Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Bắt Cóc
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 26 - Chấm Dứt Cuộc Chạy Trốn – Chúng Tôi Vượt Forth
D
ang giữa tháng tám, thời tiết tuyệt vời, nắng ấm báo hiệu một vụ mùa sớm và bội thu. Tôi hoàn toàn bình phục và có thể lên đường.
Số tiền trong túi chỉ còn mức chúng tôi phải nghĩ làm sao đi cho nhanh, bởi vì nếu không nhanh chóng đến chỗ ông Rankeillor ở Queenfery hoặc trong trường hợp tới đó mà ông ấy từ chối giúp đỡ thì chúng tôi có nguy cơ chết đói theo nghĩa đen.
Theo ý kiến Alan thì mức độ săn lùng chúng tôi đã giảm đi nhiều và có thể nghĩ rằng sông Forth và chiếc cầu chính Stirling được canh phòng rất đại khái.
— Nếu dính đến quân sự. – Alan nói – Thì điều cơ bản nhất là luôn luôn xuất hiện ở những nơi người ta ít nghĩ đến nhất. Sông Forth là nỗi lo chính của chúng ta. Cậu biết câu tục ngữ: “Sông Forth đặt những kẻ hoang dã nhất trên cao nguyên vào khuôn phép” chứ. Vì vậy nếu ta tìm cách đi quanh vùng bờ sông để sang Kippen hoặc Balfour. Chắc chắn chúng phục kích và tóm ta ở đó. Còn nếu chúng ta đi thẳng qua chiếc cầu Stirling, tôi có thể đánh cược là chúng ta vượt qua an toàn.
Và trong đêm đầu tiên, chúng tôi đã di chuyển tới nhà của một người họ Maclaren, bạn của Duncan, và ngủ suốt ngày ở đó. Hôm ấy là hăm mốt tháng tám.
Đêm đó chúng tôi lại lên đường, vượt qua một đoạn đường ngắn không vất vả lắm. Ngày hăm hai, ban ngày chúng tôi nằm trong bụi thạch thảo, nhìn thấy một bầy hươu trước mặt và ngủ mười tiếng liền dưới ánh mặt trời. Đất ở trong khô cứng như đá, chúng tôi chưa gặp lần nào như vậy trong cuộc hành trình. Đêm hôm sau chúng tôi tới dòng suối Allan Water và đi xuôi dòng, ở điểm cuối của vùng núi, chúng tôi nhìn thấy đồng bằng Stirling bằng phẳng như cái bánh trứng, ở chính giữa là thành phố, trên một ngọn đồi là lâu đài. Sông Forth lượn quanh co, sóng lên dưới ánh trăng.
— Tôi không hiểu điều này có làm được gì cho cậu không, David, – Alan nói – nhưng bây giờ cậu đã ở quê hương mình rồi đó. Vào khoảng giữa mười hai giờ và một giờ sáng chúng ta vượt qua giới hạn của cao nguyên và nếu bây giờ chúng ta làm được việc vượt qua an toàn dòng nước quanh co dưới kia thì có thể tung mũ lên trời mà kêu to “Hu ra”.
Ở gần chỗ suối Allan Water đổ vào sông Forth chúng tôi tìm được một cồn cát nhỏ mọc đầy cây gai cà độc dược và các loại khác vừa đủ cao, che bảo vệ được chúng tôi khi nằm thẳng trên mặt đất. Chúng tôi nằm đó nhìn vào lâu đài Stirling, từ đó vọng ra tiếng trống hành quân của tụi lính Áo đỏ. Những người cắt cỏ làm việc suốt ngày bên phía bờ này chúng tôi nghe thấy những tiếng chối tai của lưỡi hái chạm vào đá và còn nghe được đôi từ riêng lẻ. Chúng tôi phải nằm thật yên và ngậm miệng. Trên cát được chiếu sáng của hòn đảo rất ấm áp, chúng tôi có đủ thức ăn, thức uống và điều cơ bản là sự cứu sống đang ở trước mặt.
Khi những người cắt cỏ làm xong công việc vừa đi khỏi và buổi tối đang đến, chúng tôi quay lại bờ và đi về phía cầu, nhưng vẫn ở ngoài đồng cách một hàng rào ngắn.
