Chương 27 - Ngày 23 Tháng 7 - Ngày 24 Tháng 7
húng tôi chạy trốn cơn mưa, bám vào những bức tường của thư viện. Những bóng đèn an ninh màu xanh chiếu lên người chúng tôi phảng như một bức ảnh, đốt cháy mọi thứ: Doyle, màu da hồng lên; Enola, xương xẩu và một cái nhìn dữ dằn. Con bé không nói với cậu ấy kể từ lúc lên xe. Chìa khóa của Alice tra vào ổ khóa và xoay với một tiếng kêu rắc hài lòng. Tiếng chuông báo động kêu ré lên ngay khi cửa mở ra. Tôi tìm thấy bàn phím, ấn các số mà bàn tay tôi đã ghi nhớ giống như cách nó biết để cầm bút hay lật một trang sách. Không khí thơm mùi giấy, mùi bụi bẩn và mùi đặc biệt của tình trạng ọp ẹp của thư viện Grainger. Tôi tiến về phía những chiếc đèn.
- Đừng lo lắng. Tôi biết nó. - Doyle nói. Cậu ấy chạy lóc cóc qua máy tính và đặt tay lên một chiếc đèn bàn. Cứ mỗi lần, những chiếc đèn huỳnh quang nhấp nháy với những tiếng rít, chiếu lên những cuốn sách thứ ánh sáng màu xanh mát. Đó là một điều kỳ diệu để xem, nhưng Doyle chỉ lắc tay khi cậu ấy kết thúc, như thể việc này quen thuộc như đánh giày của cậu ấy. Enola đi về phía trước, một sự rùng mình thấy rõ trên cột sống của con bé.
- Chim Nhỏ, - Doyle gọi. Con bé búng ngón tay giữa và biến mất lên gác, đi thẳng về phía giá tài liệu về cá voi. Cậu ấy bắt đầu đi theo con bé nhưng tôi ngăn lại bằng một tay đặt trên khuỷu tay của cậu ấy.
- Đùng. Hãy kệ con bé. - Enola có thể dễ dàng hờn dỗi trong nhiều ngày. Con bé đã từng từ chối nói chuyện với tôi khi tôi đưa Lisa Tamsen về nhà sau một ca ở Nhà máy bom. Con bé đã la lên rằng Lisa có mùi như mùi dầu chiên cũ. Tôi đã nhận được bảy ngày im lặng trước khi con bé thừa nhận rằng em gái của Lisa đã nhét đầy tủ của cô bé những con châu chấu bị cắt nát từ phòng thí nghiệm sinh học. Con bé đã nhìn chằm chằm tôi như thể đáng lẽ tôi nên biết tôi đã làm cái gì. Tôi biết Doyle làm gì.
- Cậu biết gì về chúng tôi? Ý tôi là mọi thứ.
- Nhiều hơn những gì tôi nói. - Cậu ấy nhún vai và tìm chỗ nào đó để ngồi. Cậu ấy gác chân lên một trong những chiếc ghế đi văng trong khu tạp chí xuất bản định kỳ và chúng đặt xuống với tiếng kêu cọt kẹt.
- Bạn tôi đã sưu tầm những câu chuyện về gánh xiếc vì vậy anh ấy có nhiều chuyện để nói đến. Anh ấy rất quan tâm đến các vụ tai nạn. Giống như, tồi đánh cược là anh không biết chuyện họ đã đâm một con voi ở Tennessee, đúng không?
Không, tôi không biết. Gió bắt đầu đập vào cửa sổ. Chóp loằng ngoằng.
- Đúng vậy, con voi ở gánh xiếc này đã tấn công và giết chết ai đó bị giẫm nát hay kẹp chặt, tôi không nhớ vì vậy thị trấn quyết định giết chết nó, nhưng họ không biết làm thế nào. Họ kết liễu nó bằng việc sử dụng một cần cẩu để treo nó lên. Đại khái vậy. Anh ấy đã từng nói về những vụ đắm tàu, hoả hoạn, người bị gãy cổ trên dây cao, kiểu đu dây. Đôi lúc tôi nghĩ cậu ấy thực sự đang chờ xem liệu tôi có bị giật chết hay không. Tôi đã nói với cậu ấy cách đó không hiệu quả.
Cậu ấy không giải thích chính xác nó hoạt động như thế nào.
- Chúng tôi đã đi xuống đâu đó quanh Atlanta và trời nóng tới mức không thể tin nổi, chúng tôi đã dành cả ngày để dựng lều. Tôi nghĩ mình đã nói gì đó về ước muốn có một thùng nước và điều đó bắt đầu khiến anh ấy say sưa nói về những người cá. Anh ấy nói về những người phụ nữ đã xuất hiện bất ngờ ở một gánh xiếc trong một khoảng thời gian, mỗi lần một người, họ có thể nín thở trong một thời gian dài điên rồ và bơi như thể họ nửa là cá. Họ luôn ở quanh đây. Đó là một gia đình và tất cả họ trông giống nhau tóc đen và gầy giơ xương tới mức anh có thể làm gãy họ. Mọi người chiêu mộ họ, bất kể là buổi diễn nào, vì một người phụ như vậy sẽ mang lại rất nhiều tiền, bởi vì anh đang xem những điều không tưởng, thực sự không tưởng.
Cậu ấy nhìn tôi. Không tưởng gặp không tưởng.
- Toàn bộ thời gian tôi nghe vì sự lôi cuốn. Những câu chuyện của anh ấy luôn có sự lôi cuốn.
- Họ đã chết.
- Đúng vậy. - Cậu ấy nói - Họ chết đuối. Hầu như không ai vượt qua được ở tuổi ba mươi.
- Cậu có hỏi anh ấy làm sao anh ấy biết về những người phụ nữ này không?
- Không. Dave có cách chọn lọc những câu chuyện. Tôi biết phần lớn trong số chúng là chuyện phiếm. Ý tôi là, những người cá chết đuối ư?
- Nhưng cậu bây giờ đã tin nó.
- Việc nín thở ư? Tôi đã nhìn thấy anh bơi - Cậu ấy nhăn nhó để lộ một chiếc răng sứt nhỏ - Những người còn lại thì sao? Hai năm sau đó tôi làm việc cho gánh xiếc Rose. Lần đầu tiên tôi xuất hiện cùng với Enola, Thom nhìn chăm chú cô ấy và tôi thề là ông ta suýt vãi ra quần. Ông ta hỏi tôi có biết tôi diễn cùng ai không. Tôi nói với ông ta rằng cô ấy là người bói bài tarot giỏi nhất mà tôi từng thấy. Thom liên tục hỏi cô ấy có biết bơi hay không. Tôi nói tất cả những gì tôi biết là cô ấy bói bài. Rất nhanh sau đó ông ta kể cho tôi nghe gần như cùng câu chuyện mà Dave đã kể.
- Cậu biết họ đã chết đuối. - Tôi sẽ không nói chúng tôi. Một câu hỏi lơ lửng giữa chúng tôi. Doyle gật đầu.
- Enola không bơi Cô ấy bói bài. - Cậu ấy nói.
Con bé không thể hiện trước mặt cậu ấy. Con bé chẳng nói gì về những buổi học nín thở, những tiếng đồng hồ mà tôi dành để dạy con bé cách nổi trên bụng, cách đẩy không khí ra khỏi cơ thể, sau đó làm căng bụng lên, lặn và nghe tiếng nước như thế nào, hay việc chúng tôi đã từng giả vở rằng mẹ tôi đã ở dưới nước sâu như thế nào. Mẹ ở ngoài kia qua những tảng đá, nhặt những con trai từ những tảng đá, ăn sò điệp từ vịnh. Mẹ cảm nhận được em đang nín thở. Bộ áo tắm màu đen của Enola biến con bé thành một con hải cẩu con da trơn, một cô bé hải cẩu đã tin tưởng tôi khi tôi giữ mặt con bé trong nước. Niềm tin đã không còn; con bé đang giữ bí mật với tôi và Doyle.
- Tôi rất lo lắng cho con bé.
- Vậy tại sao chúng ta đốt những thứ này? Đó không phải vì Frank phải không?
- Không.
Tiếng bước chân của Enola giậm mạnh xuống gác. Có lẽ lần này sẽ không hờn dỗi lâu.
- Ở đây lạnh cóng. Em cần một cái chăn hay thứ gì đó. - Hai cánh tay con bé ôm chặt trước ngực, chiếc áo khoác của con bé ướt sũng. Khu sưu tầm cá voi được bảo quản lạnh, nó sẽ tốt hơn cho những cuốn sách.
- Luôn có một hai chiếc áo khoác ở khu vực nhận đồ thất lạc. Nó ở phía sau khu trẻ em, ở dưới gác.
- Anh sẽ đi lấy. - Doyle nói. Cậu ấy đi về phía bậc thang, chạm vào các ổ cắm và phích cắm điện máy tính khi đi qua.
- Cậu ấy chọn sạc điện từ đó chắc?
- Em không biết. - Enola nói. Con bé ưỡn cong người trên ghế cạnh tôi - Anh ấy nói điều đó cảm thấy tốt.
- Một anh chàng kỳ lạ.
- Anh ấy ổn.
- Em đã không nói với cậu ấy em có thể nín thở.
- Sao em phải nói? - Con bé nhìn chăm chú xuống chân mình. Đôi giày tennis màu đỏ của con bé ướt sũng. Con bé cởi giày, run rẩy và gập chân bên cạnh mình.
- Có bất cứ ai kể với em về gia đình của chúng ta chưa? Nếu Doyle biết, chắc chắn ai đó cũng đã kể với em. Thom Rose đã phát hiện ra anh ngay và anh hầu như không hỏi ông ta bất cứ điều gì. Ông ta đã nói gì với em?
- Không. - Một cái giật nhẹ ở môi trên.
- Ông ta đã nói với em những gì?
Ông ấy hỏi em xem có biết bơi không, giống như ông ấy đã hỏi anh. Em đã nói với ông ấy mẹ chúng ta đã biểu diễn trong một lễ hội. Đó là tất cả. - Con bé lấy những lá bài ra khỏi túi và bắt đầu rải chúng trên tay vịn ghế. Sáu lá bài được rải nằm ngang nhanh gọn, sau đó dọn sạch. Rồi lặp lại. Những ngón tay của con bé lần lần trên lá bài.
- Thom đã nói với em.
Rải nhanh sáu lá bài, rồi dọn sạch, rồi lại lặp lại. - Em đã nói với Thom rằng em bói bài, em không bơi giống như em đã nói với Doyle. Em đã nói rằng nếu ông ấy làm em bực mình, em sẽ bỏ đi và Doyle sẽ đi với em.
Một cái đập nhẹ cỗ bài. Trải bài, tráo bài, lặp lại. - Doyle cũng sẽ đi. Không ai muốn mất anh ấy. Anh ấy rất đặc biệt. Em không biết anh ấy đã biết về chúng ta.
Những lá bài trượt rơi xuống. Từng lá bài rơi chồng lên nhau, một phân tử nhỏ trao đổi. lớp giấy cũ có nghĩa các lá bài đã hòa vào nhau, trở thành một vật duy nhất, một tâm trí duy nhất.
- Đáng lẽ anh ấy nên nói với em.
- Tại sao?
Những lá bài ngừng chuyển động. - Bởi vì không ai nói với em mọi điều. Anh ấy không. Anh không. Anh nghĩ em không biết mọi chuyện, nhưng em biết. - Con bé tiếp tục tráo bài.
Con bé bắn cho tôi một cái nhìn. - Bởi vì sẽ tốt cho anh ấy để biết rằng em có khả năng là người tiếp theo, sau người mẹ tự tử của em. Người đã chết đuối.
Doyle đã suýt giết chết tôi khi cố gắng ghìm chặt tôi. Đúng vậy, có lẽ an toàn hơn nếu cậu ấy không biết.
- Có lẽ vậy.
- Em luôn tự hỏi mẹ mất bao lâu để lên kế hoạch làm việc đó. Chuyện gì xảy ra nếu mẹ thức dậy vào mỗi sáng trong mỗi năm để biết ngày đó đang đến gần hon? Có lẽ điều đó làm cho mọi việc dường như trở nên có giá trị hơn. - Con bé xoè các lá bài như hình quạt rồi sau đó thu chúng lại thành một tập bài gọn gàng.
- Anh không nghĩ nó hoạt động như vậy, - Tôi nói.
- Làm thế nào mà anh biết? Có phải anh đang giấu em điều gì không?
- Không. - Sự im lặng bao trùm lấy chúng tôi, chỉ còn tiếng tráo bài im lặng. Con bé trông mệt mỏi, phờ phạc - Em buồn à?
- Em không như mẹ, - con bé nói khẽ - em cẩn thận. Em bói bài, em không bơi Em không bị cám dỗ. Khi anh đi cùng với chúng em, em không muốn anh nói bất cứ điều gì với Thom hay Doyle.
