Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 25
Đ
ối với tôi, ga tàu hỏa Amsterdam là một quangcảnh quen thuộc - tôi đã đi ngang qua đây hàng chục lần, nhưng chưa bao giờ đếnđó một mình. Tôi chưa bao giờ một mình đi đến bất kỳ nơi chốn nào, và lúc ngồitrên băng ghế chờ chuyến tàu sáng tốc hành đi Paris, tôi thấy tim mình đập dồndập không hẳn vì hồi hộp lo âu cho cha, mà vì trong tôi cuồn cuộn dâng lênnguồn nhựa sống đến từ khoảnh khắc hoàn toàn tự do đầu tiên tôi biết tới trongđời. Ở nhà, bà Clay hẳn đang rửa chén bát sau bữa điểm tâm và nghĩ rằng tôiđang trên đường đến trường. Barley chắc chắn đã khăn gói ra bến cảng và cũngnghĩ tôi đang đi học. Tôi ân hận vì đã lừa dối bà Clay tử tế nhưng cứng nhắckia, và cảm thấy khá nuối tiếc vì phải chia tay Barley, anh đã bất ngờ lịchthiệp hôn lên tay tôi nơi ngưỡng cửa nhà và tặng tôi một thanh sô cô la dù tôiđã bảo là có thể mua bánh kẹo xứ Hà Lan này bất kỳ lúc nào tôi thích. Tôi nghĩcó lẽ mình sẽ viết thư cho anh, khi tất cả những rắc rối này chấm dứt - nhưngđó là việc xa vời, tôi không thể đoán trước được.
Lúc này, bình minh Amsterdam đã lung linh lấp lánhbiến hóa quanh tôi. Thậm chí sáng hôm nay tôi còn mơ hồ nhận ra chút cảm giáckhuây khỏa trong khi đi bộ dọc theo con kênh đào từ nhà đến ga xe lửa, trongmùi thơm của bánh mì nướng và mùi ẩm ướt của những dòng kênh, vẻ tất bật nhưngtươm tất, dù không hoàn toàn thanh nhã, của mọi thứ. Ngồi trên một ghế dàitrong nhà ga, tôi kiểm tra lại hành lý của mình: quần áo để thay, những lá thưcủa cha, bánh mì, pho mát, những hộp nước trái cây lấy ở nhà bếp. Tôi cũng chômđược khá nhiều tiền đi chợ - nếu bất nhẫn hơn, tôi đã lấy cả hai mươi đồng - đểbổ sung cho số tiền trong ví. Việc này sẽ làm bà Clay nhanh chóng để ý cảnhgiác, nhưng chẳng còn cách nào khác - tôi không thể nấn ná chờ đến giờ nhà băngmở cửa để rút tiền từ cái tài khoản tiết kiệm nhỏ nhoi trẻ con của mình. Tôimang theo một chiếc áo len ấm dài tay và áo mưa, hộ chiếu, một cuốn sách để đọctrong những chuyến hành trình dài bằng xe lửa, và cuốn tự điển tiếng Pháp loạibỏ túi.
Tôi còn lấy trộm một thứ khác nữa. Trong phòng khách tạinhà, tôi lấy trộm một con dao găm bạc trong tủ chứa những vật kỷ niệm quý hiếmcó từ những chuyến đi công cán ngoại giao đầu tiên của cha ở những xứ sở xaxôi, những chuyến đi mang theo những nỗ lực sơ khởi nhằm thiết lập quỹ tài trợcủa cha. Thời đó tôi còn quá nhỏ, không theo cha được, nên ông phải để tôi ởlại Mỹ với những người bà con họ hàng khác. Con dao sắc bén kỳ lạ, cán dao cókhắc chạm trang trí. Vỏ dao cũng có rất nhiều hình chạm khắc tinh vi. Đây làloại vũ khí duy nhất mà tôi thấy trong nhà - cha không thích súng, và sở thíchsưu tầm của ông không bao gồm các loại đao kiếm hoặc rìu chiến. Dù không biếtphải tự vệ như thế nào với con dao nhỏ này, nhưng tôi cảm thấy an tâm hơn khibiết nó đang hiện diện trong xắc tay của mình.
Khi chuyến tàu tốc hành tới, ga tàu đông nghẹt người. Lúc đótôi thấy, và bây giờ vẫn vậy, rằng không có niềm vui nào giống như niềm vui lúctàu đến, dù tâm trạng của bạn có đang rối ren như thế nào - đặc biệt là một contàu châu Âu, và nhất là một chuyến tàu châu Âu đưa bạn về phương Nam. Quãngthời gian này trong cuộc đời tôi, vào những năm cuối thập niên 70, tôi đã đượcnghe tiếng còi của một số đầu máy hơi nước cuối cùng còn sót lại chạy qua rặngAlps theo một hành trình đều đặn. Rồi tôi lên tàu, tay nắm chặt cặp sách, gầnnhư mỉm cười. Trước mắt tôi giờ là hàng giờ đồng hồ rảnh rỗi, và tôi sẽ cần đếnchúng, không phải để đọc sách, mà để nghiền ngẫm một lần nữa những lá thư quýbáu của cha. Tôi tin rằng mình đã chọn đúng hướng, nhưng cũng cần phải suy nghĩtại sao lại đúng.
Tìm được một cabin yên tĩnh, tôi kéo tấm màn ngăn lối đi bêncạnh ghế ngồi của mình, hy vọng không có ai dõi theo mình đến nơi này. Một látsau, một phụ nữ trung niên, mặc áo khoác xanh, đầu đội mũ bước vào, mỉm cườichào tôi và ngồi xuống ghế với một xấp tạp chí Hà Lan. Từ góc ngồi thoải máicủa mình, ngắm nhìn thành phố cổ kính rồi đến những khu ngoại ô nhỏ bé một màuxanh ngát lùi dần về phía sau, tôi lại mở lá thư đầu tiên của cha. Lúc này tôiđã thuộc nằm lòng những câu mở đầu, nét chữ gây xúc động, ngày tháng và nơichốn gây sửng sốt, những dòng chữ viết vội vàng mà cứng cáp của cha.
"Con gái thương yêu của cha:
"Nếu con đang đọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Chađang đi tìm mẹ con. Nhiều năm qua cha tin rằng mẹ con đã chết, nhưng hiện tạiniềm tin đó không còn vững chắc nữa. Tình trạng mập mờ này thậm chí tồi tệ hơnnỗi đau thương, một ngày nào đó con sẽ hiểu điều này; nó đã dằn vặt tâm can chacả ngày lẫn đêm. Cha chưa bao giờ nói cho con biết nhiều về mẹ con, cha biếtđây là do sự yếu đuối của cha, nhưng câu chuyện của cha và mẹ con đau lòng đếnđộ cha không thể dễ dàng kể lại cho con nghe. Cha luôn có ý định sẽ kể với connhiều hơn khi con khôn lớn hơn và có thể hiểu tường tận hơn mà không kinh sợ - mặc dù cho đến bây giờ, chuyện xảy ra đã khiến cha rất sợ hãi, nỗi sợ bất tận,đến mức trở thành lý do tội nghiệp nhất trong các lý do mà cha có thể biện minhcho bản thân mình trong chuyện này.
