Chương 26
om Hagen đi sớm để đến giờ chơi golf, tạt vào nhà hàng của câu lạc bộ để uống cà-phê. Anh kêu hai ly, theo thói quen, để không phải chờ đợi nhờ pha thêm.
“Ông Hagen!” giọng ai đó gọi anh.
Hagen nhìn vòng quanh. “Ông Đại sứ,” anh nói. Tiến lại gần bàn của ông già, đưa tay ra. Corbett đang ngồi cùng bàn với những người ở Sở Mật vụ. “Quả là một ngạc nhiên thú vị.” Chuyện ông ta từng lưu trú tại tổ quỉ của Johnny Fontane có vẻ là một bí mật, nhưng ít có bí mật nào ở Nevada mà Hagen lại không biết. “Cái gì mang ông đến Las Vegas?”
“Tổ chức của tôi đang xem xét yêu cầu xây dựng một nhà hát cho viện đại học ở đây,” ông nói. “Tôi thật sốc khi Las Vegas cũng có cả một viện đại học mà lại thiếu khoa sân khấu kịch nghệ. Tôi phải đích thân đến đó xem xét. Ngồi xuống đi.”
Làm như chàng là một con chó bị nguyền rủa. Nhưng ngài Đại sứ vốn như thế. Hagen bảo người phục vụ đem cà-phê qua cho mình, rồi ngồi xuống. “Xin lỗi tôi chỉ còn ít phút nữa thôi. Đến sớm để đánh golf.”
Ngài Đại sứ nâng cốc lên. “Không bao giờ là quá sớm để uống trà.” “Tôi là người ghiền cà-phê,” anh nói. “Ông là hội viên ở đây?”
Ông Đại sứ co rúm người lại, như thể Hagen hỏi ông là ông đã từng chơi vịt chưa.
“Con ngài đang làm một việc phi thường đấy,” Hagen nói. “Tôi không ở Washington lâu, nhưng cũng đủ lâu để biết gánh vác quốc gia đại sự là trách nhiệm nặng nề, đặc biệt là những việc có thể thực sự tạo ra khác biệt trong đời sống của người Mỹ trung bình.”
Điều này đã phóng ngài Đại sứ vào một tràng khoe khoang tâng bốc con mình. Tuy vậy, Hagen đã thành thật. Mấy đứa con của anh treo hình Tổng thống Shea trên tường, gần bên các ca sĩ rock -and - roll, các ngôi sao điện ảnh và Chúa Jesus. Dầu cho cuộc bầu cử có bị tai tiếng và dầu cho Jimmy Shea có vẻ là tay mơ thiếu kinh nghiệm, Hagen đã ngạc nhiên nhận thấy anh ta đã nhanh chóng trở thành một lãnh tụ lớn như thế nào. Chuyện này làm Hagen nhớ lại lúc anh chỉ dạy Michael tiếp quản quyền lực từ Bố già.
Hagen uống cạn ly cà phê thứ hai. Anh phải đi. “Ông còn ở thành phố này lâu không?” anh hỏi.
“Thực ra là đang trên đường đi ra,” ông ta nói. “Vài cuộc gặp gỡ nhanh, và tôi hướng đến cái lỗ địa ngục sa mạc kia để đi đến California.”
“Lúc nào thuận tiện chúng ta chơi lại ván tennis đó nhé,” Hagen nói. “Ván tennis nào vậy?”
“Thôi quên đi,” Hagen nói. “Làm ơn gửi lời thăm hỏi của tôi đến Tổng thống. Chúc ông ấy vạn sự như ý.”
“Vâng, tôi sẽ nói lại với anh nhà tôi.”
Tom Hagen dành lòng kiên nhẫn cho công việc và gia đình và không còn lại chút nào cho trò chơi golf nữa. Anh thuê một chiếc xe đẩy bất cứ khi nào có thể. Anh lại gần quả bóng, nhắm vào nó, đánh bốp một phát. Rồi quên đi.
Hôm nay anh chơi golf với Michael, Hal Mitchell và một anh chàng bạn của Michael tên Joe Lucadello mà anh chưa gặp lần nào.
Michael cũng đã nghe rằng Corbett Shea đang ở thành phố này. Người ta tưởng là Tổng thống đã có kế hoạch đến nghỉ ngơi tại nhà Fontane nhưng rồi vì lí do nào đó phải hủy bỏ dự tính đó. Điều này không có nghĩa là câu chuyện về Đại sảnh Corbett từng được đề xuất là hoàn toàn giả tạo.
