Hai Mươi Sáu
ặt trời đội mũ lên rồi, Hoan hô, hoan hô, hoan hô
L. ARTHUR ROSE VÀ DOUGLAS FURBER
Giờ chúng tôi đã về lại nóc tòa lãnh sự. Nói thế để anh tiện theo dõi.
Mặt trời đã lấp ló phía chân trời, làm những lớp màu đen tan thành những dải trắng nhợt, và tôi tự nhủ, nếu như có quyền quyết định, tôi sẽ gọi trực thăng vào lúc này. Mặt trời thật mạnh mẽ, thật chói lọi và đang tuyệt vọng che giấu, không cho tôi biết rằng trực thăng có lẽ đã có mặt ở đó rồi - có thể có tới năm chục chiếc đang quẩn đảo khoảng hai chục mét phía trên đầu tôi, đang xem tôi dỡ hai gói giấy dầu màu nâu.
Có điều, tất nhiên là tôi nghe thấy chúng. Hy vọng thế.
“Ông muốn gì?” Murdah hỏi.
Ông ta đang ở đằng sau tôi, có lẽ khoảng sáu mét. Tôi đã còng ông ta vào lối thoát cứu hỏa trong khi làm các việc lặt vặt của mình, và có vẻ ông ta không thích điều đó cho lắm. Xem ra ông ta đang bối rối.
“Ông muốn cái gì?” Ông ta gào lên.
Tôi không trả lời, bởi thế ông ta tiếp tục gào lên. Không phải gào những từ rõ ràng. Hoặc ít nhất là tôi không nhận ra bất cứ từ nào trong đó. Tôi huýt sáo vài nốt gì đó để át cái âm thanh ấy đi, và tiếp tục gắn ghim A vào lỗ B, trong khi chắc chắn rằng cáp C không làm nghẽn giá D.
“Điều tôi muốn là để cho ông được thấy nó tới,” cuối cùng tôi nói. “Thế thôi.”
Giờ tôi quay lại nhìn ông ta, để xem ông ta cảm thấy tệ đến mức nào. Rất tệ, và tôi không thấy mình phiền lắm vì điều đó.
“Ông điên rồi,” ông ta hét lên, giật mạnh cổ tay. “Tôi ở đây. Ông thấy không?” Ông ta cười, hoặc gần như cười, bởi vì ông ta không thể tin được tôi ngu ngốc đến thế. “Tôi ở đây. Sau Đại học sẽ không tới, bởi vì tôi đang ở đây.”
Tôi quay đi, nheo mắt nhìn bức tường thấp của ánh sáng mặt trời.
“Tôi hy vọng thế, Naimh,” tôi nói. “Tôi thực sự hy vọng thế. Tôi hy vọng ông vẫn còn hơn một phiếu nữa.”
Có một khoảng lặng. Và khi quay lại phía ông ta, tôi thấy nét xán lạn trên khuôn mặt đó đã gấp lại thành một cái cau mày.
“Phiếu,” cuối cùng ông ta nói, với giọng nhỏ nhẹ. “Phiếu,” tôi nhắc lại.
Murdah nhìn tôi một cách cẩn trọng. “Tôi không hiểu ông,” ông ta nói.
Bởi thế tôi hít một hơi sâu, và cố gắng diễn giải cho ông ta. “Ông không phải là một tay buôn vũ khí, Naimh,” tôi nói. “Không còn là thế nữa. Tôi đã tước đi cái đặc quyền đó của ông. V ì những tội lỗi của ông. Ông không giàu, không còn quyền lực, không còn quan hệ, và không còn là thành viên của Garrick.” Điều đó không làm ông ta mảy may quan tâm, nên có lẽ ông ta chưa bao giờ là thành viên của Garrick cũng nên. “Tất cả những gì của ông, lúc này, chỉ là một con người. Cũng giống như tất cả chúng tôi. Và, là một con người, ông có một phiếu bầu. Đôi khithậm chí còn không có nữa kia.”
Ông ta nghĩ một cách cẩn trọng trước khi trả lời. Ông ta biết rằng tôi đang điên, nên phải nhẹ nhàng với tôi.
“Tôi không biết ông đang nói gì,” ông ta nói.
“Có chứ, ông biết đấy,” tôi nói. “Ông chỉ không biết rằng liệu tôi có biết điều tôi đang nói hay không thôi.” Mặt trời đã nhô lên cao hơn một chút, đang nhón chân để nhìn chúng tôi rõ hơn. “Tôi đang nói về hai mươi sáu người sẽ được hưởng lợi trực tiếp từ thành công của Sau Đại học, và hàng trăm, có thể hàng ngàn người khác sẽ được hưởng lợi gián tiếp. Những người đã làm việc, đã vận động hành lang, đã đút lót, đã đe dọa, thậm chí giết chóc, chỉ để đạt đến bước này. Bọn họ cũng có phiếu bầu. Lúc này Barnes đang nói với họ, yêu cầu họ cho một câu trả lời có hay không, và ai biết con số kết quả là bao nhiêu?”
Murdah bất động. Mắt ông ta mở to còn miệng há ra, như thể không thích lắm với mùi vị món gì đó. “Hai mươi sáu,” ông ta nói, rất khẽ khàng. “Làm sao mà ông biết được là hai mươi sáu. Sao ông biết được chuyện này?”