"Trong vài tháng gần đây, cha đã cố gắng bù đắp cho sự yếuđuối của mình bằng cách kể con nghe từng chút một những gì có thể về quá khứcủa chính cha, cũng như đã có ý định dần dần đưa mẹ con vào câu chuyện, mặc dùmẹ đã bước vào cuộc đời cha một cách khá bất ngờ. Bây giờ cha e rằng không cònkịp thu xếp để kể với con hết những gì con phải biết về di sản của con, trướckhi cha bị buộc phải im lặng - theo đúng nghĩa đen, không còn khả năng đíchthân thông tin cho con biết được - hoặc một lần nữa trở thành con mồi cho chínhsự im lặng của mình.
"Cha đã mô tả sơ qua với con về cuộc sống của cha khi còn làmột nghiên cứu sinh, trước khi con ra đời, cũng như đã kể cho con biết chút ítvề trường hợp mất tích bí ẩn của vị giáo sư hướng dẫn cha, sau khi ông ấy tiếtlộ câu chuyện với cha. Cha cũng đã kể cho con nghe cuộc gặp gỡ của cha với mộtphụ nữ trẻ tên Helen, người cũng quan tâm không kém gì cha, có thể còn quan tâmnhiều hơn, đến việc tìm kiếm thầy Rossi. Cha đã cố gắng kể ra câu chuyện nàyvới con khi có bất kỳ cơ hội nào thuận tiện, nhưng bây giờ cha bắt đầu cảm thấyphải viết ra phần còn lại, ghi lại chuyện này rạch ròi trên giấy trắng mực đen.Nếu lúc này con phải đọc thay vì nghe cha kể lại nó trên một đỉnh núi đá hoặcmột quảng trường thanh vắng, ở một bến cảng kín đáo hay bên chiếc bàn ấm cúngtrong một quán cà phê nào đó, thì đó là do lỗi của cha trước đây đã chưa kịp kểlại cho con nghe một cách trọn vẹn và sớm hơn.
"Khi viết lá thư này, cha đang nhìn ra ngoài trời, nhìnnhững ngọn đèn trong một bến cảng cổ xưa - còn con đang vô tư yên ngủ trong cănphòng kế bên. Cha mệt mỏi sau một ngày làm việc, và mệt mỏi khi nghĩ đến việcphải bắt đầu kể ra câu chuyện dài dòng này - một bổn phận đau buồn, một sựphòng ngừa bất hạnh. Cha cảm thấy mình chỉ có vài tuần, cùng lắm là vài tháng,để đích thân kể tiếp câu chuyện, vì vậy cha sẽ không nhắc lại tất cả những gìcha đã kể với con trong suốt những chuyến đi đến nhiều đất nước vừa qua. Saukhoảng thời gian này - vài tuần hay vài tháng ấy - cha không còn nói chắc đượcnữa. Những lá thư này là sự bảo đảm của cha để con khỏi đơn độc. Trong trườnghợp tồi tệ nhất, con sẽ thừa hưởng ngôi nhà, tiền bạc, đồ đạc và sách vở củacha, nhưng cha có thể dễ dàng tin rằng con sẽ nâng niu gìn giữ những tài liệunày, những tài liệu mà cha sở hữu hơn bất kỳ những gì khác, bởi chúng sẽ baogồm câu chuyện của riêng con, lịch sử cuộc đời con.
"Tại sao cha không kể cho con một lần cho hết tất cả sự thậtcủa câu chuyện để dứt khoát với nó, để con được biết đầy đủ? Câu trả lời, mộtlần nữa, lại nằm ở sự yếu đuối của chính cha, và trên thực tế rằng tóm lược rồikể hết một lần sẽ là, chính xác là - một điều gây tác động quá mạnh. Cha khôngđành lòng muốn con phải đau đớn như vậy, ngay cả khi nỗi đau đó chỉ bằng mộtphần nhỏ của nỗi đau trong cha. Vả lại, có thể con sẽ không hoàn toàn tin nếucha kể hết ngay một lần, cũng như bản thân cha cũng đã hoài nghi phần nào câuchuyện của thầy Rossi khi chưa đọc hết tập thư từ và tài liệu của thầy để lại.Và, cuối cùng, trên thực tế có câu chuyện nào có thể được giản lược đến chỉ còncác yếu tố có thực của nó cơ chứ? Do đó, cha sẽ dần kể câu chuyện của mình từngbước một. Cha cũng phải thử phỏng chừng xem đến thời điểm khi những lá thư nàytới tay con thì cha đã kể những gì để không lặp lại chúng."
Phỏng đoán của cha tôi không chính xác hoàn toàn, cha đã đitrước một hai bước so với những gì tôi đã biết. Tôi u sầu nghĩ ngợi, có lẽ mìnhsẽ không bao giờ được nghe kể về phản ứng của cha đối với quyết định bất ngờcủa Helen Rossi - cùng đi với cha trong cuộc tìm kiếm - hoặc các chi tiết thúvị trong cuộc hành trình của họ từ New England đến Istanbul. Tôi thắc mắc khôngbiết họ đã xoay xở như thế nào để hoàn tất các thủ tục giấy tờ cần thiết, vượtqua các rào cản do bất đồng về chính trị, thị thực nhập cảnh, hải quan? Liệu chacó bịa ra chuyện này chuyện nọ với ông bà nội, hai cư dân Boston nhân hậu vàthông thái, về kế hoạch chuyến đi bất ngờ của mình? Cha và Helen có đến NewYork ngay như đã hoạch định? Và họ có ngủ chung phòng ở khách sạn hay không?Đầu óc tuổi thiếu niên của tôi không thể lý giải được chuyện bí ẩn này nhưngcũng không thể thôi ưu tư thắc mắc về nó. Rốt cuộc, tôi đành bằng lòng với hìnhảnh hai người giống như các nhân vật trong những bộ phim được sản xuất vào thờithanh xuân của họ: Helen kín đáo duỗi thẳng người dưới tấm chăn trên chiếcgiường đôi, cha thì khốn khổ gật gù trên chiếc ghế bành, chỉ cởi mỗi đôi giàythôi - ngoài ra không còn gì khác, và ánh sáng của Quảng trường Thời Đại nhấpnháy bên ngoài cửa sổ như mời mọc chuyện gió trăng.