Đứng bên cạnh Hagen nơi chiếc xe, Hal Mitchell lắc đầu và cười nụ. Trong bất kỳ khung cảnh nào khác chắc là Hagen sẽ không dám ăn nói với Michael theo cái điệu suồng sã bỗ bã như nãy giờ. Nhưng có một qui ước được hiểu ngầm là khi cùng chơi thể thao Tom vẫn là đại ca không khác thời thơ ấu khi anh lớn Tom chỉ dạy cho chú út Mike chơi tennis. Những người bạn cùng chơi với họ không có vẻ giật mình sửng sốt về hiện tượng đó như những người khác. Hai người bạn này đều biết Mike đã khá lâu tuy chưa lâu bằng Tom nhưng cũng đã gần vài chục năm rồi - Mitchell từ khi cùng quân ngũ và xuyên suốt cả cuộc chiến và Joe Lucadello thì còn lâu hơn, từ những ngày cùng Mike đèn sách ở Christ’s College, Cambridge. Joe là một chàng trai gầy ốm đến từ Philadelphia với quần áo lòe loẹt sặc sỡ và một miếng che mắt trái. Anh ta đến Vegas nghỉ ngơi, làm khách mời ở Lâu Đài Trên Cát. Đây là lần đầu Hagen gặp anh ta.
“Mike nói với tôi là bạn và anh ta cùng gia nhập Không lực Canada,” Mitchell nói. “Không lực Hoàng gia Canada, ông Mitchell à,” Joe nói, nháy mắt.
“Hãy gọi tôi là Sarge” (phát âm trại đi của Sergeant, Trung sĩ), anh ta nói. “Bạn bè đều gọi tôi như thế.” (anh ta phát âm my friends thành my fwiends).
“Cám ơn anh bạn.”
Từ khi có chuyện Fredo, tâm tính Michael hay biến đổi thất thường. Chuyện đó cũng đè nặng lên Hagen. Trong tư cách consigliere, anh ta vẫn luôn tin rằng có những điều cần phải làm và bạn đã làm.
Một khi bạn đã làm, bạn không bao giờ nói về nó nữa. Bạn quên nó đi. Ngay cả chỉ một khoảng cách như đường tơ kẽ tóc giữa tin vào một điều và làm điều đó cũng đủ là không gian dung chứa bao cơn mộng dữ.
Hãy nhanh chóng thoát khỏi tâm trạng đó. Đánh bốp vào nó và quên nó đi.
Hagen được dành vinh dự phát bóng. Anh vụt mạnh vào quả bóng khiến nó vọt bắn đi hơn hai trăm năm mươi yards, theo một đường thẳng băng.
“Tôi không nắm được những gì bạn làm, Joe à,” Mitchell nói trên đường đi đến lỗ kế tiếp, hai chiếc xe đẩy của họ sóng hàng bên nhau trên lối đi. “Vẫn còn là piwot?” (pilot, phi công).
“Buồn cười thật đấy,” Joe nói. “Bạn quả là người có khiếu hài hước. Tôi biết bạn quản lí một casino, nhưng tôi không hề có ý tưởng nào về chuyện bạn còn là một trong những diễn viên hài có tài đấy.”
Viên Trung sĩ định nói là pilot, nhưng anh ta đã phát âm - theo Hagen nhận ra, và Joe cũng tưởng lầm - thành pirate (cướp biển). Nhưng Hagen không muốn làm Mitchell lúng túng bằng cách đính chính sự hiểu lầm của Joe, và anh cũng không thể “tiếp nhãn “(make eye contact, đá lông nheo) với Mike. Trong một thời điểm kéo dài, đầy nhột nhạt, dường như không ai biết phải nói gì đây và nói thế nào.
Chính vào lúc đó mà Hagen lần đầu tự hỏi Joe Lucadello có thực là bạn cũ của Mike ở Christ’s College, Cambridge, chứ không phải là thành viên của một Gia đình khác?
“Không phải là piwate,” chàng Trung sĩ la toáng lên. “Piwot.” Anh ta vươn ra cả hai cánh tay để diễn kịch câm máy bay. Chiếc xe của anh ta đột ngột ngoặt vào một bẫy cát. “Pwanes” (anh ta muốn nói ‘planes’, máy bay).
“A, hiểu rồi,” Joe nói. “Xin lỗi. Ờ, không. Ngay sau chiến tranh tôi làm cho Hàng không Phương Đông. Nhưng mà, không...”
“Bạn bị chuyện đó trong chiến tranh, phải không?” Mitchell nói. “Con mắt ấy?”
“Nhiều hơn hoặc kém hơn. Mà cũng có thể là không hơn không kém.” Joe lửng lơ, ỡm ờ, theo cái điệu... “trớt hướt”, ai muốn hiểu sao thì hiểu!
Nhiều hơn hoặc kém hơn?Mà cũng có thể là không hơn không kém? Hagen phân vân. Có thể là cái kiểu tạo dáng” lửng lơ con cá vàng” kia chưa hẳn là kì dị như mới thoạt nghe. Nhiều tay cựu chiến binh thích khôi hài khi nói về chiến tranh. Hagen không phải là cựu chiến binh, nhưng ba chàng kia đều là. Mitchell có vẻ chấp nhận chuyện tránh né không trả lời như là chuyện không có gì lạ.
Hagen đặt bóng lên cọc phát bóng.
“Vậy bạn đang làm loại công việc gì?” Mitchell hỏi.
