Chương 27
Đáp lại hành động đó là sự sững sờ, và giữa lúc ấy tôi nghe thấy một âm thanh. Tiếng cười của Snow. Tiếng khùng khục khàn đục ghê rợn kèm với máu sùi ra khi cơn ho trào lên. Tôi thấy ông ta gập người về phía trước, nôn thốc nôn tháo, cho đến khi lính gác che khuất tầm nhìn của tôi.
Khi những đồng phục trắng bắt đầu đổ về phía tôi, tôi tự hỏi cái tương lai ngắn ngủi của mình sẽ ra sao sau vụ ám sát tân tổng thống Panem. Thẩm vấn, không chừng có cả tra tấn, chắc chắn bị xử tử công khai. Lại phải nói lời vĩnh biệt với vài người ít ỏi mà tôi vẫn yêu thương. Viễn cảnh đối mặt với mẹ tôi, người từ nay sẽ hoàn toàn đơn độc trên cõi đời này, khiến tôi đưa ra quyết định cuối cùng.
“Chúc ngủ ngon,” tôi thì thầm với cây cung trong tay và cảm thấy nó trở nên lặng phắc. Tôi giơ tay trái lên, ngoẹo đầu xuống rứt viên thuốc ra khỏi tay áo. Thay vào đó răng tôi lại cắn ngập vào thịt. Tôi hoang mang gật đầu ra sau thì thấy mình đang nhìn vào mắt Peeta, có điều lúc này đôi mắt ấy cũng chăm chăm nhìn tôi. Máu từ vết răng cắn chảy xuống bàn tay đang bị cậu nắm chặt ngay chỗ giấu viên thuốc độc. “Thả tớ ra!” tôi gầm gừ với cậu, cố gắng giằng tay ra khỏi gọng kìm của cậu.
“Không được,” cậu nói. Khi họ kéo tôi ra khỏi cậu, tôi cảm thấy cái túi toạc ra khỏi tay áo, thấy viên thuốc màu tím sẫm rơi xuống đất, nhìn món quà cuối cùng của Cinna nát vụn dưới ủng một tay lính gác. Tôi biến thành một con thú hoang, hết đá lại cào cấu, cắn xé, làm đủ trò có thể để thoát khỏi cả mớ tay khi đám đông chen lấn xô đẩy nhau. Lính gác nâng tôi lên khỏi màn hỗn loạn, đến thế rồi mà tôi vẫn quẫy đạp khi được đưa qua biển người. Tôi bắt đầu thét gọi Gale. Tôi không thể tìm thấy anh trong đám đông huyên náo, nhưng anh sẽ biết tôi muốn gì. Một phát bắn gọn ghẽ để kết thúc tất cả. Có điều không có tên cũng chẳng có đạn Lẽ nào anh không nhìn thấy tôi? Không. Mọi người có thể theo dõi toàn bộ diễn biến qua những màn hình khổng lồ trên cao đặt quanh Bùng binh Thành phố. Anh có nhìn thấy, anh có biết, nhưng chẳng thể xoay xở. Cũng như khi anh bị bắt tôi cũng đành lực bất tòng tâm. Lời biện hộ đáng tiếc cho những người thợ săn và những người bạn. Cả hai chúng tôi.
Tôi hoàn toàn đơn độc.
Trong dinh thự, họ còng tay và bịt mắt tôi. Tôi bị nửa kéo lê, nửa vác xuống dãy hành lang dài, lên xuống thang máy, rồi bị tống vào một căn phòng trải thảm. Còng được tháo ra, rồi cửa đóng sập sau lưng tôi. Khi kéo khăn bịt mắt lên, tôi thấy mình đang ở trong căn phòng cũ mình từng sống tại Trung tâm Huấn luyện trong những ngày quý giá cuối cùng trước kỳ Đấu trường Sinh tử đầu tiên của tôi và Huyết đường Tứ phân. Giường có độc tấm nệm, tủ quần áo mở toang, cho thấy bên trong trống hươ trống hoác, nhưng căn phòng này thì đâu tôi cũng thấy rồi.
Đứng lên cởi bộ đồ Húng nhại ra quả là cực hình. Tôi bị tím bầm và có lẽ gãy một hai ngón tay, nhưng chính da tôi mới bị tổn thương nặng nề nhất do vùng vẫy với đám lính gác. Lớp da non ửng hồng rách toạc như giấy ăn và máu rỉ qua những tế bào được nuôi cấy trong phòng thí nghiệm. Chẳng có nhân viên cứu thương nào đến, và vì thấy mình quá thê hảm chẳng đáng quan tâm nữa, tôi bò lên nệm nằm, chờ chảy máu đến chết.
Không được may mắn như vậy. Đến tối thì máu đông lại, để tôi nằm đó cứng đờ, đau đớn và nhớp nháp, nhưng vẫn còn sống. Tôi tập tễnh vào phòng tắm thực hiện cái chu trình nhẹ nhàng nhất mà mình còn nhớ được, không dùng xà phòng và dầu gội đầu, ngồi xổm dưới những tia nước ấm, khuỷu tay chống lên đầu gối, đầu gục xuống tay.
Tôi tên là Katniss Everdeen. Tại sao tôi chưa chết? Tôi nên chết mới phải. Tôi mà chết có lẽ là tốt nhất cho tất cả mọi người…
Khi tôi ra ngoài đặt chân lên thảm, hơi nóng hong khô làn da thương tổn của tôi. Chẳng có gì sạch sẽ để mặc. Thậm chí một cái khăn tắm để quấn quanh người cũng không. Trở lại phòng, tôi thấy bộ đồ Húng nhại đã biến mất. Thế vào đó là một cái áo choàng giấy. Một bữa ăn được đưa lên từ căn bếp bí mật nào đó, với một lọ thuốc tráng miệng. Tôi liền ăn rồi uống thuốc, thoa thuốc mỡ lên da. Giờ tôi cần tập trung suy tính cách thức tự tử.
Tôi cuộn tròn trên tấm nệm vấy máu, không lạnh nhưng cảm thấy quá trần trụi khi chỉ có tấm giấy che đậy lớp da mỏng manh. Nhảy xuống tự tử không phải là cách khả dĩ – kính cửa sổ chắc phải dày ba chục phân chứ không ít. Tôi có thể thắt một cái thong lọng ra trò, nhưng lại chẳng có gì để treo mình cả. Tôi có thể tích trữ thuốc rồi hạ chính mình bằng một liều chết người, có điều tôi chắc chắn mình đang bị theo dõi ngày đêm. Có lẽ tôi đang được truyền hình trực tiếp ngay tại giờ phút này trong khi các nhà bình luận phân tích nguyên nhân thúc đẩy tôi giết Coin. Việc giám sát này ngăn chặn hầu như bất cứ nỗ lực tự tử nào. Hơn nữa, giết tôi là đặc quyền của Capitol. Một lần nữa…
Tôi chỉ biết nhịn mà thôi. Tôi kiên quyết nằm trên giường không ăn uống hay dùng thuốc nữa. Đó cũng là một cách. Cứ thế mà chết. Nếu không vướng chuyện cai ma phiện. Không phải cai từng chút một như ở bệnh viện Quận 13 mà là cắt thuốc đột ngột. Chắc hẳn lúc trước tôi đã dùng một liều khá lớn bởi cứ mỗi khi đến cữ, kèm với những đợt run rẩy, cái đau buốt nhói, và cơn lạnh thấu xương, quyết tâm của tôi lại vỡ vụn như vỏ trứng. Tôi quỳ xuống, lấy móng tay cào thảm tìm những viên thuốc quý giá mà tôi đã quăng đi trong cái khoảnh khắc mạnh mẽ hơn. Tôi đổi kế hoạch tự tử sang chết dần chết mòn vì ma phiện. Tôi sẽ trở thành một bộ xương khô đét bọc lớp da vàng bủng, với cặp mắt trố lồi. Tôi thực hiện kế hoạch được hai ngày, mọi việc đang suôn sẻ thì một chuyện bất ngờ xảy ra.
Tôi cất tiếng hát. Bên cửa sổ, trong phòng tắm, giữa giấc ngủ. Những bản ballad, những khúc tình ca, những giai điệu miền sơn cước vang lên hết giờ này đến giờ khác. Tất cả những bài hát cha dạy tôi trước khi mất, vì hẳn nhiên kể từ đó âm nhạc khá vắng bóng trong cuộc đời tôi. Ngạc nhiên ở chỗ là tôi nhớ rõ ràng. Những giai điệu, lời ca. Giọng của tôi ban đầu đùng đục và vỡ tiếng ở những nốt cao, dần ấm lên thành thanh âm ngọt ngào. Một giọng hát khiến lũ chim húng nhại im bặt rồi háo hức cùng hòa ca. Ngày lại ngày, tuần nối tuần trôi qua. Tôi ngắm tuyết rơi trên gờ ngoài cửa sổ. Và trong suốt khoảng thời gian ấy, tôi chỉ nghe thấy độc giọng hát của mình.
Rốt cuộc họ đang làm gì? Có gì trì hoãn ngoài kia vậy? Thu xếp hành hình một nữ sát thủ thì khó khăn đến chừng nào? Tôi tiếp tục hủy hoại bản thân. Tôi gầy sọp đi chưa từng thấy và trận chiến chống lại cơn đói dữ dội đến nỗi đôi khi phần con trong người tôi không chống đỡ nổi cơn thèm một lát bánh mì bơ hay một miếng thịt quay. Nhưng tôi vẫn thắng. Sau vài ngày, tôi cảm thấy kiệt sức, và đúng lúc nghĩ có khi cuối cùng tôi cũng giã từ cõi đời này thì tôi nhận ra lượng ma phiến của mình đang bị cắt giảm. Họ đang cố cai thuốc dần dần cho tôi. Nhưng tại sao chứ? Chắc chắn là một Húng nhại nghiện ngập sẽ dễ bị giết hơn trước đám đông. Và rồi một suy nghĩ đáng sợ ập đến với tôi: Nhỡ họ không giết tôi thì sao? Nhỡ họ có kế hoạch khác cho tôi? Một cách thức mới để tái tạo, huấn luyện và sử dụng tôi?
Tôi sẽ không làm đâu. Nếu không thể tự tử trong căn phòng này, tôi sẽ chớp lấy cơ hội đầu tiên khi được ra ngoài để hoàn tất ý đồ. Họ có thể vỗ béo tôi. Họ có thể đánh bóng toàn thân tôi, chưng diện cho tôi, lại biến tôi thành thiên nga. Họ có thể thiết kế những vũ khí trong mơ trở nên hiện hữu trong tay tôi, nhưng họ sẽ không bao giờ lại có thể tẩy não khiến tôi tin rằng cần phải sử dụng chúng. Tôi không còn cảm thấy chút lòng trung thành nào với lũ quái vật được gọi là người ấy, tôi khinh miệt bản thân vì là một trong số đó. Tôi nghĩ Peeta đã phát hiện ra việc chúng tôi tiêu diệt lẫn nhau để một loại người tử tế nào đó lên nắm quyền. Bởi có gì đó cực kỳ sai trái với một sinh vật hy sinh cả mạng sống của lũ trẻ vốn là đồng bào của mình để dàn xếp bất hòa. Người ta có thể lái vấn đề thế nào tùy thích. Với Snow, Đấu trường Sinh tử là một phương tiện kiểm soát hữu hiệu. Với Coin, đám dù sẽ thúc đẩy chiến tranh. Nhưng cuối cùng, ai là kẻ đắc lợi đây? Không ai hết. Sự thật là không một ai sống trong cái thế giới có những chuyện này xảy ra được đắc lợi cả.
Sau hai ngày nằm bẹp trên đệm không buồn ăn uống hay thậm chí dùng một viên ma phiện thì cửa phòng tôi bật mở. Ai đó bước quanh giường lọt vào tầm mắt tôi. Haymitch. “Phiên xử của cháu kết thúc rồi,” ông nói. “Đi nào. Chúng ta về nhà.”
Nhà? Ông đang nói gì vậy. Nhà tôi không còn nữa. Mà dù có thể đi đến cái nơi tưởng tượng ấy chăng nữa thì tôi cũng quá yếu không nhúc nhắc nổi. Những người lạ xuất hiện. Truyền nước và cho tôi ăn. Tắm rửa rồi mặc quần áo cho tôi. Một người nhấc tôi dậy như một con búp bê vải rồi bế tôi lên mái nhà, đưa lên tàu bay, thắt dây an toàn vào ghế cho tôi. Haymitch và Plutarch ngồi đối diện tôi. Vài phút sau, chúng tôi đã ở trên không.
Tôi chưa bao giờ thấy Plutarch vui vẻ đến thế. Trông ông vô cùng rạng rỡ. “Cô hẳn phải có hàng triệu câu hỏi ấy nhỉ!” Thấy tôi không đáp, ông tự mình trả lời hết.
Sau khi tôi bắn Coin, tình thế rất hỗn loạn. Khi bầu náo động lắng dần, người ta phát hiện ra thi thể Snow, vẫn bị trói vào cột. Người ta cho rằng ông ta cười đến chết ngạt, người thì bảo rằng ông ta bị đám đông dẫm bẹp. Chả ai quan tâm mấy. Một cuộc bầu cử khẩn cấp nhanh chóng được tiến hành và Paylor được bầu làm tổng thống. Plutarch được bổ nhiệm làm bộ trưởng truyền thông, như vậy các chương trình phát thanh truyền hình sẽ do ông lo liệu. Sự kiện lớn được truyền hình trực tiếp đầu tiên là phiên xử tôi, trong đó ông cũng là nhân chứng chủ chốt. Biện hộ cho tôi, tất nhiên rồi. Tuy vậy phần lớn công lao giúp tôi trắng án phải được trao cho bác sĩ Aurelius, có vẻ ông đã giành được những phút chợp mắt bằng cách giới thiệu tôi là một kẻ loạn trí bị sốc hậu chiến vô phương cứu chữa. Điều kiện duy nhất để thả tôi ra là tôi sẽ tiếp tục được ông chăm sóc, dù việc đó phải tiến hành qua điện thoại, vì ông không đời nào sống ở một nơi hoang vu như Quận 12, và tôi bị giam hãm ở đó cho đến khi có thông báo mới. Sự thực là, không ai biết rõ phải làm gì với tôi khi chiến tranh đã kết thúc, mặc dù nếu một kẻ khác nổi lên, Plutarch chắc chắn sẽ cho tôi một vai trò thích hợp. Rồi Plutarch cười sảng khoái. Có vẻ như ông chẳng bao giờ phiền lòng khi không ai hưởng ứng câu chuyện cười của mình.
“Ông định chuẩn bị cho một cuộc chiến khác à, Plutarch?” tôi hỏi.
“Ồ, không phải bây giờ. Giờ chúng ta đang ở trong một giai đoạn ngọt ngào mà tất cả mọi người đều nhất trí rằng những nỗi kinh sợ gần đây của chúng ta mãi mãi không nên lặp lại,” ông nói. “Nhưng tư tưởng chung thì vốn không lâu bền. Chúng ta là những sinh thể ngốc nghếch thiếu kiên định với trí nhớ nghèo nàn, mà lại rất giỏi hủy hoại bản thân. Tuy vậy ai mà biết được? Không chừng sẽ là như thế đấy, Katniss à.”
“Gì cơ ạ?” tôi hỏi.
“Thời gian ấy, nó dai dẳng lắm. Có lẽ chúng ta đang chứng kiến sự tiến hóa của loài người. Nghĩ mà xem.” Và rồi ông hỏi tôi có muốn biểu diễn trong chương trình ca hát mà vài tuần nữa ông sẽ phát sóng không. Một thứ gì đó vui tươi hẳn sẽ rất thú vị. Ông sẽ cử một đội đến nhà tôi.
Chúng tôi ghé qua Quận 3 để thả Plutarch xuống. Ông sẽ gặp Beetee để cập nhật công nghệ về hệ thống truyền phát. Lời từ biệt ông nói với tôi là “Nhớ liên lạc nhé.”
Khi chúng tôi trở lại giữa những đám mây, tôi nhìn Haymitch. “Thế còn bác sao lại quay về Quận 12?”
“Có vẻ như họ cũng không tìm được chỗ nào cho ta ở Capitol,” ông đáp.
Ban đầu tôi cũng không thắc mắc gì. Nhưng nỗi nghi ngờ bắt đầu dấy lên. Haymitch không ám sát ai cả. Ông có thể đi bất cứ đâu. Nếu ông quay về Quận 12 thì đó là bởi ông đã nhận lệnh. “Bác phải chăm sóc cháu đúng không? Với tư cách là người hướng dẫn?” Ông nhún vai. Rồi tôi nhận ra sự tình. “Mẹ cháu sẽ không quay về.”
“Phải,” ông đáp. Ông rút chiếc phong bì từ túi áo khoác ra đưa cho tôi. Tôi chăm chú nhìn nét chữ thanh thanh nắn nót. “Bà ấy chung tay thành lập một bệnh viện ở Quận 4. Bà ấy muốn cháu gọi điện khi chúng ta về tới nơi.” Tôi lần ngón tay theo nét chữ nghiêng nghiêng duyên dáng. “Cháu biết tại sao bà ấy không thể quay về mà.” Phải, tôi biết tại sao. Bởi giữa cha tôi và Prim cùng đống tro tàn, nơi ấy quá đau thương không chịu đựng nổi. Nhưng rõ ràng không phải vì tôi. “Cháu có muốn biết còn ai nữa không về không?”
“Không,” tôi đáp. “Cháu muốn được ngạc nhiên.”
Như một người hướng dẫn chu đáo, Haymitch bắt tôi ăn một ổ sandwich và vờ tin rằng tôi ngủ suốt phần còn lại của chuyến bay. Ông bận sục sạo từng khoang máy bay tìm rượu, rồi nhét vào túi xách. Khi chúng tôi hạ cánh xuống bãi cỏ của Làng Chiến thắng thì đêm đã buông. Đèn đã sáng lên sau cửa sổ của phân nửa số nhà, bao gồm cả nhà Haymitch và nhà tôi. Nhà Peeta thì không. Ai đó đã xây lò sưởi trong bếp. Tôi ngồi xuống chiếc ghế chao trước lò, nắm chặt lá thư của mẹ.
“Ừm, mai gặp cháu sau,” Haymitch nói.
Khi tiếng lanh canh của mấy chai rượu đựng trong túi xa dần, tôi thì thầm, “Cháu không chắc đâu.”
Tôi không thể nhấc mình khỏi ghế. Phần còn lại của ngôi nhà thù lù cái vẻ lạnh lẽo, trống hoác và tối tăm. Tôi quấn tấm khăn choàng quanh người, ngồi ngắm lửa rồi có lẽ thiếp đi, vì nhoáng cái trời đã sáng và Greasy Sae đang xủng xoảng làm bếp. Bà tráng trứng và nướng bánh cho tôi, ngồi đợi đến khi tôi ăn hết mới thôi. Chúng tôi không nói gì mấy. Cháu gái bà, một đứa trẻ trầm lặng, cầm cuộn chỉ màu xanh sáng của mẹ tôi lên khỏi chiếc giỏ đan. Greasy Sae bảo nó đặt trả lại, nhưng tôi nói là cho nó. Không ai trong nhà này còn đan lát gì nữa. Sau bữa sáng, Greasy Sae rửa bát đĩa rồi đi về, nhưng đến bữa tối bà quay lại giúp tôi dùng bữa. Tôi không biết bà làm vậy vì tình làng nghĩa xóm hay do được chính phủ trả lương, nhưng ngày nào bà cũng đến hai lần. Bà nấu, tôi ăn. Tôi cố tính toán nước đi kế tiếp của mình. Giờ chẳng còn trở ngại nào ngăn tôi tự tử nữa. Nhưng chừng như tôi vẫn chờ đợi điều gì đó.
Đôi khi điện thoại reo hoài, reo mãi, nhưng tôi không nhấc máy. Haymitch chả bao giờ tới thăm. Có lẽ ông đã đổi ý mà bỏ đi, dù tôi ngờ rằng ông chỉ say xỉn mà thôi. Chỉ có mỗi Greasy Sae và cháu gái bà đến. Sau hàng tháng trời bị giam một mình, họ cứ như là cả một đám đông vậy.
“Hôm nay mùa xuân về rồi kìa. Cháu ra ngoài đi,” bà nói. “Đi săn đi.”
Tôi chưa rời khỏi nhà. Tôi thậm chí còn chưa rời khỏi căn bếp mà chỉ đi tới phòng tắm nhỏ nằm cách đấy có vài bước chân. Trên mình tôi vẫn là bộ quần áo mặc từ khi rời Capitol. Tôi chỉ ngồi lì bên lò sưởi. Nhìn chằm chằm vào những là thư chưa mở nằm chất đống trên mặt lò sưởi. “Cháu không có cung.”
“Thử xem dọc hành lang ấy,” bà gợi ý.
Sau khi bà đi khỏi, tôi cân nhắc có nên làm một chuyến dọc hành lang không. Gạt bỏ suy nghĩ đó đi. Nhưng mấy tiếng sau thì tôi quyết định đi, đôi chân xỏ tất không phát ra tiếng động nào, tránh đánh thức những hồn ma. Trong phòng đọc mà trước kia tôi từng dùng trà với Snow, tôi tìm thấy một cái thùng đựng chiếc áo săn của cha tôi, cuốn sách thảo mộc của nhà tôi, ảnh cưới của cha mẹ tôi, cái vòi máng Haymitch gửi lại, và tấm mề đay Peeta đã đưa cho tôi ở trường đấu đồng hồ. Hai cây cung và một bao tên Gale đã giữ cho tôi sau cái đêm bom lửa hoành hành giờ nằm trên bàn. Tôi mặc chiếc áo săn vào, không động gì đến những món còn lại. Tôi ngủ thiếp đi trên sofa trong phòng khách chính. Theo sau là một cơn ác mộng khiếp đảm, tôi mơ thấy mình nằm dưới đáy một nấm mộ sâu, và từng người chết mà tôi biết tên ghé qua hất một xẻng đầy tro tàn lên người tôi. Đó là một giấc mơ dài dặc, cứ xem danh sách người thì biết, và tôi càng bị vùi sâu thì càng khó thở. Tôi cố hét lên, van xin họ dừng lại, nhưng tro tàn cứ lấp đầy miệng mũi tôi khiến tôi không thể thốt ra một âm thanh nào. Vẫn là chiếc xẻng lạo xạo mãi không dứt…
Tôi giật mình tỉnh dậy. Ánh ngày nhợt nhạt lọt qua mép rèm. Tiếng xẻng lạo xạo vẫn còn văng vẳng trong tai tôi. Vẫn nửa tỉnh nửa mê, tôi chạy dọc hành lang, ra ngoài cửa trước, vòng qua mé nhà, vì giờ đây tôi khá chắc mình có thể hét lên với người chết. Khi trông thấy cậu, tôi sững lại. Khuôn mặt cậu đỏ bừng vì đào đất dưới những ô cửa sổ. Trên cái xe cút kít là năm bụi hoa lởm chởm.
“Cậu về rồi,” tôi nói.
“Mãi đến hôm qua bác sĩ Aurelius mới cho tớ về,” Peeta nói. “À mà ông ấy bảo tớ nhắc cậu rằng ông ấy không thể cứ giả vờ là đang điều trị cho cậu mãi được. Cậu phải nghe điện thoại chứ.”
Trông cậu khá khỏe mạnh. Thân gầy mang đầy sẹo bỏng giống tôi, nhưng cặp mắt thì không có cái vẻ u ám giày vò nữa. Dù vậy, cậu hơi nhíu mày khi nhìn tôi. Tôi thờ ơ gạt tóc khỏi mắt thì nhận ra nó đã bết dính thành cục. Tôi cảm thấy muốn phòng thủ. “Cậu đang làm gì vậy?”
“Sáng nay tớ vào rừng đào mấy thứ này lên. Cho con bé,” cậu đáp. “Tớ nghĩ là chúng ta có thể trồng dọc theo mé nhà.”
Tôi nhìn chỗ bụi hoa mà rễ vẫn còn bám mấy cục đất, nín thở khi từ hoa hồng hiện lên trong đầu. Tôi định hét vào mặt Peeta những lời hằn học thì chợt nghĩ đến cái tên đầy đủ. Không phải hoa hồng bình thường mà là anh thảo đêm. Loài hoa được đặt tên cho em gái tôi. Tôi gật đầu đồng ý với Peeta rồi vội vã quay trở vào nhà, khóa cửa lại sau lưng. Nhưng cái thứ khủng khiếp đó ở bên trong chứ không phải bên ngoài. Run rẩy vì yếu mệt và lo lắng, tôi chạy lên cầu thang. Vấp chân phải bậc cuối cùng, tôi ngã lăn ra đất. Tôi gượng đứng dậy vào phòng. Thứ mùi đó chỉ phảng phất nhưng rõ ràng không chịu tan trong không khí. Nó ở đó. Bông hồng trắng giữa đám hoa khô trong bình. Héo rũ và mỏng giòn, nhưng vẫn còn cái vẻ hoàn mỹ phi tự nhiên được chăm trong nhà kính. Tôi chộp lấy chiếc bình, loạng choạng đi vào bếp, vứt hết hoa bên trong vào đống than sắp tàn. Khi đám hoa bắt lửa, một tia lửa bùng lên bao quanh bông hồng trắng mà ngấu nghiến nó. Lửa lại lép bép thiêu rụi hết chỗ hoa. Để cho chắc ăn, tôi ném chiếc bình xuống đất vỡ tan.
Trở lại tầng trên, tôi mở toang cửa sổ phòng ngủ cho bay hết cái mùi rữa nát còn lại của Snow. Nhưng nó vẫn rơi rớt trên quần áo và lỗ chân lông của tôi. Tôi cởi đồ ra, thấy những mảng da to bằng quân bài bám trên quần áo. Tránh nhìn vào gương, tôi đi tắm, kỳ cọ gột rửa cho bằng sạch mùi hoa hồng khỏi tóc, khỏi người, khỏi miệng. Tôi tìm thấy một thứ sạch sẽ để mặc vào, màu hồng tươi và hơi nhợt nhạt. Mất nửa tiếng tôi mới gỡ được hết tóc ra. Greasy Sae mở cửa trước. Trong khi bà làm bữa sáng, tôi ném đống quần áo vừa cởi ra nãy làm mồi cho lửa. Nghe theo bà, tôi lấy dao gọt dũa móng tay.
Nhìn qua chỗ trứng, tôi hỏi bà, “Gale đi đâu rồi ạ?”
“Quận 2. Tìm được việc gì hay ho ở đó rồi thì phải. Thỉnh thoảng bác thấy cậu ta trên ti vi đấy,” bà nói. Tôi dò xét lòng mình, cố tìm xem có cơn giận, lòng căm ghét hay khao khát nào trỗi dậy không. Tôi chỉ thấy nhẹ nhõm.
“Hôm nay cháu đi săn đây,” tôi nói.
“Chà, có thịt rừng tươi thì tốt quá,” bà đáp.
Tôi trang bị cung tên rồi lên đường, định qua Đồng cỏ ra khỏi Quận 12. Gần quảng trường có mấy toán người đeo khẩu trang và găng tay cùng vài cái xe ngựa. Đào bới thứ nằm dưới lớp tuyết mùa đông năm nay. Thu nhặt thi thể. Một chiếc xe đỗ trước nhà thị trưởng. Tôi nhận ra Thom, chiến hữu cũ của Gale, đang ngừng lại đôi chút để lấy khăn lau mồ hôi trên mặt. Tôi nhớ đã gặp anh ở Quận 13, nhưng hẳn anh cũng mới quay về. Anh chào tôi khiến tôi có dũng khí hỏi, “Họ có tìm thấy ai ở đây không?”
“Cả nhà. Và cả hai người làm việc cho họ nữa,” Thom bảo tôi.
Madge. Trầm tính, tốt bụng và dũng cảm. Cô gái đã tặng tôi chiếc ghim mà tôi được đặt tên theo. Tôi nuốt mạnh. Tự hỏi cô có góp mặt trong những cơn ác mộng của tôi đêm nay. Xúc mấy xẻng tro tàn vào miệng tôi. “Tôi đã tưởng biết đâu vì ông ấy là thị trưởng mà…”
“Tôi nghĩ làm thị trưởng Quận 12 không mang lại may mắn gì cho ông ấy.” Thom nói.
Tôi gạt đầu rồi tiếp tục bước đi, cẩn thận không nhìn vào phía sau xe. Khắp thị trấn và khu Vỉa than đều là cảnh tượng đó. Buổi chiêu quân người chết. Khi tôi đến gần tàn tích của ngôi nhà xưa, xe ngựa càng lúc càng chật đường. Đồng cỏ đã biến mất, hay ít nhất cũng thay đổi dữ dội. Người ta đào một cái hố sâu, chôn vùi trong đó những xương là xương, một nấm mộ tập thể của người dân quê tôi. Tôi men theo cái hố mà vào rừng bằng lối cũ. Dù cũng chẳng quan trọng nữa. Hàng rào không còn điện và được dựng lên bằng những cành cây dài nhằm ngăn thú săn mồi. Nhưng thói cũ khó bỏ. Tôi định ra hồ, nhưng lại yếu đến độ hầu như không lê nổi tới chỗ hẹn trước kia của tôi và Gale. Tôi ngồi trên tảng đá nơi Cressida từng quay phim chúng tôi, nhưng không có anh bên cạnh, nó lại trở nên quá rộng. Vài lần tôi nhắm mắt lại đếm đến mười, ngỡ rằng khi mở mắt ra sẽ thấy anh xuất hiện không một tiếng động như anh vẫn thường làm. Tôi phải nhắc mình rằng Gale đang ở Quận 2 làm một công việc hay ho, có lẽ đang hôn một đôi môi khác.
Một ngày như thế này chính là ngày mà Katniss trước kia yêu thích. Đầu xuân. Cánh rừng trỗi mình thức dậy sau một mùa đông dài. Nhưng cái năng lượng tuôn trào mà hoa anh thảo từng khơi dậy thì phai nhạt dần. Khi quay trở lại hàng rào, tôi nôn nao choáng váng đến mức Thom phải đưa tôi về trên chiếc xe chở xác. Dìu tôi đến ghế sofa trong phòng khách, để tôi ngồi đó ngắm những hạt bụi li ti xoay tròn trong luồng sáng chiều mỏng mảnh.
Tôi ngang ngửa quay đầu khi nghe thấy tiếng gừ gừ, nhưng phải mất một lúc tôi mới tin là nó đúng bằng xương bằng thịt. Nó tới đây bằng cách nào vậy? Tôi quan sát những dấu móng của một loài thú hoang nào đó, chân sau của nó hơi nhấc lên khỏi mặt đất, xương mặt nhô cao. Vậy là nó đã cuốc bộ cả chặng đường dài từ Quận 13 về đây. Có lẽ họ đã tống cổ nó hoặc cũng có thể nó không chịu nổi cảnh sống thiếu em, nên đi tìm.
“Mày mất công đi lại rồi. Con bé không có ở đây,” tôi bảo nó. Hũ Bơ lại gừ gừ. “Nó không có ở đây. Mày thích gừ ai thì đi mà gừ. Mày sẽ không tìm thấy Prim đâu.” Nghe thấy tên em, nó ngỏng lên. Vểnh đôi tai quặt. Cất tiếng meo meo đầy hy vọng. “Ra ngoài!” Nó né cái gối tôi ném. “Cút! Ở đây chẳng còn lại gì cho mày cả!” Tôi bắt đầu run rẩy, điên tiết với nó. “Con bé sẽ không quay về đâu! Nó sẽ không bao giờ quay về đây nữa!” Tôi túm lấy một cái gối khác rồi đứng lên để nhắm trúng hơn. Trượt! Lệ bắt đầu tuôn dài trên má tôi. “Nó chết rồi.” Tôi ôm chặt bụng xoa dịu cơn đau. Ngồi sụp xuống chân, đu đưa cái gối mà khóc. “Nó chết rồi, con mèo ngu ngốc kia. Nó chết rồi.” Một âm thanh mới, vừa như khóc, vừa như hát, bật ra từ cơ thể tôi, bày tỏ nỗi tuyệt vọng của tôi. Hũ Bơ cũng bắt đầu rên rỉ. Dù tôi có làm gì, nó cũng không chịu đi. Nó đi vòng quanh tôi, ngoài tầm với của tôi, khi những đợt nức nở khiến người tôi run bần bật, cho đến lúc cuối cùng tôi cũng gục xuống đất bất tỉnh. Nhưng hẳn là nó hiểu. Hẳn là nó biết rằng những điều không tưởng đã xảy ra và để sống sót thì cần có những hành động trước đây không tưởng nổi. Vì mấy tiếng sau, khi tỉnh lại trên giường, tôi thấy nó ngồi đó dưới ánh trăng. Khom mình bên tôi, cặp mắt vàng cảnh giác, bảo vệ tôi khỏi đêm tối.
Sáng ra, nó ngồi chịu đựng cho tôi rửa sạch vết thương, nhưng khi tôi nhổ gai khỏi móng nó thì nó kêu meo meo cả một tràng. Cả hai chúng tôi lại khóc, có điều lần này là để an ủi lẫn nhau. Được tiếp thêm động lực, tôi bóc lá thư mẹ gửi mà Haymitch đưa cho tôi, quay số điện thoại rồi cũng than khóc cùng mẹ. Peeta, mang theo một ổ bánh mì ấm nóng, đến cùng Graesy Sae. Bà nấu bữa sáng cho chúng tôi và cho Hũ Bơ ăn hết chỗ thịt muối của tôi.
Dần dần sau nhiều ngày mụ mị, tôi tỉnh táo trở lại. Tôi cố làm theo lời khuyên của bác sĩ Aurelius, chỉ để cho có, và ngỡ ngàng thấy mọi thứ có ý nghĩa trở lại. Tôi nói với ông rằng tôi muốn làm một cuốn sách, thế là một thùng giấy da trên chuyến tàu Capitol được chuyển đến nhà tôi.
Tôi lấy ý tưởng đó từ cuốn sách thảo mộc của gia đình tôi. Nơi chúng tôi lưu giữ những thứ mà chúng tôi không tin tưởng vào trí nhớ. Trang đầu là chân dung. Một tấm ảnh nếu chúng tôi tìm ra được. Nếu không thì là một bức phác họa hay bức tranh do Peeta vẽ. Rồi, nắn nót hết sức, tôi viết đầy đủ mọi chi tiết mà nếu quên sẽ là tội ác. Con dê Cô nương liếm má Prim. Tiếng cười của cha. Cha Peeta với những chiếc bánh quy. Màu mắt Finnick. Những gì Cinna có thể làm với một dải lụa. Boggs tái lập trình Ảnh nổi. Rue kiễng chân, cánh tay hơi dang rộng, như con chim nhỏ chuẩn bị cất cánh. Vân vân. Chúng tôi bôi một lớp nước muối lên các trang giấy để bảo quản và hứa sẽ sống tốt để cái chết của họ không trở thành vô ích. Haymitch cuối cùng cũng tham gia cùng chúng tôi, đóng góp hai mươi ba năm mà ông buộc phải hướng dẫn các vật tế. Các tình tiết thêm vào ngày càng ít. Một kỷ niệm xưa cũ trào lên. Một bông anh thảo nở muộn được ép khô giữa các trang giấy. Những mẩu hạnh phúc kỳ lạ, như bức ảnh đứa con trai mới sinh của Finnick và Annie.
Chúng tôi lại học cách luôn chân luôn tay. Peeta nướng bánh. Tôi đi săn. Haymitch uống cạn sạch rượu, rồi nuôi ngỗng cho đến khi có chuyến tàu kế tiếp. May thay, không cần phải mất quá nhiều công sức chăm nuôi lũ ngỗng. Chúng tôi không đơn độc. Vài trăm người khác đã trở về, vì bất luận có chuyện gì xảy ra, đây vẫn là nhà họ. Mỏ than đã đóng cửa, giờ họ xới trộn tro với đất để gieo trồng cây trái. Máy móc từ Capitol đào móng xây một nhà máy mới sản xuất thuốc men. Dù không ai gieo hạt, Đồng cỏ vẫn xanh tươi trở lại.
Peeta và tôi lại lớn lên bên nhau. Vẫn có những khoảnh khắc cậu nắm chặt lưng ghế mà giữ mãi cho đến khi khúc hồi tưởng qua đi. Tôi vẫn hét lên bừng tỉnh khỏi những cơn ác mộng về bọn mút và lũ trẻ đã chết. Nhưng vòng tay cậu luôn ở đó an ủi tôi. Và cuối cùng là cả đôi môi. Vào cái đêm tôi lại cảm nhận thấy điều đó, nỗi khao khát từng tràn ngập lòng tôi trên bãi biển, tôi biết rốt cuộc chuyện này cũng xảy ra. Rằng thứ tôi cần để sống sót không phải là ngọn lửa của Gale, được nhen lên bằng thịnh nộ và thù hận. Bản thân tôi đã có nhiều lửa lắm rồi. Thứ tôi cần là bông thủy tiên mùa xuân. Sắc vàng tươi mang ý nghĩa tái sinh thay vì hủy hoại. Hứa hẹn cuộc sống vẫn tiếp tục, dù những mất mát của chúng tôi có lớn đến mức nào. Rằng mọi chuyện có thể tốt đẹp trở lại. Và chỉ có Peeta mới mang lại cho tôi điều đó.
Thế nên khi cậu thì thầm, “Cậu yêu tớ. Là thực hay không thực?”
Tôi đáp, “Thực.”
Đấu Trường Sinh Tử 3/3 - Húng Nhại Đấu Trường Sinh Tử 3/3 - Húng Nhại - Suzanne Collins Đấu Trường Sinh Tử 3/3 - Húng Nhại