"Sáu ngày sau khi thầy Rossi mất tích, cha và Helen bay đếnIstanbul từ phi trường Idlewild 1 _, vào một đêm đầy sương mù, đổi máy bay tạiFrankfurt. Chiếc máy bay thứ hai hạ cánh sáng hôm sau, chúng ta cùng các dukhách khác lũ lượt kéo nhau ra ngoài. Đến thời điểm đó cha đã đến Tây Âu đượchai lần, nhưng lần này, chuyến đi đối với cha dường như là cuộc du ngoạn từtrái đất đến một hành tinh khác - Thổ Nhĩ Kỳ, vào năm 1954, là một thế giớitách biệt hơn hiện nay nhiều. Chỉ một phút trước, cha còn co mình trên chiếcghế máy bay gò bó, lau mặt bằng khăn nóng, vậy mà giờ bọn ta đã đứng trên mặtđường nhựa cũng nóng như vậy, với những mùi kỳ lạ phảng phất quanh mình, cùngvới gió bụi, và chiếc khăn quàng đang bay phần phật của một người Ả- rập đứngxếp hàng phía trước - chiếc khăn cứ bay chọc vào miệng cha. Đứng bên cạnh cha,Helen bật cười, quan sát vẻ ngạc nhiên của cha trước tất cả những thứ đó. Trênmáy bay, cô đã chải tóc, thoa lại son môi, và trông rất tươi tắn sau chuyến bayđêm tù túng. Cô vấn quanh cổ một chiếc khăn quàng nhỏ; cha vẫn chưa thấy cáidấu vết bên dưới chiếc khăn, nhưng cũng không dám yêu cầu cô gỡ khăn ra. "Chàomừng đến thế giới vĩ đại, anh chàng người Mỹ," cô nói, mỉm cười. Lần này là mộtnụ cười thật sự, không phải nụ cười nhăn nhó thường thấy ở cô.
"Cha càng ngạc nhiên hơn trong suốt chuyến taxi trở về thànhphố. Cha không biết chính xác mình mong đợi gì ở Istanbul - có thể chẳng có gìcả, vì cha không có nhiều thời gian để chuẩn bị cho chuyến đi - nhưng vẻ đẹpcủa thành phố này đã chinh phục cha. Nó mang đậm chất huyền hoặc của Nghìn lẻmột đêm mà dù bao nhiêu tiếng còi xe inh ỏi và hình ảnh của các doanh nhântrong những bộ com lê Tây phương cũng không hề làm tan biến. Thành phố đầu tiêncủa nơi đây, Constantinople, thủ phủ của đế chế Byzantine và thủ đô đầu tiêncủa đế quốc La Mã Thiên Chúa giáo, thật sự nguy nga tráng lệ ngoài sức tưởngtượng, cha nghĩ - một cuộc hôn phối giữa La Mã giàu có và chủ nghĩa thần bíThiên Chúa giáo thuở sơ khai. Cho đến lúc tìm thuê được phòng trong khu phố cổSultanahmet, dù chỉ được nhìn thoáng qua, cha đã thấy hoa mắt trước hàng chụcngôi thánh đường Hồi giáo cùng những ngọn tháp, những khu chợ treo đầy vải vóchảo hạng, thậm chí cả hình ảnh lướt qua của mái vòm đồ sộ và bốn ngọn tháp củathánh đường Hagia Sophia sừng sững hiện ra bên trên bán đảo.
"Helen cũng chưa bao giờ đến đây, cô im lặng tập trung quansát mọi thứ, chỉ quay về phía cha một lần trong suốt chuyến taxi để nhận xétrằng thật kỳ lạ làm sao khi được tận mắt thấy cội nguồn - cha chắc chắn cô đãdùng từ này - của đế quốc Ottoman, cái cội nguồn đã để lại rất nhiều vết tíchtrên xứ sở quê hương cô. Những nhận xét ngắn gọn, sắc sảo của Helen về đủ mọithứ đã trở thành âm hưởng chung của những ngày chúng ta sống ở đó: tên các địadanh bằng tiếng Thổ, món xa lát dưa chuột ăn tại một nhà hàng ngoài trời, hìnhdáng cong nhọn của một khung cửa sổ. Điều này cũng gây ra một tác động đặc biệtvới cha, một hình thức nhân đôi sự trải nghiệm của cha, vì vậy cùng một lúcdường như cha được nhìn thấy cả Istanbul cả Rumani, và dần dần, khi câu hỏiliệu chúng ta có nên đến chính Rumani hay không đặt ra giữa cha và Helen, chacó cảm giác như đang được dẫn dắt đến xứ sở đó qua những món đồ tái tạo từ quákhứ mà cha nhìn thấy trong đôi mắt của Helen. Nhưng cha đã lạc đề - đó là phầnsau của câu chuyện.
"Đằng sau ánh nắng chói chang và bụi bặm của đường phố làgian tiền sảnh mát mẻ của nhà trọ. Cha khoan khoái thả người xuống một chiếcghế ở lối vào, mặc Helen đến liên hệ thuê hai phòng bằng thứ tiếng Pháp chuẩnxác nhưng kỳ quặc của cô ấy. Bà chủ nhà trọ - một phụ nữ Armenia rất mến kháchvà rõ ràng biết nhiều thứ tiếng - cũng không biết tên của khách sạn mà thầyRossi đã từng ở trước đây. Có lẽ nó đã biến mất từ nhiều năm trước.
"Helen thích điều hành mọi việc, cha thầm nghĩ, vậy tại saokhông để cô ấy được hài lòng? Một điều không được nói ra nhưng chắc chắn có sựđồng ý dứt khoát giữa hai người là sau này cha sẽ thanh toán mọi khoản chi phí.Cha đã rút hết tiền tiết kiệm tại ngân hàng ở quê nhà; thầy Rossi xứng đáng đểcha làm mọi điều có thể, thậm chí nếu có phải thất bại. Nếu trường hợp đó xảyra, cùng lắm cha cũng chỉ bị sạch túi khi về nhà. Cha biết Helen, một sinh viênnước ngoài, chắc hẳn chẳng mấy dư dả. Cha nhận ra hình như cô chỉ có hai bộvest, chúng trông như được thay đổi bằng một loạt áo sơ mi được cắt may rấtkhéo. ‘Vâng, chúng tôi muốn thuê hai phòng riêng nhưng ở sát bên nhau,’ cô nóivới người phụ nữ Armenia, một phụ nữ đứng tuổi nhưng trông vẫn rất có nét. ‘Anhtôi - mon frère - ronfle kinh khủng.’
" ‘Ronfle?’ cha hỏi với lên từ chỗ ngồi đợi.
" ‘Ngáy,’ cô chanh chua đáp lại. ‘Anh biết đấy, đúng là anhcó ngáy mà. Ở New York tôi chẳng nháy mắt được chút nào.’
