Hai Mươi Lăm
ãy cẩn thận với thứ nầy, bởi nó cực bầy nhầy.
VALERIE SINGLETON
Tôi đã thuyết phục Francisco đừng có vội tuyên bố.
Anh ta muốn nói toạc mọi thứ ra, nhưng tôi bảo rằng thêm vài giờ nữa cũng chẳng hại gì. Một khi họ đã biết chúng tôi, và có thể gọi tên chúng tôi, thì câu chuyện sẽ bị lắng xuống một chút. Thậm chí nếu ngay sau đó có pháo hoa đi nữa, thì điều bí ẩn đã bị mất đi rồi.
Chỉ thêm một vài giờ thôi, tôi nói.
Và thế là chúng tôi chờ xuyên đêm, thay phiên nhau cho từng vị trí.
Trên mái là chỗ ít nhộn nhịp nhất, bởi vì nó lạnh và cô độc, không ai ở đó lâu hơn một giờ đồng hồ. Còn những chỗ khác, chúng tôi ăn, nói chuyện, và không nói chuyện, nghĩ về cuộc sống của chúng tôi, về chuyện họ đã đưa chúng tôi tới chuyện này như thế nào. Liệu chúng tôi là những người bắt cóc hay là bị bắt cóc.
Đêm đó người ta không chuyển thêm đồ ăn tới cho chúng tôi, nhưng Hugo tìm thấy vài túi bánh kẹp thịt đông lạnh ở trong căng tin, thế là chúng tôi rải lên bàn của Beamon cho rã đông và chọc chọc vào mỗi khi không nghĩ ra được gì khác để làm.
Các con tin ngủ gà ngủ vịt và hầu như lúc nào cũng bị trói tay. Francisco đã nghĩ đến chuyện tách họ ra và rải mỗi người một chỗ trong tòa nhà, nhưng rồi cuối cùng anh ta quyết định rằng làm thế sẽ tốn thêm nhiều người gác; có lẽ anh ta đúng. Francisco đúng trong rất nhiều chuyện. Biết nghe lời khuyên nữa, điều đó tạo ra một sự thay đổi tốt đẹp. Tôi cho rằng chẳng có nhiều khủng bố trên thế giới quen với tình huống bắt giữ con tin tới mức có thể trở nên giáo điều mà nói ừm, các anh phải làm như thế này này. Francisco rơi vào một tình huống lạ lẫm cũng như mọi người khác trong đội chúng tôi, điều đó làm anh ta phần nào đó tử tế hơn.
Vừa mới hơn bốn giờ, sắp đặt xong, tôi bèn xuống đại sảnh với Latifa trong khi Francisco tập tễnh xuống cầu thang cầm theo bản thông cáo báo chí.
“Lat này,” anh ta nói, nở nụ cười duyên dáng, “hãy nói với thế giới về chúng ta.”
Latifa mỉm cười đáp lại anh ta, xúc động vì người anh cả thông thái đã ban cái vinh hạnh này cho cô, nhưng không muốn bộc lộ ra quá nhiều. Cô cầm lấy cái phong bì từ tay anh ta và nhìn đầy âu yếm trong khi anh ta tập tễnh trở lại cầu thang.
“Bọn họ đang đợi em đấy,” anh ta nói, không quay đầu lại. “Hãy đưa nó cho họ, bảo họ rằng cái này phải chuyển thẳng tới CNN, không qua người nào khác, và nếu họ không đọc nó, nếu họ để sót một từ trong đó thì sẽ có những người Mỹ chết ở chỗ này.” Anh ta dừng lại khi tới chỗ chiếu nghỉ, quay lại chúng tôi. “Yểm trợ cô ấy thật tốt nhé, Ricky.”
Tôi gật đầu và chúng tôi nhìn anh ta đi, rồi Latifa thở dài. Thật là một người đáng nể, cô đang nghĩ thế. Người hùng của tôi, và anh ấy chọn tôi. Nguyên do thực sự khiến Francisco chọn Latifa tất nhiên là bởi anh ta cho rằng nếu các chàng ga lăng người Maroc biết được trong nhóm khủng bố có phụ nữ thì khả năng tấn công vũ trang của các chàng sẽ bớt đi một chút. Nhưng tôi không muốn làm hỏng thời khắc của cô bằng cách nói ra điều đó.
Latifa quay đầu nhìn ra cửa chính, giữ chặt cái phong bì và nheo mắt trước ánh sáng rực rỡ từ các nhóm truyền hình. Cô đặt một tay lên tóc.
