Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Dobbs
cWatt ra trận, và McWatt không điên. Yossarian cũng vậy, trong khi vẫn đang tập tễnh, và khi Yossarian bay được thêm hai trận nữa thì lại bị đe dọa bởi tin đồn lại phải bay tới Bologna lần nữa, y bèn quyết chí tập tễnh đến lều của Dobbs vào đầu một buổi chiều nắng ấm, đưa một ngón tay lên miệng và “Suỵt!”
“Có gì mà phải suỵt vậy?” Kid Sampson nói, vừa dùng răng cửa bóc một quả quýt vừa ngâm cứu những trang truyện tranh quăn tít góc. “Anh ta có đang nói gì đâu.”
“Biến,” Yossarian bảo Kid Sampson, vung ngón tay chỉ qua vai về phía cửa lều.
Kid Sampson nhướng cặp lông mày vàng ra vẻ hiểu ý và ngoan ngoãn đứng lên. Gã huýt gió bốn lần, hướng luồng hơi lên cho xuyên qua bộ ria vàng cụp và vọt đi về phía rặng đồi trên chiếc xe mô tô mua lại móp vành cũ rích màu xanh lá mà gã đã mua được vài tháng trước. Yossarian đợi đến khi những dư âm của tiếng nổ cuối cùng của chiếc xe máy trôi xa hẳn. Trong lều mọi thứ có vẻ không bình thường lắm. nơi này quá gọn gàng. Dobbs đang tò mò quan sát y, miệng ngậm một điếu xì gà béo bự. Giờ khi Yossarian đã hạ quyết tâm phải can đảm, thì y lại cảm thấy sợ muốn chết.
“Được rồi,” y nói. “Mình giết đại tá Cathcart đi. Mình sẽ cùng làm việc đó.”
Dobbs bắn ra khỏi giường xếp với vẻ kinh hãi tột độ. “Suỵt!” gã rống lên. “Giết đại tá Cathcart? Anh nói gì vậy?”
“Nói nhỏ thôi, mẹ kiếp,” Yossarian càu nhàu. “Cả đảo nghe thấy bây giờ. Anh vẫn còn giữ khẩu súng đó chứ?”
“Anh điên à hay là sao?” Dobbs hét lên. “Tại sao tôi lại muốn giết đại tá Cathcart?”
“Tại sao ư?” Yossarian trừng mắt nhìn Dobbs giận dữ tới mức không thể tin nổi. “Tại sao ư? Đó là ý đồ của anh mà, không phải à? Không phải anh đã tới bệnh viện và dụ tôi tham gia đó sao?”
Dobbs từ tốn mỉm cười. “Nhưng đó là khi tôi mới chỉ bay xong có năm mươi tám trận,” gã giải thích, miệng rít xì gà đầy vẻ xa hoa. “Giờ thì tôi đã xếp đồ và đợi về nhà. Tôi đã hoàn thành đủ sáu mươi nhiệm vụ.”
“Vậy thì sao?” Yossarian đáp. “Hắn ta sẽ lại tăng con số lên.”
“Có thể lần này thì không.”
“Hắn luôn cho tăng số trận lên. Anh có vấn đề quái gì vậy hả Dobbs? Hỏi Hungry Joe xem anh ta đã xếp đồ tổng cộng bao nhiêu lần rồi?”
“Tôi phải đợi xem thế nào đã,” Dobbs tiếp tục ngoan cố. “Chỉ có điên thì tôi mới đi làm rối tung mọi thứ lên vào lúc này, khi tôi đã được nghỉ ra trận.” Gã vẩy tàn thuốc trên điếu xì gà xuống. “Không, và lời khuyên của tôi dành cho anh,” gã nói, “là anh cứ bay đủ sáu mươi nhiệm vụ như tất cả chúng tôi rồi đợi xem thế nào.”
Yossarian cố lắm mới kiềm chế không nhổ thẳng vào mặt gã. “Có thể tôi còn không sống sót nổi qua con số sáu mươi,” y vẫn cố làm gã mềm lòng gã bằng một giọng đều đều, bi quan. “Có tin đồn là hắn lại tình nguyện điều liên đoàn chúng ta tới Bologna thêm lần nữa.”
“Đó chỉ là tin đồn thôi mà,” Dobbs chỉ ra, phảng phất vẻ kẻ cả. “Anh không nên bạ tin đồn nào nghe thấy cũng tin chứ.”
“Anh có thể thôi đưa ra lời khuyên cho tôi được không?”
“Sao anh không thử nói chuyện với Orr xem?” Dobbs khuyên. “Tuần trước trong lần thứ hai đánh Avignon Orr lại vừa bị trúng đạn rơi xuống nước đấy. Có thể anh ta đã đủ bất mãn để sẵn lòng giết ông ta.”
“Orr thì không đủ thông minh để bất mãn đâu.”
Orr lại bị bắn rớt xuống nước trong lúc Yossarian vẫn đang nằm viện nhưng gã kịp giảm tốc đưa chiếc máy bay què quặt đó nhẹ nhàng đáp xuống mặt biển xanh biếc ngoài khơi Marseilles với một kỹ thuật hoàn hảo tới mức không ai trong số sáu thành viên của tổ bay bị mảy may trầy xước. Cửa thoát hiểm lập tức mở bung ra ở cả phía trước lẫn phía sau trong lúc mặt biển vẫn tung bọt trắng xóa và xanh biếc xung quanh máy bay, và mọi người thoát ra nhanh hết mức có thể trong những bộ áo phao Mae West ẻo lả màu da cam không căng lên được mà cứ lòng thòng rũ xuống vô dụng quanh cổ và eo họ. Những chiếc áo phao không thổi phồng lên được bởi vì Milo đã lấy mất cặp xi lanh CO2 ra khỏi áo để làm những cốc soda kem dâu và dứa dầm mà gã bán cho họ ở nhà ăn sĩ quan và thay vào đó bằng những tờ giấy in ronéo dòng chữ: “Những gì tốt cho M&M thì cũng tốt cho tổ quốc.” Orr là người cuối cùng thoát ra khỏi chiếc máy bay đang chìm.
“Anh phải chứng kiến cảnh đó cơ!” trung sĩ Knight phá lên cười khi thuật lại toàn bộ cảnh tượng ấy cho Yossarian. “Đó là cảnh tức cười khốn nạn nhất trần đời. Không có chiếc áo Mae West nào còn dùng được bởi vì Milo đã chôm mất CO2 để làm những cốc soda kem mà lũ khốn bọn anh vẫn uống ở nhà ăn dành cho sĩ quan. Nhưng hóa ra như vậy vẫn còn chưa tệ lắm. Chỉ có một người trong bọn tôi không biết bơi, và chúng tôi đã nhấc gã đó lên trên một bè cứu sinh mà Orr đã phải chật vật túm chặt dây thừng giữ nó sát thân máy bay, trong khi cả bọn vẫn đang đứng bên trong máy bay. Thằng cha lập dị đó hiển nhiên là rất cừ về những thứ kiểu như vậy. Thế rồi chiếc bè cứu sinh còn lại tuột ra và trôi mất, vì vậy rốt cuộc cả sáu đứa bọn tôi đã phải ngồi trên đúng một chiếc, khuỷu tay cẳng chân sát sạt tới mức hầu như không thể động đậy mà không xô luôn thằng bên cạnh xuống nước. Chúng tôi rời khỏi máy bay được khoảng ba giây thì nó chìm, và chỉ còn lại chúng tôi ở đó chơ vơ, và ngay sau đó khi chúng tôi bắt đầu mở nắp khoang đựng xi lanh khí của mấy áo phao Mae West ra xem nó bị làm sao thì tìm thấy mấy mẩu giấy khốn kiếp của Milo nói rằng những gì tốt cho gã thì cũng đủ tốt cho tất cả chúng ta. Thằng khốn! Chúa ơi, chúng tôi đều nguyền rủa gã, tất cả chúng tôi, ngoại trừ anh bạn của anh, Orr, anh ta cứ nhăn nhở cười như thể chẳng quan tâm quái gì tới việc cái gì tốt cho Milo có thể tốt cho tất cả chúng ta hay không.
“Tôi thề, anh phải chứng kiến anh ta ngồi đó ở rìa bè cứu sinh như một thuyền trưởng trong lúc cả bọn cứ nhìn và chờ anh ta bảo xem phải làm gì tiếp theo cơ! Cứ vài giây anh ta lại vỗ tay vào đùi một chập như thể bị mắc chứng run khi cai rượu và nói, ‘Giờ thì ổn rồi, ổn rồi,’ và cười rinh rích như một thằng dở, đoạn lại nói ‘Giờ thì ổn rồi, ổn rồi,’ và lại cười rinh rích như một thằng dở thêm một lúc nữa. Cảm giác như đang nhìn một kẻ tâm thần. Trong suốt một vài phút đầu tiên, việc ngồi nhìn anh ta như vậy là điều duy nhất đã giúp cho chúng tôi không suy sụp tuyệt vọng cả lũ, cái cảm giác cứ đến mỗi khi có một con sóng giội qua chúng tôi tràn vào bè hay xô luôn vài thằng xuống biển để rồi lại phải trèo vội lên trước khi đợt sóng tiếp theo lại xô chúng tôi xuống. Cảnh đó vui lắm. Chúng tôi cứ bị ngã ra rồi lại trèo lên. Chúng tôi đã để gã không biết bơi ấy nằm soài ra dưới sàn bè, nhưng ngay cả ở đó thì anh ta cũng suýt chết đuối, bởi vì nước trong bè cũng đủ nhiều để liên tục tạt vào mặt anh ta. Ối giời ơi!
“Sau đó Orr mở các khoang chứa trong bè cứu sinh ra và lúc này mới thực sự là vui đây này. Đầu tiên anh ta tìm được một hộp sô cô la và chuyền tay chia cho mọi người, thế là chúng tôi ngồi đó ăn những thanh sô cô la mặn chát trong khi sóng biển vẫn liên tục xô chúng tôi khỏi bè xuống nước. Tiếp theo, anh ta tìm được mấy viên canh thịt cùng mấy cốc nhôm và làm cho chúng tôi một ít xúp. Rồi anh ta tìm được ít trà. Đương nhiên, anh ta phải pha trà! Anh có thể hình dung ra cảnh anh ta mời chúng tôi uống trà trong khi chúng tôi ngồi đó sũng nước đến tận mông không? Tôi thì văng luôn khỏi bè vì cười dữ quá. Cả bọn đều cười sằng sặc. Nhưng anh ta thì rất chi nghiêm túc, mỗi tội cứ cười rinh rích ngớ ngẩn và nhăn nhở điên rồ. Điên thế cơ chứ! Tìm được gì là anh ta liền dùng luôn. Tìm được chất đuổi cá mập, anh ta bèn rắc xuống nước ngay. Tìm thấy chất tạo màu để đánh dấu trên biển, anh ta lập tức ném xuống nước. Tiếp theo anh ta tìm được một dây câu và mồi khô, mặt anh ta sáng bừng lên như thể đội cứu hộ đã tới cứu được chúng tôi trước khi chúng tôi chết vì phơi thân trên biển hoặc trước khi quân Đức điều một chiếc tàu từ Spezia đến để bắt cả lũ làm tù binh hay nã cho một tràng súng máy tiêu diệt sạch. Rất nhanh chóng, Orr tung sợi dây câu đó xuống biển, và hớn hở hát hò như một chú chim chiền chiện. ‘Trung úy, anh mong sẽ câu được cái gì vậy?’ tôi hỏi anh ta. ‘Cá tuyết,’ anh ta bảo tôi. Và anh ta nghiêm túc đấy. May mà anh ta không câu được con nào, vì nếu câu được thì chắc là anh ta đã ăn sống luôn nó, có khi còn bắt cả bọn ăn cùng nữa, bởi vì anh ta đã tìm được trong bè cứu sinh một tập sách nhỏ trong đó nói rằng có thể ăn sống cá tuyết.
“Tiếp đến anh ta tìm được một mái chèo màu xanh nhỏ xíu như chiếc thìa gỗ dùng một lần, và tất nhiên là anh ta bắt đầu chèo, như thể đang cố di chuyển cả đám nặng cỡ chín trăm pound(62) chúng tôi bằng cái que bé xíu đó. Anh có thể tưởng tượng nổi không? Sau đó anh ta lại tìm được một chiếc la bàn nhỏ và một tấm bản đồ chống nước lớn, anh ta bèn trải bản đồ ra trên đầu gối và đặt la bàn lên đó. Và đó là cách anh ta tiêu thời gian cho đến khi tàu cứu hộ tới đón chúng tôi vào khoảng ba mươi phút sau: ngồi đó với sợi dây câu đã buộc mồi buông xuống nước ở đằng sau, la bàn trong lòng và bản đồ trải ra trên đầu gối, và vận hết sức chèo đi bằng mái chèo màu xanh nhỏ xinh như thể đang tăng tốc thẳng tiến tới Majorca vậy. Chúa ơi!”
Trung sĩ Knight biết mọi thứ về Majorca, và Orr cũng vậy, bởi vì Yossarian đã thường xuyên kể cho họ về những nơi trú ẩn như Tây Ban Nha, Thụy Sĩ và Thụy Điển, chỉ cần bay tới những nơi đó là phi công Mỹ có thể sẽ bị giam giữ đến tận khi cuộc chiến kết thúc trong những điều kiện cực kỳ thoải mái và xa hoa. Yossarian là chuyên gia hàng đầu về các vụ giam giữ kiểu ấy của phi đoàn và lần nào phải bay vào miền cực Bắc nước Ý làm nhiệm vụ y cũng âm mưu làm một quả thoát thân khẩn cấp sang Thụy Sĩ. Tất nhiên là y thích Thụy Điển hơn, nơi có trình độ dân trí cao và là nơi y có thể bơi khỏa thân cùng những cô gái đẹp nói giọng nhỏ nhẹ rụt rè rồi đẻ ra cả một bộ lạc những Yossarian nhí ngoài giá thú hạnh phúc và vô kỷ luật mà chính phủ sẽ trợ giúp trong suốt quá trình tạo ra chúng rồi đưa chúng vào đời không vết nhục; nhưng Thụy Điển lại ở quá xa, ngoài tầm với, và Yossarian cứ đợi một quả đạn phòng không phá hỏng một động cơ trên bầu trời dãy Alps nước Ý để y có cớ phi thẳng sang Thụy Sĩ. Thậm chí y sẽ không cho phi công biết y đang dẫn gã tới đó. Yossarian cũng hay nghĩ đến việc câu kết với phi công nào đấy mà y tin tưởng để cùng giả vờ bị hỏng động cơ và sau đó hủy sạch mọi bằng chứng giả mạo bằng một cú hạ cánh bằng bụng máy bay, có điều phi công duy nhất mà y thực sự tin tưởng là McWatt, mà gã này chỉ khoái nhất là được ở nguyên trạng và vẫn đang tìm được niềm vui lớn từ việc cho máy bay ù ù liệng trên lều của Yossarian hoặc ầm ầm lượn xuống trên đầu những người đang tắm ở bãi biển, thấp tới mức luồng gió dữ dội từ cánh quạt rạch thành những đường sẫm màu trên mặt nước và quật cho những mảng bụi nước bắn lên phần phật tới vài giây sau.
Dobbs và Hungry Joe thì không nói làm gì, cả Orr cũng vậy, gã này lại đang sửa van lò sưởi thì Yossarian tập tễnh chán nản quay lại lều sau khi bị Dobbs từ chối. Cái lò mà Orr đang chế tác từ một chiếc thùng hình ống bằng kim loại lật ngược đặt giữa nền xi măng nhẵn thín mà chính gã đã xây. Gã quỳ cả hai đầu gối xuống mà cần mẫn làm việc. Yossarian cố không để ý gì đến gã và mệt mỏi tập tễnh lê về giường xếp, rồi ngồi xuống với một tiếng rên khó nhọc kéo dài. Mồ hôi lấm tấm trên trán y giờ trở nên lạnh toát. Dobbs đã làm y chán nản. Bác sĩ Daneeka đã làm y chán nản. Khi y nhìn Orr thì một thị kiến đầy điềm gở về tận thế cũng làm y chán nản. Y bắt đầu lập cập vì hàng loạt những cơn run rẩy từ bên trong. Những sợi dây thần kinh co giật, và mạch máu ở một bên cổ tay đã bắt đầu đập nhanh.
Orr ngoái lại quan sát Yossarian rất kỹ, cặp môi ẩm ướt phủ rút lại quanh hai hàng răng vẩu to đùng. Dịch sang bên, gã lôi một chai bia ấm ra khỏi tủ cá nhân và đưa nó cho Yossarian sau khi mở nắp. Không ai nói một lời nào. Yossarian nhấp bọt bia khỏi miệng chai và ngả đầu ra sau. Orr xảo trá nhìn y và nhăn nhở cười không thành tiếng. Yossarian cảnh giác liếc nhìn Orr. Orr cười khì khì và quay lại với công việc của gã, ngồi xổm xuống. Yossarian trở nên căng thẳng.
“Đừng,” y cầu xin với giọng đầy hăm dọa, hai bàn tay siết chặt lấy chai bia. “Đừng lại loay hoay với cái lò nữa.”
Orr khẽ khục khặc. “Tôi sắp xong rồi mà.”
“Không, không phải. Anh mới bắt đầu thôi.”
“Đây là cái van. Thấy không? Gần như đã nối được chúng với nhau rồi.”
“Và anh sẽ lại gỡ chúng ra. Tôi biết anh đang làm gì, đồ chết tiệt. Tôi đã chứng kiến anh làm việc đó ba trăm lần rồi.”
Orr run lên vì vui sướng. “Tôi muốn tìm được chỗ rò ở ống dẫn ga,” gã giải thích. “Giờ thì tôi đã tìm được chỗ rồi.”
“Cứ nhìn anh mãi như vậy tôi không chịu được,” Yossarian yếu ớt thú nhận. “Nếu anh muốn làm thứ gì to thì được. Nhưng cái van đó toàn những mẩu nhỏ xíu, và lúc này đây tôi không có đủ kiên nhẫn để nhìn anh vất vả đến thế với những thứ nhỏ tí và vặt vãnh chết tiệt như thế này.”
“Chỉ vì chúng nhỏ tí không có nghĩa là chúng vặt vãnh.”
“Tôi không quan tâm.”
“Nốt lần này thôi được không?”
“Chỉ khi nào tôi không có ở đây. Anh là một gã khờ vui vẻ và anh không hiểu nổi cảm xúc của tôi đâu. Khi anh cứ loay hoay với mấy thứ nhỏ tí đấy có nhiều thứ đã nảy ra trong tôi mà thậm chí tôi không biết phải giải thích từ đâu. Tôi phát hiện ra rằng tôi không thể chịu nổi anh. Tôi bắt đầu căm ghét anh, và chẳng mấy chốc nữa tôi sẽ nghiêm túc mà nghĩ tới việc đập cái chai này lên đầu anh hoặc lấy con dao săn đằng kia đâm vào cổ anh. Anh có hiểu không?”
Orr làm ra vẻ thông thái gật đầu. “Thế thì tôi sẽ không tháo cái van này ra nữa vậy,” gã nói, và bắt đầu gỡ nó ra, làm việc với độ chính xác cao một cách chậm rãi, không mệt mỏi, như thể không bao giờ kết thúc, gương mặt quê mùa, vụng về của gã cúi xuống sát sàn nhà, chịu khó nhón đầu ngón tay nhặt món đồ cơ khí nhỏ xíu ấy lên với một sự tập trung cật lực không bờ bến đến nỗi có vẻ như gã không hề suy nghĩ gì đến việc mình đang làm nữa.
Yossarian thầm nguyền rủa gã và hạ quyết tâm lờ gã đi. “Mà thế quái nào anh cứ phải vội vàng với cái lò sưởi đó vậy?” một lúc sau y buột miệng gắt lên. “Trời mùa này vẫn nóng. Tí nữa có khi chúng ta còn đi bơi. Anh cứ lo về cái lạnh làm gì chứ.”
“Ngày đang ngắn lại,” Orr nói đậm vẻ triết lý. “Tôi muốn hoàn thành tất cả những cái này cho anh trong khi vẫn có thời gian. Khi nào tôi xong thì anh sẽ có lò sưởi tốt nhất phi đoàn này. Nó sẽ cháy cả đêm với chiếc van mà tôi đang sửa, và những miếng kim loại này sẽ tỏa nhiệt ra khắp lều. Nếu anh để một mũ đựng đầy nước lên cái này khi đi ngủ, thì đến khi tỉnh dậy anh sẽ có sẵn nước ấm để rửa ráy ngay. Như thế không tuyệt sao? Nếu anh muốn luộc trứng hay nấu xúp, tất cả những gì anh cần làm là đặt nồi lên đây và bật lửa.”
“Ý anh là sao, tôi thôi hả?” Yossarian muốn biết. “Thế còn anh sẽ ở đâu?”
Nửa trên thân hình còi cọc của Orr bất chợt run lên vì một cơn phấn khích nghẹt thở. “Tôi không biết nữa,” gã thốt lên, và một tiếng cười rúc rích kỳ cục, run rẩy bất ngờ vuột ra khỏi những chiếc răng bự chảng đang đánh vào nhau lập cập của gã như một cú bùng nổ cảm xúc tuôn trào. Gã vẫn cười khi nói tiếp, giọng nghẹn ngào bởi nước bọt. “Nếu họ cứ tiếp tục bắn rơi tôi như thế này thì tôi cũng không biết tôi sẽ ở đâu.”
Yossarian mủi lòng. “Tại sao anh không thử ngừng bay, Orr? Anh có lý do mà.”
“Tôi chỉ mới bay có mười tám trận.”
“Nhưng gần như lần bay nào anh cũng bị bắn rơi. Mỗi lần bay lên là một lần anh phải hạ cánh khẩn cấp hoặc hạ cánh xuống biển.”
“Ồ, tôi không ngại bay ra trận đâu. Tôi cho rằng như thế rất vui. Khi nào không phải bay dẫn đường anh nên thử bay với tôi vài lần xem. Chỉ để cười. Hê hê.” Orr ngước lên nhìn Yossarian qua khóe mắt với vẻ đùa giỡn cố ý phô ra.
Yossarian lảng tránh ánh mắt gã. “Họ lại bắt tôi bay dẫn đường.”
“Thì đợi đến khi nào anh không phải bay dẫn đầu. Còn nếu anh đủ thông minh, anh có biết là anh cần làm gì không? Anh hãy đến thẳng chỗ Piltchard và Wren, nói với họ rằng anh muốn bay cùng tôi.”
“Và bị rơi xuống cùng anh mỗi lần anh bay lên ư? Như thế thì có gì vui?”
“Đó chính là lý do tại sao anh nên làm như tôi nói,” Orr nài nỉ. “Tôi nghĩ tôi là phi công cừ nhất ở đây về khoản hạ cánh khẩn cấp hoặc hạ cánh xuống biển. Nó sẽ là cơ hội thực hành rất tốt cho anh.”
“Thực hành tốt cho cái gì cơ?”
“Thực hành tốt trong trường hợp anh phải hạ cánh xuống biển hoặc phải hạ cánh khẩn cấp. Hê hê hê.”
“Anh còn chai bia nào nữa cho tôi không?” Yossarian rầu rĩ hỏi.
“Anh có muốn đập nó lên đầu tôi không?”
Lần này Yossarian cũng phì cười. “Giống như cô điếm trong căn hộ ở Rome đó á?”
Orr cười khẩy đầy dâm dật, cặp má quả táo dại phồng lên khoái trá. “Anh có thực muốn biết tại sao cô ta nện giày vào đầu tôi như vậy không?”
“Tôi biết rồi,” Yossarian trêu lại. “Cô điếm của Nately đã nói cho tôi biết.”
Orr toét miệng cười như một tượng đầu người kệch cỡm. “Không, làm gì có chuyện cô ấy nói.”
Yossarian cảm thấy thương hại Orr. Orr quá nhỏ bé và xấu xí. Gã mà có sống được thì ai sẽ bảo vệ gã đây? Ai sẽ bảo vệ một thằng lùn tốt bụng và suy nghĩ giản đơn như Orr khỏi đám côn đồ, băng nhóm và những lực sĩ xì po như Appleby, những kẻ có ruồi trong mắt với vẻ tinh tướng và tự phụ nghênh ngang sẽ chà đạp gã ngay mỗi khi có thể? Yossarian thường xuyên lo lắng cho Orr. Ai sẽ bảo vệ gã khỏi sự thù địch và lừa dối, khỏi những kẻ tham vọng và khởi sự hợm hĩnh đầy cay cú của bà vợ sếp, khởi sự sỉ nhục dơ dáy thối tha của động cơ lợi nhuận và khỏi tay hàng thịt thân thiện bán toàn hàng thứ phẩm gần đó? Orr là một gã ngốc vui vẻ và ngây thơ có mái tóc dày lượn sóng nhiều màu rẽ ngôi giữa. Với bọn họ gã chỉ là trò trẻ con. Họ sẽ lấy tiền của gã, ngủ với vợ gã và không có chút tử tế nào với đàn con của gã. Yossarian chợt thấy một dòng thác lũ thương xót gã giội qua người mình.
Orr là một gã tí hon lập dị, một chú lùn đồng bóng và dễ thương với đầu óc dâm ô cùng một nghìn kỹ năng quý giá sẽ giữ cho gã ở trong nhóm những người có thu nhập thấp trong suốt cuộc đời. Gã có thể sử dụng một mỏ hàn mà ghép hai tấm gỗ lại sao cho gỗ không hề nứt và đinh không bị cong. Gã có thể khoan lỗ. Gã đã làm được rất nhiều đồ ở trong lều trong thời gian Yossarian nằm viện. Gã đã giũa và đục một rãnh hoàn hảo vào lớp xi măng sao cho ống dẫn ga mảnh mai kia không bị trồi lên khỏi mặt sàn khi nó chạy từ bể chứa gã xây từ trước trên một bục cao bên ngoài tới lò. Gã đã tạo ra vỉ lò từ những mảnh bom thừa và chất đầy lên đó những khúc củi mập mạp màu bạc, và gã làm khung cho những bức hình mấy cô ngực khủng xé ra từ tạp chí khiêu dâm để treo lên trên bệ lò sưởi. Orr có thể mở đuợc một hộp sơn. Gã có thể pha trộn sơn, làm loãng sơn, xóa sơn. Gã có thể chặt gỗ và đo đạc mọi thứ bằng thước. Gã biết cách dựng bếp lửa trại. Gã có thể đào hố, và gã có biệt tài mang nước về cho những cái hố ấy bằng cả ca lẫn bi đông từ các bể nước chỗ nhà ăn. Gã có thể mê mải trong những việc vụn vặt hàng giờ mà không sốt ruột hoặc chán, miễn nhiễm với mệt mỏi như một gốc cây, và cũng lầm lì y như thế. Gã có hiểu biết phi thường về cuộc sống hoang dã và không sợ chó hay mèo hay bọ cánh cứng hay nhậy, hay những món ăn như cá tuyết hay lòng bò.
Yossarian thở dài ủ rũ và bắt đầu lo phiền về tin đồn lại phải bay tới Bologna. Cái van mà Orr đang tháo ra có kích cỡ của một ngón tay cái và có khoảng ba mươi bảy mảnh khác nhau, chưa kể vỏ, rất nhiều mảnh trong số đó nhỏ tới mức Orr phải dùng đầu móng tay kẹp chặt trong lúc cẩn thận đặt chúng xuống sàn thành hàng theo đúng thứ tự và chủng loại, giữ cho mọi cử động của mình không nhanh lên không chậm đi, không mệt mỏi, không ngừng lại trong toàn bộ quá trình đơn điệu, trật tự, liên tục đó nếu không phải là để liếc Yossarian với vẻ láu cá điên rồ. Yossarian cố không nhìn gã. Y đếm số lượng các chi tiết của cái van và nghĩ nhờ đó y có thể quên đi mọi thứ. Y quay đi, nhắm mắt lại, nhưng như thế còn tệ hơn, bởi vì giờ thì chỉ còn lại những âm thanh, những tiếng lách cách khe khẽ, dứt khoát, không biết mỏi mệt, khiến người ta phát điên và tiếng sột soạt của bàn tay cùng những chi tiết nhẹ tênh. Tiếng thở nhịp nhàng của Orr nghe như một tiếng rống kinh tởm. Yossarian siết chặt nắm tay và nhìn về phía con dao săn dài có cán bằng xương đựng trong bao súng bên trên giường của người chết trong lều. Y chỉ vừa nghĩ tới việc đâm Orr thì nỗi căng thẳng của y liền dịu bớt. Ý nghĩ giết Orr ngớ ngẩn tới mức y bắt đầu nghiêm túc xem xét nó với một sự háo hức kỳ dị. Y săm soi gáy Orr tìm vị trí hành tủy. Chỉ cần một cú chọc thanh nhã nhất vào đó cũng đủ giết chết gã và giải quyết được bao nhiêu vấn đề nghiêm trọng và khốn khổ cho cả hai người bọn họ.
“Có đau không?” Orr hỏi đúng lúc đó, như thể có bản năng tự vệ xui khiến.
Yossarian nhìn kỹ gã. “Cái gì đau cơ?”
“Chân anh,” Orr nói với một tiếng cười lạ kỳ, bí hiểm. “Anh vẫn còn hơi tập tễnh.”
“Chỉ là thói quen ấy mà, tôi nghĩ vậy,” Yossarian nói, và thở phào nhẹ nhõm. “Tôi sẽ sớm khỏi thôi.”
Orr chống một bên đầu gối xuống sàn nhổm dậy, mặt hướng về Yossarian. “Anh có nhớ,” gã ề à trầm ngâm, có vẻ như phải cố gắng lắm, “cái cô cứ nện vào đầu tôi hồi ở Rome không?” Gã cười khoái trá khi thấy Yossarian mắc bẫy mà bất giác kêu lên một tiếng bực bội. “Tôi sẽ làm một kèo với anh về cô gái đó nhé. Tôi sẽ cho anh hay tại sao hôm đó cô ta cứ lấy giày nện lên đầu tôi nếu như anh chịu trả lời một câu hỏi.”
“Câu hỏi gì?”
“Anh đã từng ngủ với cô gái của Nately bao giờ chưa?” Yossarian phá lên cười ngạc nhiên. “Tôi ư? Không. Giờ thì nói cho tôi biết sao cô gái kia dùng giày đánh anh đi.”
“Không phải là câu hỏi đó,” Orr thông báo với niềm vui chiến thắng. “Đó chỉ là nói chuyện phiếm. Cô ta cư xử như thể là anh đã ngủ với cô ta.”
“Ồ, không phải mà. Cô ta cư xử như thế nào?”
“Cô ta cư xử như thể cô ta không thích anh.”
“Cô ta chẳng thích ai cả.”
“Cô ta thích đại úy Black,” Orr nhắc.
“Đó là vì hắn đối xử với cô ta không ra gì. Bất cứ ai cũng có thể kiếm được một cô gái theo cách đó.”
“Cô ta đeo một vòng nô lệ ghi tên Black ở cổ chân.”
“Gã bắt cô ta đeo nó để chọc tức Nately ấy mà.”
“Cô ta thậm chí còn cho Black một ít tiền kiếm được từ Nately.”
“Này, anh muốn gì ở tôi?”
“Anh đã từng ngủ với cô gái của tôi bao giờ chưa?”
“Gái của anh? Gái của anh là em quái nào vậy?”
“Chính là em đã nện giày lên đầu tôi đó.”
“Tôi đã từng ngủ với cô ta mấy lần,” Yossarian thú nhận. “Cô ta trở thành cô gái của anh từ khi nào vậy? Anh đang có ý đồ gì đấy?”
“Cô ta cũng chẳng thích anh.”
“Thế quái nào mà tôi lại quan tâm xem cô ta thích mình hay không? Cô ta thích tôi cũng nhiều như thích anh thôi.”
“Cô ta đã bao giờ lấy giày nện lên đầu anh chưa?”
“Orr, tôi mệt rồi. Sao anh không cho tôi yên?”
“Hê hê hê. Thế còn nữ bá tước mảnh mai ở Rome và cô con dâu mảnh mai của bà ấy thì sao?” Orr cứ nhằng nhẵng, càng lúc càng hứng thú. “Anh đã ngủ với bọn họ bao giờ chưa?”
“Ồ, giá mà được như vậy,” Yossarian thật thà thở dài, và vừa nghe câu hỏi đó đã lập tức tưởng tượng ra cảm giác khát khao, quen thuộc, đồi trụy khi đôi bàn tay của y được vuốt ve những bộ ngực và những cặp mông mềm mại, nhỏ xíu đó.
“Họ cũng chẳng thích anh,” Orr bình luận. “Họ thích Aarfy, và họ thích Nately, nhưng họ không thích anh. Phụ nữ có vẻ như không thích anh. Tôi đoán họ cho anh là người có ảnh hưởng xấu.”
“Phụ nữ thật là điên rồ,” Yossarian trả lời, và toét miệng cười trong lúc chờ câu hỏi tiếp theo mà y đã đoán được.
“Thế cô gái kia của anh thì sao?” Orr hỏi, mặt trầm ngâm ra vẻ tò mò. “Cô béo ú? Bị hói ấy? Anh biết đấy, cô béo ú bị hói Ở Sicily đội khăn turban cứ vã mồ hôi ra khắp người chúng ta suốt cả đêm ấy? Cô ta cũng điên à?”
“Không phải cô ta cũng không thích tôi sao?”
“Sao anh có thể làm vậy với một cô gái không có tóc?”
“Sao tôi biết được là cô ta không có tóc?”
“Tôi biết,” Orr khoác lác, “tôi biết ngay mà.”
“Anh biết là cô ta bị hói á?” Yossarian ngạc nhiên thốt lên.
“Không, tôi biết là chiếc van này sẽ không hoạt động nếu như tôi bỏ quên một bộ phận ở ngoài,” Orr trả lời, mặt đỏ bừng hãnh diện vì đã bịp được Yossarian thêm một lần nữa. “Anh có thể đưa giùm tôi vòng đệm nhỏ đang nằm lăn ở góc kia được không? Nó ở ngay sát chân anh đó.”
“Không, không có.”
“Đây này,” Orr nói và lấy đầu móng tay gắp lên một cái gì đó vô hình và giương lên cho Yossarian nhìn. “Giờ thì tôi lại phải lắp lại từ đầu.”
“Tôi sẽ giết anh nếu như anh làm điều đó. Tôi sẽ xử anh ngay tại đây.”
“Tại sao anh không bao giờ bay với tôi?” Orr bất chợt hỏi, và lần đầu tiên nhìn thẳng vào mắt Yossarian. “Đây chính là câu hỏi mà tôi muốn anh trả lời. Tại sao anh không bao giờ bay với tôi?”
Yossarian quay mặt đi, bối rối và xấu hổ dữ dội. “Tôi đã nói với anh rồi. Hầu như lần nào họ cũng bắt tôi phải làm người cắt bom trưởng dẫn đường.”
“Đó không phải là lý do,” Orr nói và lắc đầu. “Anh đã tới gặp Piltchard và Wren sau trận Avignon đầu tiên và bảo với họ rằng anh không bao giờ muốn bay cùng với tôi. Đó mới là lý do, có phải không?”
Yossarian cảm thấy da mặt nóng bừng lên. “Không, tôi không làm vậy,” y nói dối.
“Có đấy, anh đã làm vậy đấy,” Orr trầm tĩnh quả quyết. “Anh đã đòi họ không được xếp anh lên bất cứ máy bay nào có tôi lái, hoặc có Dobbs hay Huple bởi vì anh không tin tưởng chúng tôi. Và Piltchard và Wren đã nói rằng họ không thể biệt đãi anh bởi vì như thế thì sẽ không công bằng với tất cả những người phải bay cùng chúng tôi.”
“Vậy thì sao?” Yossarian nói. “Như thế thì chẳng có gì khác nhau cả, có phải không?”
“Nhưng họ đã không bao giờ bắt anh bay với tôi.” Orr nói, rồi lại quỳ cả hai chân xuống để làm việc, nói câu đó với Yossarian không chút cay đắng hay trách móc, mà với vẻ cam chịu đầy tổn thương, đương nhiên như vậy còn gây đau khổ cho người chứng kiến hơn nhiều, mặc dù gã vẫn đang nhăn nhở và khúc khích, cứ như thể toàn bộ tình huống này thật hoạt kê. “Anh thực sự nên bay với tôi, thật đấy. Tôi là một phi công khá cừ, và tôi sẽ lo cho anh. Tôi có thể bị bắn hạ rất nhiều lần, nhưng đó không phải là lỗi của tôi, và chưa từng có ai trong máy bay tôi lái bị thương cả. Đúng đấy, sếp ạ - nếu anh có chút đầu óc, anh sẽ biết là anh cần làm gì. Anh sẽ đi tới gặp Piltchard và Wren, và bảo với họ rằng anh muốn bay với tôi trong mọi trận.”
Yossarian chồm người về phía trước và nhòm sát vào cái mặt nạ bí hiểm đầy những xúc cảm trái ngược của Orr. “Có phải là anh đang cố nói cho tôi một điều gì đó không?”
“Hê hê hê hê,” Orr đáp. “Tôi đang cố nói cho anh biết tại sao hôm ấy cô gái cao lớn đó lại nện giày lên đầu tôi. Nhưng anh cứ không cho tôi nói.”
“Thì nói đi.”
“Anh bay với tôi nhé?”
Yossarian phá lên cười và lắc đầu. “Anh sẽ lại bị rơi xuống nước thôi.”
Orr đúng là lại bị bắn rơi xuống nước khi bọn họ thực sự phải bay tới Bologna lần hai như tin đồn, và gã đã cho chiếc máy bay chỉ còn một động cơ hạ cánh với một tiếng ầm chói tai xuống những ngọn sóng của mặt biển động lộng gió đang tung lên cao rồi rơi xuống bên dưới những đám mây dông đen sì hung hãn đang vần vũ trên đầu. Gã đã rời khỏi máy bay trễ và rốt cuộc chỉ có một mình trên một chiếc bè cứu sinh đang dần trôi ra xa khỏi chiếc bè mà những người còn lại đã yên vị và rồi khuất dạng từ trước cả khi tàu cứu hộ cày qua gió và màn mưa xối xả tới đón. Khi họ trở về phi đoàn thì trời đã tối. Không có tin tức gì về Orr.
“Đừng lo,” Kid Sampson vỗ về, người vẫn được bọc trong chăn dày và áo mưa mà đội cứu hộ đã quấn lên gã lúc ở trên boong. “Nếu chưa chết chìm trong cơn bão đó thì có khi anh ta cũng đã được cứu rồi. Bão sẽ không kéo dài đâu mà. Tôi cá là anh ta sẽ thò mặt ra bất cứ lúc nào.”
Yossarian đi về lều để đợi Orr thò mặt ra bất cứ lúc nào và nhóm lửa lên để giữ ấm lều chờ gã. Lò sưởi hoạt động rất tốt, với ngọn lửa mạnh, rừng rực mà y có thể điều chỉnh mức độ bằng cách xoay cái núm mà Orr cuối cùng cũng đã sửa xong. Trời đang mưa nhẹ, tí tách rơi xuống căn lều, cây cối, mặt đất. Yossarian nấu một lon xúp nóng chờ Orr và rồi ăn hết khi thời gian cứ trôi đi mãi. Y luộc mấy quả trứng cho Orr và rồi cũng lại ăn hết. Rồi y ăn luôn cả một hộp pho mát Cheddar trong gói khẩu phần ăn quân đội.
Mỗi lần lo lắng thì y lại tự trấn an rằng Orr có thể làm được mọi thứ và rồi lặng lẽ phì cười khi nghĩ tới hình ảnh Orr ở trên bè cứu sinh như lời miêu tả của trung sĩ Knight, Orr gập người về phía trước với một nụ cười mê mải, tập trung cao độ bên trên tấm bản đồ và cái la bàn trong lòng, vừa liên tục nhồi hết thanh sô cô la ướt này tới thanh sô cô la ướt khác vào cái miệng toe toét cười khúc khích vừa mải miết chèo chiếc bè qua mưa bão sấm chớp bằng cái mái chèo đồ chơi vô dụng màu xanh dương sáng, kéo theo phía sau gã một dây câu mắc mồi khô. Yossarian thực sự không nghi ngờ gì khả năng sống sót của Orr. Nếu có thể câu được cá bằng cái dây câu ngớ ngẩn đó, thì Orr sẽ bắt cá và nếu đã định câu cá tuyết thì Orr sẽ tóm được cá tuyết, mặc dù từ trước đến giờ chưa từng có ai câu được cá tuyết ở vùng biển đó. Yossarian nấu thêm một bát xúp nữa và lại ăn hết khi nó vẫn còn nóng. Mỗi khi có tiếng sập cửa xe ô tô, y lại nở một nụ cười hy vọng và quay về phía cửa mong ngóng, lắng nghe tiếng chân đi. Y biết là bất cứ lúc nào Orr đều có thể bước vào lều với cặp mắt to, lấp lánh và ướt sũng nước mưa, má phình và răng thỏ, nhìn lố bịch như một tay bắt sò vui tính vùng New England trong chiếc mũ đi mưa vải dầu vàng và chiếc áo mưa quá rộng so với gã, rồi đứng đó kiêu hãnh khoe với Yossarian con cá tuyết bự chảng đã chết mà gã câu được. Nhưng điều đó đã không xảy ra.
62. Tương đương khoảng 408 kg.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22