“Thì... này kia nọ,” Joe trả lời nhơn nhơn, trơn tuột như con chạch.” Những mặt khác nhau của các loại công việc, bạn biết chứ? Chủ yếu là tôi coi mọi chuyện đều... dễ thương và thoải mái như bài ca Take it nice and easy đã nói lên cái... triết lí dung dị ấy!”
Hagen lùi lại nhường quyền đánh bóng cho người khác. Anh ta đã sắp đánh bóng đi nhưng cuộc đối thoại khật khừ, lửng thửng kia thu hút sự chú ý của anh. Chuyện phá vỡ nghi thức đánh golf không làm anh phiền hà gì. Người ta tán hươu tán vượn thế nào tùy thích, anh chẳng bận tâm. Có điều là Joe đã nói những gì mà một kẻ ranh ma quỉ quyệt có lẽ đã nói. Michael được cho là đến thành phố này vì những cuộc gặp gỡ với các cổ đông của hai công ty nhà anh, còn Joe được cho là đến đây để nghỉ ngơi vui chơi. Chuyện này có nghĩa là gì nếu như Joe ở trong một gia đình khác? Hagen vẫn luôn luôn giả định là có điều gì đó khác hơn là ước muốn trở thành một công dân tuân thủ luật pháp(a law -abiding citizen)nằm sau việc Michael phong cho Geraci làm Ông Trùm. Nếu Mike thành thật trong chuyện thoái vị nhường ngôi, tại sao chàng ta lại làm chuyện đó với bao nhiêu những sợi dây ràng buộc? Ủy ban? Có lẽ họ sẽ vui sướng nếu anh từ bỏ quyền lực. Michael đã nói rằng đấy là để bảo vệ: chính mình, gia đình mình, những quyền lợi kinh doanh của mình. Hoặc có lẽ Michael không thể để mình buông bỏ mạng lưới liên kết, vốn vẫn luôn là tài sản có giá trị nhất của nhà Corleones.
Hoặc có lẽ có liên hệ nào đấy với nhân vật Joe này. Hagen nhằm vào quả bóng.
Anh tiếp tục tin rằng Michael đã tạo ra câu đố rối rắm và xuất sắc mà xưa kia Vito vẫn thường xây dựng và Hagen thường thích thú tìm lời giải (tại sao Hagen lại bực bôi khi làm điều này với Michael thì anh vừa hiểu lại vừa không hiểu). Có thể nào tên cướp biển với chiếc quần Sansabelt màu cam kia là chìa khóa cho mọi chuyện này? Hagen chưa kiểm tra nhân thân anh ta trước đây. Michael đã nói rằng chàng ta và Joe đã học chung lớp ở Christ’s College, Cambridge và Hagen đã chấp nhận điều đó theo giá trị bề mặt. Joe nói rằng anh ta đến từ Jersey, nghĩa là bên ngoài nhà Philly, nhưng Hagen không thực sự biết những người nhà Philly. Họ sống khép kín trong vòng thân tộc thôi nên người ngoài chẳng mấy ai biết được gì nhiều về họ. Tuy vậy New Jersey có thể là một dấu hiệu chỉ dẫn. Michael có cái đầu nhìn xa trông rộng hơn là những gì ngài Đại sứ hé cho anh biết. Còn Hàng không Phương Đông? Có rất nhiều ổ để cắm phích vào và để xem thử chúng có giúp cho Hagen giải được ẩn số x là gì không.
Vẫn còn mặc bộ đồ chơi golf, Tom Hagen bật đèn trong văn phòng của anh ta ở Las Vegas, bên trên một tiệm giày gần Fremont, và ngồi xuống bàn giấy của mình, một cái bàn mặt cuộn xưa kia là của Genco Abbandando, được đưa đến đây từ nhà của Vito Corleone. Đến điểm này trong sự nghiệp của Hagen, anh có mạng lưới những liên kết để lần dò manh mối câu chuyện về bất kỳ người nào trên bàn làm việc của mình, thường là chỉ với ba hoặc bốn cuộc gọi, gần như luôn luôn chẳng mất mấy tí thời giờ. Một giờ, theo tiêu chuẩn của anh, là một sự phô diễn khá tồi tệ rồi đấy. Anh đã có thông tin mà Lucadello đưa đăng kí ở Lâu Đài Trên Cát và những gì anh đã tìm hiểu được về anh chàng này trong buổi sáng nơi sân golf. Anh ước lương rằng chuyện tìm hiểu về Joe Lucadello sẽ mất ba cuộc gọi và hai mươi phút. Hagen nhìn vào đồng hồ, ghi nhận thời gian, và nhấc điện thoại.