Chiếc cầu nằm ngay dưới chân núi của lâu đài, đã cũ kỹ, hẹp và cao, có lan can tráng kẽm cao đến ngực. Độc giả có thể hình dung tôi đã tò mò quan sát nó như thế nào, không phải nó là một công trình lịch sử gì là vì nó là cái cổng vào cõi cứu thoát đối với Alan và tôi.
Trăng chưa mọc khi chúng tôi tới cầu. Đèn đã thắp lên ở một vài cửa sổ lâu đài. Ở chỗ vào cầu tất cả đều im lặng. Rõ ràng không có lính gác.
Tôi cho rằng mình nên chạy thật nhanh qua nhưng Alan nhắc nhở phải thận trọng:
— Tất cả có về như yên tĩnh, nhưng tốt nhất là ta hãy nấp ở chân cầu cho đến khi hoàn toàn chắc chắn.
Thế là chúng tôi đứng yên, nói thì thầm với nhau rồi lại yên lặng độ một phần tư giờ. Không nghe thấy gì khác ngoài tiếng sóng đập vào chân cầu.
Cuối cùng có một bà già chống gậy đi tới, bà dừng lại rất gần chỗ chúng tôi và than thở về đoạn đường dài đã phải đi qua. Sau đó bà tiếp tục đi lên dốc cầu. Bà già thì nhỏ mà đêm tối đến mức chúng tôi lập tức mất hút bà mà chỉ còn nghe tiếng chân bước tập tễnh và tiếng gậy chống xuống đường, thỉnh thoảng bà lại ho, nhưng tiếng xa dần.
— Bây giờ bà ấy ở bên kia rồi. – Tôi thì thầm.
— Chưa, chưa đâu. – Alan đáp – Tiếng bước chân bà còn nặng nề trên sàn cầu.
Đúng lúc đó có tiếng đàn ông:
— Dừng lại, ai đó?
Chúng tôi nghe tiếng đạn súng hỏa mai rơi xuống đá. Tôi cho là lính đã ngủ và chúng tôi có thể đi qua mà không ai biết. Nhưng bây giờ hắn đã thức và cơ hội tốt đã qua mất.
— Không thể như thế, David ạ. Không bao giờ trong cuộc sống chúng ta có thể thành công bằng cách đó.
Và không nói một lời anh bỏ quay lại cánh đồng mãi một lúc sau, khi chúng tôi không thể bị nhìn và nghe thấy được nữa, anh mới đứng dậy và đi về phía đồng.
Tôi không hiểu anh định làm gì và tôi cũng thất vọng chua chát là mưu đồ của mình không thành. Chỉ cách đây ít lâu tôi mơ thấy mình đến chỗ ngài Rankeillor thế nào, và như những anh hùng trong sách vở, hỏi tội bác tôi. Bây giờ tôi lại là kẻ đang bị truy nã, một kẻ phạm pháp đang lạc lõng phía bên bờ không đúng chỗ của dòng Forth.
— Bây giờ làm gì đây? – Tôi hỏi.
— Đúng, bây giờ làm gì? – Alan nhắc lại – Tụi nó không ngu như tôi nghĩ. Chúng ta phải vượt sông, David ạ. Dòng nước đang cuồn cuộn vì mưa trên núi đổ xuống.
— Tại sao lại đi về phía đông? – tôi hỏi.
— Tìm cơ hội. Nếu không vượt qua được sông, chúng ta phải xem sẽ tiếp tục ở trong vịnh thế nào.
— Đúng, có chỗ cạn, thậm chí có cả cầu nữa, nhưng có ích gì cho ta nếu những nơi đó bị canh phòng.
— Đúng, nhưng ta có thể bơi vượt sông.
— Được, nếu bơi nổi. – Anh trả lời – Nhưng tôi không hiểu hai chúng ta có đủ sức không. Riêng tôi ở dưới nước tôi giống như một hòn đá.
— Tôi không thể trả lời được câu hỏi đó, Alan ạ, nhưng tôi nghĩ nếu vượt sông khó thì vượt biển còn khó hơn.
— Nhưng nếu tôi không nhầm thì ở đó có những thứ tựa như thuyền, – Alan nói.
— Đúng, và cũng có những thứ tựa như tiền, nhưng vì chúng ta không có cả hai thứ nên không cần tìm.
— Cậu nghĩ gì vậy? – Alan hỏi.
— Vâng, tôi nghĩ vậy.
— David, cậu không nghĩ được gì nữa, cậu cũng hơi nản chí rồi đấy. Hãy để tôi suy nghĩ nghiêm chỉnh, nếu tôi không xin hoặc vay tiền hay ăn trộm một cái thuyền thì tôi sẽ làm lấy một cái.
— Tôi đã thấy anh định làm gì, nhưng tôi cũng thấy nếu đi qua cầu chúng ta sẽ không để lại dấu vết gì, còn nếu chúng ta định vượt vịnh bằng một chiếc thuyền, lúc đó chiếc thuyền sẽ ở bên kia, không đúng chỗ, phải có người nào đó đã đem nó đi, thế là cả vùng lại ồn ào lên.
— Bạn trẻ! – Alan kêu lên – Nếu tôi đóng một con thuyền thì tôi cũng tìm được người chèo nó về. Hãy đi tiếp đi và để tôi suy nghĩ, đó là những gì cậu cần làm bây giờ. Việc suy nghĩ hãy đề cho một mình bạn Alan Brek của cậu.
Thế là chúng tôi đi suốt đêm qua vùng phía bắc, dưới chân núi Ochil cao ngất, qua nhiều làng xóm khác nhau. Vào khoảng mười giờ sáng, vừa đói, vừa mỏi chúng tôi tới một làng nhỏ sát biển từ đó có thể nhìn thấy vịnh Hope và thành phố Queensferry. Từ ống khói ở hai nơi, khói đang bốc lên, cũng như ở các căn lều ngoại vi. Trên đồng mùa gặt đang đến. Có hai con tầu bỏ neo, trên vịnh Hope thuyền bè nhộn nhịp.
Tất cả là một phong cảnh dễ chịu. Tôi nhìn không chán mắt những thung lũng trồng trọt xanh tốt, những con người chăm chỉ trên đồng và dưới mặt nước.
Nhưng trước hết, ngay phía bờ nam đối diện là nhà ông Rankeillor một sự giàu sang cho tôi nằm trong đó. Nhưng tôi lại ngồi đây, ở bờ dốc, hoàn toàn đói rách, toàn bộ tài sản còn lại ba đồng xu bạc trong túi, đầu tôi được đặt giá cao và người dẫn đường độc nhất của tôi thì tự do như chim, là một người ngoài vòng pháp luật.
— Ồ, Alan, hãy tưởng tượng xem, ở phía bên kia là tất cả những gì trái tim tôi tôn sùng. Chim bay qua vịnh, thuyền bè đi lại. Nếu ai có hứng, cứ việc qua bên kia. Chỉ có tôi là không, có đáng khóc không?
Trong làng Limekiln, chúng tôi đi tới một quán trọ nhỏ mà ta chỉ nhận ra qua dòng chữ trên cánh cửa. Từ tay một cô gái trẻ, xinh xắn – chắc là người phục vụ – chúng tôi mua bánh mì và pho-mát. Chúng tôi cho hai thức này vào túi xách để ăn ở bìa rừng cách đây chừng một dặm.
Trong lúc đi dọc bờ biển, tôi thở dài liên tục, nhìn một cách thèm thồng sang bờ vịnh bên kia. Tôi không thấy là Alan đi bên cạnh đang suy nghĩ căng thẳng. Cuối cùng anh đứng lại:
— Cậu có thấy cô bé không? – Anh hỏi, tay đập vào túi xách – Cô bé bán cho ta những thứ này ấy.
— Tất nhiên, – Tôi đáp – khá đẹp đấy.
— Cậu nghĩ vậy à, David, thật tuyệt vời!
— Vì sao anh sung sướng vậy, cô gái giúp được gì cho ta?
— Cậu biết không, – Alan nói và nhìn tôi láu lỉnh – Tôi nghĩ là cô bé có thể kiếm giúp ta chiếc thuyền.
— Nếu cô ta đang ở một chỗ khác và chúng ta làm cô thích, có lẽ trước hết cô ta sẽ tháo giầy.
— Đó là tất cả điều cậu muốn nói? – Alan kêu lên – Tôi không muốn cô bé sẽ yêu cậu, David. Cậu sẽ chỉ làm cô ta buồn. Cô ta không cần nhìn thấy cậu lúc đặc biệt đẹp trai lắm. Để xem. – Anh nhìn tôi chăm chú – Trông cậu hơi tai tái một chút còn thì rất thích hợp cho mục đích của chúng ta: có cử chỉ của người phạm lỗi, trông đói khát, quần áo tả tơi như vừa chui vào một bầy chim ấy. Đi, chúng ta quay lại quán trọ để có thể kiếm được chiếc thuyền.
Tôi cười to và quay lại đi theo anh.
— David Balfour, cậu là một người thích đùa, và bây giờ tôi muốn nói là trông cũng buồn cười. Nhưng bỏ qua chuyện đó, nếu cậu quý cuộc sống, tất nhiên tôi không nói mạng sống của tôi, thì hãy vui vẻ lên và nhận lấy công việc này không quá dửng dưng. Bây giờ tôi sẽ trình diễn một chút bi kịch, nhưng về cơ bản, toàn bộ câu chuyện này nghiêm túc như cái nguy cơ thường xuyên đe dọa chúng ta dưới giá treo cổ. Cậu hãy luôn nghĩ đến điều đó và xử trí đúng chỗ.
— Được thôi, hãy làm theo ý anh.
Khi vừa đến gần nhà trọ, tôi phải tựa vào vai Alan đi như người kiệt sức không tự đi tiếp được. Khi bước vào cửa nhà trọ coi như Alan phải lôi tôi lết vào.
Cô gái có vẻ ngạc nhiên về sự quay lại của chúng tôi. Có rất nhiều lý do nhưng Alan không kể dài dòng. Anh bế tôi đặt vào một cái ghế nệm, xin cô gái một ly rượu mạnh rồi đổ từng hớp nhỏ cho tôi. Sau đó anh bẻ bánh mì và pho-mát thành từng miếng nhỏ và bón cho tôi như cho một em bé. Anh làm vậy với bộ mặt nghiêm trang, lo lắng và thương cảm có thể gây ấn tượng cho vị quan tòa khó tính nhất. Không có gì ngạc nhiên là cô bé thành thật tin ở hình ảnh một cậu bé nghèo, ốm và kiệt sức và một người bạn thủy chung mà chúng tôi đã dựng lên. Cô đi tôi, tựa lưng vào chiếc bàn phía sau và hỏi:
— Anh ta làm sao vậy?
Alan nhìn cô gái. Và tôi thán phục với một sự thất vọng diễn rất đạt.
— Anh ta làm sao à? – Anh giận dữ kêu lên – Anh ta đã đi bộ mấy trăm dặm và thường ngủ trong bụi thạch thảo ẩm ướt chứ không phải giường nệm ấm. Cô ấy hỏi cậu ta làm sao ấy. – Anh càu nhàu giận dữ và tiếp tục bón cho tôi.
— Chẳng lẽ anh ta không quá trẻ với một cuộc sống quá nặng nề vậy sao? – Cô gái hỏi.
— Quá trẻ? – Alan nhắc lại, không quay người lại.
— Nếu anh ta đi ngựa chắc là tốt hơn. – Cô gái nói.
— Tôi biết kiếm được ở đâu cho cậu ta một con ngựa? – Alan kêu lên và giận dữ quay lại phía cô gái – Tôi cần ăn trộm một con à?
Tôi nghĩ sự thô bạo của anh sẽ làm cô sợ. Cô gái cũng yên lặng và thực sự lúng túng. Nhưng Alan hiểu rõ điều anh làm và trải qua nhiều hoàn cảnh đã đạt được sự láu lỉnh cần thiết.
