, ta đi đấy." Cậu chỉ tay.
"Vào sâu trong sa mạc," nàng nói.
"Sa mạc của người Fremen," Paul thì thầm.
Và cậu dừng lời, rúng động vì nhớ lại hình ảnh rõ mồn một của một thị kiến tiên tri cậu từng trải qua ở Caladan. Cậu đã nhìn thấy sa mạc này. Nhưng bối cảnh của thị kiến kia thì hơi khác, giống như một hình ảnh thị giác đã biến mất vào trong ý thức cậu, được trí nhớ hấp thu, và giờ đây không thể phục hiện một cách hoàn hảo khi được phóng chiếu lên khung cảnh thực. Cái thị kiến đó dường như đã dịch chuyển và đến gần cậu từ một góc độ khác trong khi cậu thì vẫn đứng bất động.
Trong thị kiến đó thì Idaho có mặt bên chúng ta, cậu nhớ lại. Nhưng Idaho giờ đã chết.
"Con có biết đi theo đường nào không?" Jessica hỏi, hiểu lầm sự ngập ngừng của con.
"Không," cậu nói, "Nhưng dù sao ta sẽ vẫn cứ đi."
Cậu chỉnh lại tư thế hai vai sao cho khoác ba lô chắc chắn hơn, đi lên một cái rãnh do cát đẽo trong khối đá. Cái rãnh dẫn vào một mặt phẳng đá tràn ngập ánh trăng có những cái gờ bị gió mài phẳng nhô xa về phía Nam.
Paul tiến tới cái gờ đầu tiên, trèo lên. Jessica theo sau.
Ngay lập tức nàng nhận ra việc di chuyển đã trở thành vấn đề tức thời và cụ thể - những hốc cát giữa các khối đá làm họ chậm lại, những gờ đá bị gió đẽo lởm chởm cắt vào tay họ, sự cản trở ép họ phải lựa chọn: đi thẳng hay đi vòng? Cái địa hình này ép người ta phải tuân theo những nhịp điệu của chính nó. Họ chỉ nói khi cần thiết và nói bằng giọng khàn khàn do phải ráng sức.
"Cẩn thận - cái gờ này có cát trơn đấy."
"Mẹ để ý đấy, đừng để đập đầu vào cái vòm này."
"Dừng lại dưới cái đỉnh này thôi; mặt trăng ở sau lưng sẽ soi rõ di chuyển của chúng ta nên ai ở ngoài đó cũng nhìn thấy."
Paul đứng lại trong một hốc đá, tì ba lô vào cái gờ hẹp.
Jessica đứng dựa bên cạnh con, cảm ơn khoảnh khắc nghỉ ngơi này. Nghe thấy tiếng Paul kéo chiếc áo choàng sa phục của cậu, nàng nhấm nháp nước tái chế của chính mình. Vị nước hơi mặn, và nàng nhớ lại nước ở Caladan - một vòi phun nước vươn cao ôm trọn một cung trời, một nguồn độ ẩm dồi dào như thế nhưng lại chẳng được để ý... mà chỉ được chú ý đến bởi hình dạng, hoặc sự phản chiếu, hoặc âm thanh của nó khi nàng đứng lại bên cạnh nó.
Dừng lại, nàng nghĩ. Để nghỉ ngơi... thực sự nghỉ ngơi.
Nàng chợt nảy ra ý nghĩ rằng lòng khoan dung là khả năng dừng lại, dù chỉ trong chốc lát. Ở đâu không thể có sự dừng lại, ở đó không có lòng khoan dung.
Paul đẩy người ra xa gờ đá, quay người rồi trèo lên một bề mặt nghiêng. Jessica thở dài đi theo con.
Họ trượt xuống một thềm đá rộng bao quanh một mặt đá dốc đứng. Lại một lần nữa, họ rơi vào nhịp điệu chuyển động rời rạc qua vùng đất gập ghềnh này.
Jessica cảm thấy bóng đêm bị thống trị bởi những cấp độ nhỏ bé của các loại vật chất dưới chân tay họ - những hòn cuội hay sỏi hạt đậu, mảnh đá rơi hoặc cát hạt đậu, cát hoặc đá mạt, bụi thô hay bụi mịn như bột.
Lớp bụi mịn làm tắc bộ lọc ở mũi, phải thổi ra. Cát hạt đậu và sỏi hạt đậu lăn trên bề mặt cứng và có thể khiến những người không cẩn thận bị ngã. Đá rơi khiến người ta bị thương.
Và những vùng cát nhỏ có mặt khắp nơi làm chậm bước chân họ.
Paul đột ngột dừng lại trên một thềm đá, giúp mẹ đứng vững trở lại khi mẹ vấp vào cậu.
Cậu chỉ về phía trái, và khi nhìn theo hướng tay con, nàng nhận ra họ đang đứng tại đỉnh một vách đá, bên dưới khoảng hai trăm mét là sa mạc trải dài như một đại dương tĩnh lặng. Nó nằm đó, trập trùng những con sóng màu bạc như ánh trăng - bóng của các góc cạnh trôi từ từ vào những đường cong, và ở đằng xa, nó nổi lên tới tận một vách đá dựng đứng khác mờ mờ màu xám như sương mù.
"Sa mạc trơ trụi," nàng nói.
"Một vùng rộng lớn phải đi qua," Paul nói, giọng nghẹt lại do bộ lọc chắn ngang mặt.
Jessica liếc sang trái rồi sang phải - chẳng có gì ở phía dưới ngoại trừ cát.
Paul nhìn thẳng về phía trước qua những đụn cát trơ trụi, dõi theo chuyển động của những cái bóng trong đường đi của mặt trăng. "Từ bên này sang tới bên kia cỡ chừng ba, bốn ki lô mét," cậu nói.
"Sâu cát," nàng nói.
"Chắc chắn."
Nàng tập trung vào tình trạng mệt lử, vào các cơ đau nhức làm mờ cảm giác của mình. "Chúng ta nghỉ ngơi ăn uống chứ?"
Paul tháo ba lô ra, ngồi xuống tựa vào nó. Jessica tì một tay lên vai cậu trong khi từ từ ngồi xuống tảng đá bên cạnh Paul. Nàng cảm thấy cậu xoay người lại khi nàng đã yên vị, nghe tiếng cậu quờ quạng trong chiếc ba lô.
"Đây rồi," cậu nói.
Tay cậu cảm nhận được sự khô nẻ của tay mẹ khi cậu ấn hai viên thuốc tăng lực vào lòng bàn tay nàng.
Nàng miễn cưỡng nuốt thuốc cùng với một ngụm nước từ chiếc ống của bộ sa phục.
"Uống hết nước của mẹ đi," Paul nói. "Chân lý là: nơi giữ gìn nước của bạn tốt nhất chính là cơ thể bạn. Nó giúp cho sức lực mẹ tăng lên. Mẹ khỏe lên. Hãy tin vào bộ sa phục của mẹ."
Nàng làm theo, uống cạn nước trong túi hứng của mình, cảm thấy sức lực quay trở lại. Rồi nàng nghĩ, thật yên bình biết bao cái khoảnh khắc mệt nhọc này của họ, và nàng nhớ lại một lần đã nghe chiến binh hát rong Gurney Halleck nói, "Một mẩu thức ăn khô cùng sự tĩnh lặng còn tốt hơn là một gia tộc chồng chất hy sinh và xung đột."
Jessica nhắc lại câu đó cho Paul nghe.
"Gurney là như vậy đấy," cậu nói.
Nàng hiểu được âm điệu trong giọng cậu, cách cậu nói khi một người nào đó chết, và thầm nghĩ: Gurney đáng thương có thể đã chết. Những người thân cận trong Gia tộc Atreides hoặc đã chết hoặc bị bắt, hoặc cũng như họ, đang lạc lối trong cõi trơ trụi không nước này.
"Gurney luôn có câu trích dẫn đúng đắn," Paul nói. "Lúc này con có thể nghe thấy ông ấy nói: 'Và ta sẽ làm những con sông khô cạn, bán vùng đất này vào tay những kẻ xấu xa: và ta sẽ khiến vùng đất đó bị tàn phá, cùng tất cả những gì trong đó, bằng bàn tay kẻ lạ.' "
Jessica nhắm mắt, nhận thấy mình sắp rơi nước mắt vì sự bi ai thống thiết trong giọng con.
Ngay sau đó, Paul nói: "Mẹ... cảm thấy thế nào?"
Nàng nhận ra câu hỏi hướng trực tiếp vào việc nàng mang thai nên nói: "Nhiều tháng nữa em gái con vẫn chưa ra đời. Mẹ vẫn cảm thấy... cơ thể chịu đựng được."
Nàng nghĩ: Ta nói với con trai nghe mới nghi thức và cứng nhắc làm sao! Thế rồi, bởi phương pháp Bene Gesserit là tìm bên trong mình câu trả lời cho một điều kỳ quặc như thế, nàng tìm kiếm và nhận thấy nguồn gốc cách trả lời nghi thức của nàng:Mình sợ con trai; mình sợ sự kỳ lạ của nó; mình sợ điều nó có thể nhìn thấy ở phía trước, điều nó có thể nói với mình.
Paul kéo mũ trùm đầu sụp xuống hai mắt, lắng nghe những âm thanh của đêm giống như tiếng sâu bọ rì rầm. Phổi cậu nạp đầy sự tĩnh lặng của chính cậu. Mũi cậu ngứa ngáy. Cậu gãi mũi, tháo bộ lọc ra và nhận ra càng lúc càng rõ mùi quế nồng nặc.
"Gần đây có nguồn melange hương dược," cậu nói.
Một cơn gió nhẹ mơn man má cậu, làm những nếp áo choàng phồng lên. Nhưng cơn gió này không mang theo mối đe dọa của bão; cậu có thể cảm thấy sự khác biệt đó.
"Sắp bình minh," cậu nói.
Jessica gật đầu.
"Có một con đường an toàn vượt qua vùng cát trơ trụi kia," Paul nói. "Người Fremen đã làm ra con đường đó."
"Thế còn lũ sâu cát?"
"Nếu chúng ta cắm một cây dùi gọi lấy từ bộ Fremkit xuống dãy đá ở đây, nó sẽ giữ chân sâu cát một thời gian," Paul nói.
Nàng nhìn vào khoảng sa mạc phủ ánh trăng trải dài từ nơi họ đứng tới chỗ vách đá đối diện. "Đủ thời gian đi được bốn ki lô mét chứ?"
"Có thể. Và nếu chúng ta băng qua chỗ đó mà chỉ tạo ra những âm thanh tự nhiên, loại âm thanh không thu hút sự chú ý của sâu cát..."
Paul vừa quan sát sa mạc trơ trụi vừa lục tìm trong trí nhớ tiên tri, nghiên cứu những ám chỉ bí ẩn về dùi gọi và móc bắt Ngài tạo trong quyển sách hướng dẫn sử dụng bộ Fremkit đi kèm chiếc ba lô của họ. Cậu thấy thật kỳ quặc khi tất cả những gì cậu cảm thấy là nỗi khiếp sợ lan tỏa mỗi khi nghĩ về sâu cát. Cậu biết, như thể nó nằm ngay tại rìa ý thức cậu, rằng sâu cát đáng được kính trọng chứ không đáng sợ... nếu như... nếu như...
Cậu lắc đầu.
"Phải là âm thanh không có nhịp điệu," Jessica nói.
"Gì ạ? Ồ. Vâng. Nếu chúng ta ngừng bước... thỉnh thoảng chính cát phải chảy xuống. Sâu cát không thể điều tra từng âm thanh nhỏ. Tuy nhiên chúng ta nên nghỉ ngơi đầy đủ trước khi thử làm thế."
Cậu nhìn sang phía bức tường đá đối diện, quan sát bước tiến của thời gian trong những bóng trăng thẳng đứng ở đó. "Một giờ nữa sẽ tới bình minh."
"Ban ngày chúng ta sẽ ở đâu?" nàng hỏi.
Paul quay sang trái, chỉ tay. "Vách núi cong về phía Bắc ở đằng kia. Qua cách nó bị gió đẽo, mẹ có thể nhận ra đó là mặt đón gió. Ở đó sẽ có kẽ nứt, những kẽ nứt sâu."
"Chúng ta bắt đầu ngay bây giờ chẳng tốt hơn sao?" nàng hỏi.
Cậu đứng, rồi giúp nàng đứng lên. "Mẹ nghỉ ngơi đủ chưa? Có trèo xuống được không? Con muốn đến càng gần nền sa mạc càng tốt trước khi chúng ta cắm trại."
"Đủ rồi." Nàng gật đầu ra hiệu cậu dẫn đường.
Cậu ngập ngừng, sau đó nhấc ba lô khoác lên vai rồi quay người đi dọc theo vách đá.
Giá như chúng ta có dây treo, Jessica nghĩ. Được vậy thì nhảy xuống đó sẽ trở nên đơn giản. Nhưng có thể dây treo cũng là thứ nên tránh dùng trong sa mạc trơ trụi. Có thể chúng sẽ thu hút sâu cát giống như cách thu hút của tấm chắn.
Họ đến một dãy thềm đá hạ thấp dần xuống, và bên kia dãy thềm đá họ thấy một khe nứt chạy dọc theo mặt trước, ánh trăng soi rõ đường nét bên ngoài của nó.
Paul dẫn đường xuống, đi cẩn thận nhưng vội vàng, vì rõ là ánh trăng sắp tàn. Họ luồn lách đi xuống, tiến vào thế giới của những bóng tối ngày càng đen đặc hơn. Những hình thù đá không rõ rệt leo tới tận các vì sao xung quanh họ. Khe nứt thu hẹp lại dần còn rộng cỡ mười mét tại đỉnh một dốc cát xám lờ mờ dẫn vào bóng tối hun hút.
"Có xuống dưới được không?" Jessica hỏi.
"Chắc là được."
Cậu đưa một chân thăm dò bề mặt.
"Mình có thể trượt xuống," cậu nói. "Con sẽ trượt trước. Mẹ hãy đợi cho đến khi nghe thấy con dừng lại."
"Cẩn thận," nàng nói.
Cậu bước tới chỗ đỉnh dốc rồi trượt, trôi trên bề mặt êm ái của nó, xuống tới một nền cát nén chặt gần như bằng phẳng. Nơi này nằm sâu bên trong những bức tường đá.
Có âm thanh cát trượt đằng sau cậu. Cậu cố gắng nhìn lên con dốc trong bóng tối hun hút, gần như bị dòng thác cát quật ngã xuống. Âm thanh cát trượt nhỏ dần rồi im lặng.
"Mẹ ơi?" cậu gọi.
Không có tiếng trả lời.
"Mẹ ơi?"
Cậu bỏ ba lô ra, lao lên con dốc, cậu bò, đào bới, ném cát giống như người điên. "Mẹ!" cậu thở hổn hển. "Mẹ ơi, mẹ ở đâu?"
Một dòng thác cát nữa đổ ập xuống, vùi cậu đến tận hông, cậu vặn mạnh người thoát ra khỏi nó.
Mẹ bị mắc kẹt trong cơn lở cát, cậu nghĩ. Bị chôn trong đó. Mình phải bình tĩnh và hành động cẩn thận. Mẹ sẽ không bị ngạt thở ngay. Mẹ sẽ thiết lập trạng thái treo bindu để giảm nhu cầu ô xy. Mẹ biết mình sẽ đào bới tìm kiếm mẹ.
Bằng phương pháp Bene Gesserit mẹ đã dạy, Paul làm dịu nhịp tim đang đập dữ dội, làm cho tâm trí mình giống như một phiến đá trống mà vài khoảnh khắc vừa trôi qua có thể tự ghi lên đó. Từng sự dịch chuyển nhỏ, từng khúc cua trên đường trượt cát tái hiện lại trong trí nhớ cậu, chuyển động với một tầm vóc nội tại lớn lao tương phản với khoảng thời gian thực rất nhỏ của giây mà cậu cần để nhớ lại tất cả.
Ngay sau đó, Paul đi xiên lên con dốc, thăm dò cẩn thận cho tới khi tìm thấy tường của khe nứt, một đường cong ngoài của đá ở đó. Cậu bắt đầu đào, gạt cát ra thật cẩn thận để không khơi nên một cơn lở cát nữa. Một miếng vải hiện ra dưới tay cậu. Cậu lần theo nó, tìm thấy một cánh tay. Nhẹ nhàng, cậu lần theo cánh tay, làm lộ ra khuôn mặt mẹ.
"Mẹ có nghe thấy con nói không?" cậu thì thầm.
Không có tiếng trả lời.
Cậu đào nhanh hơn, giải phóng hai vai mẹ. Nàng mềm rũ dưới tay cậu, nhưng cậu phát hiện một nhịp tim đập yếu ớt.
Treo bindu, cậu thầm nhủ.
Cậu gạt sạch cát ra khỏi thắt lưng mẹ, xốc hai tay mẹ qua vai mình rồi kéo mẹ xuống con dốc, đầu tiên chạy từ từ, sau đó cậu kéo mẹ với tốc độ nhanh hết mức, cảm thấy cát sụt xuống ở phía trên. Cậu kéo mẹ nhanh hơn, nhanh hơn nữa, thở hổn hển trong sự nỗ lực cùng cực, vật lộn để giữ thăng bằng. Sau đó cậu xuống tới nền cứng của khe nứt, xốc mẹ lên vai mà lảo đảo chạy thục mạng trong khi toàn bộ con dốc cát sụp xuống kèm theo tiếng xì xì ầm ĩ, vang vọng và được khuếch đại lên trong các bức tường đá.
Cậu dừng lại ở cuối khe nứt, chỗ này nhìn xuống những đụn cát sa mạc phía dưới xếp hàng hàng lớp lớp như hành quân, cách họ chừng ba mươi mét. Nhẹ nhàng, cậu hạ dần mẹ xuống cát, thốt ra câu nói để đưa nàng ra khỏi trạng thái giữ nguyên thế.
Nàng từ từ tỉnh dậy, hít những hơi thở sâu hơn, sâu hơn nữa.
"Mẹ biết con sẽ tìm ra mẹ," nàng thì thầm.
Cậu quay lại nhìn lên khe nứt. "Nếu con không tìm ra mẹ thì hẳn đã tốt hơn."
"Paul!"
"Con làm mất ba lô rồi," cậu nói. "Nó bị chôn dưới... ít nhất hàng tấn cát."
"Mất mọi thứ rồi sao?"
"Nước dự trữ, lều sa mạc - mọi thứ." Cậu sờ vào túi. "Con vẫn còn cận la bàn." Cậu rờ rẫm chiếc khăn buộc quanh thắt lưng. "Dao và ống nhòm. Chúng ta có thể quan sát tốt xung quanh nơi chúng ta sẽ chết này."
Lúc này, mặt trời đã mọc lên trên chân trời ở đâu đó về phía trái, bên ngoài điểm cuối cùng của khe nứt. Những màu sắc lung linh trong cát bốc lên trên sa mạc trơ trụi. Một đàn chim đồng thanh cất tiếng hót từ chỗ ẩn nấp giữa các khối đá.
Nhưng Jessica chỉ thấy sự tuyệt vọng trên mặt Paul. Nàng mài sắc giọng mình bằng vẻ khinh thường, nói: "Đây có phải cách con đã được dạy không?"
"Mẹ không hiểu à?" cậu hỏi. "Mọi thứ chúng ta cần để sống sót được ở nơi này giờ nằm dưới cát hết rồi."
"Con đã tìm thấy mẹ," nàng nói, lúc này giọng nàng thật êm ái, vừa phải.
Paul ngồi xổm xuống gót chân.
Ngay sau đó, cậu nhìn lên khe nứt tại con dốc mới, quan sát nó, chú ý trạng thái xốp của cát.
"Nếu như cố định được một khoảnh dốc nhỏ và mặt phía trên của một cái hố đào vào trong cát, chúng ta có thể mở đường thông tới cái ba lô. Nước có thể làm cát bất động, nhưng chúng ta không đủ nước để..." Cậu dừng lại rồi nói tiếp: "Sủi bọt."
Jessica im lặng vì sợ làm xáo động chức năng siêu tính toán trong đầu cậu.
Paul nhìn những đụn cát trống trải, tìm kiếm bằng lỗ mũi cũng như bằng mắt, tìm phương hướng, sau đó tập trung chú ý vào một vùng cát tối om bên dưới họ.
"Hương dược," cậu nói. "Nó có tính kiềm cao. Con có cận la bàn. Túi năng lượng của nó chứa a xít-ba zơ."
Jessica ngồi thẳng lên dựa vào khối đá.
Paul không để ý gì đến mẹ, cậu đứng bật dậy, đi xuống bề mặt được gió nén chặt trải dài từ điểm cuối của khe nứt tới nền sa mạc.
Nàng quan sát cách cậu đi, sự ngắt nhịp di chuyển của cậu - bước... dừng... bước-bước... trượt... dừng...
Cậu đi không theo một nhịp điệu nào, không để cho một con sâu cát cướp bóc có thể nghĩ rằng một cái gì đó không thuộc sa mạc đang di chuyển ở đây.
Paul đi tới vùng hương dược, xúc một vốc hương dược cho vào nếp áo choàng rồi quay trở lại khe nứt. Cậu đổ hương dược lên khoảng cát trước mặt Jessica, ngồi xổm xuống bắt đầu dùng mũi dao gỡ vỏ cận la bàn. Mặt la bàn tróc ra. Cậu tháo khăn thắt lưng, trải các bộ phận của la bàn lên khăn, nhấc túi năng lượng ra. Tiếp theo cậu tháo bộ phận chỉ hướng của la bàn ra, để lại một khoang rỗng trong lòng thiết bị, lõm xuống như lòng đĩa.
"Con cần nước," Jessica nói.
Paul lấy túi hứng từ cổ ra, hút một ngụm đầy, trún nước vào khoang lõm đó.
Nếu việc này thất bại thì thật lãng phí nước, Jessica nghĩ. Nhưng nếu đã vậy thì dù sao chuyện ấy cũng đâu còn quan trọng nữa.
Paul dùng dao cắt túi năng lượng, đổ các tinh thể trong túi vào nước. Chúng sủi bọt nhẹ rồi lắng xuống.
Mắt Jessica hút vào chuyển động bên trên họ. Nàng ngước lên, thấy một đàn chim ưng đậu dọc theo mép khe nứt. Chúng đậu trên đó, nhìn chằm chằm vào chỗ nước để ngỏ.
Mẹ Vĩ đại ơi! nàng nghĩ. Thậm chí ở khoảng cách xa đến thế lũ chim cũng có thể cảm thấy nước.
Paul lắp lại vỏ chiếc cận la bàn, nhưng không lắp nút tái khởi động, để chừa một lỗ nhỏ dẫn chất lỏng vào. Một tay cầm chiếc la bàn đã hoạt động trở lại, tay kia đầy một vốc hương dược, Paul trở lại chỗ khe nứt, quan sát vị trí của con dốc. Áo choàng của cậu hơi phồng lên do không có dây buộc thắt lưng. Cậu gắng sức đi qua đoạn đường đầy cát lên tới con dốc, đá bật những lạch cát nhỏ, bụi tung lên mù mịt.
Ngay sau đó, cậu dừng lại, đổ một lượng nhỏ hương dược vào la bàn, lắc hộp thiết bị.
Bọt xanh sùi ra ngoài lỗ trống nơi lẽ ra là nút tái khởi động. Paul vẩy bọt xuống con dốc, tạo ra một con đê thấp ở đó, bắt đầu đá tung lớp cát bên dưới nó, vẩy thêm nhiều bọt nữa để giữ cố định bề mặt cát.
Jessica đi tới vị trí bên dưới cậu, gọi với lên: "Mẹ có thể giúp gì không?"
"Mẹ lên đây đào đi," cậu nói. "Mình phải đào chừng ba mét. Chắc không xa lắm đâu." Khi cậu nói, bọt trong thiết bị ngừng sùi ra.
"Nhanh lên," Paul nói. "Không thể biết lớp bọt này sẽ cố định được cát trong bao lâu."
Jessica bò lên cạnh Paul trong lúc cậu rắc một lượng nhỏ hương dược vào cái lỗ, lắc lắc cận la bàn. Lại một lần nữa, bọt sùi ra ngoài lỗ.
Trong khi Paul tạo hàng rào bọt, Jessica đào bằng tay, hất mạnh cát xuống con dốc. "Đào sâu bao nhiêu?" nàng thở hổn hển.
"Cỡ ba mét," cậu nói. "Con chỉ có thể tính xấp xỉ vị trí đó. Chúng ta có thể phải nới rộng hố này ra." Cậu bước sang một bên, trượt vào lớp cát êm xốp. "Mẹ hãy đào xiên về phía sau. Đừng đào thẳng xuống."
Jessica làm theo.
Chầm chậm, cái lỗ được khoét dần xuống, sâu tới mức ngang với nền của vùng lòng chảo mà vẫn không thấy dấu vết chiếc ba lô.
Có lẽ mình tính sai chăng? Paul tự hỏi. Ngay từ ban đầu mình đã hoang mang sợ hãi và đó là nguyên nhân của sai lầm này. Điều đó làm hỏng khả năng của mình sao?
Cậu nhìn cận la bàn. Còn chưa đầy sáu mươi gam a xít.
Jessica đứng thẳng người lên trong hố, quệt một bàn tay nhuốm bọt qua má. Mắt nàng gặp mắt Paul.
"Bề mặt phía trên," Paul nói. "Nào, nhẹ nhàng thôi." Cậu thêm một nhúm hương dược vào lỗ, vẩy bọt sủi ra vào mặt cát quanh hai tay Jessica trong khi nàng bắt đầu khoét một mặt thẳng đứng vào vách xiên phía trên của hố. Khi quờ tay đến lần thứ hai, nàng chạm phải một vật rắn. Từ từ, nàng lần ra chiều dọc của quai đeo ba lô có khóa bằng nhựa dẻo.
"Đừng di chuyển nó," Paul nói, giọng cậu gần như thì thầm.
"Mình hết bọt rồi."
Jessica giữ quai đeo ba lô trong một tay, ngước nhìn cậu.
Paul ném chiếc cận la bàn rỗng xuống nền lòng chảo rồi nói: "Đưa tay kia của mẹ cho con. Bây giờ mẹ hãy nghe thật kỹ nhé. Con sẽ kéo mẹ sang một bên và trượt về phía đáy dốc. Đừng để quai đeo ba lô tuột ra. Cát từ đỉnh sẽ không tràn xuống nhiều lắm. Con dốc này đã được cố định. Con sẽ tập trung giữ cho đầu mẹ không bị cát phủ. Một khi hố này đầy, chúng ta có thể đào mẹ ra và kéo ba lô lên."
"Mẹ hiểu," nàng nói.
"Mẹ sẵn sàng chưa?"
"Sẵn sàng rồi." Nàng căng các ngón tay nắm chặt quai đeo ba lô.
Chỉ bằng một động tác kéo, Paul đã lôi được nửa người nàng ra khỏi hố, giữ đầu nàng ngẩng cao khi hàng rào bọt vỡ ra và cát tràn xuống. Khi cát lắng xuống, Jessica vẫn bị chôn đến thắt lưng, tay trái và vai vẫn vùi dưới cát, cằm nàng tì trên một nếp áo choàng của Paul. Vai nàng nhức nhối do lực căng đè lên nó.
"Mẹ vẫn cầm quai ba lô," nàng nói.
Paul từ từ dùng tay đào lớp cát bên cạnh nàng, tìm thấy cái quai. "Mình làm cùng nhau nhé," cậu nói. "Kéo bằng lực không đổi. Không được làm đứt quai."
Khi họ kéo ba lô lên, cát tràn xuống nhiều hơn. Khi quai ba lô lên đến bề mặt, Paul dừng lại, giải phóng mẹ thoát khỏi cát. Họ cùng kéo chiếc ba lô xuống dưới con dốc và ra khỏi cái bẫy đó.
Họ đứng trên nền khe nứt trong vài phút, giữ chặt cái ba lô giữa hai người.
Paul nhìn mẹ. Bọt làm bẩn mặt và áo nàng. Cát đóng thành mảng trên người nàng khi bọt khô đi. Trông nàng như một cái bia cho những quả bóng bằng cát ướt màu xanh.
"Trông mẹ nhếch nhác quá," cậu nói.
"Con cũng có đẹp đẽ gì cho cam," nàng nói.
Họ phá lên cười, rồi nghiêm túc trở lại.
"Lẽ ra không được để chuyện đó xảy ra," Paul nói. "Con thật bất cẩn."
Nàng nhún vai, cảm thấy cát đóng cục rơi từ áo xuống.
"Con sẽ dựng lều," cậu nói. "Mẹ nên cởi áo choàng ra giũ cho sạch." Cậu quay đi, túm lấy ba lô.
Jessica gật đầu, đột nhiên nàng cảm thấy quá mệt mỏi không trả lời nổi nữa.
"Trong đá có các lỗ cắm," Paul nói. "Có ai đó đã từng dựng lều ở đây."
Sao lại không chứ? Nàng nghĩ khi phủi bụi chiếc áo choàng. Đây là một nơi thích hợp - nằm sâu trong những bức tường đá, đối diện với một vách đá khác cách đây chừng bốn ki lô mét - đủ cao phía trên sa mạc để tránh sâu cát, nhưng cũng đủ gần để đến được dễ dàng trước một cuộc hành trình.
Nàng quay lại, nhận thấy Paul đã dựng lều lên, mái vòm bán cầu có nhiều gọng của căn lều hòa lẫn với những bức tường đá của khe nứt. Paul bước qua mẹ, nâng ống nhòm lên. Cậu xoay nhanh ống nhòm để điều chỉnh áp lực bên trong, chỉnh tiêu điểm của các thấu kính dầu vào vách núi màu nâu vàng phía xa đang vươn lên trong ánh sáng sớm mai trải dài khắp vùng cát mênh mông.
Jessica quan sát khi cậu chăm chú nghiên cứu khung cảnh hồng hoang đó, mắt dõi vào những dòng cát và những hẻm núi.
"Có những cái gì đó đang lớn dần lên đằng kia," cậu nói.
Jessica tìm thấy ống nhòm dự phòng trong ba lô cạnh căn lều, nàng lại gần chỗ Paul.
"Ở đằng kia," cậu nói, một tay giữ ống nhòm, tay kia chỉ về phía đó.
Nàng nhìn theo hướng cậu chỉ.
"Xương rồng," nàng nói. "Bụi xương rồng khẳng khiu."
"Có thể có người ở gần đó," Paul nói.
"Có thể chỗ đó là tàn tích của một trạm kiểm tra thực vật học," nàng cảnh báo.
"Nơi đó nằm khá xa về hướng Nam trong sa mạc," cậu nói. Cậu hạ thấp ống nhòm xuống, xoa xoa vào chỗ dưới vách ngăn bộ lọc, cảm thấy môi mình mới khô và nứt nẻ làm sao, cảm thấy vị khô của cơn khát trong miệng.
"Con có cảm giác đó là nơi ở của người Fremen," cậu nói.
"Có chắc chắn là người Fremen sẽ cư xử thân thiện không?" nàng hỏi.
"Kynes đã hứa là họ sẽ giúp."
Nhưng bọn người trong sa mạc này đang tuyệt vọng, nàng nghĩ. Hôm nay chính mình cũng trải qua một chút cảm giác đó. Những kẻ tuyệt vọng có thể giết hai mẹ con ta để lấy nước.
Nàng nhắm mắt, và trong tâm trí nàng gợi lên một khung cảnh ở Caladan trái ngược với mảnh đất khô cằn này. Một lần, trước khi Paul ra đời, nàng và Công tước Leto đi du ngoạn Caladan. Họ bay qua những khu rừng nhiệt đới phương Nam, bay qua những đám lá dại lao xao và những cánh đồng lúa vùng châu thổ. Và họ thấy những đàn kiến trong cây cỏ - những đoàn người gánh hàng bằng đòn gánh được nâng lên nhờ các dây treo. Và trên những quãng biển có những con thuyền buồm ba thân trông như cánh hoa trắng.
Tất cả đã qua rồi.
Jessica mở mắt đối diện với sự yên tĩnh của sa mạc, với hơi nóng ban ngày đang càng lúc càng tăng. Sức nóng ghê gớm không ngừng tăng lên bắt đầu tạo ra một luồng không khí run rẩy bốc lên trên vùng cát mênh mông. Bề mặt khối đá ở phía đối diện họ trông giống một vật nhìn qua lớp kính rẻ tiền.
Cát tràn ra, giăng một tấm màn ngắn chắn ngang đầu thông ra ngoài của khe nứt. Cát trở nên bở ra nhờ làn gió nhẹ buổi sáng, bởi những con chim ưng bắt đầu bay khỏi đỉnh vách núi, liền tuôn xì xì xuống dưới. Khi dòng thác cát đã qua đi, nàng vẫn còn nghe thấy tiếng xì xì của nó. Tiếng kêu ngày càng to hơn, cái âm thanh chỉ cần nghe một lần sẽ không bao giờ quên.
"Sâu cát," Paul thì thầm.
Nó đến từ bên phải họ, với một vẻ uy nghi hăm dọa không thể phớt lờ. Một ụ cát gồ lên như một cái hang đùn từ dưới đất ngoằn ngoèo cắt qua những đụn cát nằm trong phạm vi tầm nhìn của họ. Ụ cát nhô lên ở đằng trước, rẽ bụi sang hai bên như một mũi tàu rẽ nước.
Âm thanh giảm đi, tắt lịm.
"Con thấy tàu không gian còn nhỏ hơn nó," Paul thì thầm.
Nàng gật đầu, tiếp tục nhìn chằm chằm qua sa mạc. Nơi con sâu cát đi qua để lại một vệt lõm như muốn trêu ngươi. Nó kéo dài dằng dặc chừng như bất tận trước mắt họ, mời gọi họ đến dưới đường chân trời sụp ngang xuống theo đường đi của nó.
"Khi nghỉ ngơi, chúng ta nên tiếp tục các bài tập của con," Jessica nói.
Cậu nén một cơn giận bất chợt rồi nói: "Mẹ, mẹ không nghĩ rằng chúng ta vẫn có thể hành động dù thiếu..."
"Hôm nay con đã hoang mang sợ hãi," nàng nói. "Có thể con biết tâm trí và sự làm chủ hệ thần kinh của con rõ hơn mẹ, nhưng con vẫn chưa học được nhiều về hệ cơ-prana của thân thể con. Đôi khi cơ thể tự làm những việc của riêng nó, Paul ạ, và mẹ có thể dạy con điều này. Con phải học điều khiển mọi cơ, mọi đường gân thớ thịt trong cơ thể. Con cần tập dượt lại đôi tay. Chúng ta sẽ bắt đầu với các cơ ngón tay, dây chằng lòng bàn tay và độ nhạy cảm đầu ngón tay." Nàng quay đi. "Bây giờ thì lại đây, vào trong lều."
Cậu gập các ngón bàn tay trái lại, quan sát mẹ bò qua van bịt cửa lều, biết rằng cậu không thể làm mẹ thay đổi quyết định... rằng cậu phải đồng ý.
Dù người ta đã làm gì với ta đi nữa, ta cũng đã dự phần vào nó, cậu nghĩ.
Tập dượt lại bàn tay!
Cậu nhìn bàn tay mình. Nó dường như không tương xứng xiết bao khi đọ với những sinh vật như con sâu cát đó.
Xứ Cát Xứ Cát - Frank Herbert Xứ Cát