Con bé chia bài thành một hàng cân bằng hoàn hảo trên tay vịn ghế. Lá bài Chàng Khờ, lá bài Tám Thanh Kiếm, lá bài Nữ hoàng Kiếm ở giữa chúng, quen thuộc một cách kinh ngạc. Chúng đã bạc màu, và bị rách. Thậm chí sử dụng từ quen thuộc cũng không phải. Tôi đã nhìn thấy những hình ảnh đó trước đây. Đây là một bộ bài được vẽ tay. Có lẽ thật khó để nhận ra bởi vì tôi đã thấy chúng trong màu mực nâu, nhưng tôi nhớ có chiếc giày cong trên lá bài Chàng Khờ, nét mặt bị tra tấn trên lá bài Tám Thanh Kiếm.
- Anh tìm được cho em một chiếc áo khoác. - Doyle nhảy lên các bậc thang khi đang cầm một chiếc áo khoác paca (áo da có mũ trùm đầu) lớn màu đen trông như nó được làm từ những túi rác. Enola nhét các lá bài trở lại vào trong túi. Cậu ấy đến gần và con bé nhảy lên, để cậu ấy khoác thứ xấu xí này qua vai mình.
- Simon? - Con bé gọi.
- Sao?
- Nước đang tràn vào qua cửa.
Dưới gờ cao su của cửa kính một vũng tối màu đã hình thành, một vệt đen trên tấm thảm màu xanh.
- Chết tiệt. Doyle, còn chiếc áo khoác nào không?
- Tất nhiên còn.
- Mang chúng đến đây mau. Áo khoác, áo len, áo sơ mi, bất kể cái gì.
Có bốn lối ra ở Grainger, cửa chính, hai lối thoát hiểm và một cửa dịch vụ. Hai trong số các lối thoát ở tầng hầm. Nơi nhận đồ thất lạc chỉ tìm thấy một ít áo khoác và quần áo, chỉ đủ cho một cửa. Doyle khoác tất cả trên vai cậu ấy, một cây giá áo bằng người.
- Những gì còn lại là các túi xách và đồ đạc. Những cái ô.
Tầng dưới đầy sách trẻ con và báo chí, những tài liệu địa phương cũ hơn, và sách trong kho không ai sử dụng ngoại trừ những người viết luận văn hoặc tôi. Dưới gác sẽ ngập rất nhanh; không có một ý kiến thực tế nào trong việc cố gắng cứu nó nếu nước từ trên gác sẽ tràn xuống. Yên tĩnh. Tàn phá. Mọi thứ trên các giá sách thấp, tất cả những hồ sơ này. Tôi vẫn có thể cảm nhận từng mép mỗi trang giấy.
- Simon?
- Cửa trước. Chúng ta sẽ ngăn ở dưới bằng áo khoác và tìm xem còn cái gì khác ở ngoài kia không.
Một chiếc áo khoác mùa đông màu đỏ của một cậu bé, một chiếc áo vest xanh dương đậm, một chiếc áo khoác len dính đầy lông mèo, một chiếc áo khoác len ố màu, một chiếc áo cardigan màu hồng rực rỡ. Tôi có thể hình dung ra nó là của bà Wallace. Chúng ướt sũng. Doyle kéo hai chiếc ghế để chặn chúng không bị trôi.
Sau đó đến phần đau thương.
Sách tham khảo được hy sinh cho cửa thoát hiểm. Kệ sách dưới cùng. Một bộ sách bách khoa đã mở và bị kẹt trong từng khe cửa, những cuốn sách chồng lên nhau gần tới mức để chúng tôi có thể bịt kín. Chúng tôi xé các trang sách để lấp kín chỗ hở. Đẩy lùi nước, không nghĩ đến những cuốn sách. Dù sao chúng cũng sẽ bị phá hủy. Không nghĩ đến việc những giá sách này cảm thấy cao như thế nào khi lần đầu tiên tôi khám phá thư viện Grainger. Không nghĩ đến việc những giá sách này cất giữ các câu trả lời cho tôi như thế nào, về mọi thứ, đối với việc tôi sẽ là ai, chúng là mã số thập phân của riêng tôi như thế nào.
Tôi cảm thấy Enola đang nhìn tôi. - Anh đã bị sa thải. - Con bé nói - Và có lẽ anh đang cứu những cuốn sách.
Doyle xé một trang kín những nét chữ nguệch ngoạc. - Dãu sao ai đó đã vẽ kín hết cả trang.
Việc đó cũng không khá hơn.
Khi chúng tôi không thể nhét thêm giấy được nữa, khi không còn gì để làm nữa, chúng tôi leo lên tầng 2.
Khu sưu tầm cá voi rất lạnh, sạch sẽ. Những chiếc bình thủy tinh plexi trung bày những đồ chạm trổ, đầu cây lao móc và một con dao lạng mỡ cá voi. Những giá sách có những cuốn nhật ký của thuyền trưởng, những hình vẽ con tàu, những bản vẽ, và những lá thư trong các hộp lưu trữ. Nghèo nàn. Một bức chân dung của một Philip Grainger trẻ tuổi được treo bên cửa, cặp kính tròn có dây của anh ta và bộ râu màu nâu được tỉa gọn tiết lộ cả sự giàu có và uyên bác. Không có một góc phòng nào ở ngoài tầm nhìn của anh ta. Alice thích quỳ gối khi đi qua anh ta. Những chiếc ghế ở đây mềm hon so với những chiếc ghế ở khu tạp chí định kỳ, đây là nơi tiền đến và tiền đi. Nếu chúng tôi vẫn khô ráo chúng tôi sẽ làm việc đó. Enola cong người trong ghế. Doyle lướt sang chiếc ghế khác bên cạnh con bé. Con bé đặt đầu lên vai cậu ấy và những cánh tay xăm trổ vòng quanh ôm lấy con bé. Đâu đó giữa xe hơi, áo khoác và nước, cậu ấy được tha thứ.
- Anh đã bao giờ nghĩ, - con bé nói - đã bao giờ cảm thấy nước đến vì anh chưa? Ngôi nhà, chắc chắn rồi. Những cuốn sách của anh.
- Ở đây chúng ta an toàn. - Tôi nhìn con bé. Đầu Doyle bắt đầu gục xuống như một đứa trẻ dễ ngủ. Mắt Enola quay phắt, nhìn lên trần nhà tìm chỗ thủng, tôi khẳng định.
Khi lần đầu tiên anh bắt đầu ra chỗ phao, ông Frank đã nói với anh rằng khi chúng ta sinh ra có những đợt thủy triều cao mỗi lần, những con sóng lớn tới mức chúng tràn qua những vách ngăn, ngay phía trên các cọc. Mọi người nghĩ những bến cầu tàu sẽ vỡ nhưng chúng vẫn trụ được. Những thứ tốt có thể đã bị cuốn đi cùng với thủy triều.
Con bé kéo chiếc áo khoác có mũ lên và rúc cằm xuống đầu gối. - Frank là một kẻ nói dối.
Con bé đúng. Tôi đi về phía lan can cầu thang và nhìn khắp. Một vòng tròn màu đen lan ra ở dưới bộ sách bách khoa toàn thư được dùng để chặn cửa sau.
Con bé dựa vào Doyle ngủ, những xúc tu của cậu ấy vòng quanh con bé, da ôm, mực ôm. Tôi không còn nơi nào để đi. Nước đã lấy đi mọi thứ. Con bão thậm chí đã dập tắt lửa trại yêu thích. Tất cả những gì tôi đã làm là đốt cháy lịch sử của chúng tôi và phá hủy một cuốn sách hay. Sau đó mưa đến. Có điều gì đó đã sai.
Tôi thức dậy. Những cuốn sách dưới gác có lẽ đã bị hủy hoại nhưng thật không đúng nếu để chúng đi mà không có nhân chứng nào và đã đến lúc kiểm tra xem Liz Reed đã tìm thấy gì.
Doyle hé mở một mắt. - Anh định đi đâu thế?
- Xuống gác. Tôi cần xem thế nào.
Cậu ấy gật nhẹ. Enola trở mình trong cánh tay cậu ấy, một tay vung lên trong một tư thế cứng dơ. - Cô ấy lo lắng cho anh, - cậu ấy nói - đó là lý do tại sao cô ấy đến đây.
- Con bé không phải lo.
Cậu ấy nhìn quanh, những tia sáng loé lên và nhấp nháy liệu có phải từ cậu ấy hay từ con bão, thật khó để nói.
- Tôi không biết. Những điều tồi tệ có thể xảy ra với anh bất cứ lúc nào. Thực sự ở lại cùng nhau ở gánh xiếc của Rose, được không? Đó là một công việc tốt và tôi không muốn phải tìm việc khác. - Trong giọng nói của cậu ấy ẩn chứa một gọi ý mơ hồ về một mối đe dọa. Khuôn mặt cậu ấy vẫn bình tĩnh, một mắt hé mở, gần như đang ngủ. Lẽ ra đó là việc của bố để giữ những người đàn ông nguy hiểm tránh xa con bé; bây giờ con bé đã được bao quanh bằng một hàng rào điện.
- Tôi sẽ xuống thấp hơn. Tôi sẽ đi không lâu đâu.
Sàn sũng nước, một lớp nước mỏng làm cho tấm thảm màu xanh lá loang loáng hấp dẫn, và tiếng bì bõm theo mỗi bước đi. Một cơn đau âm ỉ ở mắt cá chân tôi. Tôi chuyển các cuốn sách lên bàn, nhưng không đủ chỗ. Thật khó thở, căn phòng dày đặc mùi hôi của giấy ướt. Tôi di chuyển mọi thứ tôi có thể lấy từ giá sách trẻ con và nhấc chúng lên cao hơn trừ Thorton Burgess, những câu chuyện cổ tích, the Potter, đổ hết các giấy tờ, những thứ tôi yêu thích ở ngăn tủ dưới. Tôi không thể chịu đựng được khi nhìn thấy những cuốn sách bị ngập nước. Một bóng đèn kêu xì xì và nổ bốp, làm tối cả máy vi phim. Những chiếc bàn đầy quá nhanh và nó trở nên không thể chọn lựa.
Tôi đi qua các dãy tủ hồ sơ, báo và tạp chí được lưu trữ trên tấm vi phim, phim và giấy vẫn chưa được số hóa, không biết tôi đang tìm kiếm gì cho tới khi tôi tìm thấy nó. Cuốn Beacon (Tiên Đoán) cho tuần sinh của tôi, sau đó là cho Enola. Mục Bạn đồng hành của Boater cùng với những bảng thủy triều và báo cáo thời tiết. Những đợt thủy triều cao đã mang chúng tôi đến, dâng cao mà không có cơn bão nào. Trách nhiệm này được quy cho những tuần trăng tròn. Sau khi nước đổ xuống vùng đất này, thủy triều đẩy lùi biển Sound, tới gần Connecticut cả hai lần. Đối với Enola có hình ảnh của một người đàn ông đang đứng ở bên ngoài giữa một bãi cát nơi bến cảng đã khô cạn. Tàu thuyền bị mắc cạn. Cá chết. Hàng trăm con cá ngừ và cá bơn chết cạn. Thủy triều đã mang chúng tôi đến và mang theo chết chóc. Dưới ánh đèn huỳnh quang nhấp nháy, tôi tìm kiếm cho mẹ tôi và tìm thấy cơn bão của bà. Tuần lễ mẹ tôi mất không rõ ràng, chỉ là ký ức về việc mẹ cho ăn trứng và nhìn bà rời đi, nhưng có một sự kiện một cơn bão đến rất nhanh, một thủy triều đỏ và một bãi biển đầy cua móng ngựa.
Tôi đi đến bàn làm việc của mình, đó là chiếc bàn của tôi cách đây vài tuần, nó vẫn ở đây, dù nó đã thay đổi. Cuốn sách về sửa chữa dụng cụ đã được dọn đi, chiếc đèn bàn của ngân hàng được thay thế bằng đèn huỳnh quang, những dấu vết của tôi đã bị xóa sạch. Tất cả những gì còn lại là chiếc máy tính. Nó được bật lên với đèn cảnh báo, nhưng vẫn đang đăng nhập vào email của tôi. Mặc dù không an toàn khi sử dụng thiết bị điện trong lúc đang có bão như lúc này, nhưng thời gian đang rất cấp bách. Có hai mươi ba email, sự khuây khoả đến từ lửa trại đã biến mất cùng với cơn bão.
Email của Liz hoàn hảo, mô tả chi tiết một tai nạn ttong một trận lụt ở New Orlean hồi năm 1825, một con tàu lưu diễn đã bị nuốt chửng dưới con sông Mississippi sau những ngày mưa bão. Cô ấy đã tìm thấy nó ở Tòa Báo Tiểu bang Louisiana. Hầu hết các diễn viên và động vật bị chết khi tàu chìm. trong số năm người sống sót có Katerina Ryhkova và con gái của bà, Greta. Cha của đứa trẻ này bị chết trong trận lụt. Chủ gánh xiếc này, Zachary Peabody được chuyển đến bệnh viện để phục hồi. Sau đó ông ấy bắt tay vào một sự nghiệp lâu dài và tai tiếng như một ông chủ vũ trường. Đúng như tôi nghi ngờ. Liz đã kết thúc email của cô ấy bằng một dấu hiệu nhỏ: “Cục lưu trữ Sanders-Beecher đang cố gắng liên lạc với anh. Điện thoại của anh không hoạt động. Hãy sửa nó. Tôi nghĩ có thể anh sẽ có một công việc. “
Tiếp theo là email của Raina. Không hùng hồn như của Liz, thư của Raina có một danh sách tên và chữ viết tắt. Greta Mullinsm. Jonathan Parsons. Ba đứa con: Jonathan Parsons,Jr; Newton Parsons; Theresa Parsons. Jonathan Jr đã chết khi còn nhỏ và Newton không kết hôn. Nhưng Theresa Parsons thì có. Tôi đọc dòng chữ này. Run run tôi chạm vào nút in. Vài giây sau một tiếng nổ bụp phát ra từ máy in. Tôi nhìn chằm chằm vào màn hình. Theresa Mullinsm.Lawrence Churchwarry. Một con. Martin. Tôi có thể cung cấp phần còn lại. Martin Churchwarry sẽ có một cuộc sống vô nghĩa như một người bán sách cho tới một ngày gặp một cuốn sách hấp dẫn. Martin Churchwarry là một hậu duệ của bà Ryhkova. Thư Raina ngắn gọn, nhưng công việc của cô ấy luôn thông suốt đến mức không thể sai lầm. Máy tính nhấp nháy và màn hình tối đen. Ngực tôi cảm thấy kỳ lạ, hõm vào. Martin Churchwarry đã tìm thấy cuốn sách này và đã tìm tôi. Ông ấy là một Ryzhkova. Đó có phải là lý do tại sao tôi tiếp tục nói chuyện với ông ấy? Có phải có một lực đẩy trong máu khiến tôi không thể gác máy với ông ấy? Không, tôi đã gọi cho ông ấy. Tôi đã làm việc đó. Ông ấy gửi cuốn sách này nhưng tôi vẫn tiếp tục gọi, lôi kéo ông ấy về phía mình. Rút hết tâm can của ông ấy.
Tôi đã giải cứu những cuốn sổ ghi chép của tôi từ trên gác, nơi Enola lúc này vẫn đang say sưa ngủ trên đùi Doyle, người con bé duỗi dài qua hai tay vịn ghế. Tôi chộp lấy chiếc túi của mình và Doyle cong một bên chân mày.
- Những cuốn sổ ghi chép, - Tôi nói. Cậu ấy không nói gì.
Tôi đã thực hiện một cuộc gọi từ bàn làm việc của Alice, bởi vì chiếc ghế của cô ấy mềm hơn và nó cách xa khu sưu tầm cá voi hơn của tôi; nó cũng có mùi như của cô ấy, giống mùi muối và chanh. Ngăn kéo của cô ấy đầy bút màu tím, những chiếc nắp bút bị cắn nhẹ. Những chiếc bút màu tím dành để ghi chép cuộc hợp. Máy nghe điện thoại cũng có mùi của cô ấy. Doyle đứng ở lan can cầu thang, đang nghển cổ, đang nhìn tôi, đầu cậu ấy đặt trên một cánh tay vẽ mực.
Tôi không đợi cả chào. - Ông là một Ryzhkova.
- Simon? Tôi đang cố gắng liên lạc với anh. Anh ở đâu vậy?
- Điện thoại tôi bị hỏng, ông là một Ryzhkova. Ông đã biết đúng không? Những lá bài trong cuốn sách đó, chúng là gia đình của ông.
Ông ấy hắng giọng:
- Tôi xin lỗi, có chuyện gì vậy?
- Tôi cần biết tại sao ông gửi cho tôi cuốn sách này? - Tôi nói -Nó rất quan trọng.
- Đó thực sự là điều tôi đã nói với cậu. Có gì đó về cuốn sách này rất khác lạ, tuyệt vời, nhưng nó không phải là thứ gì đó tôi có thể bán. Ryzhkova ư? Sự thực ư?
- Các thư viện sẽ cần nó, - tôi nói - một bảo tàng xiếc, có lẽ vậy. Luôn muốn có món đồ cũ, ông chỉ cần biết tìm ở đâu. Ông là một người bán sách, việc của ông là biết tìm nơi đó ở đâu.
Ông ấy thở dài. - Có một bảo tàng xiếc ở Sarasota có lẽ sẽ quan tâm, đúng vậy. Nhưng cậu đã bao giờ cảm thấy gắn bó với một cuốn sách nào chưa? Vợ tôi có một bản sao cuốn Hòn đảo Kho báu. Nó đã ố màu, mất vài trang và nó ở trong tình trạng kinh khủng, nhưng cô ấy sẽ không bỏ nó. Tôi đã tặng cô ấy nhiều thứ khác, những bản in đẹp, nhưng cô ấy không thích. Cuốn hòn đảo Kho báu là cuốn sách của cô ấy.
Tôi nghe thấy tiếng chân ghế kéo qua sàn nhà khi Churchwarry ngồi xuống - Tôi đã tới cuộc đấu giá bất động sản cho Moby-Dick, nhưng tôi đã nhìn thấy cuốn sách đó trong rất nhiều thứ khác và tôi cần xem nó kỹ hơn. Tôi đã trả giá cao, nhưng tôi cần chắc chắn tôi có nó. Đầu cơ trong sạch, tất nhiên rồi, không ai được phép xem cuốn sách trước khi đấu giá nhưng tôi nghĩ có một cơ hội nếu nó là sách của tôi. Như cách cuốn Hòn đảo Kho báu của Marie. Nhưng ngay lúc tôi chạm vào nó, tôi biết nó không thuộc về tôi. Tôi biết nó cũng không phải để bán, không phải ở hiệu sách Churchwarry&Son. Tôi không thể giải thích ngoài việc nói rằng nó cầu xin được cho đi. Tôi đã giữ nó trong một khoảng thời gian ngắn, xem qua nó để xem liệu tôi có thể tìm một nơi nào để gửi nó đi. Khi đó tôi thấy cái tên đó. Verona Bonn.
- Bà tôi, - tôi nói - Martin, đó là cuốn sách của ông. Bà cố của ông là một thầy bói bài ở một gánh xiếc, bà Ryzhkova.
- Cậu hoàn toàn chắc chắn chứ? - Ông ấy ho một lúc, không phải vì ốm hay vì tuổi tác, mà là để thu thập các suy nghĩ của mình. - Thật kỳ lạ. Các sự việc thật tình cờ.
- Tôi không nghĩ đó là tình cờ. Những cuốn sách như thế này không được nghĩ là rời bỏ một gánh xiếc hay một gia đình, nhưng cuốn sách này thì khác. Enola nói chưa bao giờ thấy một cuốn sách nào như vậy. Nó tìm cách đến với ông, và ông tìm đến tôi. Như thể nó đang tìm kiếm chúng ta.
- Thật kỳ diệu, - Ông ấy nói gần như hơi choáng vì nó. Ông ấy không còn nghe tôi, bị lạc trong suy nghĩ riêng của chính mình -Nghĩ về khoảng thời gian tôi dành tiền mua sách... Thật phù hợp: một cuốn sách đã kiếm tôi. Hoàn toàn tuyệt vời, - Ông ấy lẩm bẩm
- Tôi muốn nhìn lại nó. Cậu có phiền để gửi lại nó cho tôi không? Hay tốt hơn, cậu có thể mang nó đến đây không? Tôi cũng muốn gặp cậu. Dường như chúng ta nên gặp nhau. Điều đó như thể chúng ta được kéo lại với nhau, đúng không?
- Tôi không thể. Tôi đã đốt nó.
- Cậu nói gì cơ? - Phía sau tôi, tiếng cánh cửa khẩn cấp kêu cọt kẹt, đẩy bộ sách bách khoa.
- Đó là cái gì vậy? - Ông ấy hỏi.
- Thư viện đang bị ngập. - Tôi nói. Churchwarry tạo ra một âm thanh giật mình trước khi hỏi tôi có an toàn hay không.
- Trong lúc này. Tôi đã phá hủy cuốn sách này và mọi thứ từ Frank. Tôi nghĩ việc này sẽ cẩn trọng, như việc phá tan một viên thuốc lời nguyền lời phù phép bằng lửa, nhưng sau đó cơn bão đến. Martin, có gì đó rất sai. Tôi thấy lo lắng.
- Cậu nghĩ cậu đã bỏ lỡ điều gì đó. - Ông ấy nói.
Nước đã đẩy về phía trước và đã đến lúc hy sinh bộ bách khoa toàn thư khác, và phá hủy một phần khác trong tôi.
- Tôi phải gác máy, nhưng tôi muốn ông biết. Ông nên biết gia đình của ông là ai. Tôi cần phải chặn cửa. - Tôi liếc nhìn qua ghế nơi Enola đang ngủ và Doyle đang ngồi nhìn.
- Simon, - Ông ấy nói với một giọng trầm ấm mà tôi chưa bao giờ nghe thấy trước đây - hãy bảo trọng!
Những lời của ông nặng nề với những điều hiếm hơi: bảo trọng và có thể.
Cuốn Sách Tiên Tri Cuốn Sách Tiên Tri - Erika Swyler Cuốn Sách Tiên Tri