— Ngài không cần nói. – Cô gái nói sau một lúc im lặng – Nhìn vào hai ngài, người ta biết các ngài thuộc giới quý tộc.
— Thế này, – Alan nói, giọng đã dịu đi – ta cứ cho là đúng đi. Nhưng cô có bao giờ nghe thấy là ở đây túi những người quý tộc đầy tiền không?
Cô thở dài khi nghe những lời đó cứ như cô là một mệnh phụ mà phần lớn gia tài thừa kế đã bị người ta tước mất.
— Không, – cô nói, – ngài có lý.
Suốt thời gian đó, tôi bực mình vì cái vai khốn khổ mà mình phải đóng. Tôi ngồi câm lặng nửa xấu hổ nửa buồn cười. Nhưng bây giờ tôi không thể giữ mình lâu hơn, đã nói với Alan là anh cần để tôi yên, tôi đã cảm thấy khỏe hơn. Những lời này lúng búng trong cổ họng vì tôi rất ghét sự nói dối. Nhưng sự lúng búng đó lại giúp cho mục đích của Alan vì cô gái cho rằng cái giọng nghèn nghẹn của tôi là do quá mệt mỏi và bệnh tật.
— Anh ta không có bạn bè à? – Cô gái hỏi với cái giọng pha lẫn nước mắt.
— Cô hỏi anh ta có bạn bè không. – Alan kêu lên – Giá mà chúng tôi tới được chỗ họ, tới chỗ bạn bè giàu có, có giường để ngủ, có thức ăn để thỏa cơn đói, có bác sĩ chữa bệnh cho cậu ta. Đáng nhẽ như thế thì cậu ta không phải lang thang trong đầm lầy và ngủ trong thạch thảo như một kẻ bụi đời.
— Hỡi cô bé tốt bụng. – Tôi không nói điều này thì tốt hơn – Alan đáp – Nhưng tôi muốn tiết lộ với cô những điều ở đây có thể làm được. Tôi muốn thổi sáo một bài hát.
Sau khi nói vậy, anh cúi trên bàn, thở nhiều hơn là huýt sáo một số giai điệu của bài Charlie là người tôi yêu.
— Xì – Cô gái kêu lên và lúng túng nhìn ra cửa.
— Nhưng mà tại sao vậy? – Cô gái hỏi.
— Đúng như vậy. – Alan nói.
— Nhưng anh ấy còn quá trẻ!
— Đủ lớn để – Và Alan lấy ngón tay trỏ vẽ vòng quanh cổ để nói rằng tôi đủ lớn để có thể mất đầu như chơi.
— Đó thực sự là một điều sỉ nhục! – Cô gái kêu lên hai má đỏ bừng.
— Thực sự là như vậy nếu chúng ta không nghĩ được cách gì đó cứu cậu ta.
Khi nghe Alan nói như vậy cô gái quay người đi ra khỏi phòng để chúng tôi ở lại một mình. Alan vui vẻ vì đã thành công rõ ràng, còn tôi ngược lại, cảm thấy chua chát bị gán là một người Jakobit và bị đối xử như đứa trẻ.
— Alan, – tôi nói – dừng lại đi. Tôi không chơi tiếp bài nói dối này được đâu.
— Nếu không chơi thì làm vậy. Vì nếu bây giờ chuyện vỡ lở thì cậu có thể thu nhặt các mảnh vụn của đời cậu và Alan Bleck là một tử thi.
Khốn nỗi, điều đó lại đúng và tôi chỉ còn biết thở dài. Nhưng nó càng đóng góp vào thành công trong kế hoạch của Alan. Chúng tôi nghe thấy tiếng cô gái chạy như bay quay lại. Cô mang theo một tô cháo thịt và một chai bia mạnh.
— Cậu bé đáng thương! – Cô gái kêu lên khi đặt bát cháo thịt lên bàn. Cô đập nhẹ lên vai tôi như để động viên. Sau đó cô yêu cầu chúng tôi ăn. Chúng tôi không phải trả tiền – Cô nói – vì cái quán này là của cô, đúng hơn là của cha cô. Ông đã đi sang Pihencrieff và ở lại đó suốt ngày.
Cô gái không cần mời lần thứ hai vì bánh mì và pho mát chỉ đủ ăn tạm thôi mà mùi cháo thịt bốc lên ngon quá. Trong khi chúng tôi ngồi ăn cho thỏa đói. Cô gái ngồi bên cạnh và nhìn chúng tôi chăm chú. Hình như cô nghĩ gì đó vì trán cô nhăn lại, tay vuốt đi, vuốt lại đây đai áo choàng.
Sau một lúc, cô nói với Alan:
— Tôi thấy các anh rất cởi mở.
— Đúng. – Alan nói – Nhưng cô thấy không, tôi nhìn thẳng vào người mà tôi nói chuyện.
— Không bao giờ tôi phản lại các anh, nếu có lúc nào đó các anh lo như vậy.
— Không, cô trông không phải loại đó. Nhưng để tôi nói cô sẽ làm gì chứ? Cô sẽ giúp chúng tôi nếu cô có thể…
— Điều đó tôi không làm được, – cô lắc đầu – không, điều đó tôi không làm được.
— Đúng. – Alan nói – Nhưng nếu có thể.
— Xem này, cô bé. – Alan nói tiếp – Chắc chắn ở đây có những chiếc thuyền. Khi đi dọc bờ biển tôi đã thấy ít nhất hai chiếc đang nằm trên cát. Em hãy nghe đây: Nếu trong đêm chúng tôi có thể ngồi trên một chiếc thuyền, chèo qua Lothian với một người đứng đắn, biết im lặng, người đó sẽ đem thuyền trở lại đây, thì cuộc sống của hai con người sẽ được cứu thoát: của tôi thì chắc, của anh thì hoàn toàn chắc. Nếu không có thuyền thì trời mà biết với ba đồng xu chúng tôi sẽ dựa vào đâu và làm gì. Chắc chỉ còn chờ giá treo cổ. Hãy nói đi, em có thể phó mặc chúng tôi trong hoàn cảnh như vậy không? Liệu trên giường ấm em có thể yên tĩnh nghĩ đến chúng tôi khi gió trên lò thổi vù vù và mưa đập ngoài cửa sổ? Em có thể ăn ngon bên bếp lò cháy rực khi trong đầu em hiện lên người bệnh khốn khổ này, khi cậu ra đang cắn vào ngón tay trong đầm lầy giữa cơn đói và rét? Và dù bệnh hay khỏe, anh ta phải đi tiếp. Khi dao kề cổ thì anh ta phải lê bước trong mưa trên các nẻo đường quê. Và sau đó, khi cậu ta trút hơi thở cuối cùng trên một đồng đá thì bên cạnh cậu không có ai ngoài tôi ra.
Tôi đã thấy sự xâu xé trong tâm hồn cô gái bởi sự diễn đạt trên như thế nào. Một mặt, cô ta muốn giúp chúng tôi, nhưng mặt khác lại sợ giúp những kẻ làm điều xấu. Vì vậy lúc đó tôi quyết định tham gia vào câu chuyện và làm yên lòng cô bằng một phần sự thật:
— Có khi nào cô nghe đến tên ngài Rankeillor không? Ông ấy sống ở cạnh bến phà Queensferry.
— Anh muốn nói đến người biện hộ phải không? – Cô gái hỏi.
— Cô thấy chưa? Tôi muốn tìm đến người đó. Thế thì cô hiểu chúng tôi không phải những kẻ làm điều xấu. Tôi còn muốn nói với cô nhiều hơn. Mặc dù do sự nhầm lẫn dễ sợ hiện nay tôi đang nằm trong mối nguy hiểm chết người, nhưng vua George không có một thần dân nào trung thành hơn tôi trong toàn cõi Scotland này đâu.
Mặt cô bé sáng lên khi nghe tôi nói những lời này trong lúc mặt Alan tối sầm lại.
— Bây giờ câu chuyện tốt hơn là tôi mong đợi, – cô gái nói – Ngài Rankeillor là một người đáng kính trọng.
Sau đó cô yêu cầu chúng tôi đứng dậy, càng nhanh càng tốt biến khỏi nhà trọ. Chúng tôi cần phải ẩn trong một đám rừng nhỏ cạnh bờ biển.
— Các anh có thể tin ở tôi – cô gái hứa – Tôi sẽ tìm thấy phương tiện và cách đưa các anh sang bên kia.
Sau khi cô nói vậy, chúng tôi không chần chừ một giây nào, lắc mạnh tay cô bé, sự thỏa thuận được nhấn mạnh thêm. Chúng tôi ăn vội chỗ cháo thịt còn lại và rời làng Linekiln để nhanh chóng đến đám rừng. Đám cây này gồm một ít cây cơm cháy, cây gai cùng một ít tần bì non. Bụi cây không đủ rậm để che khuất tụi tôi trước con mắt của những người đi qua, nên chúng tôi không còn cách gì khác là nằm xuống đó thưởng thức thời tiết ấm áp dễ chịu dồng thời với niềm hy vọng nhanh chóng được ra khỏi nơi này. Chúng tôi suy nghĩ ngay mình phải làm gì sau đó.
Suốt cả ngày chỉ có một lần làm chúng tôi lo lắng khi một nhạc công đi gần đến chỗ chúng tôi, một tên say rượu mũi đỏ mắt lờ đờ, giơ cao một chai Whisky lớn. Anh ta kể cho chúng tôi sự bất công mà chánh án tòa thượng thẩm đã kết tội anh ta. Tất cả chánh án – Theo lời anh ta – đều chơi xấu anh.
Có thể loại trừ là anh ta không hề nghi ngờ hai người đàn ông suốt ngày sợ hãi ẩn náu trong bụi cây và rõ ràng là kẻ lang thang. Càng ở lâu với chúng tôi anh càng hỏi những câu tò mò “từ đâu” “đi đâu” một cách đáng sợ; và sau khi anh ta đi khỏi chúng tôi không có mong muốn gì hơn là có thể biến đi vì rất khó tin anh ta sẽ giữ mồm giữ miệng.
Ngày đã trôi qua ấm áp và vui vẻ như nó bắt đầu và một đêm yên tĩnh đã tới. Trong các hộ nông dân ở trong làng, đèn đã thắp sáng và lại lần lượt tắt đi.
Có lẽ đã hơn mười một giờ đêm và chúng tôi bắt đầu lo lắng, dao động, khi có tiếng chèo khua nước. Chúng tôi nhìn ra và thấy bản thân cô gái chèo một chiếc thuyền. Rõ ràng là vì hoàn cảnh của chúng tôi, cô gái không muốn tin tưởng một người nào khác, kể cả người yêu nếu có. Khi cha vừa ngủ cô gái liền dậy, chèo qua cửa sổ, mượn thuyền của một bà hàng xóm và tự mình đi giúp chúng tôi.
Tôi không biết mình cần phải cảm ơn cô gái thế nào. Nhưng khi tôi lúng búng cảm ơn thì cô gái cũng không ít lúng túng hơn tôi. Cô khuyên chúng tôi không nên mất thời gian và không cần những lời thừa. Sự thành công phụ thuộc vào sự nhanh nhẹn và giữ miệng của chúng tôi. Nói ngắn gọn. Cô gái đã đưa chúng tôi lên bờ biển Lothian không xa Carridan, khi chia tay cô lắc mạnh tay chúng tôi và quay ngay thuyền về Limekiln trước khi chúng tôi kịp khen ngợi và cảm ơn.
Ngay cả khi cô bé đã đi rồi, chúng tôi cũng không biết nói sao cho đúng vì không có gì so được với hành động đẹp đẽ này. Alan đứng lắc đầu rất lâu trên bãi cát. Cả tôi cũng không tìm được một lời. Cô gái này đã hành động thật nhẹ nhàng và tận tâm làm tôi cảm thấy một cái gì như hối hận và lo sợ. Hối hận vì chúng tôi đã lợi dụng sự ngây thơ của cô, lo sợ vì chúng tôi có thể làm cô lâm vào mối hiểm nguy.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Bắt Cóc
Robert Louis Stevenson
Bắt Cóc - Robert Louis Stevenson
https://isach.info/story.php?story=bat_coc__robert_louis_stevenson