Tôi làm vẻ mặt nhún nhường.
“Tôi từng là phóng viên tài chính,” tôi nói. “Trong vòng một giờ. Một người ở Smeets Velde Kerplein đã lần theo dòng tiền ông gửi cho tôi. Và nói cho tôi biết rất nhiều thứ.”
Ông ta cụp mắt xuống, tập trung cao độ. Não bộ ông ta đã đưa ông ta đến đây, giờ nó phải tìm cách cho ông ta thoát.
“Tất nhiên,” tôi nói, ép ông ta vào quỹ đạo, “ông có thể đúng. Có thể cả hai mươi sáu người sẽ cùng hợp lại, hủy nó đi, loại bỏ nó, nói thế nào cũng được. Tôi không muốn đặt cược mạng mình vì nó.”
Tôi ngừng một chút, bởi vì tôi cảm thấy, theo cách này hay cách khác, tôi có quyền làm điều đó.
“Nhưng tôi rất vui lòng đặt cược mạng ông,” tôi nói.
Điều này làm ông ta chấn động. Nó hất văng ông ta khỏi trạng thái đẫn đờ.
“Ông điên à,” ông ta gào lên. “Ông có biết không? Ông có biết ông bị điên không?”
“Được,” tôi nói. “Thế hãy gọi cho họ. Gọi Barnes, bảo ông ta dừng lại. Ông đang ở trên mái nhà với một thằng điên, và bữa tiệc đã kết thúc. Dùng lá phiếu duy nhất của ông đi.”
Ông ta lắc đầu.
“Họ sẽ không tới đâu,” ông ta nói. Và rồi, bằng giọng nhỏ hơn nhiều, “Họ sẽ không tới, bởi vì tôi ở đây.”
Tôi nhún vai, bởi vì đó là tất cả những gì tôi nghĩ được. Tôi cảm thấy rất muốn nhún vai vào lúc này. Kiểu tôi thường cảm thấy trước khi nhảy dù.
“Nói tôi nghe ông muốn gì,” Murdah đột ngột gào lên, và bắt đầu khua lách cách cái cùm tay vào ống sắt của đường thoát hỏa hoạn. Khi nhìn lại, tôi thấy máu ướt đỏ tươi trên cổ tay ông ta.
Thật là ái ngại.
“Tôi muốn ngắm mặt trời mọc,” tôi nói.
Francisco, Cyrus, Latifa, Bernhard và Benjamin khốn kiếp đã nhập cuộc với chúng tôi ở mái nhà trên này, bởi vì dường như đây là chỗ cho những người thú vị tụ tập lúc này. Họ sợ hãi và lúng túng theo những mức khác nhau, không thể nắm bắt điều gì đang xảy ra; họ đã lạc mất vị trí của mình trong kịch bản, và đang hy vọng có ai đó sẽ mau chóng gọi với ra nói cho họ biết họ đang ở trang mấy.
Benjamin, không cần phải nói, đã làm điều tốt nhất là cố đầu độc những người khác chống lại tôi. Nhưng cái tốt nhất đó của anh ta không còn phát huy tác dụng vào lúc bọn họ thấy tôi đang quay trở lại tòa lãnh sự, tay gí súng vào gáy Murdah. Họ thấy điều đó rất lạ. Kỳ quặc. Không nhất quán với giả thuyết Phản Bội của Benjamin.
Bởi thế giờ đây họ đang đứng trước tôi, mắt liếc nhìn từ tôi sang Murdah; họ đang đánh hơi ngọn gió, trong khi Benjamin run rẩy căng thẳng vì ban nãy đã không bắn tôi.
“Ricky, cái quái gì đang xảy ra ở đây thế?” Francisco nói.
Tôi chầm chậm đứng dậy, cảm thấy tiếng rạn nơi đầu gối, và bước lùi lại để ngắm nghía thành quả lao động của mình.
Rồi tôi quay ra xa, vẫy tay về hướng Murdah. Tôi đã tập bài diễn thuyết này vài lần, và tôi nghĩ tôi đã tập ổn gần hết bài. “Người này,” tôi nói với bọn họ, “từng là một lái buônvũ khí.” Tôi lại gần đường thoát hỏa hoạn hơn một chút bởi vì muốn tất cả mọi người đều có thể nghe rõ tôi. “Tên ông ta là Naimh Murdah, ông ta là người đứng đầu bảy công ty riêng lẻ, và là cổ đông chính trong bốn mươi mốt công ty khác. Ông ta có nhà ở Luân Đôn, New York, California, miền Nam nước Pháp, phía Tây Scotland, phía Bắc của bất cứ chỗ nào và nhà nào cũng có bể bơi. Ông ta có thu nhập ròng hơn một tỷ đô la một chút,” nói đến đây tôi quay lại nhìn Murdah, “đó hẳn là một khoảnh khắc rất lý thú nhỉ, Naimh. Thật là một ngày ngọt ngào, tôi có thể tưởng tượng được.” Tôi quay lại với các khán giả của mình. “Quan trọng hơn, từ góc độ của chúng ta, ông ta là chủ sở hữu hơn chín mươi tài khoản ngân hàng riêng rẽ, một trong số đó đã trả lương cho chúng ta trong sáu tháng vừa rồi.”
Dường như không có ai sẵn sàng tham gia, nên tôi táo bạo tấn tới.
“Đây là người đã thai nghén, tổ chức, cung cấp trang bị và tài chính cho Lưỡi gươm Công lý.”
Ngừng lại một chút.
Chỉ có Latifa tạo ra tiếng động; một tiếng khịt nhỏ như không tin, hay sợ hãi, hay giận dữ. Còn lại thì bọn họ đều im lặng.
Họ nhìn Murdah một lúc lâu, tôi cũng thế. Tôi nhận ra rằng giờ đây ông ta còn có cả máu trên cổ - có lẽ tôi đã hơi mạnh tay quá khi đưa ông ta lên cầu thang - nhưng ngoại trừ điều đó, nhìn ông ta vẫn ổn. Tại sao lại không chứ?
“Nhảm nhí,” cuối cùng Latifa nói.
“Đúng thế,” tôi nói. “Nhảm nhí. Ông Murdah, thật nhảm nhí. Ông có đồng tình thế không?”
Murdah nhìn lại chúng tôi, cố gắng một cách tuyệt vọng để xem trong chúng tôi đứa nào ít điên nhất.
“Ông có đồng tình thế không?” Tôi hỏi lại.
“Chúng ta là một lực lượng cách mạng,” đột nhiên Cyrus nói, khiến tôi nhìn sang Francisco - bởi vì thực ra nói điều đó là việc của anh ta. Nhưng Francisco cau mày, nhìn quanh, và tôi biết anh ta đang nghĩ về sự khác biệt giữa bản kế hoạch hành động và hành động thực tế. Không giống sách giáo khoa tí nào, đó là điều Francisco đang phàn nàn.
“Tất nhiên đó là chúng ta,” tôi nói. “Chúng ta là một lực lượng cách mạng, với một nhà tài trợ thương mại. Thế thôi. Người này,” tôi trỏ tay vào Murdah sao cho càng kịch tính càng hay, “đã dựng các anh lên, đã dựng chúng ta lên, đã dựng cả thế giới lên, để mua vũ khí của ông ta.” Họ dịch người một chút. “Đó gọi là tiếp thị. Tạo ra nhu cầu cho một sản phẩm, ở một nơi vốn chỉ có hoa thủy tiên mọc. Đó là điều người này làm.”
Tôi quay đầu nhìn người này, hy vọng ông ta sẽ dự vào mà nói rằng đúng, toàn bộ điều này là sự thật, mỗi một lời trong đó đều là sự thật. Nhưng Murdah có vẻ như không muốn nói, và thay vào đó chúng tôi im lặng một lúc lâu. Rất nhiều suy nghĩ của Da Nâu đang chạy rần rần, va chạm với nhau.
“Vũ khí,” cuối cùng Francisco lên tiếng. Giọng anh ta nhỏ và nhẹ, nghe như đang gọi từ cách xa hàng dặm. “Vũ khí gì?”
Nó đó. Cái giây phút mà tôi phải làm cho họ hiểu. Và tin. “Một chiếc trực thăng,” tôi nói, và tất cả bọn họ giờ đangnhìn tôi. Cả Murdah nữa. “Họ sẽ phái một chiếc trực thăng tới đây để giết chúng ta.”
Murdah hắng giọng.
“Nó sẽ không tới,” ông ta nói, và tôi không chắc ông ta đang cố thuyết phục tôi hay thuyết phục bản thân mình. “Tôi ở đây, và nó sẽ không tới.”
Tôi quay lại với những người khác.
“Kể từ giờ, bất cứ lúc nào,” tôi nói, “một chiếc trực thăng cũng có thể xuất hiện, từ hướng đó.” Tôi chỉ về phía mặt trời, và nhận ra rằng Bernhard là người duy nhất quay lại nhìn. Còn lại bọn họ vẫn đang nhìn tôi. “Một chiếc trực thăng nhỏ hơn, nhanh hơn, được trang bị vũ khí tối tân hơn bất cứ loại nào các vị từng được thấy trong đời. Nó sẽ tới đây, rất mau thôi, sẽ hốt tất cả chúng ta ra khỏi mái nhà này. Có thể nó cũng hốt luôn cả cái mái, và hai tầng tiếp theo nữa, bởi vì nó là một thứ máy móc có sức mạnh không tưởng tượng được.”
Một chút im lặng, vài người trong số họ nhìn xuống dưới chân. Benjamin mở miệng để nói gì đó, hoặc nhiều khả năng hơn là gào lên gì đó, nhưng Francisco chìa một tay ra đặt lên vai Benjamin. Rồi nhìn tôi.
“Chúng tôi biết họ đang gửi trực thăng tới, Rick,” anh ta nói. Chu choa!
Nghe không ổn lắm. Nghe không ổn tí tẹo nào. Tôi nhìn một vòng những khuôn mặt khác, và khi tôi nhìn vào mặt Benjamin, anh ta không thể kiềm chế thêm nữa.
“Mày không thấy à, thằng khốn kiếp?” Anh ta gào lên, và gần như đang cười, anh ta căm ghét tôi quá đỗi. “Chúng tao đã thành công.” Anh ta bắt đầu nhảy lên nhảy xuống ngay tại chỗ, và tôi thấy mũi anh ta lại bắt đầu chảy máu. “Chúng tao đã thành công, và sự phản bội của mày chẳng để làm gì.”
Tôi nhìn lại Francisco.
“Họ đã gọi cho chúng tôi, Rick,” anh ta nói. Giọng anh ta vẫn nhẹ nhàng và xa xôi. “Mười phút trước đây.”
“Sao cơ?” Tôi nói.
Giờ tất cả bọn họ đều đang nhìn tôi, trong khi Francisco nói. “Họ sẽ gửi một trực thăng tới,” anh ta nói. “Để đưa chúng ta tới sân bay.” Anh ta thở dài một tiếng, vai chùng xuống một chút. “Chúng ta đã thắng rồi.”
Ôi, mẹ kiếp, tôi tự nhủ.
Thế là chúng tôi đứng đây, trong một hoang mạc bê tông, với một vài lỗ thoát gió điều hòa nhiệt độ dựng đứng như những cây cọ, trong khi chờ đợi cuộc sống hoặc cái chết. Một nơi dưới ánh mặt trời, hay là một nơi tăm tối.
Tôi phải nói lúc này. Tôi đã thử một vài lần để bọn họ chú ý nghe lời tôi, nhưng có vài cuộc nói chuyện ngu ngốc, vớ vẩn giữa các đồng đội về việc vứt tôi ra khỏi mái nhà, nên tôi lại thôi. Nhưng giờ, mặt trời thật hoàn hảo. Thượng đế đã cúi xuống, đặt mặt trời lên đế đỡ bóng gôn, và lúc này Ngài đang lục lọi túi đựng gậy của Ngài để tìm gậy phát bóng. Đây là thời điểm hoàn hảo, nên tôi phải nói lúc này.
“Thế điều gì đang xảy ra?” tôi hỏi.
Không ai trả lời, bởi vì đơn giản là không ai có thể trả lời. Tất cả chúng tôi biết điều chúng tôi muốn xảy ra, tất nhiên rồi, nhưng mong muốn không thôi thì không còn đủ nữa. Giữa ý tưởng và hiện thực có bóng tối ngăn cách. Tôi rút vài quân bài từ tất cả bốn phần bài. Nghiên cứu chúng.
“Chúng ta sẽ chỉ đứng loanh quanh đây, phải thế không?” “Câm cái mồm đi,” Benjamin nói.
Tôi không chấp anh ta. Tôi phải nói.
“Chúng ta đợi ở đây, trên mái nhà, chờ một chiếc trực thăng. Họ bảo vậy sao?” Vẫn không có ai trả lời. “Có khả năng nào là họ đã gợi ý chúng ta xếp hàng chờ ở đây, với những vòng tròn sáng da cam bọc xung quanh chúng ta?” Im lặng. “Ý tôi là, tôi chỉ băn khoăn không biết ta có thể làm gì để cho chuyện này dễ dàng hơn đối với họ.”
Tôi hướng hầu hết điều này về phía Bernhard, bởi vì tôi có cảm giác anh ta là người duy nhất không chắc chắn. Những người còn lại trong bọn họ đã bám lấy cọng rơm. Họ phấn khích, hy vọng, bận rộn quyết định xem liệu họ có được ngồi cạnh cửa sổ hay không, liệu có đủ thời gian để mua hàng miễn thuế không - nhưng, giống như tôi, Bernhard đã thi thoảng quay nhìn, nheo mắt về phía mặt trời, và có lẽ anh ta cũng nghĩ đây là thời điểm tốt để tấn công ai đó. Đây là thời điểm hoàn hảo, và Bernhard cảm thấy dễ bị tấn công ở nơi đây, trên nóc nhà.
Tôi quay về Murdah. “Nói với họ đi,” tôi nói.
Ông ta lắc đầu. Không phải từ chối. Chỉ là bối rối, và sợ hãi, và một vài thứ khác. Tôi bước vài bước về phía ông ta, làm cho Benjamin đột ngột nâng khẩu Steyr lên.
Tôi vẫn phải bước tới.
“Hãy bảo họ rằng điều tôi nói là đúng,” tôi nói. “Nói với họ ông là ai.”
Murdah nhắm mắt lại một lúc, rồi mở ra. Có lẽ ông ta hy vọng nhìn thấy một bãi cỏ được cắt tỉa gọn ghẽ và những người phục vụ mặc áo khoác trắng, hoặc cái trần phòng ngủ của ông ta; khi nhận ra tất cả những gì trước mắt là một dúm người bẩn thỉu, đói khát, sợ sệt tay cầm súng, ông ta sụp người vào cái tay vịn.
“Ông biết là tôi đúng,” tôi nói. “Chiếc trực thăng đó tới đây, ông biết là vì cái gì. Nó sẽ làm gì. Ông phải nói với họ.” Tôi bước thêm vài bước. “Nói với họ những gì đã xảy ra, tại sao họ sắp bị giết. Hãy dùng lá phiếu của ông.”
Nhưng Murdah đã kiệt sức. Cằm ông ta gục xuống ngực, mắt lại nhắm.