“Cuối cùng thì cũng trở thành người nổi tiếng,” tôi nói, cô liền nhăn mặt làm điệu bộ với tôi.
Cô đi qua bàn lễ tân và bắt đầu bồn chồn chỉnh lại áo xống phản chiếu trong tấm kính. Tôi làm theo.
“Đây,” tôi nói, đoạn cầm lấy phong bì từ tay cô và giúp cô chỉnh lại cổ áo sao cho bắt mắt. Tôi vuốt phẳng tóc cô ở phía sau tai, chùi một vết gì đó trên má. Cô đứng yên để tôi làm việc ấy. Đây không hẳn một cái gì riêng tư. Giống một võ sĩ ở góc võ đài của mình thì đúng hơn, chuẩn bị sẵn sàng cho hiệp tiếp theo trong khi đám bậu sậu xịt nước, xoa bóp, lau người và trang điểm cho anh ta.
Tôi thò tay vào túi, lấy cái phong bì ra đưa cho cô, trong khi cô hít vài hơi sâu.
Tôi siết vai cô.
“Em sẽ ổn thôi,” tôi nói.
“Chưa bao giờ lên ti vi cả,” cô nói.
Bình minh. Mặt trời lên. Rạng sáng. Gì cũng được.
Chân trời vẫn còn lờ mờ, nhưng đã có một đốm màu cam xuất hiện. Bóng đêm đã thu mình vào lòng đất, trong khi mặt trời quờ quạng bấu ngón tay vào mép chân trời.
Các con tin hầu như đã ngủ cả. Họ co lại gần nhau hơn trong đêm, bởi trời lạnh hơn mọi người nghĩ, những cái chân không còn thò ra ngoài mép thảm nữa.
Francisco trông mệt mỏi khi đưa điện thoại cho tôi. Chân anh ta đặt lên cạnh bàn Beamon, và anh ta đang xem CNN, ti vi vặn nhỏ tiếng, như để tỏ ra tử tế đối với Beamon đang ngủ.
Tôi cũng mệt mỏi, tất nhiên rồi, nhưng có lẽ vẫn còn đôi chút phấn khích trong máu vào lúc đó. Tôi nhận lấy điện thoại từ Francisco.
“Vâng.”
Vài tiếng lạch tạch, nhiễu điện từ. Rồi Barnes.
“Cuộc gọi báo động năm giờ rưỡi của ông,” hắn nói, giọng có ý giễu.
“Các ông muốn gì?” Và ngay lập tức tôi nhận ra mình vừa nói điều đó bằng giọng Anh. Tôi nhìn ngang qua Francisco, nhưng dường như anh ta không nhận ra. Bởi thế tôi quay lại cửa sổ và lắng nghe Barnes một lúc nữa, và khi hắn ta kết thúc tôi hít một hơi sâu, hy vọng tột cùng và dửng dưng chẳng quan tâm, cả hai cảm giác cùng một lúc.
“Khi nào?” Tôi hỏi.
Barnes cười khùng khục. Tôi cũng cười, không theo một giọng nào cả.
“Năm mươi phút nữa,” hắn nói rồi gác máy.
Khi tôi từ chỗ cửa sổ quay lại, Francisco đang nhìn tôi. Lông mi anh ta dường như dài hơn bất cứ lúc nào hết.
Sarah đang đợi tôi.
“Họ sẽ mang bữa sáng tới cho chúng ta,” tôi nói, lần này uốn lưỡi theo giọng Minnesota.
Francisco gật đầu.
Mặt trời, đang từ từ kéo mình lên cao khỏi khung cửa sổ. Tôi rời bỏ những tù nhân, và Beamon, và Francisco đang gật gà trước CNN. Tôi bước ra khỏi phòng, đi thang máy lên trên nóc.
Ba phút sau đó, còn bốn mươi bảy phút nữa, và mọi thứ đang chuẩn bị sẵn sàng như nó sẽ tới. Tôi đi cầu thang xuống đại sảnh.
Hành lang trống không, cầu thang trống không, bụng trống không. Mạch máu ở tai tôi thình thịch, to hơn nhiều tiếng chân tôi trên thảm. Tôi dừng lại ở chiếu nghỉ tầng hai, nhìn ra ngoài phố.
Một đám đông ra trò, vào khoảng thời gian này của buổi sáng.
Tôi đang nghĩ về chuyện sẽ tới, đó là lý do tại sao tôi quên béng hiện tại. Hiện tại chưa từng xảy ra, không phải đang diễn ra, duy chỉ có tương lai. Cuộc sống và cái chết. Cuộc sống hoặc cái chết. Những cái đó, anh thấy không, là những cái to tát. To tát hơn nhiều so với tiếng bước chân. Tiếng bước chân là những cái nhỏ nhặt, so với cái bị lãng quên.
Xuống được nửa cầu thang, vừa mới ngoặt vào gác lửng thì tôi nghe thấy chúng và nhận ra chúng mới sai lầm làm sao- sai lầm bởi vì chúng đang chạy thình thịch, đáng ra người ta không nên chạy trong tòa nhà này. Không phải bây giờ. Không phải trong vòng bốn mươi sáu phút nữa.
Benjamin vòng quanh góc nhà và dừng lại.
“Gì thế, Benj?” Tôi nói, ở mức điềm tĩnh nhất có thể.
Anh ta nhìn tôi trừng trừng một lúc. Thở mạnh.
“Mày đã ở chỗ quái nào thế?” anh ta hỏi.
Tôi cau mặt.
“Ở trên mái,” tôi nói. “Tôi ở...”
“Latifa ở trên mái,” anh ta cắm cảu.
Chúng tôi đứng dòm nhau. Anh ta đang thổi phù phù ra miệng, phần vì ráng sức, phần vì tức giận.
“Chà, Benj, tôi bảo cô ấy xuống dưới sảnh. Chuẩn bị ăn sáng...”
Và rồi, bằng một động tác nóng vội, Benjamin nâng khẩu Steyr lên vai, áp má vào báng súng, hai nắm tay cứ siết vào mở ra ở tay cầm: cái nòng súng đã biến mất.
Sao lại có thể thế được? Tôi tự nhủ. Làm sao mà nòng khẩu Steyr, dài bốn trăm hai mươi milimét, sáu rãnh khía, xoắn hướng bàn tay phải - làm sao nó lại biến mất được nhỉ?
Tất nhiên là nó không thể biến mất, và nó đã không biến mất.
Đó chỉ là từ góc nhìn của tôi.
“Mày là thằng khốn chó chết,” Benjamin nói.
Tôi đứng đó, dán mắt vào cái lỗ đen.
Còn bốn mươi lăm phút nữa, và lúc này, hãy chấp nhận thế, là lúc tồi tệ nhất để Benjamin mang một chuyện to tát, rộng lớn và nhức đầu gọi là Phản bội ra đây. Tôi gợi ý với anh ta, hy vọng mình đã nói một cách lịch sự, rằng chúng tôi có thể xem xét nó sau; nhưng Benjamin thì nghĩ tốt hơn hãy làm ngay bây giờ.
“Thằng khốn chó chết,” anh ta đáp lại vậy đó.
Một phần của vấn đề đó là Benjamin chưa từng tin tưởng tôi. Đó là nguyên do chính. Benjamin đã có những nghi ngờ ngay từ đầu, lúc này anh ta muốn tôi biết về những nghi ngờ đó, phòng khi tôi muốn tranh cãi lại với anh ta.
Tất cả đã bắt đầu từ khóa huấn luyện quân sự, anh ta nói với tôi.
Ôi, thật thế sao Benj? Đúng vậy.
Tối đó Benjamin nằm không ngủ, nhìn trân trối lên mái lều trại, tự hỏi từ đâu và làm thế nào một thằng Minnesota đần độn lại học được cách tháo lắp một khẩu M16 trong lúc bịt mắt chỉ bằng nửa thời gian so với những người khác. Có vẻ từ đó anh ta đã đặt dấu hỏi về giọng của tôi, về sở thích quần áo và âm nhạc của tôi. Và làm sao tôi có thể thêm được chừng ấy dặm dường vào công tơ mét chiếc Land Rover trong khi tôi chỉ ra ngoài để uống bia?
Đó toàn là những thứ vặt vãnh, tất nhiên rồi, nên cho tới tận giờ Ricky có thể dẹp tan chúng mà không gặp vấn đề gì.
Nhưng phần kia của vấn đề - thẳng thắn mà nói là phần lớn hơn, ngay vào giây phút này - là Benjamin đã nghịch hộp đấu chuyển điện thoại trong khi tôi nói chuyện với Barnes.
Bốn mươi mốt phút.
“Thế thì sẽ thế nào, Benj?” Tôi hỏi.
Anh ta áp chặt má hơn vào báng súng, và hình như tôi có thể thấy ngón tay anh ta đang trắng dần ra trên cò súng.
“Anh sẽ bắn tôi ư?” Tôi nói. “Bây giờ ư? Sẽ kéo cò súng?”
Anh ta liếm môi. Anh ta biết tôi đang nghĩ gì.
Anh ta từ từ lỏng người, nhấc mặt ra khỏi khẩu Steyr, vẫn giữ đôi mắt lớn nhìn tôi.
“Latifa,” anh ta gọi với ra sau. To. Nhưng không đủ to. Có vẻ như anh ta đang có vấn đề với giọng nói của mình.
“Họ mà nghe thấy tiếng súng, họ sẽ nghĩ là anh vừa giết một con tin, Benj ạ,” tôi nói. “Họ sẽ san phẳng tòa nhà này. Giết chết tất cả.”
Từ “giết” đã tác động vào anh ta, và trong một khoảnh khắc tôi nghĩ anh ta có thể sẽ bắn.
“Latifa,” anh ta lại gọi. Lần này to hơn, và cần phải thế. Tôi không thể để anh ta kêu lần thứ ba. Tôi bắt đầu dịch chuyển, rất từ từ, về phía anh ta. Tay trái tôi thả lỏng hết mức.
“Đối với rất nhiều tay ở ngoài kia, Benj,” tôi nói, vẫn dịch chuyển, “một tiếng súng chính là thứ họ muốn nghe lúc này. Anh sẽ cho họ có được nó sao?”
Anh ta lại liếm môi. Một lần. Hai lần. Quay đầu nhìn về phía cầu thang.
Tôi túm lấy nòng súng bằng tay trái, đẩy nó lại vai anh ta. Không có cách nào khác. Nếu như tôi kéo khẩu súng ra khỏi anh ta, cò súng sẽ bị ép, và tôi cũng sẽ bị ấn một phát. Bởi vậy tôi đẩy nó lùi lại, sang một bên, và khi mặt anh ta dịch xa hơn khỏi báng súng, tôi thúc ngược gan bàn tay phải vào dưới mũi anh ta.
Anh ta đổ xuống như hòn đá - nhanh hơn hòn đá, như thể có một lực cực mạnh đẩy anh ta ngã xuống sàn - và trong một thoáng tôi nghĩ biết đâu mình đã giết anh ta. Nhưng rồi đầu anh ta bắt đầu đưa từ bên này sang bên kia, và tôi thấy những bong bóng máu phòi ra khỏi môi anh ta.
Tôi nhẹ nhàng gỡ khẩu Steyr khỏi tay anh ta và gạt khóa an toàn, vừa lúc Latifa gọi từ chỗ cầu thang.
“Vâng?”
Giờ tôi có thể nghe thấy tiếng chân cô trên cầu thang. Không nhanh, nhưng không chậm.
Tôi nhìn xuống Benjamin.
Đó là dân chủ, Benj. Một người chống lại nhiều người.
Latifa ngoặt ở góc cầu thang, khẩu Uzi vẫn quàng trên vai.
“Chúa ơi,” cô nói khi nhìn thấy máu. “Chuyện gì xảy ra thế?”
“Tôi không biết,” tôi nói. Tôi không nhìn cô. Tôi đang cúi người xuống Benjamin, nhìn lo lắng vào mặt anh ta. “Tôi đoán anh ta bị ngã.” Latifa lướt qua tôi và ngồi xổm xuống cạnh Benjamin, và trong khi cô làm thế, tôi liếc đồng hồ.
Ba mươi chín phút. Latifa quay lên nhìn tôi.
“Tôi sẽ lo việc này,” cô nói. “Canh ngoài sảnh nhé Rick.”
Thế là tôi đi.
Tôi ra ngoài sảnh, tới cửa chính, xuống các bậc thềm, và một trăm năm mươi ba mét từ bậc thềm tới chốt cảnh sát.
Tới nơi thì đầu tôi đã nóng bừng, bởi vì hai tay tôi siết chặt lấy nó.
Không có gì ngạc nhiên, họ nhảy cẫng lên mừng tôi như thể họ đang tham gia một kỳ thi nhảy cẫng. Để được nhập học tại trường Đại học Hoàng gia Nhảy cẫng. Năm lần, đầu đến chân, miệng, tai, xương chậu, đế giày. Họ xé gần hết quần áo trên người tôi, để cho tôi trông giống như một món quà Giáng sinh vừa được mở ra.
Mất mười sáu phút.
Họ để tôi đó năm phút nữa, dựa người vào thành một chiếc xe cảnh sát, dạng tay dạng chân, còn họ hò hét xô đẩy nhau. Tôi nhìn chằm chằm xuống đất. Sarah đang đợi tôi.
Chúa ơi, tốt hơn là cô nên đợi tôi.
Thêm một phút nữa trôi qua, thêm nhiều tiếng la hét, thêm nhiều xô đẩy hơn, và tôi bắt đầu nhìn xung quanh, nghĩ
rằng nếu một chuyện gì đó không mau chóng xảy ra, tôi sẽ phải làm cho nó xảy ra. Thằng Benjamin khốn kiếp. Vai tôi bắt đầu đau do lực dựa của tôi.
“Tốt lắm, Thomas,” một giọng nói.
Tôi quay sang trái, nhìn xuống thì thấy một đôi ủng Red Wing. Một đặt phẳng trên mặt đất, một dựng vuông góc, các ngón chân sục vào trong bụi. Tôi từ từ nghiêng người để nhìn hết phần còn lại của Russell Barnes.
Hắn đang dựa người vào cửa xe, cười cười, chìa bao Marlboro ra cho tôi. Hắn mặc áo da phi công, có thêu tên Connor trên ngực trái. Connor là thằng quái nào thế?
Đội nhảy nhót đã lùi lại một chút, nhưng chỉ một chút thôi, với một chút kính trọng đối với Barnes. Nhiều người trong số họ vẫn cứ nhìn tôi, có thể đang nghĩ chắc mình đã bỏ sót chuyện gì chăng.
Tôi lắc đầu từ chối thuốc lá. “Hãy để tôi gặp cô ấy,” tôi nói. Bởi vì cô ấy đang đợi tôi.
Barnes quan sát tôi một lúc, rồi lại mỉm cười. Hắn đang thấy vui, thấy thoải mái và thư giãn. Trò chơi đã kết thúc, đối với hắn. Hắn nhìn sang bên trái.
“Chắc chắn rồi,” hắn nói.
Hắn đột ngột nhảy ra xa khỏi chiếc xe, làm cho tấm kim loại ở cửa xe nổ bốp, và ra hiệu cho tôi đi theo. Cả một biển áo mặc chật căng và kính bọc đầu tẽ ra hai bên, chúng tôi bước đi chầm chậm tới chiếc Toyota màu xanh.
Ở bên phải chúng tôi, dưới một thanh chắn đường bằng thép, có những đội truyền hình, những đoạn cáp quấn quanh chân họ, ánh sáng màu xanh trắng của họ chọc thủng phần còn lại của màn đêm. Vài ống kính dõi theo khi tôi bước đi, nhưng hầu hết thì vẫn chúc đầu về phía tòa nhà.
CNN dường như có được vị trí tốt nhất.
Murdah ra khỏi xe trước, trong khi Sarah chỉ ngồi đó đợi, dán mắt vào kính xe phía trước, hai tay ôm đùi. Chúng tôi chỉ còn cách cô vài mét thì cô quay người nhìn tôi, cố nở một nụ cười.
Em đang đợi anh, Thomas.
“Ông Lang,” Murdah nói, đi vòng qua xe, bước xen vào giữa tôi và Sarah. Ông ta mặc áo khoác xám sẫm màu, áo sơ mi không kèm cà vạt. Cái vẻ sáng lạn trên trán ông ta dường như đã mờ hơn một chút so với những gì tôi nhớ, và đã có thêm râu mọc trong khoảng vài giờ qua chĩa ra quanh cằm ông ta, còn lại thì nhìn ông ta vẫn ổn.
Tại sao lại không chứ?
Ông ta chằm chằm nhìn vào mặt tôi trong vài giây rồi khẽ gật đầu đầy thỏa mãn. Như thể tôi đã chẳng làm gì khác ngoài cắt tỉa cỏ nhà ông ta theo đúng chuẩn.
“Tốt,” cuối cùng ông ta nói.
Tôi nhìn lại ông ta. Một cái nhìn trống rỗng, bởi vì tôi không muốn cho ông ta bất cứ một thứ gì lúc này.
“Cái gì tốt?” Tôi hỏi.
Nhưng Murdah đang nhìn gì đó phía sau lưng tôi, đoạn ra dấu, và tôi cảm nhận có sự di chuyển đằng sau.
“Gặp lại ông sau nhé, Tom,” Barnes nói.
Tôi quay lại thì thấy hắn đã bắt đầu rời đi, bước giật lùi chầm chậm theo kiểu thân mật, lỏng chân, tôi-sẽ-nhớ-anh. Khi mắt chúng tôi gặp nhau, hắn đưa tôi một lời chào mỉa mai nho nhỏ, rồi quay đầu bước thẳng tới chiếc xe jeep quân đội đỗ gần phía sau đống nhốn nháo xe cộ. Một người đàn ông tóc vàng mặc thường phục khởi động máy khi Barnes tới gần, rồi bấm còi hai lần để xua đám đông đang xúm trước đầu xe. Tôi quay lại nhìn Murdah.
Lúc này ông ta đang dò xét mặt tôi, gần hơn một chút, chuyên nghiệp hơn một chút, như một bác sĩ phẫu thuật thẩm mỹ.
“Cái gì tốt?” Tôi hỏi lại, và chờ đợi trong khi câu trả lời của tôi bay qua khoảng không gian bất tận giữa hai thế giới.
“Anh đã làm đúng như tôi mong muốn,” cuối cùng thì Murdah nói. “Như tôi đã dự đoán.”
Ông ta lại gật đầu. Một chút thừa ở chỗ này, một chút gấp ở chỗ kia - đúng, tôi nghĩ tôi có thể làm gì đó với khuôn mặt này.
“Một vài người, ông Lang ạ,” ông ta tiếp tục, “một vàingười bạn của tôi, đã nói với tôi rằng ông có thể sẽ rắc rối lắm. Ông có thể sẽ bất kham và phản thùng.” Ông ta hít một hơi dài hơn. “Nhưng tôi đã đúng. Và điều đó thật tốt.”
Và rồi, vẫn nhìn vào mặt tôi, ông ta bước sang một bên, mở cửa ghế khách của chiếc Toyota.
Tôi nhìn Sarah xoay người chầm chậm trên ghế và bước ra ngoài. Cô đứng thẳng lên, hai tay bắt tréo phía trước như để giữ ấm trước cái lạnh lúc bình minh, và ngẩng mặt nhìn tôi.
Chúng tôi đang ở rất gần.
“Thomas,” cô nói, và trong một giây tôi đã cho phép mình đắm chìm vào trong đôi mắt đó, thật sâu, và chạm vào bất cứ thứ gì trong đó đã đưa tôi đến đây. Tôi không bao giờ quên được cái hôn đó.
“Sarah,” tôi nói.
Tôi với tay ra vòng quanh người cô - che chắn cô, bao bọc lấy cô, che giấu cô khỏi tất cả mọi thứ và tất cả mọi người - nhưng cô chỉ đứng đó, giữ hai tay phía trước.
Bởi thế tôi thu tay phải về phía mình, luồn nó vào giữa cơ thể hai chúng tôi, giữa bụng chúng tôi, sờ soạng, kiếm tìm một điểm tiếp xúc.
Tôi đã sờ thấy nó. Nắm lấy nó. “Tạm biệt,” tôi thì thầm.
Cô nhìn tôi.
“Tạm biệt,” cô nói.
Khối kim loại còn hơi ấm của thân thể cô.
Tôi để cô đi, và quay lại, chầm chậm, đối diện Murdah.
Ông ta đang nhỏ nhẹ nói chuyện trên điện thoại di động, nhìn lại tôi và cười, đầu ông ta hơi nghiêng về một bên. Và khi thấy biểu hiện của tôi, ông ta biết rằng có gì đó không ổn. Ông ta liếc xuống tay tôi, và nụ cười vụt xa khỏi khuôn mặt ông ta giống như màu cam trên một chiếc xe đua tốc độ.
“Chúa ơi,” một giọng nói từ phía sau lưng tôi, và tôi cho rằng nó có nghĩa là ai đó hẳn cũng đã nhìn thấy khẩu súng. Tôi không chắc, bởi vì tôi đang trừng trừng nhìn vào mắt Murdah.
“Kết thúc rồi,” tôi nói.
Murdah nhìn lại tôi, cái di động đã rũ xuống khỏi miệng ông ta.
“Mọi việc đã kết thúc,” tôi nói lại.
“Ông... ông đang nói cái gì thế?” Ông ta nói.
Murdah đứng đó nhìn khẩu súng, và sự nhận biết về khẩu súng, về vẻ đẹp của cái hoạt cảnh nho nhỏ giữa chúng tôi, làm cho gợn sóng lan tỏa trên biển người áo chật.
“Câu ngạn ngữ là,” tôi nói, “áp chế cường quyền.”
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm