Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Người Của Biển
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 28
C
hỉ huy đoàn quyết định điều Tòng trở lại tàu T.37 làm thuyền phó I, nhằm tăng cường cán bộ cho chuyến đi sắp tới. Tin ấy khiến Tòng vui đến ngẩn người. Đã mấy tháng nay bị buộc chặt trên cơ quan, tạm thời làm trợ lý ban tham mưu, Tòng thấy chồn chân. Chẳng phải Tòng không ý thức được vai trò cơ quan và nhiệm vụ nặng nề của cánh trợ lý. Nhưng anh biết mình làm việc đó không hợp.
- Này, về tàu làm thuyền phó, cậu có gì thắc mắc không đấy - Chính ủy Bùi Kim hỏi khì ông đã giao nhiệm vụ cho Tòng.
- Báo cáo chính ủy là không ạ. Thú thật, tôi rất vui - Tòng sôi nổi.
- Vui vì lẽ gì?
- Báo cáo, vì vẫn được đi biển, vẫn được về với anh em tàu T.37.
- Cậu nghĩ thế nào về kỷ luật đối với mình trong vụ vừa rồi?
- Chính ủy định hỏi rằng kỷ luật nặng quá hay nhẹ quá phải không ạ?
- Không, nhận thức chung cơ.
- Báo cáo, đáng ra tôi cần phải ý thức được nhiệm vụ đưa vũ khí vào chiến trường của mình quan trọng hơn và lấy đó làm mục tiêu chính. Quả là trong suy nghĩ, tôi có đơn giản.
- Bọn mình rất quý cậu, nhưng kỷ cương quân đội là kỷ cương quân đội, tình cảm là tình cảm...
- Báo cáo, tôi hiểu ạ.
- Từ nay, làm việc gì cũng cần cân nhắc. Còn việc riêng với cô Lụa đến đâu rồi?
- Báo cáo, tôi đang cố " im lặng " để Lụa giải quyết xong với phía kia đã ạ.
- Phải cố đấy! - Ngừng một lúc, chính ủy nói tiếp - Mình cũng hiểu rằng tình cảm riêng tư của mỗi người không giản đơn và mọi việc không phải sẽ được giải quyết sau một lời khuyên. Nhưng cậu nên rõ là dù biện bạch thế nào, về phương diện pháp lý, cứ quan hệ với cô Lụa lúc này là sai. Xã hội không chấp nhận điều ấy. Bọn mình cũng vậy.
- Rõ ạ! Và tôi cũng rất hiểu tình cảm, cùng sự quan tâm của các thủ trưởng đối với tôi trong chuyện này. Tôi gắng không làm phiền đến tổ chức.
- Phải dũng cảm mới được!
Chính ủy bắt tay Tòng và tiễn anh một đoạn.
Ra khỏi phòng chính ủy, Tòng về phòng vơ vội quần áo và đồ dùng cá nhân nhét đầy ba-lô cóc, rồi đeo lủng lẳng một bên vai bước thấp bước cao đi chào bạn bè. Xong, anh rảo cẳng đi xuống cảng.
Tin Tòng trở lại tàu T.37 đến với anh em thủy thủ rất sớm. Họ háo hức chờ. Vừa thấy cái dáng cao cao, ngất nghểu của Tòng, họ đã ùa xuống cầu tàu. Mọi người vây quanh, hỏi han rối rít.
Chiều hôm đó, theo nguyện vọng của cánh thủy thủ, thuyền trưởng Hòa đồng ý dành một tiếng cuối giờ để anh em có thời gian chuẩn bị "bữa ăn tươi" đón Tòng. Ngoài những món ăn hàng ngày, có thêm rổ rau sống, một đĩa ốc biển và nồi canh cá khá "đậm đặc" được nhiều người ưa chuộng. Bữa ăn kéo dài lâu lâu. Ai cũng ép Tòng ăn thật nhiều và hỏi han đủ chuyện. Tòng cứ ngồi lặng trước không khí đầm ấm và thân thuộc của anh em thủy thủ.
Buổi tối, thuyền trưởng Hòa, chính trị viên Đạm và thuyền phó Xuyên kể cho anh nghe về chuyến đi vừa rồi. Những điều gian khổ, những điều thú vị. Tòng nghe mà tiếc.
Đêm ấy, anh không sao chợp mắt. Niềm vui được trở lại tàu tình cảm cánh thủy thủ khiến anh xúc động.
Những ngày kế đó, Tòng cùng anh em lao vào công việc chuẩn bị cho chuyến đi mới. Chưa bao giờ Tòng thấy vui như những ngày này. Anh làm việc luôn tay, không biết mệt.
Hai tuần sau, tàu đi nhận hàng. Và họ được lệnh nhổ neo.
Đêm tàu lên đường, Tòng nao nao, anh lên boong ngồi, nghĩ miên man. Lâu lắm rồi anh mới được ra khơi, lại đi một chuyến dài ngày thế này. Đã bao giờ anh được vào miền Nam? Những bến, những bãi anh chỉ mường tượng ra qua câu chuyện của mọi người. Lần này, nỗi ao ước háo hức mới được thực hiện. Tất cả cứ như trong mơ...
Lan man rồi anh nghĩ tới quê hương. Nỗi nhớ trào lên...
- Sao thần ra thế? - Thuyền trưởng Hòa tới ngồi cạnh Tòng - Nhớ "ai" phải không?
- Anh Hòa đã có dịp lên mạn trung du chưa nhỉ? - Tòng quay lại.
- Mình thấy ít người yêu quê hương như cậu!
- Thế nào anh cũng phải lên quê tôi một lần cho biết. Vào dịp này sông Lô đẹp lắm, tôi sẽ đưa anh đi dọc bờ sông để anh ngửi mùi đồi núi hoà quyện trong phù sa. Chúng mình sẽ ăn những bắp ngô non đang làm sữa của đất bãi anh Hòa nhé. Ăn sống. Mùa này ngô bãi bạt ngàn.
- Mình có nghe nói nhiều đến trung du. Phong cảnh đẹp lắm hả?
- Vâng, rất đẹp. Đầu làng tôi có ngọn tháp, gọi là tháp Bình Sơn, xây từ đời nhà Trần, cao mười một tầng. Niềm tự hào của quê tôi đấy. Mỗi viên gạch ốp ngoài được chạm một hoa văn, mỗi hoa văn một vẻ và hoa văn nào cũng đẹp. Hồi chưa vào bộ đội, tôi vẫn hẹn Lụa dưới chân tháp.
- Mình có nghe anh em kể nhiều về mối tình của cậu và người phụ nữ ấy.
- Anh cho rằng tình yêu của chúng tôi có cái gì đó không hợp lẽ chăng?
- Không hẳn thế!
- Lâu rồi, chúng tôi chưa có dịp gặp nhau. Những ngày lênh đênh trên biển thế này, nhớ cô ấy đến phát cuồng. Nhớ đến bứt rứt, thật đấy anh ạ!
- Mình hiểu, chỉ khi yêu nhau thực sự, mới có nỗi nhớ như thế.
- Từ ngày có cô ấy, tôi thấy mình yêu quê hương, yêu cuộc sống hơn lên. Cuộc đời thật tuyệt! Mỗi lần ra khơi, tôi thường nghĩ về miền quê ấy. Nhớ sông Lô, nhớ vị ngọt như sữa của những bắp ngô non, nhớ cơn gió hây hây từ mặt sông đưa lên, nhớ vị hăng nồng của những thân ngô già dãi nắng, nhớ mùi bùn đất bãi gặp sương... Anh không thể tưởng tượng được đâu, anh Hòa ạ.
Hòa choàng tay qua vai người thuyền phó. Cả hai cùng lặng nhìn xuống biển. Và đêm ấy họ đã trò chuyện với nhau tới gần sáng.
Tàu đến ngang vĩ tuyến 17, thuyền trưởng Hòa điện về sở chỉ huy: "Thời tiết tốt".
Sở chỉ huy chỉ thị tiếp tục hành trình theo phương án. Lập tức tàu T.37 hướng 180 độ, đi về phía quần đảo Boóc-nê-ô. Cả ngày hôm đó và những ngày sau không có máy bay, tàu chiến địch bám đuôi như những chuyến đi trước. Hòa và mọi người trên tàu đều mừng. 14 giờ ngày 11, anh điện về:
"Tình hình yên. Còn bốn mươi hai lý nữa đến Z (vị trí chuyển hướng vào bờ). Xin vào bến đúng kế hoạch". Nhưng Hòa không khỏi ngạc nhiên khi được trả lời:
"Địch đã biết hành động của tàu. Giảm tốc độ. Chờ thời cơ".
Thì ra tình hình mà Hòa ngỡ là "yên" lại không yên chút nào. Mấy ngày qua không khí làm việc ở "nhà" hết sức căng thẳng. Chính ủy Bùi Kim và đoàn trưởng Tư hầu như không lúc nào rời sở chỉ huy.
Lúc 15 giờ 25 phút ngày mồng 8, tức là sau 7 giờ tàu T.37 chuyển hướng đi về phía quần đảo Boóc-nê-ô, phòng quân báo điện xuống:
"Hải quân địch báo động. Chúng thông báo cho nhau chuẩn bị "đón khách ". Các đài ra-đa được lệnh mớ máy liên tục".
Sau khi hội ý với chính ủy, đoàn trưởng Tư chỉ thị cho T.37 theo hướng cũ, đi hơi chếch ra phía đông. Và ông đề nghị phòng quân báo cung cấp tin tức thường xuyên hơn.
Tin phòng quân báo:.
"15 giờ 30 phút ngày mồng 10, địch chỉ thị cho các tàu trong vùng Hòn Chuối, Hòn Bông, Bãi Bùng chú ý tuần tiễu thật kỹ và trực máy lên tục. Tàu nào không liên lạc được, báo cho ra-đa Hòn Khoai biết. Đài ra-đa Hòn Khoai mở máy hai bốn giờ trên hai bốn giờ".
Hồi 16 giờ 30 phút, bến báo ra: "yên!".
Đoàn trưởng Tư ngả người ra ghế. Tình hình trong ngày như vậy là rõ: địch đã biết có tàu ta đang đi vào, chúng báo động, nhưng cụ thể ta vào vùng nào, thì chúng vẫn chưa biết. "Bến yên" có nghĩa là thời cơ vào bến vẫn còn.
Hai ngày sau, địch tiếp tục báo động. Ngày 11, lúc tàu T.37 điện về xin vào "bến" đúng kế hoạch, sở chỉ huy nhận được tin từ phòng quân báo:
"Lúc 13 giờ ngày 11, địch phát hiện mục tiêu lạ đang đi về phía quần đảo Boóc-nê-ô. Tất cả các tàu trong vùng Hòn Khoai, Côn Đảo, cứa sông Bồ Đề... sẵn sàng chờ lệnh ".
Cùng lúc đó, "bến" báo ra:
"Chú ý! Có hai tàu tuần dương của Mỹ từ cứa sông Bồ Đề ra khơi. Một máy bay hộ tống lên ngang Hang Hố. Gần "bến" có nhiều tàu đánh cá lởn vởn. Bến yên ".
Sau khi cho tàu T.37 giảm tốc độ, đoàn trưởng Tư đi đi lại lại trong phòng. Rồi ông dừng trước tấm hải đồ đầy ký hiệu tàu địch, tàu ta. Những tin tức nhận được qua phân tích cho một kết luận: Kẻ địch bắt đầu thay đổi phương thức hoạt động. Chúng không dùng tàu chiến "bám đuôi" dai dẳng, cũng không dùng máy bay quan sát liên tục như trước. Chúng bí mật theo dõi tàu ta từ xa bằng hệ thống ra-đa trên bờ, trên đảo, trên tàu, và không loại trừ khả năng cả những tàu đánh cá của một số nước láng giềng cung cấp tin tức cho chúng. Chúng lặng lẽ giăng lưới đón lõng, chờ tàu Bắt Việt khờ khạo, nghĩ rằng tình hình yên, sẽ cho tàu vào bờ, lập tức chúng khép vòng vây, cất vó. Tình hình đã trở nên khó khăn. Cho tàu quay về hay cho tàu vào bến.
Đoàn trưởng Tư lặng lẽ đi lại trong phòng, đầu hơi cúi vẻ mặt trầm tư. Bao câu hỏi đang cần ông trả lời. Tính mạng con tàu và hai mươi thủy thủ đòi hỏi ông cân nhắc, nhưng sự bức thiết phái có vũ khí cho chiến trường cũng khiến ông suy tính. Đây là lúc đấu trí với địch. Bản lĩnh người chỉ huy cần được phát huy chuẩn xác trong giờ phút này. Thận trọng nhưng phải táo bạo và quyết đoán. Ông rõ rằng kẻ địch đã thay đổi phương thức hoạt động. "Vỏ quít dày sẽ có móng tay nhọn", lúc này là cái gì đây? Con tính ấy khiến ông suy nghĩ, cân nhắc.
Bên dãy bàn kê cạnh tường, những sĩ quan tác chiến cũng vùi đầu vào công việc xử lý tin tức. Các chiến sĩ thông tin không rời máy, họ ngồi lặng, đón chờ những tín hiệu. Tất cả đều ý thức được rằng những quyết định của người chỉ huy phụ thuộc vào tin tức họ cung cấp và những phân tích, đề đạt họ nêu ra.
Chiều hôm ấy trôi đi chậm chạp.
17 giờ, có điện báo ra: "Bến yên".
"Bến yên!" - Đoàn trưởng lẩm nhẩm nhắc lại. Bến yên tức thời cơ vào "bến" chưa mất. Có nghĩa bọn địch vẫn chưa rõ ta vào mạn nào. Đó là thuận lợi có thể khai thác. Vấn đề bây giờ là làm thế nào đánh lạc hướng sự chú ý của địch để đưa tàu vào. Bến yên! Bến yên!
Tin từ phòng quân báo:
"18 giờ 30 phút, địch phát hiện một tàu lạ lảng vảng ngoài khơi. Các tàu địch vẫn tăng cường theo dõi".
18 giờ 45 phút, bến báo tiếp:
"Một máy bay L19 đang quần dưới Hang Hố, xa bờ 8 ki-lô-mét".
Năm phút sau, bến lại báo:
"Hiện có một tàu lớn, chắc pháo hạm của Mỹ đang tuần tiễu, cách Hang Hố 2 ki-lô-mét, xa bờ 15 ki-lô-mét. Và có bốn tàu nhỏ lởn vởn quanh khu vực đó".
Tin phòng quân báo:
"19 giờ 55 phút, địch chỉ thị các loại tàu HQ, SG, TM, BN phải sẵn sàng. Tàu lạ có thể sẽ vào từ phía Côn Lôn ".
Tin từ bến:
"19 giờ, "bến" yên. Phía đông "bến " có nhiều tàu cá".
Tin phòng quân báo:
"20 giờ, địch chỉ thị cho các tàu ra chắn phía trong Côn Đảo. Toàn bộ tàu thuyền khu vực Hòn Khoai, Côn Đảo được lệnh báo động khẩn cấp ".
"20 giờ 05 Hòn Khoai chỉ thị cho tàu HQ.25 và HQ. 127 tiếp tục đi lên mạn Côn Đảo, chờ ở đó. Tăng cường quan sát giữ liên lạc với Hòn Khoai".
20 giờ, bến vẫn báo "yên". Có nhiều tàu cá quanh khu vực "bến", cách chừng 20 đến 30 ki-lô-mét về phía đông.
Đoàn trưởng ngồi lặng, tay ôm hai bên thái dương. Địch đón lõng ở mạn trong Côn Đảo. Chúng muốn tàu ta vào thật gần bờ, để chắc ăn. Phải tương kế, tựu kế. Ông ngẩng lên, hướng mặt về phía chính ủy và tham mưu trưởng Đặng, nói:
- Bọn địch đoán rằng tàu ta sẽ chuyển hướng vào bờ ở phía Côn Đảo để đi tới đông Cà Mau. Chúng đã tưởng thế, ta hãy tạo điều kiện để chúng đoán đúng như thế.
- Có nghĩa rằng tàu ta vẫn đi vào mạn Côn Đảo, có phải ý anh là vậy? - Chính ủy hỏi lại.
- Vâng! Và bọn địch hí hửng rằng con mồi đang vào bẫy.
- Sau đó ta cho tàu ngoặt hướng xuống phía Nam lẫn vào đám tàu đánh cá! - Chính ủy nhìn đoàn trưởng và thấy mừng khi hai người bắt được ý nhau.
- Đúng thế, anh Kim ạ. Các đồng chí trên tàu dư thông minh và kinh nghiệm để hiểu rằng mình phải hành động như vậy. Tôi đọc lại bức điện của bến lúc 20 giờ: "Bến vẫn yên. Có nhiều tàu cá ở khu vực bến...". Tàu ta cũng là tàu cá đấy chứ? Lọt được vào cụm tàu cá là ổn. Các anh thấy thế nào?
- Tôi hiểu ý anh! - Chính ủy đồng ý.
Tham mưu trưởng thảo ngay điện gửi T.37:
" Chuyển hướng 270 độ, đi vào phía đông Cà Mau, Bến yên. Sáng suốt xử trí. Gần khu vực bến, có nhiều tàu cá".
Lúc đó là 20 giờ 30 phút.
Một giờ sau, sở chỉ huy nhận được tin từ phòng quân báo:
"Lúc 21 giờ, toàn bộ hải quân Mỹ - ngụy quanh khu vực Côn Đảo được lệnh báo động khẩn cấp. Hòn Khoai thông báo cho các tàu: khách đang vào".
Tin của bến:
"21 giờ 05 phút địch tăng cường máy bay và tàu chiến ra khơi, hướng lên phía bắc. Chú ý đề phòng hai khu trục Mỹ đang đi về hướng Côn Đảo. Bến. vẫn yên. Có nhiều thuận lợi".
Đoàn trưởng Tư quay sang tham mưu trưởng.
- Lúc này vào được bến hay không, hoàn toàn phụ thuộc vào cách xử trí của anh em trên tàu T.37.
Cả ba ông ngả người trên ghế, lặng lẽ chờ đợi.
Nhận được điện của sở chỉ huy, Hòa và cán bộ tàu không khỏi áy náy. Tại sao lại phải đi vào vùng phía đông Cà Mau? Đi vào phía đông, phải qua Côn Đảo là khu vực hết sức nguy hiểm. Kinh nghiệm cho hay rằng địch thường đón ở mạn đó.
Hòa, Đạm, Tòng và Xuyên chụm đầu bên bức điện dò từng chữ để cố hiểu đúng tinh thần của mệnh lệnh. Mọi người ngồi lặng lúc lâu.
"... Sáng suốt xử trí. Gần khu vực bến có nhiều tàu cá" - Tòng nhắc lại bức điện, rồi nhìn Đạm, nhìn Hòa, anh nói tiếp - Tôi hiểu là sở chỉ huy muốn ta lợi dụng yếu tố: gần bờ có nhiều tàu cá.
- Tôi cũng nghĩ như vậy - Đạm nêu ý kiến - ngoài việc trà trộn vào đá in tàu em để vào bờ, chúng ta không còn cách nào khác.
- Nhưng tại sao lại phải chạy thẳng vào vùng Côn Đảo lạ nhỉ?
- "Sáng suốt xử trí! Sáng suốt xử trí" - Hòa lẩm nhẩm - Chắc sở chỉ huy có ý đồ gì đây. Ta cho tàu chạy chậm và tăng cường quan sát, thế được không các anh?
- Cứ chấp hành lệnh. Sở chỉ huy nắm chắc tình hình hơn ta - Đạm đồng ý.
Con tàu chuyển hướng tây, đi vào bờ.
Hòa giao công việc điều khiển tàu cho Tòng, rồi ra mặt boong quan sát. Trời tối, tầm nhìn bị hạn chế. Con tàu thấp thỏm, dè dặt đi trong đêm. Mọi người căng thẳng chờ đợi.
Bằng mắt thường, Hòa nhìn thấy xa xa, chốc chốc lại loé lên hai chớp đèn. Anh biết, đó là chớp đèn của Côn Đảo.
Báo cáo thuyền trưởng có điện.
Hòa quay vào buồng lái. Bức điện viết:
"Trước mặt các anh, mạn trong Côn Đảo rất nhiều tàu địch. Bến yên. Phía bến có nhiều tàu cá ".- Thế là rõ! - Hòa thở phào, buông một câu. Anh đưa bức điện cho Tòng:
- Chuyển xuống phía Nam, được chứ Tòng?
- Theo tôi, ta đi giáp đảo chút nữa để trong màn huỳnh quang ra-đa của chúng, mục tiêu bị nhoà vào đảo, ta mới chuyển hướng, lợi hơn.
- Nhất trí!
Con tàu như không hay biết gì về sự giăng lưới của địch, vẫn đâm thảng vào bẫy của chúng.
Chừng nửa tiếng sau, Tòng đánh mạnh vô lăng sang trái và cho chạy hết máy, xuôi xuống phía Nam.
Con tàu xé nước, lao nhanh trong đêm.
- Treo cờ ba que lên - Hòa ra lệnh.
Khoảng một giờ, mọi người đều nhìn thấy phía trước rất nhiều tàu cá đang đỏ đèn thả lưới. Tòng cho tàu giám tốc độ, chạy lẫn vào. Từ đó tàu ngoặt sang phải đi chếch vào bờ.
Từ phía trong, một chiếc xuồng máy chạy ra, trên đó có hai ánh đèn loé tắt, loé tắt ba lần. Hòa cho phát tín hiệu trả lời. Đôi bên nhận ra nhau. Chiếc xuồng máy chạy trước, con tàu theo sau. Họ lách sâu vào một con lạch khá rộng, cây cối um tùm. Những cành lá giằng vào nhau vươn ra, trùm lấy con lạch, che kín cả bầu trời.
*
Ngày 8 tháng 9, hồi 13 giờ 07 phút, máy bay tuần tiễu của hải quân Mỹ, thuộc lực lượng đặc nhiệm 115, bằng phương tiện quan sát tối tân nhứt, từ xa đã phát hiện một tàu cộng sản Bắc Việt cách đông nam cù lao Thu 100 hải lý. Ra-đa trên tàu, trên bờ được lệnh theo sát Các đơn vị hải quân. Việt - Mỹ được lệnh báo động để đối phó. Sau ba ngày di chuyển xuống hướng đảo Boóc-nê-ô, hồi 16 giờ, tàu lảng vảng ở khu vực ngangCông Đảo 120 hải lý về phía đông và có ý định chuyển hướng vào bờ. Các đơn vị hải quân Việt - Mỹ đã được lệnh chuẩn bị bao vây và tiến công nếu tàu này thâm nhập vào lãnh hải Việt Nam Cộng hòa. Chiều 11, các tàu của hải quân Mỹ đã triển khai ém sẵn quanh khu vực Côn Lôn.
Tham gia có:
Tuần dương hạm: MORGENTHAU
Tuần dương hạm: RUSH
Pháo hạm: ANTLOPE
Hải quân Việt Nam có các tàu HQ. 07, HQ.21 7, HQ. 115, HQ.619, HQ.603, HQ. 712, HQ. 715, HQ. 704, HQ. 725.
Hồi 15 giờ ngày 11, Bộ tư lệnh Hái quân đã yêu cầu quân khu 4 báo cho các tiểu khu An xuyên, Ba Xuyên, Vĩnh Bình, Kiến Hòa sẵn sàng quân để đổ bộ vào vùng mà tàu cộng sản Bắc Việt có thể thâm nhập.
Hồi 18 giờ hải quân Việt - Mỹ cũng đã xin Bộ tư lệnh không quân sẵn sàng cho máy bay yểm trợ và soi sáng.
Hồi 19 giờ 30, tàu Bắc Việt vẫn cách Côn Lôn chừng 70 đến 80 hải lý về phía đông
Hồi 20 giờ 30, tàu Bắc Việt bắt đầu chuyển hướng vào bờ, chúng đi vào hướng Côn Lôn đúng dự kiến mà hải quân phán đoán. Lực lượng hải quân Việt - Mỹ đã ém sẵn trong tư thế sẵn sàng chờ lệnh.
Đến 23 giờ, tàu cách đảo 12 hải lý. Con cá lớn đang đi vào lưới!
Nhưng vừa lúc đó, ra-đa Hòn Khoai và các đài quan sát báo cáo: mất mục tiêu. Các tàu hải quân Việt - Mỹ được lệnh xả máy, tiến ra ngoài khơi Côn Lôn. Nhưng quần nát vùn.g biển khu vực đó vẫn không thấy tăm hơi tàu cộng sân Bắc Việt. Ngày hôm sau, các tàu chiến rà tìm, vẫn bặt vô âm tín. Phán đoán:
1. Có thể thấy động, tàu Bắc Việt đã chạy ra khơi và vì sự cố kỹ thuật, tàu chìm xuống đại dương.
2. Nhờ một phép thần thông màu nhiệm, tàu cộng sản Bắc Việt đã vào được nơi mà họ muốn. Sở dĩ thuyền trưởng Bắc Việt làm được vì họ rất máu me. Và phải thừa nhận thuyền trướng Bắc Việt lão luyện hơn những thuyền trưởng của quân lực Việt Nam Cộng hòa hai mươi năm. (1)
-------------------------------
Chú thích:
1. Trích tài liệu địch, ta thu được - TG.
Tàu T.37 đang tiến vào lạch thì khựng lại.
- Mắc cạn - Tòng lo lắng bảo.
Mọi người cùng nhạy ra boong.
- Các anh đừng lo - người du kích dẫn đường bảo - Đã vô tới đây là an toàn rồi. Tàu bay địch trên trời nhìn xuống, không thấy. Còn tàu thủy thì cá vàng chúng cũng không dám vô. Mời các anh lên bến nghỉ rồi ta liệu. Chà? Mấy anh vất vả quá ha!?
Đạm và Tòng xuống xuồng đi gặp ban chỉ huy bến.
Ban chỉ huy bến và anh em du kích ở trên nhà sàn. Phía dưới là nước. Từ nhà này muốn sang nhà kia phải đi xuồng, hoặc lần theo những chiếc cầu bắc bằng những thân cây lắt lẻo.
Đêm hôm ấy, và cả ngày hôm sau, du kích dùng xuồng máy lấy hàng đưa về kho.
Chờ nước lên cao, Hòa cho tàu rẽ vào mép rạch, núp dưới những thân đước mọc chằng chịt. Tòng lặn xuống kiểm tra đáy tàu. Lúc sau, anh trèo lên boong, hoảng hốt bảo:
- Cong chân vịt rồi anh Hòa ạ!
- Cong chân vịt? - Khuôn mặt Hòa thoắt đớ ra. Cong chân vịt có nghĩa là con tàu và toàn bộ thủy thủ sẽ kẹt lại. Kẹt lại bao lâu? Điều đó ai dễ trả lời. Có thể một tháng, hai tháng, một năm, hai năm. Hòa thần người, đi vào phòng thuyền trưởng và buồn bã nằm vật ra giường, chán ngán.
Một tháng chờ đợi trôi qua.
Tòng rất hậm hực, cho rằng "cái số" của mình chẳng có gì suôn sẻ! Lâu lắm mới đưa một chuyến hàng vào Nam, lại kẹt trong vùng kênh rạch dưới rừng đước bịt bùng này. Mặc dù các đồng chí ở bến lo cho chu đáo, anh vẫn thấy buồn. Mấy ngày đầu, lạ lẫm phong cảnh, anh chèo xuồng đi ngắm chỗ này, chỗ kia, hoặc đi câu cá bắt tôm. Cá, tôm mới sẵn làm sao! Mắc con tôm vàođoạn dây cước, buộc vào cái que dài bằng sải tay, cắm xuống bờ, sáng hôm sau chèo xuồng tới, nhắc lên là có cái ăn. Những con cá ngát to bằng bắp chân, béo ú, mỗi bữa một người ăn không hết một con. Ở đây bắt tôm cũng thật đơn giản. Xọc bàn chân xuống bùn, nhấc lên cho nước vào. Sau đó chỉ việc hốt. Tôm búng lật bật trong lòng bàn tay. Tôm mỏng vỏ, mềm, toàn thịt là thịt. Nhúng tôm vào nước sôi, đưa lên miệng khi còn nóng, cắn ngập rang, ngọt xớt. Nhưng tất cả những thứ đó chỉ được mấy hôm là chán. Một câu hỏi luôn ám ảnh Tòng: Làm thế nào để đưa tàu ra khơi? Điều ấy lởn vởn trong đầu anh lúc ăn, lúc ngủ, lúc rỗi rãi. Mà càng rỗi rãi, càng nghĩ tới. Làm lính thủy chịu để tàu kẹt trong con rạch này vì một lý do hết sức đơn giản: cong chân vịt hỏi còn ra cái thá gì nữa. Nhất quyết phải sửa! Nhưng sửa bằng cách nào? Một tấc sắt trong tay không có, không ụ đà, không đốc... không tiệt mọi thứ!
Một hôm, Tòng ngồi trên boong lơ đãng nhìn bốn phía: xung quanh, đước bạt ngàn. Rồi đột nhiên anh nhảy phóc xuống xuồng, hối hả chèo đi. Đến một bãi phẳng, buộc xuồng vào gốc đước, Tòng tuông lên. Bùn ngập đến bắp chân. Anh bì bõm lội một vòng, dừng lại ngó nghiêng như thể tính toán điều gì rồi vọt lên xuồng, về tàu. Cởi quần áo vứt ngang mái chèo, Tòng nhảy ùm xuống nước. Anh lần mò hồi lâu dưới đáy tàu.
Không mặc quần áo, không lau người, Tòng bám dây neo, đu người lên boong. Anh xộc đến phòng thuyền trưởng:
- Anh Hòa, anh Hòa, có cách rồi! - Tòng đẩy cửa, hét toáng lên
Hòa đưa mắt nhìn lên thân hình cao lêu nghêu như con vượn, tóc ướt sũng, tay dài chấm đầu gối của Tòng, không khỏi ngạc nhiên.
- Ta sẽ đưa tàu ra khỏi đây. Chà, một cái đốc thật tuyệt. Thủy thủ đếch gì lại cứ rúc trong rừng đước suốt ngày đi câu cá, bắt con tôm về nhậu.
- Thế nào nhỉ? - Hòa nhìn Tòng, ngơ ngác - Mình chẳng rõ cậu định nói gì?
- Nói gì à? Tôi nói là chúng ta phải sửa cái chân vịt mà đưa tàu ra. Chết dí ở đây hơn một tháng rồi. Chơi thế là đủ.
- Đương nhiên mình cũng đang nghĩ cách - Hòa giật cái khăn mặt đầu giường đưa cho Tòng - Có lẽ cậu đã nghĩ ra kế gì đó, mà phải nói từ từ cho rõ đầu cua, tai nheo chứ. Chẳng lẽ cậu lại ngỡ mình thông minh tới mức đọc được hết suy nghĩ của cậu sao. Nào, ngồi xuống đã.
Tòng cười nhăn nhở. Lấy khăn lau qua quít khuôn mặt.
- Tôi vừa đi khảo sát địa hình - Ở đằng kia có cái vũng khá sâu, những lúc nước xuống lại trơ ra toàn bùn. Chờ nước lên, ta kéo tàu vào đó, rồi dùng những cây gỗ luồn xuống đáy tàu, gỗ ở đây thiếu quái gì, vô thiên lủng, chỉ huy động anh em chặt một ngày là xong...
- Nước rút, con tàu hoàn toàn nằm trên cái nệm gỗ đó - Hòa nói như reo và đôi mắt sáng lên nhìn Tòng - Và ta có một cái "đốc" phải không? Hay lắm, rồi ta nắn lại chân vịt. Mà này, nắn lại chân vịt bằng cách nào?
- Ờ... ờ!
Cho tới lúc này Tòng mới ngớ người. Anh mãi nghĩ đến cái đốc mà chưa tính đến việc thứ hai. Anh ngồi đực ra, cắn môi.
- Khó đấy! - Hòa buông một câu.
- Thì tôi đâu bảo dễ - Tòng gắt - Cái chân vịt bằng sắt chứ chẳng phải được nặn bằng bột mì. Khỉ nhỉ. Lính thủy như chúng mình khác quái gì con chim nhốt trong lồng.
Tòng bực bõ bỏ ra ngoài. Anh cũng không rõ bực với ai và bực vì cớ gì.
Những ngày tiếp đó, Tòng sống lặng lẽ. Anh ít chuyện trò, chơi bời và rất ít ngủ. Hễ nằm xuống là cái chân vịt cong lại hiện lên ám ảnh. Làm thế nào cho nó mềm ra? Giá có cách gì tháo được mà đưa lên núi, đốt than, nung. Sẽ nằm dài ở đây đến bao giờ? Hết chiến tranh chăng? Lúc đó nói với mọi người thế nào nhỉ? Nói rằng trong những tháng ngày ác liệt, chúng tôi núp trong rừng đước, ở đây tôm cá nhiều vô kể? Tòng trằn trọc trên giường, nghĩ miên man. Rồi chợt anh bật dậy: trong ký ức mơ hồ, hình như anh đã một lần trông thấy mấy người lính thông tin dùng một chiếc đèn xì không lớn lắm đốt cháy chì và thiếc để hàn dây cáp. Ờ, phải rồi, chiếc đèn khò (1)
- Đèn khò! - Tòng bật thành tiếng và lao ra boong nhảy xuống xuồng, chèo đi. Trời tối bưng.
Vài ba ngôi sao thấp thoáng trêu vòm lá rừng đước.
Có tiếng người du kích ngồi gác trên ngôi nhà sàn hỏi vọng xuống.
- Người nhà! Tòng đây.
- A, thuyền phó, đi câu cá sớm vậy cha?
- Này, người anh em, muốn hỏi một chuyện.
- Thuyền phó không ngủ sao?
Tòng trèo lên sàn nhà, ngồi bệt xuống cạnh người du kích:
- Ở đây có cách đi lên tỉnh không?
- Được! Nhưng anh ra khỏi đây bị bắt liền đó.
- Vậy ai đi được?
- Tụi tui có anh em hoạt động hợp pháp chớ.
- Ờ! Này, đằng ấy biết trên tỉnh có loại đèn xì con con vẫn gọi là đèn khò không?
- Trên đó không thiếu một thứ gì hết trọi. Mà anh cần chi ba cái đồ yêu lăng nhăng đó.
- Có nghĩa rằng ta có thể kiếm về vài ba chiếc chứ?
- Được! Biểu với mấy ông trong ban chỉ huy bến cử người đi, khó chi. Mà cần gì gấp vậy cha?
Tòng không trả lời, lại nhảy xuống xuồng, phèo về tàu.
- Anh Hòa? - Tòng vào phòng thuyền trưởng dựng Hòa dậy.
- Xong rồi - Tòng nói to.
- Cái gì? - Hòa hốt hoảng hỏi.
- Xong rồi, có cách nung cái chân vịt rồi.
- Đốt nóng chân vịt? - Hòa vẫn ngơ ngác.
- Ta nhờ anh em ở bến kiếm cho mấy cái đèn khò, đèn khò, anh rõ không?
- Hả? Đèn khò! - Hòa ôm lấy ngang người Tòng, reo lên - Hiểu rồi? Có vậy mà không nghĩ ra. Nào, ta ra chỗ cái vũng đốc của cậu.
Hai người xuống xuồng, bơi trong đêm
Sáng hôm sau, Tòng và Hòa lên gặp ban chỉ huy bến, ý kiến được ủng hộ. Họ cử ngay người lên phố mua về bốn chiếc đèn khò. Thủy thủ đẵn cây. Du kích nạo vét bùn. Tòng được giao làm " tổng chỉ huy công trường".
Năm ngày sau, vào một buổi chiều, khi nước rút, con tàu nằm trơ ra trên lớp gỗ đước.
Tòng đấm vào vai Hòa, khoái chí:
- Cái đốc này thua kém gì cái đốc của nhà máy đóng tàu hả?
- Chứ sao? Một thứ đốc tân kỳ có hạng là đằng khác.
Hòa đáp.
Và cả hai người cùng cười hết cỡ.
Công việc tiếp đó là đắp một cái bờ phía ngoài để ngăn không cho nước vào.
Rồi bốn chiếc đèn khò thi nhau phun lửa xanh vào chỗ cong của chân vịt. Hòa và Tòng thay nhau dùng búa gõ cho thẳng lại. Tuy thế công việc không đơn giản. Ban đầu khối đồng trơ ra. Mọi người phải hết sức kiên nhẫn. Chừng một trung đội du kích và thủy thủ túc trực làm nhiệm vụ tát nước, không cho nước rò rỉ qua bờ vào "đốc".
Bốn ngày sau công việc hoàn thành. Chờ con nước cường, những cây gỗ được rút ra và con tàu dềnh lên mặt rạch.
Thủy thủ ôm nhau la hét vang dậy một vùng.
-----------------------------
Chú thích:
1. Đèn khò: loại đèn đốt bằng xăng. Dùng hơi bơm tay đề đẩy ngọn lửa ra, thường dùng để làm nóng chảy kim loại mềm.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Người Của Biển
Người Của Biển -
https://isach.info/story.php?story=nguoi_cua_bien__dinh_kinh