Bốn giờ sau đó Hagen vẫn chưa thu thập được gì. Không có ai mang tên đó từng làm việc cho Hàng không Phương Đông, hay làm phi công cho Không lực Hoàng gia Canada, hay từng học ở Christ’s College, Cambridge. Người nhà Philly chưa từng nghe về nhân vật đó. Anh ta chưa bao giờ lấy dấu vân tay ở bất kỳ nơi nào trên đất Mỹ. Anh ta chưa bao giờ đăng kí một chiếc xe, một chiếc thuyền, một khẩu súng, hay một đơn khiếu kiện hợp pháp nào. Anh ta chưa bao giờ đóng thuế lợi tức liên bang. Hẳn rồi, căn cước có thể là giả, nhưng ngay cả một căn cước giả cũng để lại nhiều vết tích hơn là chuyện này. Theo như Hagen có thể tuyên bố, thì thật ra hiện nay không có người nào là Joe Lucadello đang sống trên cõi đời này cả. Mà suốt buổi sáng nay anh đã chơi golf với Casper Con Ma Một Mắt tự xưng là Joe Lucadello đấy thôi!
Nhằm tìm chút gì làm định mức khuây khỏa cho trôi qua buổi chiều, anh thanh kiểm lại câu chuyện của ngài Đại sứ. Tất cả đều đúng: ông ta đã ở nơi “tổ nóng” của Johnny nhưng đã rời đi; ông ta thực sự có gặp gỡ một số người ở đại học, họ rất nóng lòng muốn biết rằng dường như Ông Shea có khuynh hướng tán đồng việc xây dựng đã được đề xuất. “Muốn đọc ý nghĩ của ngài Đại sứ quả có hơi khó đấy,” Hagen nghĩ. “Tuy vậy, vẫn chúc bạn may mắn,” anh gật gù tự nhủ.
Anh lại nhìn vào đồng hồ đeo tay. Chỉ còn vừa đủ thời gian để thay quần áo và chạy đến dự lễ khai trương viện bảo tàng nghệ thuật.
Anh cấp tốc đến khách sạn và chạy lòng vòng để sẵn sàng vọt ra trong đêm như thế anh đã trễ lắm rồi vậy, thế nhưng anh đã đến viện bảo tàng sớm, như thường lệ. Lễ khai trương còn hai mươi phút nữa mới bắt đầu. Theresa, vợ anh, nữ chủ tịch Ủy ban Thu thập Bảo tàng, đang ở sân bay đón nhà nghệ sĩ. Cô trưởng ban lễ tân ve vẩy ngón tay vào Hagen, yêu cầu anh dừng lại nhưng giám đốc bảo tàng đã kịp lao tới, xin lỗi rối rít phu quân của nữ chủ tịch.
Tom chưa từng nghe về nhà nghệ sĩ này, nhưng anh thấy ngay là cuộc triển lãm là ý tưởng của Theresa về một sự thỏa hiệp, được trang trí với một trò đùa láu lỉnh. Anh không thể không mỉm cười. Nàng có một chứng chỉ về lịch sử nghệ thuật và thị hiếu của nàng hướng về hội họa trừu tượng. Nhiều quí bà trong ủy ban của nàng là vợ của các chủ trang trại “chân quê” không biết gì mấy về nghệ thuật nhưng biết rõ họ thích gì. Họ thích những tranh sơn dầu đầy vẻ tang tóc thê lương của người Da đỏ. Họ thích Norman Rockwell. Họ thích một số tác phẩm đầu tay của Picasso. Cuộc triển lãm được đặt tên là “Mèo, Xe và Hí họa: Nghệ thuật Pop của Andy Warhol.” Những chiếc xe giống như được sao chép từ các mẩu quảng cáo trong các tạp chí, với cùng hính ảnh của một chiếc xe thể thao lập lại theo những dãy thẳng hàng và nhiều màu. Hí họa là những bức phóng lớn đầy vết sưng tấy những hình ảnh từ Popeye và Superman. Và họ cũng thích những con mèo, ngay cả những con mèo màu xanh lá cây với những con mắt đỏ rực gây cho Hagen một cảm giác bồn chồn sợ sệt.
Dây thừng chăng ngang bằng nhung hạ xuống. Theresa vẫn chưa đến. Đám đông dàn trải rải rác bắt đầu thu gom lại.
“Xe đẹp đấy,” Michael vừa nói vừa chỉ vào. Anh ta cùng đi với một nhóm cổ đông trong công ty bất động sản lớn nhất của gia đình, cùng với Al Neri và vài tay cơ bắp. Sau cuộc này, tất cả sẽ cùng đi
đến một bữa ăn riêng mà Enzo Arguello cho dọn lên tại phòng khiêu vũ quay tròn tại Lâu Đài. “Tuy vậy, tất cả những màu sắc khác nhau đó làm cho người ta khó lựa chọn.” Michael nói thêm.
“Tôi lại nghĩ có lẽ đó chính là điểm nhấn.” Hagen góp nhời bàn Mao tôn Cương... ẩu!
Cuối cùng Theresa đến với nhà nghệ sĩ, một chàng trai trẻ mảnh khảnh, mặt trông ngơ ngác với tóc vàng hơi pha hồng và cặp kính màu đỏ. Đám đông đi theo anh ta.
“Anh bạn Joe của chú có vẻ là người tốt nhỉ?” Hagen gợi ý.
“Đúng vậy,” Michael nói. “Một trong những người tốt nhất mà tôi từng gặp.” “Vậy sao?” Hagen lấp lửng.
“Anh đã có một buổi chiều hay ho nhỉ?” Michael cạnh khóe. Một cách mát mẻ nhưng không hề êm ái.
Làm thế nào mà hắn có thể biết về nhà buôn ở Bonanza Village kia nhỉ? Hagen đã thận trọng thực hiện mọi biện pháp đề phòng. Hay là trong các bông hoa có dấu những thiết bị nghe lén? Hoặc là điện thoại bị bí mật theo dõi?
“Anh không tìm ra manh mối gì, phải không?” Michael nháy mắt.
Lucadello. Đó là đề tài anh ta đang nói về. “Tôi chỉ làm một vài cuộc gọi về anh ta,” Tom nói. “Và vài công việc giấy tờ khác. Còn để trả lời câu hỏi của chú, đúng, tôi không.”
“Nếu anh muốn biết về anh bạn Joe, tại sao anh không hỏi tôi?” “Tôi chỉ hơi tò mò tí thôi,” Hagen nói.
Michael nâng ly rượu lên và gật đầu hướng về phía con mèo xanh lá cây. “Quá nhiều hiếu kỳ đấy,” anh ta nói, nhưng không uống ngụm nào.
“Tôi biết anh nghĩ thế nào, Tom à,” Michael nói, chuyển sang phương ngữ Sicily. “Tôi biết những gì anh làm. Bản chất anh là thế và đó là lí do tại sao anh lại là một luật sư giỏi.”
“Vậy anh ta thuộc Gia đình nào?” Tom hỏi, cũng bằng phương ngữ Sicily. “Tôi có tiếp xúc với Nunzio ở Philly.”
“Tại sao anh nhảy đến kết luận rằng Joe là một phần trong tổ chức của chúng ta, Tom? Bởi vì anh ta mang một cái tên Ý? Tôi thất vọng về anh đấy.”
“Không phải vì anh ta mang một cái tên Ý, không phải thế. Chú nghĩ chú đang nói chuyện với ai vậy?”
“Xem nào, được thôi. Mọi điều anh muốn biết về Joe thì đích thân anh ta sẽ cho anh hay.” Michael chuyển sang tiếng Anh trở lại. “Đúng hơn là, mọi điều mà anh cần biết. Bằng bất cứ giá nào, chúng ta cũng sẽ gặp anh ấy vào lúc nửa đêm, nơi dãy phòng tôi.”
Theresa đã thoát ra khỏi vòng người vây quanh nhà nghệ sĩ và đi thẳng tới chồng nàng và Mitchell. “Các anh thấy sao?”
“Tuyệt lắm,” Michael nói.
“Một nghệ sĩ có tầm nhìn xa trông rộng, đi trước thời đại đấy.” Tom dùng lối “khoa trương lộng ngôn pháp” để tô vẽ cho câu chuyện thêm phần đa âm đa sắc. Nàng vòng cánh tay quanh chồng như thể họ vẫn còn là hai cô cậu học trò.
“Em không thích anh chàng khệnh khạng này lắm,” Theresa nói. “Nhưng, tin em đi, tranh của anh ta độc đáo đấy. Và anh ta là nghệ sĩ lớn chứ không phải loàng xoàng đâu.”
“Máy bay anh ta đến đây bị trễ chuyến phải không?” Tom hỏi, giang hai cánh tay ra nhại động tác của chàng Trung sĩ hồi sáng, khiến chàng Mike phải chịu khó... vén môi cười một phát!
Theresa lắc đầu. “Anh ta bắt tôi dừng xe để anh ta ra ngoài, tản bộ xuống phố Thoát y vũ. Anh ta nhìn trừng trừng vào một cái lều bạt lớn, chỉ nhìn trừng trừng, bất động, vì - ôi lạy Chúa, tôi không biết vì cái gì, mà lâu quá là lâu. Ngang một shop bán đồ lưu niệm anh ta cũng đứng như trời trồng mà không mua món nào. Anh ta lấy tờ bướm của tất cả các nhà chứa. Hàng trăm tờ như thế, rõ ràng là vì... nghệ thuật, nhưng rồi ai phải mang ba cái thứ lăng quăng dễ bị bới móc thành xì -căng -đan đó? Tôi. Thế có phải là oan ôi ông Địa không?
“Rõ ràng là vì nghệ thuật?” Tom hỏi.
“Em không nghĩ là anh ta thích gái,” Theresa nói theo kiểu thì thầm trên sân khấu (nghĩa là làm như thể nói riêng cho ai đó nghe, không để người khác nghe, nhưng thật ra thì ai cũng nghe được cả!).
Tom quay mắt đi khỏi mắt Michael.
“Dầu sao,” Theresa tiếp, “bây giờ thì anh ta đứng ở đó và nói với mọi người rằng trong tương lai, cả nước Mỹ sẽ là một Las Vegas rộng lớn. Chứ không phải giống như Vegas. Mà là Vegas. Anh ta đã đến đây ba giờ rồi đấy.”
Michael nhún vai. “Tài chưa biết đến đâu, chứ tật thì hơi bị nhiều!”
Sau buổi gặp mặt ăn tối, khi họ đến dãy phòng của Michael, Joe Lucadello đã ở đó, không sơ -mi, vẫn chiếc quần màu cam, ngồi ở quầy bar và chơi trò solitaire.
“Tom! Khoản đãi hậu tình ghê. Nào mời vào.” Làm như thể đây là nhà anh ta vậy. “Mike bảo tôi là anh quan tâm muốn biết về tôi nhiều hơn. Thật vinh hạnh cho... kẻ hèn này quá! “
Tom đã ở bên Michael suốt cả thời gian nơi viện bảo tàng. Đâu còn có lúc nào để Michael có thể nói riêng với Joe bất kỳ chuyện gì.
Al Neri và Tommy Neri đã theo chân họ đi vào. Michael gật đầu ra hiệu và họ hướng sang phòng kế bên, khép cửa lại sau lưng.
“Mike bảo với bạn thề hở?” Hagen nhìn quanh căn phòng và nhận ra tại sao nơi chốn này có vẻ quen thuộc đến thế. Cái bàn hình hồ nước. Đây chính là dãy phòng nơi Fredo từng sống trước khi có vợ. Phòng đã được trang trí lại nhưng vẫn là cái bàn đó. Michael bật Tivi lên, hơi lớn. Một chiếc Tivi mới. Trước kia Fredo luôn vặn Tivi lên mọi lúc chỉ để có tiếng ốn, nhưng bây giờ họ bật Tivi lớn tiếng là để bịt những thiết bị nghe lén có thể do ai đó cài đặt. Buổi chiếu trễ đang phát sóng, một phim cũ với những người mặc togas.
Joe tay này đưa lên một chai Pernod đã mở, tay kia một chai Jack Daniel có đóng dấu, và nhướng đôi mày. Khi anh ta làm thế, Hagen cố nhìn xuyên qua miếng che mắt, nhưng vô hiệu.
“Cho tôi qua tour,” Tom nói. “Xem này, tôi không muốn tỏ ra bất kính, nhưng tôi đã qua một ngày dài, và ngày vẫn chưa qua, vậy nên xin bạn không phiền kể cho tôi biết điều gì đang xảy ra? Dầu bạn là ai.”
“Anh ấy là Joe Lucadello,” Michael nói, vừa nghịch các quả bóng trên bàn. “Thề có Chúa đó là sự thật.”
“Mặc dầu tôi đã không là Joe Lucadello trong mười lăm năm,” Joe công nhận. “Thế à?” Hagen nói. “Vậy bạn là ai?”
“Không là ai cả. Mà cũng có thể là bất kỳ ai. Mikes biết tôi trong tư cách là Joe Lucadello, vốn tôi là thế, trở lại với lúc chúng tôi lần đầu gặp nhau. Đó cũng là người mà tôi đang là, tất nhiên rồi, nhưng bởi vì bạn đã cố công tìm hiểu, nhiều hơn là trên sổ đăng kí khách sạn đêm rồi - nhân tiện xin nói thêm là việc đăng kí đó rồi cũng sẽ biến mất - không có lưu trữ về tôi ở bất kỳ nơi nào. Một ít người có kí ức về chàng trai đó, nhưng... tất cả chỉ có thế.”
“Đúng thế,” Hagen nói. “Bạn là... một bóng ma.”
Joe cười lớn. “Đoán hay lắm, Tom. Bạn thông minh cực kì!”
Giọng gây choáng của Michael Corleone làm Tom sửng sốt, suýt tụt khỏi chiếc ghế cao nơi quầy bar.
Rồi giọng đó đập mạnh vào anh. Cái gì gần với ma? Quỉ. Joe là một con quỉ. CIA.
“Bạn có chắc là không muốn một ly rượu?” Joe nói. “Sao mà bạn trông có vẻ bồn chồn, bức rức quá vậy.”
“Anh ấy uống cà-phê nhiều lắm.” Michael tiếp tục đùa chơi với mấy quả bóng. “Bạn không tin nổi đâu. Từng gallon đấy!”
“Coi chừng vỡ tim mạch mà chết.” Joe làm như đùa mà không đùa.
Hagen xoay chiếc ghế cao để đối mặt Michael. “Chuyện gì đang diễn ra ở đây vậy? Cái anh chàng “độc nhãn ma” này mà chú không còn gặp từ ngày rời Christ, đã rời Chicago, ghé đây chơi và cho là anh ta ở trong.”
“Công ty,” Joe nói.
“Và chúng ta có nhiệm vụ phải tin anh ta? Không cần kiểm chứng.” Michael đập mạnh hai quả bóng vào một góc. Mạnh hơn là cần thiết.
“Anh rơi vào thế việt vị rồi đấy, Tom,” Michael nói bằng phương ngữ Sicily. “Cái kiểu nhảy bổ đến những kết luận đó. Tại sao anh giả định rằng tôi không gặp anh ấy cả hàng chục năm. Tôi chỉ nói với anh rằng anh ta là Joe, bạn tôi mà tôi gặp ở Christ’s College, Cambridge. Tại sao anh cho là tôi không kiểm chứng anh ta làm cho ai? Tại sao anh lại giả định là anh ta tạt vào đây chơi chứ không phải là anh ta đến đây với công việc cần bàn với chúng ta?”
Hagen cau mày. Chúng ta?
Và làm thế nào mà Hagen - hoặc Michael, về vấn đề đó - biết chắc rằng Joe không thể hiểu phương ngữ Sicily?
Michael sắp ba quả bóng theo thế khó và đánh trúng dễ dàng như không. “Tom à, anh đã là luật sư cho tôi trong những cuộc điều trần tại Thượng viện,” anh nói trở lại bằng tiếng Anh,” và anh đã hoàn thành xuất sắc công việc, nhưng -”
Lại một đường cơ lả lướt khác.
“ - tôi khá may mắn khi có được tuyến phòng ngự khác nữa.”
“Nói phòng ngự là hơi cường điệu,” Joe nói, gom các quân bài lại. “Bảo hiểm; tất cả chỉ có thế. Bạn bè giúp nhau vậy mà. Tom à, anh đã làm quá tốt công việc, nên chúng tôi cũng không còn gì nhiều để làm.”
Không còn gì nhiều để làm?
Michael buông cây cơ xuống.
Chuyện là, theo anh nói, Joe đã tiếp xúc với anh ta không lâu sau vụ đột kích vào trang trại nọ ở Bắc New York, khi FBI thành lập Chương trình Tóm Đầu sỏ Trộm cướp và rõ ràng là họ đang đè nặng áp lực lên cái gọi là Mafia. Anh và Joe đã không còn gặp nhau kể từ cái ngày Billy Bishop đòi xem bằng phi công của Michael và Michael đã bảo vệ cho Joe bằng cách nói là mình không có bằng. Trong thời gian đó, Joe đã bị bắn hạ trên bầu trời Remagen, trốn khỏi một trại giam tù binh, sau đó được biên chế vào một đội đặc nhiệm tình báo Mỹ. Sau đó số phận đưa đẩy, chuyện này dẫn đến chuyện kia. Nhiều công tác ở châu Âu. Mấy năm gần đây trở về lại đất nhà. Tóm lại là, Joe - vẫn còn biết ơn Mike về những gì anh đã làm - đã nghĩ là anh ta hiện có khả năng giúp đỡ bạn cũ. Anh ta có nhiều cách để đưa một người khỏi nhà giam, bảo vệ cho người ấy khỏi bị truy tố. Nếu lỡ có vô phúc đáo tụng đình FBI cũng sẽ không biết ai chịu trách nhiệm, ngay cả sẽ không biết chuyện gì đã xảy ra. Còn sự trao đổi? Michael muốn biết. Không gì cả, Joe nói. Chúng tôi không tìm kiếm kẻ chỉ điểm theo cách FBI vẫn làm. Không có gì khiến bạn dính vào rắc rối trong thế giới của bạn. Nếu có bao giờ Michael được yêu cầu làm việc gì mà anh không muốn gửi người của mình đi làm, Joe hứa, thì được thôi. Cứ nói không và thế là xong. Joe không vào chợ để tìm mua một nô lệ hay một kẻ van xin vì khiếp sợ. Mà tìm một người bán hàng. Thuận mua vừa bán, sòng phẳng, vui vẻ.
Hagen bắt đầu muốn lướt qua tất cả những công việc trong ba năm vừa qua mà chàng ta còn “théc méc” nhưng rồi anh kịp dừng lại và không phạm lỗi việt vị thêm lần nữa.
“Vậy tại sao bỗng nhiên các bạn lại kéo tôi vào chuyện này?” Hagen “théc méc”, nhưng lần này thì đúng phép tắc.
“Joe có một đề nghị,” Michael nói. “Và tôi cần tư vấn của anh. Đây là một bước đi quan trọng. Một bước lùi từ những gì chúng ta từng cố gắng làm để chuẩn bị cho mười bước tiến. Nếu chúng ta chấp nhận, tôi sẽ cần sự dấn thân hoàn toàn của anh.”
“Một đề nghị?”
Michael cầm cây cơ lên, chỉ vào Joe, yêu cầu anh ta phát biểu, rồi bắt đầu đo các góc cho một cú đánh cực khó vào bốn quả bi nằm ở những vị thế rất lắc léo.
Joe đập một tay lên vai Tom. “Chuyện mà tôi sắp nói với bạn đây thì hoặc là bạn sẽ thích nó và tham dự vào đó còn nếu bạn không thích thì coi như không có gì. Hoặc cái này, hoặc cái kia. Hiển nhiên là tôi đang nói chuyện với những người hiểu rõ nên hành xử thế nào dưới những điều kiện đó.”
Michael đánh hụt đường cơ nhưng khống xa lắm.
“Trước đây đã lâu,” Joe Lucadello nói,” tôi có nói với Michael - tôi cá với Mike là bạn còn nhớ chuyện này; chúng ta bàn về Mussolini - tôi đã nói là trong toàn bộ lịch sử nhân loại chưa hề có bất kỳ
người anh hùng nào, kẻ đê tiện nào, hay bất cứ nhà lãnh tụ ở tầm cỡ nào lại không có thể bị sát hại.” Michael gật đầu. “Chuyện đó gây ấn tượng lắm.”
“Vậy thì, đây là đề nghị của chính quyền, nói cách vắn tắt. Điều này đến trực tiếp từ chính Albert Soffet - giám đốc CIA - và được sự chấp thuận của Tổng thống. Bạn có thích - có ý chỉ những quyền lợi kinh doanh của bạn - có thể trở lại Cuba và lấy lại ngay nơi bạn rời đi. Bạn có thích làm một công việc cho chúng tôi tại đó để làm cho điều ấy xảy ra. Tôi xin nói thêm là sẽ được trả công rất mực hậu hĩ. Đồng tiền kiếm được là hợp pháp trăm phần trăm và chúng tôi có những tác động để cho số tiền công đó sẽ được miễn thuế. Chúng tôi còn có thể giúp huấn luyện người của bạn nữa. Thực ra, chúng tôi phải nhấn mạnh vào điểm đó.”
“Huấn luyện họ?”
“Cách mạng đã thay đổi nhiều thứ. Những người mà bạn gửi đi làm nhiệm vụ cần biết về những đổi thay đó. Có những người Cuba yêu nước đang sống lưu vong có thể cũng sẽ giúp ích. Chúng tôi biết những người này. Chúng tôi quen với những kỹ năng và những hạn chế của họ. Cũng có thủ tục cần theo để, như tôi nói, không ai phải vô tù, dầu là ở Mỹ hay, xin Chúa che chở, ở Cuba. Nguy cơ là - cho phép tôi minh bạch về điểm này - nếu và khi có chuyện gì trục trặc, chúng tôi không dính dáng gì vào chuyện ấy cả. Nếu như bọn Nga nghĩ rằng chúng ta, với tư cách chính quyền, đứng sau vụ ấy, thì chúng ta phải chứng kiến Thế chiến thứ ba đấy. Dĩ nhiên là, nếu người của bạn dính vào rắc rối, chúng tôi sẽ làm mọi sư có thể để giúp đỡ, nhưng không với cái giá để lộ sự liên can của chúng tôi đến dự án đó. Các bạn - và người của các bạn - sẽ phải hành động như là những công dân riêng tư. Các bạn chưa bao giờ gặp tôi. Tôi không hề tồn tại.”
Hagen có lẽ thích thú khi Joe bộc bạch tất cả chuyện này - anh ta dứt khoát không phải là người dính dáng bất kỳ thế nào - ngoại trừ vì tính lớn lao của kế hoạch mà anh ta gơi ý. Làm thế nào mà họ sẽ không bị trừng phạt về việc ám sát lãnh tụ một quốc gia khác?
Và trái với những gì mà công chúng và FBI và có vẻ như cả CIA cũng nghĩ thế, những vụ giết chóc xảy ra vì vài lí do -tự vệ, báo thù - chứ không phải vì một khoản phí.
Nhưng đó không phải là báo thù sao? Nhiều người từng chết vì ăn cắp vài trăm đô từ một tay cá mập nhà Corleone. Khi chính quyền mới ở Cuba tịch thu hoặc đóng cửa các casinos của họ - điều đó có khác gì ăn cắp cả hàng triệu đô?
Và chính xác đâu là những qui tắc chi phối một Ông Trùm đã qui ẩn?
Trong một cú phối hợp ngoạn mục, Michael Corleone dìm bi số bốn vào túi bên cạnh. Số sáu chạy theo sau số năm giống như một anh chàng đang cố xin lỗi người tình ưa hờn dỗi, và cả hai cùng biến vào túi góc.
“Ô,” Joe nói. “Bây giờ tôi đã thấy mọi chuyện.”
Ngay lúc đó, có tiếng gõ cửa. “Chúng ta chờ ai hả?” Hagen nói.
“Ông ta đến trễ,” Joe nói, mặc dầu chính Michael đi mở cửa. “Tôi xin lỗi. Như có lẽ các bạn đều biết, ông ta hầu như lúc nào cũng trễ.”
Đó là ông Đại sứ Corbett Shea.
“Xin lỗi mọi người,” ông ta nói. Những người Sở Mật vụ ở lại trong sảnh, điều này có nghĩa họ đã được cho phép lục soát phòng trước đó. “Tôi có một vài việc với các anh con của tôi. Vậy tôi có thể nói với Tổng thống và Tổng chưởng lí rằng chúng ta có một cuộc thương lượng? Hay là các bạn có những câu hỏi mà các bạn muốn tôi chuyển đi. Ông Cahn -sig -lee -airy (consigliere) ông tính chuyện này thế nào. Bất kỳ điều gì Tổng thống muốn, hãy coi là điều ấy được thực hiện?”
Bố Già Trở Lại! Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner Bố Già Trở Lại!