“Murdah...” Tôi nói, rồi dừng lại, bởi vì có ai đó vừa mới suỵt một tiếng ngắn. Đó là Bernhard, và anh ta đang đứng bất động, đang nhìn xuống dưới mái, đầu nghiêng về một bên.
“Tôi nghe thấy nó,” anh ta nói.
Không ai dịch chuyển. Chúng tôi bị đóng băng.
Rồi tôi cũng nghe thấy. Và rồi Latifa, và rồi Francisco. Một con ruồi bay xa xa, trong một cái lọ xa xa.
Murdah hoặc đã nghe thấy, hoặc đã tin là tất cả những người còn lại đã nghe thấy. Cằm ông ta đã nâng khỏi ngực, mắt đã mở to ra.
Nhưng tôi không thể chờ ông ta. Tôi bước lại góc lan can.
“Anh đang làm gì thế?” Francisco nói. “Nó sẽ giết chết chúng ta,” tôi nói. “Nó tới đây để cứu chúng ta, Ricky.” “Giết chúng ta, Francisco.”
“Thằng chó chết,” Benjamin gào lên. “Mày đang làm cái quái gì thế?”
Tất cả bọn họ giờ đang nhìn tôi. Vừa nghe vừa nhìn. Bởi vì tôi đã với xuống cái nút thắt của bọc giấy dầu màu nâu, phơi ra các món châu báu nằm trong đó.
Loại Javelin do Anh quốc sản xuất là một hệ thống tên lửa cá nhân đất đối không gọn nhẹ, siêu thanh. Nó có một động cơ tên lửa đẩy hai tầng, dùng nhiên liệu rắn, tầm bắn hiệu quả từ năm tới sáu ki lô mét, nặng hơn hai mươi bảy cân, và có thể chọn bất cứ màu nào bạn muốn, cho nên màu xanh ô liu cũng vậy.
Hệ thống được tạo bởi hai khối thuận tiện, khối đầu tiên là một bệ phóng khép kín chứa quả tên lửa, khối thứ hai là hệ thống dẫn đường bán tự động, chứa rất nhiều điện tử cực nhỏ, cực thông minh và cực đắt tiền. Một khi đã được dựng lên, cái Javelin sẽ có khả năng thực hiện nhiệm vụ của nó tốt tột bậc.
Nó dành để bắn hạ trực thăng.
Đó là lý do tại sao tôi yêu cầu có nó, anh thấy đấy. Bob Rayner sẽ mua cho tôi một cái ấm pha trà, một cái máy sấy tóc, hay một con BMW mui trần, nếu như tôi trả tiền hợp lý.
Nhưng tôi nói “không, Bob. Bỏ những thứ cám dỗ ấy đi. Tôi muốn một món đồ chơi lớn. Tôi muốn một cái Javelin.”
Cái mô hình cụ thể này, theo lời Bob, đã ngã vào thùng một chiếc xe tải đang rời khỏi kho hàng của Hậu cần Quân đội gần Colchester. Anh có thể tự hỏi làm sao mà chuyện như thế lại có thể xảy ra trong thế giới hiện đại, khi người ta có kiểm tra bằng máy vi tính, có hóa đơn có biên nhận, có lính gác cầm sung đứng ở các cổng ra vào - nhưng hãy tin tôi, quân đội cũng không khác siêu thị Harrods là mấy đâu. Hàng hóa bị co ngót bớt là chuyện thường như cơm bữa.
Chiếc Javelin đã được cẩn thận dỡ ra khỏi thùng xe bởi một vài người bạn của Rayner, họ chuyển nó xuống dưới sàn một chiếc xe buýt nhỏ hiệu VW, nơi nó nằm suốt chặng đường một ngàn hai trăm dặm tới Tangier, tạ ơn Chúa.
Tôi không biết liệu đôi vợ chồng lái chiếc xe có biết nó nằm ở đó hay không. Tôi chỉ biết rằng họ là người New Zealand.
“Mày bỏ cái đó xuống,” Benjamin gào to. “Nếu không thì sao?” tôi nói.
“Tao sẽ giết mày,” anh ta hét lên, dịch lại gần hơn mép mái nhà.
Ngừng lại một chút, và không gian tràn ngập tiếng vo ve. Con ruồi trong lọ đang nổi giận.
“Tôi không quan tâm,” tôi nói. “Tôi không quan tâm. Nếu bỏ thứ này xuống thì đằng nào tôi cũng chết. Bởi thế tôi cứ chơi với nó, cảm ơn.”
“Cisco,” Benjamin gọi trong tuyệt vọng. “Chúng ta đã thắng. Anh nói chúng ta đã thắng.” Không ai trả lời anh ta, bởi thế Benjamin lại bắt đầu nhảy lên nhảy xuống. “Nếu như hắn ta bắn cái trực thăng, họ sẽ giết chúng ta.”
Giờ đã có thêm nhiều tiếng la hét. Nhiều hơn nhiều. Nhưng càng khó mà nói được tiếng la hét tới từ đâu, bởi tiếng vo vo giờ đây đã dần dần chuyển thành tiếng lách cách. Tiếng lách cách từ phía mặt trời.
“Ricky,” Francisco nói, và tôi nhận ra anh ta đang đứng ngay đằng sau tôi. “Anh bỏ cái đó xuống.”
“Nó sẽ giết chúng ta, Francisco,” tôi nói.
“Bỏ nó xuống, Ricky. Tôi đếm tới năm. Anh bỏ nó xuống, không tôi bắn anh. Không giỡn chơi đâu.”
Và tôi nghĩ anh ta thực sự không giỡn chơi. Tôi nghĩ anh ta thực bụng tin rằng cái âm thanh này, cái tiếng đập cánh này, là Ơn Huệ, không phải là Chết Chóc. “Một,” anh ta nói.
“Tùy thuộc vào ông đấy, Naimh,” tôi nói, chỉnh mắt tôi vào cái vòng cao su. “Nói với họ sự thật ngay bây giờ. Nói với họ cái máy này là gì, và nó sẽ làm gì.”
“Hắn sẽ giết chúng ta mất,” Benjamin gào lên, và hình như tôi có thể thấy anh ta nhảy chồm chồm đâu đó bên trái tôi.
“Hai,” Francisco nói. Tôi bật hệ thống dẫn đường lên. Tiếng vo vo đã biến mất, bị dìm xuống bởi tần số thấp hơn của âm thanh từ chiếc trực thăng. Những nốt trầm. Tiếng vỗ cánh. “Nói với họ, Naimh. Nếu họ bắn tôi, tất cả mọi người sẽ chết. Nói với họ sự thật.”
Mặt trời đã trùm ánh sáng khắp bầu trời, trống rỗng và nhẫn tâm. Chỉ có mặt trời và tiếng lách cách.
“Ba,” Francisco nói, và đột nhiên có thứ kim loại gì sau tai trái tôi. Có thể đó là một cái thìa, nhưng tôi không nghĩ thế.
“Có hay không, Naimh? Nó là cái gì?” “Bốn,” Francisco nói.
Âm thanh giờ đã lớn. Lớn như mặt trời. “Bắn nó đi,” Francisco nói.
Nhưng đó không phải là Francisco. Đó là Murdah. Và không phải ông ta đang nói, mà ông ta đang rống lên. Đang điên lên. Đang xé thịt ra ở chỗ cái còng tay, đang chảy máu, đang gào thét, đang quẫy đạp, đá chân đến kiệt lực trên mái nhà. Và giờ tôi nghĩ Francisco đã bắt đầu thét lại ông ta, bảo ông ta im mồm đi, trong khi Bernhard và Latifa đang thét nhau, hay là thét tôi.
Tôi nghĩ, nhưng không chắc lắm. Rằng tất cả bọn họ đã bắt đầu biến mất, anh hiểu không. Biến dần đi, để lại tôi trong một thế giới rất tĩnh lặng.
Bởi vì giờ tôi có thể nhìn thấy nó.
Nhỏ, màu đen, nhanh. Như là con bọ trong kính ngắm.
Sau Đại học.
Tên lửa Hydra. Tên lửa không đối đất Hellfire. Súng.50. Hơn trăm cây số một giờ, nếu cần. Chỉ có một cơ hội.
Nó sẽ tới lấy mục tiêu. Nó chẳng có gì phải sợ chúng tôi. Một lũ khủng bố điên loạn ôm súng tự động, lố nhố ở xa. Chẳng bắn trúng nổi cửa một cái kho thóc.
Trong khi, chỉ cần bấm một nút, Sau Đại học sẽ làm bay một phòng ra khỏi tòa nhà.
Chỉ một cơ hội thôi.
Mặt trời chết tiệt. Sáng chói mắt tôi, làm nhòe hình ảnh trong ống ngắm.
Nước mắt bắt đầu túa ra khỏi mắt tôi vì độ sáng của hình ảnh, nhưng tôi vẫn giữ cho mắt mở.
Bỏ nó xuống, Benjamin đang nói. Đang gào vào tai tôi, từ cách xa hàng ngàn dặm. Bỏ nó xuống.
Chúa ơi, nó nhanh quá. Nó bay cao dọc phía trên mái nhà, có thể khoảng hơn tám trăm mét.
Thằng khốn kiếp chó chết.
Cổ tôi lạnh và cứng. Ai đó hẳn nhiên đang cố dằn tôi xuống. Ấn họng súng vào cổ tôi.
Tao sẽ bắn chết mày, Benjamin gào lên.
Bỏ nắp đậy an toàn, gạt cò xuống. Javelin của các ngài giờ đã được lên nòng, thưa quý ông.
Tập trung vào cú bắn. Bỏ nó xuống.
Mái nhà nổ tung. Vỡ bung ra. Và rồi, chưa đầy một giây sau là tiếng đại bác nổ. Một tiếng nổ kinh hoàng chói tai, rung người. Những mảnh đá văng tung tóe từ phía dưới và từ hai bên, mỗi mảnh trong đó cũng giết chóc như chính những quả đạn đã tạo ra chúng. Khói bụi, dữ dội và hủy diệt. Tôi chớp mắt quay đi, nước mắt chảy xuống mặt tôi khi mặt trời đã buông tha tôi.
Nó đã bay vượt qua lần đầu tiên. Một tốc độ khó tin. Nhanh hơn bất cứ thứ gì tôi từng thấy, một chiến binh hoàn hảo. Và vòng cua của nó thì không tưởng. Chỉ là chống cùi tay xuống và quay. Bay thẳng đường này, quay, bay ngược lại. Không có gì thừa cả.
Tôi có thể ngửi thấy mùi khói từ ống xả của nó.
Tôi lại nâng cái Javelin lên lần nữa, và trong khi làm vậy tôi thấy đầu và vai Benjamin nằm cách nhau chừng mười mét. Phần còn lại của anh ta, trời mà biết ở đâu.
Francisco lại đang gào lên với tôi, nhưng lần này bằng tiếng Tây Ban Nha, và tôi sẽ không bao giờ biết anh ta gào cái gì.
Nó đang tới. Còn hơn bốn trăm mét.
Và lần này thực sự tôi có thể nhìn thấy nó.
Mặt trời giờ đang ở phía sau tôi, đang vươn lên, đang bắt tốc độ, chiếu hết công suất vào cái cục màu đen đầy căm thù đang lao đến phía tôi.
Chữ thập đầu ruồi. Một chấm đen.
Cứ bay thẳng. Không phải lẩn tránh. Có gì phải lo nào? Một lũ khủng bố điên khùng, chẳng có gì phải sợ chúng cả.
Tôi có thể nhìn thấy mặt viên phi công lúc này. Không phải trong ống ngắm, mà trong tâm trí. Từ lúc nó bay qua lần đầu tiên, hình ảnh gương mặt viên phi công đã xuất hiện trong tâm trí tôi.
Đi nào.
Tôi kéo cò, phóng điện bộ pin nhiệt, và giữ cho mình khỏi ngã vì động cơ tầng một đã xô tôi vào góc tường bằng sức mạnh của cú phóng tên lửa.
Newton, tôi nghĩ.
Đang tiến tới. Vẫn cực nhanh, nhanh hơn mọi thứ, nhưng giờ ta đã có thể thấy ngươi.
Ta có thể thấy ngươi, đồ chó chết.
Động cơ đẩy tầng hai đã kích hỏa, đẩy chiếc Javelin phóng lên, hăm hở và mãnh liệt. Hãy để mãnh thú nhìn thấy con mồi. Hãy để sói nhìn thấy thỏ.
Tôi chỉ giữ nó. Đó là tất cả những gì tôi cần làm. Giữ nó thẳng vào đầu ruồi.
Camera ở bộ phận định hướng sẽ theo dõi đuôi lửa của quả tên lửa, so sánh nó với tín hiệu từ trong ống ngắm - nếu có sai lệch nào thì sẽ có một tín hiệu chỉnh sửa được gửi tới tên lửa.
Và những gì tôi cần làm là giữ nó trong kính ngắm. Hai giây.
Một giây.
Má của Latifa bị một mảng vữa cứa phải và đang chảy máu rất dữ.
Chúng tôi ngồi trong văn phòng của Beamon, và tôi đang cố cầm máu vết thương bằng một chiếc khăn, trong khi Beamon canh cho chúng tôi bằng khẩu Steyr của Hugo. Một vài con tin khác cũng đã tìm được vũ khí và họ đang tản ra khắp phòng, lo lắng nhìn ra ngoài cửa sổ. Tôi nhìn quanh phòng, nhìn các khuôn mặt đang lo lắng, và đột nhiên cảm thấy kiệt sức. Và đói. Đói đến chết đi được.
Có vài tiếng động từ phía hành lang. Những tiếng bước chân. Những tiếng gọi bằng tiếng Ả-rập, tiếng Pháp, và giờ là tiếng Anh.
“Ông mở to lên một chút, được chứ?” Tôi nói với Beamon. Ông ta liếc ra sau về phía cái ti vi, nơi một phụ nữ tóc vàngđang mấp máy nói gì đó với chúng tôi. Dòng chữ phía dưới ghi
“Connie Fairfax - Casablanca”. Cô ta đang đọc gì đó.
Beamon bước tới vặn âm lượng lên. Connie có giọng thật dễ nghe.
Latifa có khuôn mặt đẹp. Máu từ vết thương của cô đã bắt đầu đông lại.
“... được chuyển cho CNN ba giờ trước đây, bởi một phụ nữ trẻ có vẻ là người Ả-rập,” Connie nói, và hình ảnh chuyển tới cảnh một chiếc trực thăng nhỏ, màu đen, có vẻ đang ở trong tình trạng hết sức khó khăn. Connie vẫn tiếp tục đọc.
“Tôi là Thomas Lang,” cô ta nói. “Tôi đã bị các quan chức tình báo Mỹ ép buộc tham gia hoạt động này, bề ngoài là thâm nhập vào một tổ chức khủng bố, Lưỡi gươm Công lý.” Hình ảnh chuyển lại Connie trong khi cô ta ngước lên và ép tay vào tai nghe.
Một giọng đàn ông nói: “Connie, có phải đó chính là nhóm chịu trách nhiệm cho vụ ám sát ở Áo không?”
Connie nói đúng, đúng quá đi ấy chứ. Chỉ có điều là ở Thụy Sĩ.
Rồi cô ta nhìn xuống mảnh giấy.
“Lưỡi gươm Công lý, về thực chất, được tài trợ bởi một đầu nậu vũ khí phương Tây, có liên hệ với các phần tử biến chất của CIA Mỹ.”
Những tiếng gọi ở hành lang đã lắng xuống, và khi nhìn ra cửa, tôi thấy Solomon đứng đó nhìn tôi. Anh ta gật đầu, một lần, rồi chầm chậm bước tiếp vào trong phòng, đi qua những thứ đồ đạc đổ nát. Một nhóm người mặc áo phông bó sát xuất hiện phía sau anh ta.
“Đó là sự thật,” Murdah gào lên, và tôi quay lại phía ti vi để xem người ta đã quay được gì về đoạn thú tội của ông ta trên đó. Nói thật là nó không tuyệt lắm. Vài cái chỏm đầu đi đi lại lại. Giọng Murdah bị méo, trộn với âm thanh nền, bởi vì tôi đã không thể đặt micro đủ gần với đường thoát hỏa hoạn. Nhưng dù gì tôi cũng biết đó là ông ta, thế có nghĩa là những người khác cũng sẽ nhận ra.
“Ông Lang kết thúc lời tuyên bố bằng cách cung cấp cho CNN dải sóng cao tần 254,125 MHz, là tần số VHF mà đoạn băng này dùng để phát,” Connie nói. “Chưa xác định được giọng những người liên quan, nhưng có vẻ...”
Tôi ra hiệu cho Beamon.
“Ông có thể tắt đi, nếu ông muốn,” tôi nói. Nhưng ông ta vẫn để thế, và tôi sẽ không tranh cãi với ông ta.
Solomon ngồi ở mép bàn của Beamon. Anh ta nhìn Latifa một chút, rồi nhìn tôi.
“Chẳng phải giờ này ông nên vây ráp vài kẻ tình nghi sao?”tôi nói.
Solomon thoáng cười.
“Vào lúc này, ngài Murdah đang được vây ráp kỹ lưỡng,” anh ta nói. “Còn cô Woolf thì đang được bảo vệ an toàn. Còn về ông Russell P. Barnes...”
“Ông ta đã lái chiếc Sau Đại học,” tôi nói.
Solomon nhướng mày. Hoặc đúng hơn anh ta vẫn để cặp mày nguyên vị mà rũ người xuống một chút. Anh ta có vẻ không muốn phải ngạc nhiên thêm chút nào nữa trong ngày hôm nay. “Rusty đã từng lái trực thăng khi còn ở trong Hải quân,”
tôi nói. “Chính do vậy mà ông ta can dự vào.” Tôi khẽ nhấc chiếc khăn ra khỏi mặt Latifa, thấy máu đã ngừng chảy. “Anh có nghĩ là tôi có thể gọi điện thoại từ đây không?”
Mười ngày sau đó chúng tôi bay trở lại nước Anh trên một chiếc Hercules của Không quân Hoàng gia Anh. Ghế ngồi cứng, cabin ồn ào, và không có phim ảnh gì. Nhưng tôi thấy vui.
Tôi thấy vui khi nhìn Solomon ngủ, anh ta nằm ở đầu kia cabin, cái áo mưa màu nâu gập lại lót đầu còn hai tay bắt tréo trên bụng. Solomon là một người bạn tốt bất cứ lúc nào, nhưng khi anh ta ngủ, tôi cảm thấy gần như là yêu anh ta.
Hoặc có thể chỉ là tôi đang khởi động cho bộ máy yêu đương của mình thức dậy, để sẵn sàng cho một ai đó.
Đúng, có lẽ là như thế.
Chúng tôi xuống sân bay Coltishall của Không quân Hoàng gia Anh ngay sau nửa đêm, và một bầy xe lao theo sau chúng tôi khi máy bay chạy rà tới khoang chứa. Sau một lúc, cửa mở ra đánh cạch và một chút không khí lạnh vùng Norfolk trèo vào trong máy bay. Tôi hít một hơi dài.
O’Neal đang chờ bên ngoài, hai tay đút sâu trong túi áo khoác, hai vai thu lên tới tận tai. Ông ta hất cằm với tôi, và Solomon cùng tôi theo ông ta vào một chiếc Rover.
O’Neal và Solomon ngồi đằng trước, còn tôi chui vào sau họ, một cách chậm rãi, để thưởng thức khoảnh khắc này.
“Xin chào,” tôi nói.
“Xin chào,” Ronnie nói.
Ngừng lại một chút, Ronnie cùng tôi cười với nhau và gật đầu.
“Cô Crichton đã rất muốn có mặt ở đây để đón ông trởvề,” O’Neal nói, lấy găng tay vuốt những hạt nước đọng trên kính xe.
“Thật à?” tôi hỏi.
“Thật,” Ronnie đáp.
O’Neal khởi động máy, trong khi Solomon chỉnh lại thiết bị chống đọng hơi nước.
“Thế thì,” tôi nói, “bất cứ điều gì cô Crichton muốn, cô ấy nhất định sẽ có.”
Ronnie và tôi vẫn cười khi chiếc Rover xuyên qua căn cứ, lao vào bóng đêm Norfolk.
Trong sáu tháng sau đó, số lượng tên lửa đất đối không Javelin tiêu thụ ở nước ngoài tăng lên ít nhất bốn mươi phần trăm.
HẾT
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm