Chương 25 - Khu Trục Hạm Uss Towers (Ddg-103) Vịnh Bengal Thứ Sáu, 28 Tháng 11, 19:24 Giờ Địa Phương
iên sĩ quan Tác Chiến, Trung Úy Ben Lambert, không rời mắt khỏi màn hình Aegis khổng lồ nằm ở vị trí trung ương trong phòng hành quân CIC. Trên màn hình tác chiến, bốn ký hiệu tượng trưng cho máy bay đang di chuyển nhanh chóng về phía chu vi phòng thủ của các chiến hạm bảo vệ mẫu hạm USS Midway (27-A).
Lambert nhấn nút để chuyển bộ ống nghe choàng đầu sang hệ thống điện thoại của chiếc tàu, rồi bấm ba số gọi phòng ngủ của hạm trưởng. “Hạm trưởng, đây là TAO. Xin lỗi đã làm phiền ông, nhưng mà có bốn Bogies đang bay về chúng ta từ hướng tây. Không có mã số, không có điện đàm, không có tín hiệu IFF (28).”
“Cám ơn anh.” Đại tá Bowie nói. “Tôi lên ngay. Làm ơn gọi Trung tá Silva hộ tôi. Tôi tin chắc cô ấy muốn tham dự vào chuyện này.”
“Tuân lệnh.” Viên TAO đáp.
Không đến ba phút sau, Đại tá Bowie và Trung tá Silva đã đứng sau lưng viên TAO, nhìn qua vai gã vào màn hình tác chiến.
“Chúng ta đang nhìn dấu hiệu của ai đây?” Bowie hỏi.
Chiếc USS Towers đang chạy lặng im và tối đen, tận dụng kỹ năng tàng hình tiên tiến để ẩn núp khỏi tầm dò tra của cảm biến từ các chiến hạm và máy bay khác. Các góc cạnh của khung tàu và phần trên tàu đã được tính toán cẩn thận để làm các tia ra-đa từ ngoài tới bị lệch đi, không cho chúng phản chiếu lại khiến đối phương không thể phát hiện và theo dõi chiếc tàu. Thiết kế góc độ tiên tiến này lại được nâng cao thêm bởi những tấm làm bằng sợi các-bon có tác dụng hấp thu tia ra-đa và lớp sơn quang hợp ngụy trang bao phủ phần lớn những nơi lộ ra bên ngoài của chiếc tàu.
Lại thêm vào các hệ thống ngăn âm thanh và che nhiệt, các kỹ thuật này che giấu chiếc chiến hạm 9.800 tấn này trên mặt biển một cách hữu hiệu lạ lùng. Tuy nhiên, không một thiết kế tinh vi nào có thể che giấu hay ngụy trang các làn sóng do chính chiếc chiến hạm này phát ra được. Nếu chiếc Towers bật các hệ thống ra-đa lên, trên phổ điện từ chúng sẽ sáng trưng như pháo hoa vậy. Mọi che đậy sẽ lập tức biến mất.
Cách duy nhất để đạt được mức tàng hình hữu hiệu là đóng hết mọi ra-đa và máy phát sóng khác, mà chỉ dựa vào cảm biến từ các khí tài khác của Hải quân Hoa Kỳ trong vùng.
Lúc này, chiếc Towers chính là đang làm như thế, lướt đi im ắng trong màn đêm, chỉ dựa vào tín hiệu nhận được từ các chiến hạm và máy bay trong hạm đội USS Midway để định hướng.
“Các tín hiệu này được chuyển đến từ chiếc Hawkeye (29)”. Viên TAO nói.
Hawkeye mà gã đang nói tới là chỉ một trong những chiếc máy bay cảnh báo sớm E-2D làm công tác theo dõi ra-đa tầm xa cho chiếc tàu sân bay và sư đoàn không quân của nó.
Trung tá Silva gật đầu, nói. “Xem ra có vẻ chúng sẽ không bay qua ngay bên trên chúng ta.”
Viên TAO phóng đại trên màn ảnh ký hiệu của bốn máy bay lạ. “Thưa cô, cô nhìn chính xác lắm. Bọn Bogies này sẽ không bay trên đầu chúng ta. Trừ phi lộ trình của chúng thay đổi, chúng sẽ bay qua cách chúng ta khoảng 16 km phía bắc, trong khoảng 8 phút nữa.”
“Chúng nhắm hướng chiếc Midway đó.” Silva nói.
“Có vẻ là vậy.” Viên TAO nói. “Chúng bay thấp và nhanh, mà ra-đa thì đóng lại. Tôi nghĩ chúng định hù dọa chiếc tàu sân bay của chúng ta một phát đó!”
“Nói như vậy chắc là đúng rồi.” Đại tá Bowie nói.
Mắt hắn dán chặt vào bốn cái tín hiệu máy bay. “Nếu cho tôi đoán, tôi nghĩ là chúng ta đang đối phó với tiêm kích J-15 (30) từ hạm đội tàu sân bay Trung quốc. Hai phi đội, mỗi đội hai chiếc.”
“Có lẽ là vậy.” Viên TAO nói. “Vậy chúng ta để chúng bay qua, hay lệnh chúng dừng lại?”
“Chúng ta có thể cho chúng đi qua.” Bowie nói. “Chiếc Hawkeye đã nắm cứng chúng rồi. Bọn Bogies này sẽ bị F-18 (31) đè ngập chúng trước khi chúng tiếp cận được chiếc tàu sân bay.”
“Đúng vậy.” Viên TAO nói. Giọng gã có mang chút bâng khuâng, giống như gã đang hi vọng có chuyện gì hào hứng hơn trong lần đầu tiên gã chạm trán với một cái gì có thể là một mối đe dọa thật.
Bowie mỉm cười. “Mặt khác, tình trạng EMCON (32) hiện tại của chúng ta là tự mình thiết lập. Chúng ta đang chạy lặng im và tối đen là để tập dợt, chứ không phải chúng ta được lệnh phải duy trì tình trạng kiểm soát phát xạ.”
Viên TAO toét miệng cười. “Đại tá nghĩ là mình có nên rung cây dọa khỉ không?”
Bowie cũng cười. “Tại sao không chứ? Không được bật ra-đa điều khiển hỏa lực. Dọa chúng thì được, nhưng chúng ta không nên cho chúng lý do để khai hỏa.”
Viên TAO bấm nút nói. “Mọi vị trí nghe lệnh, đây là TAO. Đổi sang tình trạng EMCON Delta biến cải. Phát xạ không hạn chế từ hệ thống điều khiển hỏa lực, tiến hành lập tức. Uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Lặp lại, mọi thiết bị lập tức phát xạ với uy lực tối đa trong mức độ an toàn. Break. Nhóm Phòng Không, đây là TAO. Tôi muốn radar SPY quét một phát thật mạnh vào khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.”
Hệ thống ra-đa dạng phase AN/SPY-1D(V)2 là cột sống của hệ thống cảm biến phối hợp với vũ khí Aegis. Với công suất hơn 4 triệu watt, radar SPY có thể làm xáo trộn hay hư hại các hệ thống điện tử trên hầu hết các máy bay.
Viên TAO vẫn cười toét miệng. Mấy tên phi công Trung quốc này sắp nhận được một sự bất ngờ lớn nhất đời họ rồi. Một giây trước, họ còn đang lén lén lút lút bay trong bóng đêm, bám sát vào các ngọn sóng biển và cố gắng biến mình thành vô ảnh vô tung. Mọi thứ đều thoải mái và yên ắng, không một dấu hiệu nào của bất cứ thứ gì giữa họ và mục tiêu của mình. Qua giây sau, ầm! Một chiếc khu trục hạm Hoa Kỳ ngay trước mặt đang phun mạnh 4 megawatt sóng vi ba, khiến máy cảnh báo của họ ré lên và các thiết bị hỗn loạn.
Tiếng của viên sĩ quan trưởng nhóm Phòng Không vang lên trên mạng. “TAO, đây là Phòng Không. SPY đã được bật lên và phát xạ. Uy lực tối đa khu vực từ hai-chín-không đến ba-năm-không.”
“Và đến nè!...” Viên TAO nói.
Trên màn hình tác chiến Aegis, bốn dấu hiệu máy bay đảo ngoặc về bên trái, tránh hướng chiếc Towers và Midway.
Nửa giây sau, tiếng nói của trưởng nhóm Phòng Không lại vang lên trên mạng. “TAO, Phòng Không đây. Bogies đang tháo chạy. Có vẻ chúng đang chạy về chuồng rồi.”
Viên TAO bấm nút nói. “Roger (33), Phòng Không. Cứ để ý đến chúng nhé. Đừng để chúng lại lén quay lại và trả lại cú bất ngờ.”
“Thật là dễ dàng nhỉ.” Trung tá Silva nói.
Viên TAO gật đầu. “Chỉ là chào hỏi thân ái thôi, cho đám bạn Trung quốc của chúng ta biết rằng Hải quân Hoa Kỳ đang ở trong xóm.”
Silva lắc đầu, nói. “Chúng ta làm hơi sớm rồi. Đáng lý chúng ta nên đợi đến tháng tới.”
Viên TAO nhìn nàng. “Tôi không rõ cô muốn nói gì, Trung tá…”
“Lễ Thanksgiving đã qua rồi.” Silva nói. “Mà chúng ta lại vừa cho bọn này món quà Giáng Sinh sớm trước cả tháng đó!”
Viên TAO lại cười toét. “Tôi nghĩ họ sẽ tha lỗi cho chúng ta mà, thưa cô.”
“Hi vọng anh nói đúng.” Đại tá Bowie nói. “Hi vọng anh nói đúng.”
Chú Thích:
(27-A) USS Midway (CVN-82) là một tàu sân bay động cơ hạt nhân giả tưởng, có lẽ thuộc lớp Ford. Chiếc có thật mang số CV-41 tàu sân bay Hải quân Hoa Kỳ được hạ thủy năm 1945 và rời khỏi biên chế năm 1992, ngày nay là bảo tàng viện ở San Diego, bang California. Tàu này có giản lượng nước 64.000 tấn và chạy bằng động cơ tua-bin dầu. Tàu từng tham chiến ở Việt Nam và chiến dịch Bão Táp Sa Mạc ở Trung Đông năm 1990-1991. Nếu là hàng không mẫu hạm động cơ hạt nhân lớp Ford, tàu có chiều dài 337 m, rộng 78 m và giản lượng nước 100.000 tấn, tổng số nhân viên khoảng 4.297 người, kể cả nhân viên phi đoàn 2.480 người. Tổng số máy bay đủ loại kể cả trực thăng khoảng hơn 75 chiếc cấu thành phi đoàn (air wing) của tàu, gồm có tiếm kích đa năng F/A-18E/F Super Hornet, tiêm kích F/A-18C Hornet (nhỏ và cũ hơn, ngày nay dùng cho tấn công nhiều hơn là nhiệm vụ ngăn chặn tiêm kích địch), EA-18 Growler (phiên bảng F/A-18 chuyên dùng trong chiến tranh điện tử), E-2C Hawkeye (cảnh báo sớm), C-2A Greyhound (vận chuyển, tiếp liệu), trực thăng MH-60R Seahawk và MH-60S Knighthawk đa nhiệm và chống tàu ngầm.
(28) IFF hay Identification Friend or Foe: tín hiệu bạn-địch. máy bay quân sự đều có trang bị dụng cụ để phát ra tín hiệu để có thể nhận diện địch hay bạn.
(29) Hawkeye (Mắt Ưng) E-2 là máy bay cảnh báo sớm trên không (AEW) chiến thuật trang bị cho tàu sân bay, do hãng Northrop Grumman chế tạo. Hiện phục vụ cho hải quân Hoa Kỳ, Pháp và Mexico, lực lượng tự vệ Nhật Bản và Không quân Đài Loan.
(30) J-15 Phi Sa (Cá Mập Bay) là máy bay tiêm kích hoạt động trên tàu sân bay, được phát triển bởi Shenyang Aircraft Corporation và Viện 601 trang bị cho tàu sân bay của Không quân Hải quân Quân giải phóng Nhân dân. Có báo cáo cho rằng máy bay này được thiết kế dựa theo mẫu tiêm kích Sukhoi Su-33 của Nga. Năm 2001, một nguyên mẫu Su-33 được mua từ Ukraine và được mổ xẻ tỉ mỉ. Kết cấu của tiêm kích J-15 dựa theo Su-33, nhưng sử dụng kỹ thuật của Trung quốc tương tự như tiêm kích J-11. Theo lời của chuyên gia thiết kế trưởng của J-15, ông Sun Cong, tiêm kích J-15 tương đương với F/A-18 của Mỹ về phương diện tải trọng, tầm hoạt động và tính lưu động. Tuy nhiên, sau đó ông lại nói thêm rằng còn phải cố gắng nhiều hơn trên phương diện hệ thống điện tử và hệ thống tác chiến; ngoài ra, thiếu nguồn cung cấp máy phản lực nội địa cũng là điểm yếu. Chuẩn đô đốc Yin Zhuo tuyên bố rằng tiêm kích này có khả năng tác chiến hơn tiếm kích F/A-18 E/F của Hoa Kỳ; khả năng tấn công mục tiêu trên đất liền và trên biển hơi kém hơn F/A-18 E/F, nhưng dụng cụ điện tử lại chuẩn cho tiêm kích thế hệ thứ năm.
(31) F-18 Hornet (Ong Bắp Cày), hay đúng hơn là F/A-18, là một máy bay phản lực chiến đấu đa nhiệm siêu thanh hai động cơ có khả năng hoạt động trên tàu sân bay trong mọi thời tiết, có khả năng chiến đấu và tấn công các mục tiêu mặt đất (F/A viết tắt của Fighter/Attack – Chiến đấu/Tấn công) do McDonnell Douglas và Northrop thiết kế. Được sử dụng bởi Hải quân và Thủy Quân Lục Chiến Hoa kỳ và nhiều nước khác: Úc, Canada, Phần Lan, Kuwait, Mã Lai, Tây Ban Nha và Thụy Sĩ. F/A-18 Hornet là thiết kế cơ sở của loại Boeing F/A-18E/F Super Hornet, một bản thiết kế lại lớn hơn, và có sự phát triển cao hơn của F/A-18. So với Hornet, chiếc Super Honet lớn hơn, nặng hơn và có tầm hoạt động cũng như tải trọng cao hơn. Ngày nay, hầu hết F/A-18 của quân đội Hoa Kỳ đã được thay thế bởi F/A-18E/F; Úc cũng thay thế F/A-18 bằng F/A-18E/F. Như đa số máy bay được thiết kế cho tàu sân bay, F/A-18 có đặc tính là tầm hoạt động lớn, mức độ đáng tin cậy cực cao và giỏi ‘chịu đòn’ vì phải hoạt động xa căn cứ và lục địa; cũng vì những đặc tính này, nước Úc cũng chọn F/A-18 cho không quân của mình.
(32) EMCON là viết tắt của Electromagnetic Emission Control: tình trạng Kiểm Soát Phát Xạ Điện Từ, tức là tình trạng mọi thiết bị có thể phát xạ tín hiệu phải được kiểm soát gắt gao, để phòng đối phương có thể phát hiện sự hiện diện của mình.
(33) Roger: đã hiểu. Tiếng lóng thường dùng trong điện đàm. Tiếng lóng chuyên dụng sẽ không được dịch.
Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva - Jeff Edwards Lưỡi Kiếm Của Thần Shiva