" ‘Chợp mắt chứ,’ cha chỉnh lại.
" ‘OK,’ cô nói. ‘Chỉ cần anh đóng cửa phòng thôi, s’il teplaỵt - làm ơn.’
"Dù có ngáy hay không, cả Helen và cha đều ngủ vùi sauchuyến hành trình mệt nhọc trước khi có thể làm bất cứ việc gì khác. Helen muốnxuống trung tâm lưu trữ tư liệu ngay, nhưng cha khăng khăng muốn nghỉ ngơi thêmvà ăn uống trước đã. Vì vậy sau buổi trưa chúng ta mới bắt đầu thơ thẩn quanhững con đường chằng chịt đan xen nhau như những mê cung, thấp thoáng nhữngkhu vườn và những mảnh sân nhỏ nhiều màu sắc.
"Thầy Rossi không nêu tên trung tâm lưu trữ này trong các láthư, và trong cuộc nói chuyện giữa cha và ông ấy, ông chỉ gọi nó là ‘kho tưliệu ít người biết đến, do Quốc vương Mehmed II lập ra’. Lá thư nói về cuộcnghiên cứu của ông tại Istanbul đã bổ sung thêm chi tiết là trung tâm đó nằmsát bên một nhà thờ Hồi giáo thế kỷ mười bảy. Ngoài chi tiết này, chúng ta cònbiết ông ấy có thể nhìn thấy thánh đường Hagia Sophia từ một cửa sổ, và trungtâm lưu trữ này có hơn một tầng lầu, ở tầng trệt có một cánh cửa mở trực tiếpra đường. Cha đã cẩn thận thử đi tìm thông tin về một trung tâm lưu trữ tư liệunhư vậy tại thư viện trường đại học ở quê nhà, ngay trước khi khởi hành, nhưngkhông có kết quả. Cha thắc mắc không hiểu tại sao thầy Rossi không nêu têntrung tâm lưu trữ tư liệu trong các lá thư; bỏ quên một chi tiết thế này thậtkhông giống ông chút nào, nhưng có lẽ vì ông không muốn nhớ đến nó. Cha có mangtheo tất cả giấy tờ tài liệu của ông trong cặp, kể cả bảng danh mục tài liệu màông đã tìm được ở đó, cùng với một dòng ghi chú kỳ lạ chơi vơi ở cuối: ‘Thưmục, Giáo đoàn Rồng.’ Lùng sục khắp cả thành phố, một mê cung đầy những mái vòmvà các ngọn tháp, để tìm nguồn gốc của dòng chữ viết tay khó hiểu của thầyRossi quả là một triển vọng không mấy phấn khởi, nói vậy đã là giảm đi rấtnhiều rồi.
"Việc duy nhất mà Helen và cha có thể thực hiện là quay vềmột điểm mốc, thánh đường Hagia Sophia, nguyên thủy là nhà thờ Saint Sophia 2 _vĩ đại thuộc giáo hội Byzantine. Và khi đến gần địa điểm đó, chúng ta không thểkhông bước vào. Những cánh cổng đều rộng mở và điện thờ uy nghi đã lôi kéochúng ta hòa vào giữa các du khách khác, tựa như đang trôi theo con sóng vàomột hang động. Trong suốt một ngàn bốn trăm năm qua, cha thầm nghĩ, những ngườihành hương vẫn luôn bị cuốn hút vào trong đó, như chúng ta hiện giờ. Bên trong,cha đi chầm chậm đến khu vực chính giữa, ngửa đầu nhìn lên khoảng không gianthiêng liêng và bao la với những mái vòm và khung vòm nổi tiếng khiến người tachóng mặt ấy, thứ ánh sáng từ thiên đàng tràn vào nó, những tấm khiên tròn đầynhững con chữ Ả- rập treo bên trên các góc, những đặc điểm của thánh đường Hồigiáo phủ lên nhà thờ Thiên Chúa giáo, nhà thờ Thiên Chúa giáo phủ lên tàn tíchcủa thế giới cổ đại. Khoảng không gian đó uốn cong lên cao, cao vút phía trênchúng ta, như muốn tái tạo vũ trụ của đế quốc Byzantine. Cha hầu như không tinlà mình đã có mặt ở đó. Nó khiến cha quá sững sờ.
"Từ khoảnh khắc đó nhìn ngược về quá khứ, cha hiểu rằng mìnhđã sống quá lâu trong thế giới sách vở, trong khuôn viên chật hẹp của trườngđại học, đến mức cha đã dần bị cách sống đó ức chế từ bên trong. Đột nhiên, trongngôi nhà của đế chế Byzantine âm vang tiếng dội này - một trong các kỳ quan củalịch sử - tinh thần của cha như được tháo cũi sổ lồng. Ngay giây phút đó, chađã biết dù có bất kỳ chuyện gì xảy ra, cha cũng sẽ không bao giờ trở lại vớinhững điều kìm kẹp xưa cũ kia nữa. Cha muốn lên tầm cao cuộc sống, trải lòng ravới nó, như cái cách mà khoảng không gian rộng lớn bên trong này cuộn dâng lêncao và trải rộng ra bên ngoài. Lòng cha như cũng trào dâng cùng với nó, một cảmgiác chưa từng có trong suốt thời gian lang thang giữa các thương nhân trong đềtài nền thương mại Hà Lan thế kỷ mười bảy.
"Cha liếc nhìn Helen và thấy cô cũng xúc động hệt như cha,ngửa đầu lên mải mê nhìn ngắm, những lọn tóc đen buông lơi trên cổ áo sơ mi,gương mặt cô bình thường vốn cảnh giác và châm chọc lúc này bừng lên trong sựthấu ngộ. Cha bất chợt đưa tay ra, nắm lấy bàn tay cô. Helen cũng siết chặt taycha, cũng với bàn tay rắn chắc, xương xương mà cha vẫn biết qua những lần bắttay chào hỏi. Ở một người phụ nữ khác, đây có thể là một cử chỉ phục tùng hoặclàm dáng, một sự ngầm bằng lòng có tính lãng mạn; ở Helen nó chỉ là một cử chỉđơn giản và mãnh liệt như cái nhìn chằm chằm hay thái độ tách biệt đã trở thànhđặc điểm của cô. Sau một lát, dường như chợt tỉnh, cô buông tay cha ra, nhưngkhông hề lộ vẻ bối rối, và chúng ta lại cùng nhau rảo bước trong nhà thờ, ngắmnhìn cái bục giảng xinh đẹp, làm bằng đá cẩm thạch byzantine sáng lấp lánh. Chaphải cố gắng lắm để tự nhắc nhở rằng chúng ta có thể quay lại Hagia Sophia bấtcứ lúc nào trong thời gian còn ở lại Istanbul, và công việc trước hết của chúngta ở thành phố này là tìm cho ra cái trung tâm lưu trữ tư liệu kia. Rõ ràngHelen cũng có cùng một suy nghĩ, vì khi cha rảo bước về hướng lối ra thì côcũng vậy, và chúng ta lại len lỏi qua những đám đông, bước ra đường phố.
" ‘Kho lưu trữ ấy có thể ở khá xa nơi này,’ cô nhận xét.‘Thánh đường Saint Sophia quá lớn, tôi cho rằng hầu như người ta có thể nhìnthấy nó từ bất cứ tòa nhà nào trong khu vực này của thành phố, hoặc thậm chíngay cả từ phía bên kia kênh Bosphorus 3._’
" ‘Tôi biết. Chúng ta phải tìm vài manh mối khác. Những láthư cho biết là trung tâm lưu trữ này nằm gần sát một thánh đường Hồi giáo thếkỷ mười bảy.’
" ‘Thành phố này đầy nhóc các thánh đường Hồi giáo.’
" ‘Phải.’ Cha lấy tay dò cuốn sách hướng dẫn vừa mới mua mộtcách vội vàng. ‘Hãy bắt đầu với cái này - Đại Thánh đường của Quốc vương.Mehmed II và triều đình ông ta có lẽ từng đến đó tế lễ đôi lần - thánh đườngnày được xây dựng vào cuối thế kỷ mười lăm, và theo logic thì nơi đây rất cóthể là nơi lân cận với thư viện mà thầy Rossi đã đến, cô có nghĩ như vậykhông?’
"Helen nghĩ cũng đáng để thử xem một lần, và chúng ta lại tiếp tục rảo bước. Trên đường đi, cha lại xem lướt qua cuốn sách hướng dẫn một lần nữa. ‘Nghe này. Trong này người ta nói Istanbul là một từ Byzantine nghĩa là thành phố. Cô thấy đấy, ngay cả người Ottoman cũng không thể phá hủy Constantinople, họ chỉ đặt tên lại cho nó - bằng một cái tên Byzantine. Ở đây nói Đế quốc Byzantine tồn tại từ năm 333 đến năm 1453. Hình dung xem - thật là một đế chế trường tồn trước khi bị diệt vong.’
"Helen gật đầu. ‘Không thể nào nghĩ về khu vực này của thế giới mà không nghĩ đến thủ phủ của đế chế Byzantine,’ cô nói, vẻ nghiêm nghị. ‘Và, anh biết đấy, ở Rumani anh sẽ thấy hình bóng của đế chế này khắp mọi nơi - trong mọi nhà thờ, trong các bức bích họa, trong các tu viện và ngay cả trên mặt người dân, tôi nghĩ vậy. Theo cách nào đó, ở đó nó trông gần gũi hơn với mắt anh so với nơi này, khi không có toàn bộ những dấu tích - đúng hơn là trầm tích - của đế chế Ottoman ở phía trên.’ Nét mặt cô sa sầm. ‘Cuộc chinh phục thành phố Constantinople năm 1453 của Quốc vương Mehmed II là một trong những tấn thảm kịch lớn nhất của lịch sử. Sau khi phá vỡ các bức tường thành này bằng đạn đại bác, Mehmed II đã cho binh lính cướp bóc và tàn sát ba ngày liền. Đám lính tráng này đã hãm hiếp các thiếu nữ và cả thanh niên trên bệ thờ của các giáo đường, ngay cả tại thánh đường Saint Sophia. Chúng cướp phá tượng thánh và các báu vật thiêng liêng khác đem nấu chảy để lấy vàng, và ném hài cốt của các thánh ra ngoài đường cho chó gặm. Trước biến cố này, nơi đây vốn là thành phố đẹp nhất trong lịch sử loài người.’ Helen chống nạnh, hai bàn tay nắm chặt lại.
"Cha im lặng. Thành phố vẫn xinh đẹp với đủ các sắc màu thanh nhã phong phú, các mái vòm và những ngọn tháp tuyệt đẹp, bất chấp những hành vi hung bạo đã từng xảy ra ở nơi chốn này trước đây rất lâu. Cha bắt đầu hiểu vì sao một khoảnh khắc tệ hại của năm trăm năm trước lúc này lại quá hiện thực với Helen như vậy, nhưng liệu khoảnh khắc này thực sự liên quan gì đến cuộc sống hiện tại của chúng ta? Đột nhiên, cha giật mình nhận ra có lẽ mình đã thực hiện một cuộc hành trình xa xôi mà chẳng vì cái gì cả, đến một nơi chốn đầy mê hoặc này, cùng với một phụ nữ phức tạp, đi tìm một người Anh có thể lúc này đang ở trên một chuyến xe buýt đi New York. Cha kìm nén ý nghĩ đó lại, và thay vì thế cố trêu chọc cô một chút. ‘Sao cô rành lịch sử quá vậy? Tôi nghĩ cô là một nhà nhân học kia mà.’
" ‘Vâng, tôi là nhà nhân học,’ cô nghiêm nghị trả lời. ‘Nhưng anh không thể nghiên cứu các nền văn hóa nếu không có kiến thức về lịch sử của chúng.’
" ‘Vậy tại sao cô không chọn làm sử gia đơn thuần? Theo tôi thấy, như vậy cô vẫn có thể nghiên cứu về văn hóa kia mà.’
" ‘Có lẽ là vậy.’ Lúc này cô không nhìn thẳng vào mắt cha và trông có vẻ khá dữ tợn. ‘Nhưng tôi muốn một lĩnh vực mà cha tôi chưa dính dáng vào.’
"Đại Thánh đường Hồi giáo vẫn còn mở cửa đón du khách cũng như người mộ đạo trong ánh chiều vàng rực. Cha thử nói thứ tiếng Đức vụng về của mình với nhân viên bảo vệ ở lối vào, một chàng trai tóc quăn, da màu ô liu - những người Byzantine kia thì trông như thế nào nhỉ? - nhưng anh ta cho biết không có thư viện nào trong đó, chẳng có trung tâm lưu trữ tư liệu nào, chẳng có những gì đại loại như thế, và anh ta cũng chưa bao giờ nghe nói gần quanh đó có một nơi như vậy. Chúng ta hỏi liệu anh ta có gợi ý gì không.
"Anh ta trầm ngâm khuyên chúng ta có thể thử tìm ở trường đại học, vì ở đó có hàng trăm nhà thờ Hồi giáo nhỏ.
" ‘Giờ đã quá muộn rồi, không thể đến thăm trường đại học trong hôm nay được,’ Helen bảo cha. Cô xem cuốn sách hướng dẫn. ‘Ngày mai chúng ta có thể đến đó và thử hỏi thăm về các trung tâm lưu trữ có từ thời Mehmed. Tôi nghĩ đây sẽ là phương cách hữu hiệu nhất. Giờ chúng ta thử đến tham quan những bức tường thành cổ của Constantinople xem. Từ nơi này, chúng ta có thể đi bộ đến một khu vực của các phế tích đó.’
"Cha rảo bước đi theo qua các đường phố trong lúc cô dò tìm đường, tay mang găng cầm cuốn sách hướng dẫn, ví xắc nhỏ màu đen đeo trên cánh tay. Những chiếc xe đạp phóng vượt qua, những chiếc áo thụng Thổ Nhĩ Kỳ xen lẫn với đủ loại áo quần Tây phương, những chiếc xe hơi nước ngoài và xe ngựa cùng đan xen nhau. Nhìn đâu cha cũng thấy những người đàn ông mặc com lê tối màu và đội mũ vải nhỏ, cánh phụ nữ thì vận áo hoa màu sáng, quần phồng, khăn choàng quấn quanh đầu. Họ mang theo đủ thứ: túi mua hàng và giỏ đi chợ, những bọc vải, gà trong lồng, bánh mì, hoa. Đường phố tràn ngập sức sống - cha nghĩ, vẫn như xưa, từ một ngàn sáu trăm năm nay. Dọc theo những con đường này, các hoàng đế của La Mã Thiên Chúa giáo đã được đám hầu cận khiêng đi, các tu sĩ đi dọc hai bên, di chuyển từ cung điện đến giáo đường để làm lễ Ban Thánh thể. Họ là những nhà cai trị dũng mãnh, những người bảo trợ vĩ đại của các ngành nghệ thuật, của kỹ sư và các nhà thần học. Và trong số họ cũng có những kẻ xấu xa - theo đúng truyền thống La Mã - chuyên lừa dối triều thần và bịt mắt các thành viên trong hoàng tộc. Đây là nơi các cuộc đấu đá tranh giành quyền lực phức tạp đầu tiên đã xảy ra. Xét cho cùng, có lẽ không phải quá kỳ lạ đối nếu nơi này có một hai con ma cà rồng.
"Helen dừng lại trước một khu vực có những bức tường đá phần nào đổ nát sừng sững bao bọc xung quanh. Các cửa hàng nằm chen chúc trên nền móng của nó còn những cây sung thì đâm rễ vào các cạnh tường; trên những bức tường đầy lỗ châu mai, bầu trời không một gợn mây đang dần chuyển sang màu đồng. ‘Nhìn những gì còn lại của những bức tường thành phố Constantinople này,’ cô ôn tồn nói. ‘Anh có thể nhận ra chúng đồ sộ như thế nào khi còn nguyên vẹn. Cuốn sách hướng dẫn này nói rằng ngày xưa nước biển dâng lên đến tận chân thành, vì vậy các vị hoàng đế có thể xuống thuyền ngay từ cung điện. Và ở đằng kia, bức tường kia là một phần của trường đua ngựa Hippodrome.’
"Chúng ta cứ đứng đó ngắm nhìn cho đến khi cha chợt nhận ra mình đã quên phắt thầy Rossi trong gần mười phút vừa qua. ‘Mình đi ăn tối đi,’ cha bất chợt lên tiếng. ‘Đã quá bảy giờ rồi mà tối nay chúng ta cần phải về sớm. Tôi quyết sẽ tìm trung tâm lưu trữ ấy vào ngày mai.’ Helen gật đầu và hai người chúng ta cùng sánh đôi bước về phía trung tâm phố cổ.
"Gần nhà trọ, chúng ta tìm được một nhà hàng, bên trong trang trí những chiếc bình đồng và lát đá mịn, một bàn ăn tại cửa sổ hình vòng cung ở mặt tiền, một khoảng trống không có kính che, ở đó Helen và cha có thể ngồi ngắm người qua lại trên con đường bên ngoài. Trong lúc chờ dọn bữa ăn tối, lần đầu tiên cha cảm thấy ngạc nhiên vì tính cách kỳ lạ mà cha chưa bao giờ nhận ra của thế giới phương Đông này: những người đang vội vã bước đi kia thực ra không vội vã, đơn giản, họ chỉ bước đi. Những gì trông có vẻ vội vã ở đây chỉ giống như một cuộc tản bộ ngẫu nhiên trên những lề đường của New York hay Washington. Cha nói với Helen nhận xét đó, cô bật cười chua chát. ‘Khi chẳng có việc gì có thể làm để ra tiền, chẳng ai vội vã làm gì,’ cô nói.
"Người hầu bàn mang đến cho bọn ta một khoanh bánh mì, một đĩa sữa chua có rải những lát dưa leo, và một bình thủy tinh trà thơm phức. Sau một ngày mệt nhọc, Helen và cha ăn rất ngon miệng và đang chuẩn bị chuyển sang món gà nướng bằng xiên gỗ thì một người đàn ông có một bờm tóc trắng xóa và bộ ria bạc, mặc bộ vest xám trang nhã, bước vào quán và đưa mắt nhìn quanh. Ông ta ngồi vào bàn gần chúng ta, đặt một cuốn sách xuống gần đĩa ăn. Bình thản gọi món ăn bằng tiếng Thổ, và có vẻ như cảm nhận được vẻ thích thú của chúng ta về bữa ăn, ông ta nghiêng người về phía chúng ta, nở một nụ cười thân thiện. ‘Tôi nhận ra các bạn có vẻ thích những món ăn của quê hương chúng tôi đấy,’ giọng tiếng Anh hơi nặng nhưng chuẩn xác.
" ‘Vâng, chắc chắn rồi,’ cha đáp, ngạc nhiên. ‘Ngon tuyệt.’
" ‘Xem nào,’ ông ta nói tiếp, quay gương mặt đẹp, ôn hậu về phía cha. ‘Các bạn không đến từ nước Anh. Người Mỹ phải không?
" ‘Vâng,’ cha đáp. Helen im lặng, cắt thịt gà và cảnh giác liếc chừng người bạn mới này.
" ‘À, vâng. Thật là dễ chịu. Các bạn đang tham quan thành phố xinh đẹp của chúng tôi đấy à?’
" ‘Vâng, đúng vậy,’ cha đồng tình, và mong sao ít nhất Helen cũng tỏ ra thân thiện một chút; dù sao chăng nữa, thái độ thù địch có thể làm cho người ta nghi ngờ.
" ‘Chào mừng các bạn đến với Istanbul,’ ông ta nói cùng với một nụ cười rất tươi, nâng chiếc cốc thủy tinh lên chúc mừng chúng ta. Cha nâng cốc đáp lại và gương mặt ông ta liền tươi cười rạng rỡ. ‘Xin thứ lỗi cho câu hỏi của một người xa lạ, nhưng các bạn thích gì nhất ở đây trong lần thăm viếng này?’
" ‘À, quả thật là khó lựa chọn.’ Cha thích gương mặt của ông ta; không thể nào không trả lời thành thật được. ‘Tôi thấy ấn tượng nhất với sự pha trộn giữa phương Đông và phương Tây trong một thành phố.’
" ‘Quả là một nhận xét thông minh, anh bạn trẻ à,’ ông ta nhã nhặn trả lời khi dùng một chiếc khăn ăn trắng lớn chùi nhẹ bộ ria. ‘Đối với chúng tôi, sự pha trộn này là một báu vật và cũng là một sự nguyền rủa. Tôi có những đồng nghiệp đã bỏ suốt cả cuộc đời để nghiên cứu về Istanbul, và họ cho biết không bao giờ có đủ thời gian để khám phá tất cả, mặc dầu họ luôn sống tại đây. Đây là một nơi chốn luôn làm cho người ta ngạc nhiên.’
" ‘Xin lỗi, ông làm nghề gì?’ cha tò mò hỏi, mặc dù từ thái độ lặng im của Helen, cha có cảm giác cô sắp sửa đạp lên chân cha dưới bàn.
" ‘Tôi là giáo sư ở đại học Istanbul,’ ông ta nói, vẫn bằng giọng đáng kính ấy.
" ‘Ồ, thật là may mắn!’ cha buột miệng reo lên. ‘Chúng tôi…’ Ngay lúc đó Helen đạp lên chân cha. Cô mang giày cao gót, như mọi phụ nữ ở vào thời đó, gót giày khá nhọn. ‘Chúng tôi rất hân hạnh được gặp ông,’ cha nói nốt câu. ‘Ông dạy môn gì?’
" ‘Chuyên môn của tôi là Shakespeare,’ ông bạn mới của bọn ta đáp rồi quay trở lại với món xa lát đặt trước mặt. ‘Tôi dạy văn học Anh cho những người giỏi nhất trong các nghiên cứu sinh. Họ là những sinh viên xuất sắc nhất. Tôi phải nói với các bạn như vậy.’
" ‘Thật tuyệt vời,’ cha loay hoay đáp trả. ‘Tôi cũng là một nghiên cứu sinh, nhưng về lịch sử, tại Hoa Kỳ.’
" ‘Một lĩnh vực rất hấp dẫn,’ ông ta nhận xét, vẻ trang trọng. ‘Ở Istanbul, anh sẽ thấy nhiều thứ khiến anh quan tâm. Tên trường anh theo học là gì?’
"Cha cho ông ta biết, trong lúc Helen vẫn lạnh lùng ăn nốt bữa ăn tối.
" ‘Một trường đại học danh tiếng. Tôi có nghe tiếng,’ vị giáo sư nhận xét. Ông nhấp một ngụm trà và gõ gõ các ngón tay lên cuốn sách cạnh đĩa đồ ăn. ‘Mà này,’ cuối cùng ông lên tiếng. ‘Sao các vị không đến thăm trường đại học chúng tôi trong lúc đang ở Istanbul? Đây cũng là một trường đại học có uy tín, và tôi sẽ rất vui được hướng dẫn anh và cô vợ đáng mến của anh tham quan trường.’
"Cha nghe tiếng Helen khẽ khịt mũi, và vội vã đính chính hộ cô. ‘Em gái - em gái tôi.’
" ‘Ồ, thành thật xin lỗi.’ Vị học giả chuyên về Shakespeare hướng về Helen, cúi đầu xuống như để xin lỗi. ‘Tôi là tiến sĩ Turgut Bora, hân hạnh được biết cô.’ Chúng ta tự giới thiệu - thực ra là cha giới thiệu, vì Helen kiên quyết không chịu mở miệng. Cha có thể nói là cô không thích cha sử dụng tên thật, vì vậy cha hấp tấp gọi cô là Smith, một màn ứng xử ngớ ngẩn càng khiến cô chau mày cau mặt thêm. Chúng ta lần lượt bắt tay nhau, và cha chẳng còn cách nào khác là mời ông ta sang ngồi cùng bàn.
"Ông ta từ chối chiếu lệ và chỉ một lát sau đã qua ngồi cùng bàn với chúng ta, mang theo đĩa xa lát và ly nước, ngay sau đó ông nâng ly lên. ‘Mừng các bạn đã đến với thành phố xinh đẹp của chúng tôi,’ ông ta lên giọng. ‘Cheerio! - Chúc mừng!’ Ngay cả Helen cũng phải khẽ mỉm cười, dù vẫn tiếp tục câm như hến. ‘Xin cô thứ lỗi cho sự thiếu thận trọng của tôi,’ Turgut ngỏ lời xin lỗi Helen, tựa như cảm nhận được thái độ đề phòng của cô. ‘Rất hiếm khi tôi có cơ hội tập nói tiếng Anh với người bản xứ.’ Ông ta vẫn chưa nhận ra Helen không phải là người bản xứ, cha nghĩ - mà có khi sẽ chẳng bao giờ nhận ra điều đó - vì cô có thể sẽ chẳng thốt ra với ông ta lời nào.
" ‘Con đường nào đã dẫn ông theo con đường nghiên cứu về Shakespeare?’ cha hỏi khi chúng ta bắt đầu tiếp tục trở lại với bữa ăn.
" ‘À!’ Turgut ôn tồn trả lời. ‘Đó là một câu chuyện kỳ lạ. Mẹ tôi là một phụ nữ rất khác thường - rất thông minh - một người rất say mê các ngôn ngữ, và cũng là một kỹ sư vóc dáng nhỏ bé lạ thường’ - có nổi tiếng không nhỉ? cha băn khoăn tự hỏi - ‘và trong khi theo học ở Đại học Rome, bà đã gặp cha tôi. Ông, một người thú vị, là một học giả về nước Ý thời Phục hưng, đặc biệt quan tâm tới…’
"Ngay ở đoạn hấp dẫn này, cuộc nói chuyện của bọn ta đột nhiên bị cắt ngang vì sự xuất hiện của một cô gái trẻ, từ ngoài đường nhòm vào qua khung cửa sổ hình vòng cung. Mặc dù chưa bao giờ nhìn thấy một người như vậy, ngoại trừ trong các bức hình, cha cho rằng cô là một người Gypsy; da cô màu sậm, nét mặt sắc cạnh, quần áo sáng màu lòe loẹt, mái tóc đen nhánh lòa xòa quanh cặp mắt huyền sắc lẹm. Có thể cô mười lăm hoặc cũng có thể là bốn mươi tuổi; không thể nào đoán được tuổi tác cô qua khuôn mặt gầy kia. Trong tay cô là những bó hoa vàng hoa đỏ, dường như cô muốn mời chúng ta mua chúng. Cô thảy vài cành hoa lên bàn chỗ cha ngồi, và cất tiếng hát một khúc chói tai mà cha không thể hiểu được. Helen trông có vẻ giận dữ còn Turgut thì khó chịu ra mặt, nhưng cô gái kia vẫn cứ trơ trơ. Cha rút ví ra định mua một bó hoa Thổ Nhĩ Kỳ tặng Helen - để mua vui thôi, dĩ nhiên - ả Gypsy đột nhiên quay phắt sang phía Helen, trỏ tay và rít lên. Turgut giật mình và Helen, bình thường chẳng biết sợ là gì, co rúm người lại.
"Việc này có vẻ làm cho Turgut nổi nóng; ông ta nhổm người lên và bắt đầu mắng ả Gypsy bằng một giọng phẫn nộ. Chẳng khó khăn gì để hiểu được ngữ điệu và cử chỉ của ông ta, rõ ràng ông ta muốn tống cổ ả đi bằng những lời đanh thép nhất. Ả nhìn chằm chằm vào bọn ta và đột ngột biến đi như khi xuất hiện, biến mất trong dòng khách bộ hành. Turgut ngồi xuống, giương mắt nhìn Helen, sau một lát ông lục tìm trong trong túi áo khoác, lấy ra một vật nhỏ, đặt xuống cạnh đĩa thức ăn của Helen. Đó là một hòn đá xanh dẹt, dài khoảng ba phân, hai màu trắng và xanh nhạt, trông giống một con mắt sống. Helen tái mặt khi nhìn thấy hòn đá và đưa ngón trỏ, tựa như bản năng, định chạm vào nó.
" ‘Chuyện quái quỷ gì vậy?’ Cha không thể không cảm thấy bực mình khi trở thành kẻ ngoài cuộc về phương diện văn hóa như vậy.
" ‘Cô ta nói gì vậy?’ Lần đầu tiên Helen lên tiếng với Turgut. ‘Cô ta nói tiếng Thổ hay tiếng Gypsy? Tôi chẳng hiểu gì cả.’
"Ông bạn mới của chúng ta tỏ ra ngần ngại, tựa như không muốn lặp lại lời nói của người phụ nữ kia. ‘Tiếng Thổ,’ ông ta thì thầm. ‘Tôi có thể nói với cô là chẳng hay ho gì. Những gì cô ta nói rất thô tục. Và kỳ lạ.’ Ông ta chăm chú nhìn Helen, với gì đó như một sự sợ hãi thoáng qua, cha nghĩ, trong đôi mắt nhân hậu của ông. ‘Cô ta sử dụng một từ mà tôi không muốn dịch ra,’ ông ta chậm rãi giải thích. ‘Còn sau đó, cô ta nói, "Cút khỏi đây, đồ con gái của lũ chó sói Rumani. Ngươi và lũ bạn bè ngươi mang theo lời nguyền rủa của ma cà rồng đến thành phố chúng ta." ’
"Mặt Helen trắng bệch, và cha phải ngăn mình không nắm lấy tay cô. ‘Chỉ là một sự trùng hợp thôi,’ cha nhẹ nhàng an ủi, cô trừng mắt nhìn cha; cha đã nói quá nhiều trước mặt ông giáo sư.
"Turgut hết nhìn cha lại nhìn Helen. ‘Việc này quả thật rất kỳ lạ, những người bạn tử tế của tôi ạ,’ ông ta nói. ‘Tôi nghĩ chúng ta phải thảo luận thêm, không thể chần chừ được.’ "
Tôi gần như ngủ gật trên ghế xe lửa, dù câu chuyện của cha vô cùng hấp dẫn với tôi; việc đọc hết tất cả các lá thư trong một lần đã khiến tôi thức suốt đêm, mệt lử. Một cảm giác hư ảo bao trùm lấy tôi, trong cabin tàu ngập tràn ánh nắng, tôi quay ra cửa sổ, nhìn những trang trại Hà Lan ngăn nắp vụt qua. Khi đến gần hoặc ra khỏi từng thị trấn, đoàn tàu lại cành cạch băng qua hàng loạt những vườn rau nhỏ bé, đang xanh mượt trở lại dưới bầu trời đầy mây, những khu vườn sân sau của hàng ngàn con người đang chăm nom công việc làm ăn của chính mình, nhà họ quay lưng về phía đường sắt. Những cánh đồng xanh mướt, một màu xanh bắt đầu, tại Hà Lan, vào đầu xuân và kéo dài cho đến tận khi tuyết rơi, được nuôi dưỡng bằng hơi ẩm của trời và đất, và bằng nước, lấp lánh ở mọi hướng nhìn. Chúng tôi đã bỏ lại phía sau một vùng mênh mông những dòng kênh cùng những cây cầu để lọt vào giữa đàn bò trên những cánh đồng cỏ được quy hoạch gọn gàng. Một cặp vợ chồng già đáng kính đang lững thững đạp xe theo con đường cạnh bên chúng tôi, chỉ lát sau đã biến mất tựa như đã bị những đồng cỏ đang hiện ra mỗi lúc một nhiều ấy nuốt chửng. Chẳng bao lâu, chúng tôi đã đến Bỉ, một đất nước tôi biết rõ, nhờ kinh nghiệm bản thân, rằng nếu chỉ ngủ quên một giấc ngắn thôi ta cũng có thể đi qua nó mà hoàn toàn không biết.
Tôi giữ chặt những lá thư trong lòng, nhưng hai mí mắt đã bắt đầu sụp xuống. Người phụ nữ có khuôn mặt dễ chịu trong ghế đối diện cũng đã ngủ gà ngủ gật, tạp chí vẫn cầm trong tay. Hai mắt tôi chỉ vừa mới khép lại thì cánh cửa cabin đột nhiên bật mở. Một giọng nói cáu kỉnh vang lên rồi một dáng người lêu nghêu chen vào giữa tôi và giấc mơ ban ngày của tôi. "Giỏi nhỉ! Biết ngay mà. Anh đã sục hết cả đoàn tàu để tìm em đấy." Đó là Barley, anh đưa tay lên lau trán rồi quắc mắt nhìn tôi.
Chú thích
1 Hiện là sân bay Quốc tế John F. Kennedy, New York (BT).
2 Tên đầy đủ ban đầu của nhà thờ này trong tiếng Hy Lạp có nghĩa là Nhà thờ Thánh trí của Chúa (The Church of HolyWisom of God). Santa Sophia hay Saint Sophia là cách gọi theo âm Latin của chữ Thánh trí (Holy Wisdom) trong tiếng Hy Lạp chứ không phải để chỉ một vị thánh tên là Sophia nào cả (BT).
3 Bosphorus: con kênh dài 32 km nối thông Biển Đen và Biển Marmara, phân cách giữa phần châu Âu và châu Á của Thổ Nhĩ Kỳ.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova