Chương 24
ặc một áo dài dạ hội màu hồng với bộ ngực căng phồng của một bà bầu, tay nắm lấy bộ pijamas Superman, Francesca Van Arsdale, đang mang thai sáu tháng đứa con thứ nhì, đuổi theo cậu con đầu (hai tuổi, William Brewster Van Arsdale IV mà hai vợ chồng gọi thân mật là Sonny, theo tên ông ngoại) qua một mê cung những cái hộp trong căn hộ của họ trên Đồi Capitol. Sonny đang trần truồng ngoại trừ cái mũ chơi football mạ vàng hiệu Notre Dame đội trên đầu do cậu Frankie tặng làm quà Giáng sinh. Nàng nghe tiếng chiếc xe Dual -Ghia của Billy và nhìn qua cửa sổ nhà bếp. Khi thấy người phụ nữ đi ra khỏi chiếc xe đắt giá một cách quá phô trương của Billy, Francesca đột ngột dừng lại.
Nàng buông rơi bộ pijamas. Không phải cô giữ trẻ. Mà là nàng ta. Người Đàn Bà Ấy.
Francesca tựa người vào bồn nhà bếp. Nhưng không. Không phải. Liếc mắt lần thứ nhì, cô giữ trẻ khoảng mười lăm tuổi và trông không giống người phụ nữ mà Billy đã “xạo sự” với nàng và gọi cô ta là thành viên khác trong đội ngũ tham mưu Floridians của Shea. - một mỹ nhân tóc vàng yểu điệu - là tất cả những gì mà Francesca không là.
“Sẵn sàng chưa, Francie?” Billy gọi nàng, vừa mở cửa.
Sonny, khoái chí, chạy nhanh đến và húc đầu mạnh vào ngay đũng quần bố. Trong khi Billy càu nhàu và ngồi thịch xuống ghế, Francesca nhặt bộ pijamas lên và cả Sonny nữa, và đưa ra cho cô gái - em của một người nào đó mà Billy quen hồi học Trường Luật của Đại học Harvard - một loạt những chỉ dẫn nghe đến phát mệt.
“Trông em tuyệt lắm,” Billy nói, tay giữ cho cửa xe mở. “Đúng là diễm lệ.”
Francesca hoàn toàn hiểu rõ sự kiện là mình trông giống một con bò cái vĩ đại màu hồng, chứ chẳng có mấy tí kiều mị của một giai nhân diễm lệ. Nàng xoay xở hơi khó khăn để cho người lọt vào chiếc xe cửa hơi hẹp đó với đôi chút dáng vẻ đường bệ trong mức độ có thể! Billy không có vẻ để ý chuyện đó. Khi nàng vào trong rồi, chàng nghiêng người qua hôn nàng, lúc đầu dịu dàng, về sau cuồng nhiệt. Hôn xong chàng còn trân trọng cám ơn vợ. Cám ơn nàng!
Trân trong cám ơn vợ sau khi hôn. Chuyện này tin nổi không? Phải diễn giải như thế nào đây? Đã nhiều tuần chuyện diễn ra như thế. Chính mẹ nàng đã bảo nàng đừng để tâm chuyện đó. Những tên đàn ông sắp sửa hoặc đang có mái tơ thường tỏ ra nịnh vợ, thói thường vẫn thế. Phần để xoa dịu lương tâm của... kẻ bắt cá hai ba tay, phần để các bà vợ thích chí mà dễ dãi bỏ lơ chuyện đi sớm về khuya của các chàng. Bạn biết tại sao các cuộc thăm dò cho kết quả là năm mươi phần trăm đàn ông lừa dối vợ. Bởi vì năm mươi phần trăm kia nói dối. Nhưng trong một lần nào đó, bà nói, người ta có thể làm bộ như ngạc nhiên khi biết về người đàn bà nào đó - điều mà, nếu bạn không làm quá thường xuyên, có thể làm bật ra đủ e ngại để làm cho chồng bạn đối xử với bạn như bạn đang tìm hiểu. Ngược lại, người
chị em song sinh của Francesca lại khuyên cô nên bò quách thằng chồng nếu nó phản bội. Kathy chưa bao giờ thích Billy. Nàng ta đang theo học ở London đề lấy bằng Tiến sĩ Văn học châu Âu Lục địa và có hàng dãy bạn trai. Nhưng cô nàng chưa làm mẹ. Là một người mẹ sẽ thay đổi nhiều chuyện hơn là bất kỳ người nào chưa làm mẹ có thể tưởng tượng. Francesca phải làm gì? Đưa ra tòa để li dị? Một mình nuôi con? Cho đến nay, mẹ nàng dường như vẫn kiên quyết. Nhưng Francesca không tin cậy lắm vào sự tận tâm mới được tìm thấy của Billy. Mặc dầu cách đối xử dịu dàng pha chút sám hối song chàng chỉ làm tình với vợ có vài ba lần kể từ lúc cái bụng bầu của nàng lộ ra lúp lúp. Trước đây khi nàng mang bầu lần đầu, Billy thường hay bị kích thích bởi cái bụng u lên múp múp của vợ và cứ đòi tòm tem hoài! Còn nay chàng chỉ thấy đó là... củ khoai, ăn hoài thấy ngán ngược! Sự đời là thế, cái gì cứ tái diễn mãi cũng đâm nhàm. Cho nên cũ người lại mới ta, mà cũ ta lại mới người. Vậy, có lẽ ta nên... xoay vòng xổ số? Ấy chết! tớ không hề có ý khuyến khích chuyện hỗn giao đâu nhé! Mà chỉ là nêu lên một... nhận định khách quan thôi!
“Em nên đi xem văn phòng của anh, cưng à,” Billy nói. Ngay sau diễn từ nhậm chức, Daniel Brendan Shea - bào đệ của Tổng thống và là vị Tân Tổng Chưởng lí - đã tập họp đội ngũ tham mưu của mình và có cuộc hội nghị nội bộ. Chuyện này chẳng phải là điềm lành cho lắm đối với Billy khi làm việc ít giờ hơn so với thời gian vận động tranh cử (mặc dầu có lẽ trong trường hợp này những giờ đó sẽ được dành độc quyền hơn cho công việc). “Phòng làm việc của anh tuy nhỏ thôi nhưng ở cùng tầng với văn phòng của Danny.”
“Anh gọi ông ấy là Danny?” Và gọi em là bé cưng?
“Thì ông ấy bảo anh gọi như thế mà.” Billy thực sự ưỡn ngực ra đầy vẻ tự hào. Đây không phải là một cử chỉ mà nàng thấy đáng yêu, mặc dầu có lẽ hình như nàng cũng từng có cử chỉ đó.
“Quan hệ trên cơ sở gọi tên thân mật với vị tổng chưởng lí,” nàng ngạc nhiên thích thú. Ông ta có gọi Vị Nữ Lưu ấy là bé cưng không? “Em tự hào về chồng mình đấy.”
Chuyện này thì, bất chấp mọi điều khác, quả có đúng vậy.
“Là một trong ba vị Tổng chưởng lí trẻ tuổi nhất trong lịch sử nước Mỹ,” Billy nói. “Trước khi được bổ nhiệm, đừng ngạc nhiên là ông ta cũng được coi như người xuất sắc nhất. Ông ấy có được sự phối hợp khó tin nổi giữa trí thông minh và - điều này nghe ra không có vẻ là một lời ca tụng, nhưng thật ra là thế - sự nhẫn tâm.
“Em nghe chừng có vẻ như,” nàng nói,” ông ấy đúng là người thích hợp nhất cho nhiệm chức đó.”
Trên đường đến với buổi khiêu vũ, họ có những cuộc dừng chân ngắn tại những cuộc parties ở nhiều sứ quán và khách sạn. Như thể là nhờ ma thuật, Billy biết rành nên đến chỗ nào, nơi nào là bãi đậu xe cho nhân viên, tên của các chủ nhân buổi parties và làm cách nào để gặp họ. Khi Francesca đi vào trong, nàng phải đi tè - lúc nào nàng cũng phải tè; làm như có một chiếc xe tải đè trên bàng quang nàng
- và nàng luôn đoán sai con đường lên toa -lét. Không thể cầm lòng nhưng nàng luôn bị lóa mắt tại những nơi chốn lộng lẫy xa hoa này - nhất là Tòa Đại sứ Pháp; điều này đem lại cho nàng cơn rùng
mình thích thú và tinh quái lúc nghĩ rằng Kathy sẽ ganh tị biết bao khi được nghe về trải nghiệm của nàng. Và mọi hướng mà nàng quay về, nàng đều thấy một khuôn mặt nổi tiếng hoặc gặp một nhân vật quyền thế. Nhưng đồng thời nàng cũng cảm thấy khốn khổ. Những người lạ vẫn đụng chạm vào người nàng, họ tự cho rằng họ có thể sờ vào bụng nàng, và Billy chẳng một lần nào bảo họ phải giữ riêng cho họ những bàn tay bẩn đó. Lưng nàng nhức mỏi khó chịu. Và nàng cảm thấy bất tương thích và lạc lõng, như nàng từng cảm thấy trong phần lớn cuộc hôn nhân của mình. Để qua một bên chuyện bầu bì - mà thực ra nó chẳng bao giờ chịu né sang một bên; thằng bé này chắc sẽ là một chàng khổng lồ đây - thì cũng không ai trông giống nàng cả (Sứ quán Ý không nằm trong số những nơi dừng chân ngắn của họ). Những người đàn bà thường thuộc nhóm WASP (da trắng, gốc Anglo -Saxon, theo đạo Tin lành -nhóm đa số ở Mỹ), và đẹp quyến rũ với tóc búi cao và dàn trải đều tại mỗi nơi, và là những phu nhân của kinh đô Washington: các mệnh phụ sành điệu với những món nữ trang đắt tiền bằng kim cương, bảo ngọc, lịch lãm trong hành xử để vừa tò ra kín đáo không phô trương lại vừa hoạt bác, bặt thiệp.
Tuy vậy, tại mọi buổi party, ngoại trừ những lúc nàng đi đến “phòng thư giãn”, Billy luôn ở bên nàng. Thật đau lòng khi thấy chàng ngăn cản bản năng mình bỏ rơi nàng để xông xáo vào công việc nhưng cũng chưa đau lòng đến độ khiến Francesca có lúc nào toan tính bảo chồng mình hãy đi làm những gì anh cần làm.
Cuối cùng họ đi đến Đại sảnh Lập hiến và sắp sửa bước lên cầu thang thì nàng nghe một giọng cao, không quen thuộc lắm gọi tên thân mật ở nhà của nàng. Nàng quay người và không thể thấy giọng ấy đến từ đâu.
“Bee -Boy! Bee -Boy!”
Trái tim Francesca như bay bổng. Đó là Mary Corleone và chú Mike. Nàng đã không gặp lại họ kể từ ngày đám cưới nàng, hơn ba năm trước đây. Chú của nàng trông chừng như đã già đi thêm mười tuổi.
Nàng cúi người xuống để bế Mary lên và suy nghĩ phấn chấn hẳn lên. “Chị suýt không nhận ra bé đấy,” Francesca nói. “Bé lớn nhanh quá.”
“Chị cũng lớn nhanh quá,” Mary nói, tay xoa bụng Francesca. Em cứ việc xoa tùy thích, cô em đáng yêu. “Chị em mình mặc áo cùng màu nè. Có em bé trong này, đúng không? Em đã bảy tuổi, em lớn khôn rồi.”
Chú Mike hỏi chú có thể chạm vào em bé không.
“Tất nhiên rồi, thưa chú,” nàng nói. “Em đã khôn lớn, đúng rồi,” nàng bảo Mary. “Đúng, đây là em bé. Một em bé bự, chị nghĩ thế.”
Khi chú bé quậy đạp và Michael giật tay lại, thích thú, Francesca để ý đến cậu em họ Tony đứng đàng sau bố cậu. Cô cũng cúi người xuống để ôm cậu em. Cậu mỉm cười nhưng không nói lời nào. Một người đàn ông mặc áo khoác dài đứng sau họ, chắc là một vệ sĩ.
“Anh của em không nói chuyện nhiều,” Mary nói. “Nhưng anh không chậm phát triển trí tuệ đâu. Khi anh ấy hát, anh có thể dùng tiếng hát để thay mọi lời muốn nói đấy. Người ta ai cũng hát ở buổi lễ hội khiêu vũ, đúng không?”
“Em là đứa chậm phát triển đấy,” Tony nói, rành rọt từng tiếng.
“Cháu đã hy vọng là sẽ gặp chú và các em ở đây,” Francesca nói. “Chú đến khi nào vậy?” Michael nhìn vào đồng hồ. “Trước đây mười lăm phút.”
“Chú ở lại đây lâu không?” Francesca hỏi. “Chúng cháu chưa thực sự dọn nhà đến, nhưng cháu muốn mời chú đến xem qua chỗ ở của bọn cháu.”
Một cái nhìn qua lại giữa Billy và Michael, sau đó Billy quay sang phía khác. Thời điểm khác duy nhất mà họ từng thấy nhau là dịp đám cưới của Billy và Francesca; lúc đó Billy cũng đã xử sự có phần lúng túng. Nàng biết điều đó liên quan tới chuyện quá khứ của gia đình nàng có thể ảnh hưởng tới tương lai chính trị của chàng như thế nào. Mọi cuộc hôn nhân đều có những câu chuyện cấm kị, và chuyện này, quả thật là chuyện cấm kị duy nhất của họ. Như vậy là họ may mắn đấy.
“Buổi tối thì được,” Michael nói. “Nhưng không phải lần này. Lần tới. Có lẽ chú ở trung tâm thành phố. Công việc với đội ngũ chuyển tiếp xong rồi, rõ là thế, nhưng chú sẽ còn trờ lại đây vì công việc khá thường xuyên.”
Billy chìa tay ra cho chàng vệ sĩ. “Billy Van Arsdale.”
“Chúng ta từng gặp nhau,” Al Neri nói. Nhưng đó là tất cả những gì anh ta hở răng.
“Nào, chú Mike,” Francesca nói. “Chú chắc là chú không có thời gian cho một bữa điểm tâm nấu tại nhà sao?”
“Ờ, chị chắc không?” Mary nói. “Mẹ bảo điểm tâm là bữa ăn quan trọng nhất trong ngày.” “Bữa sáng em chỉ ăn phô -mai thôi,” Tony nói.
“Câu đó từ một bài hát,” Mary chế giễu. “Em ăn mọi thứ. Nào, Bố, chúng ta đến nhà chị ấy nhé?”
Marguerite Duvall lên sân khấu với mười phụ nữ chỉ mặc đồ lót màu đỏ và mười chàng trai dong dỏng cao mặc đồ chẽn bó sát người, diễn lại một tiết mục từ vở Cattle Call, hoàn tất với cảnh nhà thổ đang cháy rụi và đoạn kết nổi tiếng táo bạo nhưng có đẳng cấp của nàng. Rita thủ vai bà chủ chứa người Pháp, người bạn tốt nhất của viên quận trưởng cảnh sát. Đó chỉ là một vai phụ thôi nhưng tiết mục này đã giúp nàng được một đề cử giải Tony (chuyện đó cùng với lời đồn là nàng từng chung chăn gối với con người hiện nay là tổng thống).
Johnny Fontane đứng trong cánh gà, mặc một áo choàng không tay với một lớp vải lót xa -tanh màu đỏ sẫm và một chiếc tuxedo đuôi én có sọc được thiết kế đặc biệt cho sự kiện đêm nay bởi nhà thiết kế tài danh nhất của Milan. Chàng ta đang nhâm nhi một thức uống gì đó trông giống như rượu Bourbon nhưng thật ra là nước trà và mật ong trong một ly có đá.
“Cô nàng đáng yêu và đầy tài năng Duvall -Cho -Các -Anh -Tất -Cả,” Buzz Fratello nói, lắc đầu tỏ vẻ... ngưỡng mộ! Anh ta và Dotty sẽ diễn mục kế tiếp. “Tôi nghe nàng ta cũng từng đéo cái lão Mặt Đéo nữa đấy.”
Johnny đã giới thiệu nàng ta với cả Jimmy Shea lẫn Louie Russo. Nhưng Fontane đã kéo nàng ta vào chương trình lễ khiêu vũ nhậm chức nhân danh cá nhân anh ta thôi, chứ không có lời nào từ ai trong hai người này cả. Bảng phân công tài năng là công trình của anh ta. Ngài Đại sứ có đưa ra vài gợi ý, nhưng Johnny cứ phớt lờ. Có thể Rita không phải là ngôi sao lớn nhất ở đây, nhưng, nhân danh Chúa, nàng cũng từng được đề cử một giải Tony cơ mà. Với Fontane nàng là một vẻ duyên dáng đem lại may mắn. Anh đã gặp nàng khi Hal Mitchell kéo nàng về - hồi tưởng lúc nàng còn là một nữ vũ công múa minh họa người Pháp còn đang vất vả để mưu sinh và khẳng định mình - cho một cuộc chơi tay ba vào cái đêm trước khi mở màn chương trình Fontane Blue. Kể từ dạo ấy đến nay. Đời chàng chủ yếu... lấy ngày làm đêm. Những đêm cuối tuần tưng bừng, tơi bời hoa lá cành! Ngay cả khi mọi chuyện theo chiều đi xuống với Annie McGowan, một tuần ở Acapulco với Rita và một giải Quả Cầu Vàng cho bộ phim về chàng thám tử nghiện rượu, và mọi chuyện đều xuôi chèo mát mái, quơ tay hái ra tiền, búng tay tạo ra danh tiếng. Cho nên có cái đụng vào xui tận mạng mà có cái đụng vào lại hên quá xá, tiền tài vô như nước, hoạn lộ cứ thênh thang. Em Rita này tuy xuất thân có phần khiêm tốn nhưng hình như được cái vốn trời cho có dát vàng nạm ngọc đấy!
Nhà thổ (bằng giấy bìa) đang cháy thành những ngọn lửa. Công chúng khán thính giả dường như đang ngốn lấy nó.
“Nhìn ông ta kìa,” Fratello nói, ý chỉ vị Tổng thống: đứng ở giữa hàng trước, nắm tay vợ, cười rạng rỡ khi nhìn các nàng kiều nữ giang hồ chân dài múa điệu đá chân lên cao cho tốc váy ra để các anh, các bác, các cụ tha hồ trố mắt nhìn. “Tối nay tôi sẽ ngủ ngon giấc hơn rất nhiều khi biết rằng người lãnh đạo của thế giới tự do là một người biết thưởng thức chim đẹp và thơm,” anh ta long trọng phát biểu.
“Hãy thư giãn bàn tay đặt trên cái khuy,” Johnny nhất trí.
Buzz vừa liếc đểu vừa tạo ra những tiếng ồn không thể bắt chước của anh ta. “Chúng ta đang nói về cái khuy nào vậy??” Buzz hỏi làm cho Johnny hơi... mất tinh thần.
“Buzz này, cho phép tôi hỏi bạn đôi điều nhé,” Johnny nói. “Bạn là mộtpaesano. Bạn hát ở mọi điểm mà tôi hát. Bạn quen biết những người tôi quen biết. Vậy mà tại sao họ không hỏi bạn về chuyện có dính líu gì đến Mafia không, mà lại cứ hỏi tôi?”
“Bạn biết định nghĩa về người Ý bẩn thỉu là gì không? Là một quí ông lịch sự người Ý vừa mới rời khỏi phòng.”
“Tôi nói nghiêm chỉnh mà.”
“Tôi lại thích đùa,” Buzz nói. “Có ai từng nghe nói đến một tên găng-x-tơ thích đùa?” “Tôi có tin cho bạn đây. Bạn không buồn cười lắm đâu.”
“Tôi vẫn yêu mến bạn, tên con hoang người Ý ạ.”
Không nhiều người có thể nói đùa với Fontane theo cái giọng bỗ bã đó, nhưng nếu là từ Buzz thì lời đùa lại có... hương vị riêng!
“Này. Bạn sở hữu một phần của một casino, đúng không Johnny? Ai khác có thể sở hữu các casinos ngoài những kẻ khôn lanh cáo già?”
“Còn khối người khác nữa, bạn biết mà.”
“Tôi biết điều đó, nhưng người ta lại không nhìn sự việc theo cách đó,” Buzz nói. “Xem này, tôi cũng nghe chuyện đó. Những gì bạn nói với tay phóng viên kia ngày hôm qua là bạn nói đúng đấy.”
“Tôi chưa từng đọc chuyện đó về bạn.”
“Bạn đã bán được nhiều đĩa hơn kể từ lúc chúng ta nói chuyện này hơn là tôi sẽ bán được trong cả năm. Bạn chỉ cần cong ngón út lại và em mái nào cũng sẵn sàng theo bạn về nhà. Và bạn còn là ngôi sao màn bạc. Nếu chuyện đó còn chưa đủ, bạn còn giúp cho chiến hữu săn chim của bạn đây đắc cử tổng thống và ông ta mang nợ bạn. Khi bạn lên đỉnh cao danh vọng và quyền lực, anh bạn dago thân mến, thì những kẻ tiểu dân ngồi nhà mơ đến chuyện lật đổ bạn. Quên chuyện đó đi. Bạn sẽ sống lâu hơn họ.”
Jimmy là con người của khải tượng, kẻ có tầm nhìn xa, có khả năng gợi cảm hứng cho cả một dân tộc và nhờ vậy đã giành được đa số phiếu bầu chứ không phải ai khác đã làm cho ông đắc cử. Johnny đã làm việc năng nổ để giúp ông nhưng biết bao người khác cũng đã làm thế. Tuy vậy anh chàng vẫn tự hào là Jimmy đã thắng cử, và anh mang nhiều cao vọng cho cái điều trông như là một trong những người bạn thân thiết nhất của Ngài Tổng thống Hiệp chủng quốc Hoa kỳ! Chàng ta đã cho xây dựng lại cơ ngơi ở Las Vegas, cơi nới căn nhà chính và xây những bungalows cho khách khứa và Sở Mật vụ. Hiện nay còn có thêm một hồ bơi thứ nhì và một bãi đáp trực thăng. Jimmy đã nói nơi đây sẽ là Nhà Trắng miền Tây của ông.
Bây giờ đến màn cuối tráng lệ. Sân khấu đầy khói màu và Rita xé toạc áo dài. Bên trong nàng mặc một bộ đồ mỏng dính sát người. Những người khách đạo mạo ở các hàng ghế bên dưới có thể thề rằng họ đã thấy chim nàng, nhưng từ chỗ Johnny Fontane đứng thì ta có thể thấy rõ rằng đó chỉ là... một khái niệm khá ngây ngô hay một ảo ảnh phát sinh từ tự kỉ ám thị mà thôi!
Chỉ có một lần Billy Van Arsdale thực sự hỏi Francesca Corleone là gia đình nàng có tham gia hội kín Mafia hay không. Đó là ngày trước hôm anh dự lễ tốt nghiệp Đại học bang Florida. Bố mẹ chàng đã dẫn hai đứa đi ăn tối ở Câu lạc bộ Thống đốc, và rơi vào một cuộc tranh cãi ồn ào vì có chút hơi men, sau đó rời đi riêng rẽ nhau. “Em yêu gia đình anh,” nàng đã nói, hy vọng làm nhẹ đi tâm cảnh của cả hai, nhưng lại lạc đường.
“Ít nhất,” chàng nói,” họ không ở trong Mafia.” “Có phải đấy là một lời nói đùa?” nàng nói.
“Anh không biết.” Chàng tươi tỉnh lên, như thể chàng đã chờ đợi để đặt câu hỏi đó từ thời họ mới gặp nhau và cuối cùng chàng đã mở màn. “Có phải gia đình em ở trong Mafia?”
“Anh nghĩ như thế, phải không nào? Rằng mọi người Ý đều ở trong Mafia? Rằng chúng tôi ăn bánh pizza, chúng tôi ép cà tô -mát, và chúng tôi là -”
“Không phải mọi người Ý,” chàng nói. “Anh chỉ hỏi về những người đàn ông trong gia đình em.”
“Tất nhiên là không.” Nàng ném chiếc khăn ăn xuống bàn. Nàng đứng lên, đấm vào mõm anh và cuồng nộ quát tháo.
Nàng biết rằng gia đình mình ở trong Mafia - Kathy đã thuyết phục nàng tin điều đó - nhưng Francesca không có ý nói dối. Điều nàng nghe ra là nỗi ưu tư xao xuyến lởn vởn đàng sau câu hỏi của chàng: sợ rằng Billy đến với nàng chỉ vì nàng có vẻ ngoại lai, mang hương vị đường xa xứ lạ. Chàng luôn tìm kiếm cái gì mới lạ và khác biệt: phim ảnh nước ngoài, những đĩa hát mới nhất, thơ beatnik trong một quán cà-phê ở Frenchtown, láng giềng Da đen ở Tallahassee. Có lần, họ đã lái xe trong sáu giờ liền để đến Khu bảo tồn Seminole để chàng có thể học cách vật nhau với cá sấu alligator. Dường như cứ mỗi vài tuần chàng lại bắt đầu một trò mới. Mỗi lần cắt tóc đều phải hơi khác với kiểu tóc trước đó một tí.
Em không thấy là Billy tới đây, Kathy từng nói, nhằm trải nghiệm một Lễ Giáng sinh đúng phong cách Mafia?
Francesca bắt đầu trải qua một đêm bức bối, nhưng quyết tâm không khóc. Rồi cũng qua. Ổn. Tốt thôi. Chàng là tình yêu đầu đời của nàng, nhưng rồi sao nào? Có thể chàng sẽ không là mối tình cuối cùng. Chàng ra đi mùa thu, đến Trường Luật ở Harvard và nàng sẽ trở lại nơi này, để thấy mây che khuất những ngày bên nhau. Vả chăng chàng là một kẻ ưa làm dáng, một kẻ hay điệu bộ, một con người giả tạo đa đoan nên ta dại gì đặt trọn niềm tin. Đập cho chàng ta một trận hẳn là đã tay, hả dạ lắm đây. Gây ra một trận ồn ào, bốp xốp nghe chừng có vẻ ấn tượng mạnh hơn là những gì mà người ta thường chờ đợi ở một cô gái. Bàn tay nàng vẫn còn tê tê nóng ran. Nàng phải cám ơn cậu em Frankie vì đã phải chịu đau nơi mông đít trong bao năm ròng để giúp cho bà chị có cơ hội mài dũa kỹ năng đánh đấm!
Cùng cái kỹ năng huyền bí mà Billy khai triển để vào ra tất cả những buổi parties như cơn gió thoảng, cũng được phô bày đêm ấy ở Tallahassee. Nàng không có nơi nào để đến. Nàng chạy xuống một ngọn
đồi và đi vào một khu nhà ở không hề quen biết với nàng, và đúng vào lúc nàng nhận ra rằng có lẽ nàng đã đi lạc thì nàng nghe tiếng xe chạy chầm chậm đến bên nàng và đó là Billy trong chiếc Thunderbird. Chàng biết chính xác nên đi đến chỗ nào.
“Ối dào! Cú đấm ghê quá!” Chàng ta cười lớn, phô hàm răng trắng bóng, chắc khỏe. Nàng là một cô gái có thể đấm cho bạn sái quai hàm, đàng khác nàng còn mang hương vị xa lạ và mới mẻ. “Anh yêu em, con thú hoang dại ạ.”
“Làm thế nào mà gia đình anh giàu có đến thế?” nàng hỏi. “Sau mỗi gia tài lớn đều có một tội ác.” Nàng đã đọc câu đó trong một quyển sách của một trong những nhà văn Pháp mà Kathy đang nghiên cứu. Có lẽ là Balzac.
“Nhiều lắm chứ không phải có một mà thôi, anh chắc thế,” chàng đế thêm. Những tay gian xảo quỉ quyệt đó dám làm bất kỳ chuyện gì.”
Những tay gian xảo quỉ quyệt là bố chàng và ông nội chàng. Quả là có hơi kỳ cục khi nghe bất kỳ ai đó nói về gia đình mình theo kiểu đó.
Nàng ngồi vào trong xe.
Đêm đó họ quần nhau, nhưng tấn kịch buổi chiều hôm đó đã định âm giai cho cuộc ve vãn tán tỉnh của họ.
Bản tình ca ở cự li xa giữa họ có tính kịch trữ tình sướt mướt (melodrama) mà những chuyện như vậy tạo ra giữa những người trẻ, được làm đầy với những bức thư dài cả mười trang giấy, những nghi ngờ len lén vào hồn ray rức tâm tư và những cuộc gọi đầy nước mắt - ít nhất là như thế về phần Francesca. Billy than phiền là chàng quá bận ở Harvard nên có ít thời gian để ăn ngủ và càng ít thời gian hơn để viết thư cho nàng hay nói chuyện qua điện thoại đường dài. Rồi chàng gửi cho nàng một bưu thiếp, thay cho mọi thứ, để báo cho nàng biết chàng đã được nhận vào thực tập nôi trú với một hãng ở New York và sẽ không về nhà ở Nam Florida vào mùa hè năm ấy. Nàng mượn chiếc Volkwagen của cô bạn cùng phòng Suzy và lái suốt đêm đến Cambridge để đích thân giải quyết dứt điểm toàn bộ vụ việc lùm xùm này. Chuyện tự nhiên là nàng và Billy ngủ với nhau. Nàng trở về nhà càng phân vân hơn bao giờ hết và, hóa ra là, lại... dính bầu! Thế mới là đã rối lại càng thêm rối!
Chàng muốn nàng đi phá thai.
Sau đó chàng còn lo liệu thu xếp cho một bác sĩ ở Palm Beach thực hiện chuyện đó.
Francesca không chịu nổi ý tưởng về chuyện đó. Nhưng chắc chắn nàng cũng không muốn suốt ngày ôm con, trong tình huống này. Kết hôn với Billy - dầu chàng chưa đưa ra lời thỉnh cầu hay ngay cả là nêu ra khả tính - là ngoài vấn đề. Nàng kể với Kathy - người đầu tiên và duy nhất mà nàng phó thác tâm sự
- là nàng sẽ không lấy con rắn đó cho dầu hắn ta có là người đàn ông cuối cùng trên mặt đất này. Mọi chuyện có thể xảy ra là điều mà Francesca Corleone dứt khoát sẽ không làm.
Billy bị gãy cẳng khi chơi trò nhảy dù (đoạn kết của một thú tiêu khiển mới khác), và trong khi nằm bệnh viện chàng ta đã đột nhiên đổi ý - một thay đổi không giải thích được, từ viễn tượng của Francesca, mặc dầu ai có thể giải thích sự thay đổi của con tim? Ngày chàng ta xuất viện, chàng vù đến thăm nàng và ngỏ lời cầu hôn.
Mừng quá đỗi mừng, nàng chấp nhận với xiết bao hoan hỉ!
Họ thành hôn vào tháng bảy khi chàng vẫn còn phải đi lại với cặp nạng. Nàng bối rối về biết bao chuyện - đặc quyền của một cô dâu đã có bầu, có lẽ thế, nhưng tất cả chỉ là sự thay thế cho hai chuyện mà nàng thực sự bối rối: chuyện nàng đi lên xuống lối đi. Đi xuống trông dễ gây xúc động với Billy trên đôi nạng. Nhưng đi lên sẽ gay go lắm đấy. Ai có thể thế chỗ bố nàng? Không thể là các cậu em được, và chắc chắn cũng không thể là Stan Người bán rượu (người vẫn còn đính ước với mẹ nàng nhưng vẫn chưa thành hôn). Chú Fredo lớn tuổi hơn chú Mike và nàng biết chú Fredo nhiều hơn. Tuy vậy nàng vẫn có khuynh hướng thiên về chú Mike hơn, trước nay vẫn thế. Chú là một anh hùng thời chiến, một khuôn mặt lãng mạn, một con người trông thật lịch lãm điệu đàng trong chiếc tuxedo. Nàng biết một số những bí mật đen tối của chú - ít ra là qua những kênh truyền dẫn không đầy đủ của Kathy và cô Connie - nhưng bất chấp chuyện đó, cuối cùng chú là người duy nhất nàng có thể tưởng tượng sẽ dẫn và trao nàng cho chú rể. “Đó là người mà có lẽ Bố muốn nhất,” nàng nói với Kathy, đang làm phù dâu, trông chờ người chị em sinh đôi sẽ bất đồng ý kiến. Thay vì thế, Kathy lại nói:”Hiển nhiên rồi,” Không ai nói hiển nhiên rồi với vẻ khinh miệt ngạo nghễ hơn Kathy. “Còn ai khác?”
Chú Mike làm thăng bằng thần kinh bồn chồn của Francesca với vẻ đường hoàng, vương giả. Chú bảo nàng rằng bố nàng có lẽ rất tự hào, rằng Santino có mặt ở đây, ngắm nhìn mọi sự, chắc chắn như thế. Nhưng chú đủ thông minh để nói điều này trước khi họ đi lên lối đi khá lâu, để họ có thể cùng khóc với nhau và làm cho những giọt nước mắt đó không rải ra trên lối đi. Khi cuối cùng chỉ có hai chú cháu nơi cung thánh, chú nắm cánh tay nàng và bảo nàng đừng lo ngại gì. Chú nhún vai. “Vấn đề là phần còn lại của đời cháu thôi.”
Nàng cười thành tiếng. Đó là điều hay nhất để nói ra.
Nàng bước xuống lối đi rạng rỡ hạnh phúc. Chỉ khi chú Michael trao tay nàng cho Billy nàng mới nhận thấy mặt chú ràn rụa nước mắt (vì vui mừng cho cô cháu được làm dâu gia đình giàu sang quyền quí mà lại được danh thơm tiếng tốt chứ không có vướng mắc như gia đình mình).
Trên đường xuống lại lối đi, nàng đỡ cho Billy và chàng ta xoay xở để chỉ tựa vào nàng để đi mà không phải dùng đến cặp nạng. Tại buổi tiếp tân, chàng còn khiêu vũ nữa. Dĩ nhiên là chàng nhảy hơi tồi nhưng chàng có lí do khoan miễn.
Hai vợ chồng dời về Boston. Khi chàng tốt nghiệp trường luật, chàng từ chối một công việc có thể làm ra cả gia tài tại thị trường chứng khoán Phố Wall (bởi chàng đã sẵn có gia tài rồi) để làm thư kí cho một thẩm phán tại Tối cao Pháp viện Florida. Còn Francesca có muốn trở lại Tallahassee cũng hơi dở dang vì lớp của nàng đã thi tốt nghiệp (nàng đi dự buổi party mừng tốt nghiệp của Suzy Kimball và
khó nhận ra người phụ nữ trẻ đĩnh đạc, điềm đạm đã nguyện hiến đời mình cho sứ mệnh truyền giáo ở Trung quốc). Giờ đây Francesca đã có một gia đình và thực sự nghĩ mình đang hạnh phúc - ít ra là cho đến khi Billy bỏ công việc ở Pháp viện để tham gia vào Hội Những Người Florida Ủng hộ Shea. Chàng đi liên miên ít khi ở nhà. Cuối cùng Francesca phát hiện rằng chàng còn làm nhiều chuyện khác hơn là vận động tranh cử.
Bằng cách nào nàng phát hiện Người Đàn Bà Ấy?
Francesca là con nhà Corleone. Đã thành một ngạn ngữ, được lặp lại nhiều lần trong gia đình nàng, rằng với thời gian, chuyện lừa dối một thành viên nhà Corleone là điều bất khả! Đó là trên lí thuyết. Vả chăng nàng cũng từng được các bà cô bà dì truyền cho cái nhận định tuy thường nghiệm nhưng đã đạt đến tầm chân lí phổ quát, đó là thằng đàn ông nào mà chẳng khoái ăn vụng. Nhưng có ba dạng: ăn vụng bị lộ hàng, bị vợ làm cho xấu mặt; ăn vụng khéo chùi mép nên vẫn tạm thời yên ổn, và, muốn ăn vụng nhưng lại không ăn vụng được! (vì chưa có điều kiện, chưa có cơ hội thuận tiện hay thiếu tài năng!) Nói chung là anh nào thấy của lạ cũng mắt la mày lét cả, chỉ khác nhau ở chỗ anh thì trơ tráo, anh thì kín đáo, vậy thôi! Nàng cũng là địch thủ nguy hiểm nhất của thói tán gái: một phụ nữ mà nỗi sợ hãi u ẩn nhất là sợ rằng chồng mình không nghĩ rằng mình xứng tầm với chàng.
Ernest Hemingway không phải là Papa với bộ râu bạc trắng. Không phải là tiếng nói của một thế hệ lạc lõng (a lost generation). Cũng không phải là người nộm cần bãi nhiệm như là kẻ phân biệt giới tính bởi những kẻ lừa đảo thô thiển mà gom tất cả những cuộc đời của họ lại cũng chẳng mang lại gì cho thế gian đáng giá bằng những buổi chiều tàn vô vị của Hemingway. Ông đã có những tác phẩm vĩ đại ngay từ buổi đầu cầm bút. Những chuyện khác không có gì đáng kể.
Einstein không phải là chàng trai trên bức tranh cổ động để biểu thị cho thiên tài. Picasso không phải là tay săn gái đầu hói da ngăm. Mozart không phải là đứa bé đảo thiên nghịch địa (enfant terrible) Virginia Woolf và Sylvia Plath không phải là những lăng mạ bi đát (tragic affronts) đối với thói bá quyền áp bức của giống đực. Mahatma Gandhi và Martin Luther King không phải là những anh chàng da nâu nhỏ nhắn dễ thương vô hại mà người da trắng có thể cảm thấy tiện lợi khi tán đồng những tư tưởng hiếu hòa bất bạo động của họ. Đúng vậy, Mafia đã qui định cuộc đấu Sonny Liston vốn cho phép Muhammad Ali trở thành nhà vô địch hạng năng thế giới, và đúng vậy, Ali bênh vực cho điều mà anh ta tin là chính nghĩa. Nhưng trước hết và trên hết, anh ta là người có thể đấm ngã kẻ hung bạo bố láo nhất một cách... đẹp như bài thơ!
Johnny Fontane là một diễn viên tài ba khi anh ta thích làm điều đó. Anh ta được trời ban cho “dị bảo” lớn đến độ làm cho nhiều anh đàn ông phải ghen tị và làm cho nhiều chị phải khóc thét lên vì anh ơi, anh ơi, anh làm em chết mất! (vì vượt quá ngưỡng của... sự sướng!). Và anh ta đã sử dụng nó một cách vung vít bất chấp mọi đạo lí và cấm kị! Nhưng anh ta cũng giúp biến đổi Las Vegas từ một chỗ dừng chân tạm thời giữa sa mạc thành đô thị phát triển nhanh nhất của Hoa Kỳ. Chàng ta là đứa con của những người di cư, là hiện thân của giấc mơ Mỹ (the embodiment of the American dream).
Trông chàng ta thật điệu đàng với chiếc mũ trên đầu. Chàng đã phát minh ra vẻ bình thản kiểu Mỹ (American cool).
Quốc gia đại sự đấy, chẳng phải chuyện đùa.
Điều khác biệt nào khiến Fontane đem lại cho quỹ vận động tranh cử của Shea nửa triệu đô-la trong một túi xách vốn là một quà tặng cá nhân từ Jackie Ping-Pong. Ping-Pong không liên quan gì đến chính tiền bạc. Johnny phải mang số tiền đó trong một cái gì đó. (Và, dầu sao, anh ta sống trong một thế giới nơi người ta tặng quà cho nhau lu bù.) Fontane huy động được hàng triệu đô cho chiến dịch đó, vậy nên có vấn đề gì đâu nếu nửa triệu đô-la đó là một phần của việc ‘hớt váng kem” từ Kasbah, một casino do đám Chicago sở hữu ở Las Vegas. Vấn đề là sử dụng tiền đóng góp sao cho hiệu quả để bảo đảm cho Jimmy Shea thắng cử. Còn tiền đến từ nguồn nào thì có gì khác biệt?
Fontane đã giới thiệu Rita Duvall cho cả Louie Russo và Jimmy Shea (chưa kể Fredo Corleone, mà đứa con nàng đã đem cho người khác làm con nuôi vào năm 1956, ngay trước khi sự nghiệp của nàng cất cánh). Những gì xảy ra sau lời giới thiệu chỉ liên quan với nàng, chứ không còn dính dáng đến Johnny Fontane nữa.
Có lần một tay phó quận cảnh sát đã hỏi cung Johnny Fontane sau khi Fontane phết vợ của một anh chàng chết bí ẩn trong sa mạc. Vậy rồi sao? Fontane ta đây từng đéo bậy bao nhiêu vợ của người khác. Thiên hạ chết bí ẩn trong sa mạc hàng ngày. Chẳng bao giờ có tí chút bằng chứng nào về mối liên hệ nhân quả giữa hai sự thật khủng khiếp nhưng cũng rất ư xoàng xĩnh này.
Chắc rồi, Fontane là nghĩa tử của Vito Corleone. Chàng ta cũng ăn cánh với Michael. Chàng ta hữu hảo với Russo, với Tony Stracci, với Gussie Cicero và nhiều tay cộm cán khác nữa. Nhưng nhiều người khác cũng thế (Ngài Đai sứ Corbet Shea chẳng hạn). Anh ta không phải là một thành viêncủa bất kỳ gia đình tội ác nào. Johnny Fontane chỉ trung thành với những người từng thân thiết với mình khi đời chàng chưa là gì cả mà chỉ là những sớm tối kéo cày trả nợ áo cơm.
Butta -beepa -da -boppa -da -boop.
Xét cho cùng, Johnny Fontane là một ca sĩ mà thế giới sẽ không có giọng ca thứ hai như chàng.
Chàng tự gọi mình là một ca sĩ thính phòng, nhưng trước tiên đó là lối khiêm hạ kiểu Sicily, nghĩa là khiêm tốn giả vờ đấy thôi! Vậy là - sau những kiệt tác về bài ca Mỹ mà chàng tung ra vào cuối thập niên năm mươi và đầu thập niên sáu mươi của thế kỉ trước - một lời đùa không thật thà mà cả và thiên hạ đều mắc mớp.
Hãy lấy, chỉ như một trong nhiều thí dụ, buổi trình diễn của anh ta tại lễ khiêu vũ nhậm chức của James
K. Shea.
Chiếc tuxedo sọc trứ danh kia trông sẽ có vẻ hề trên bất kỳ người nào, nhưng trên người Fontane trông lại hoàn toàn tự nhiên, một trong những thời điểm đáng ghi nhớ trong phong cách thời trang thế kỉ hai mươi. Mọi buổi tối, chàng là một người dẫn chương trình duyên dáng và vui nhộn khó có ai vượt qua. Chàng còn là một bạn đồng diễn song ca xuất sắc - đáng kể nhất là với Ella Fitzgerald trong một phiên
bản a cappella (theo cách nhà thờ, đồng ca không có đệm) của bài “The Battle Hymn of the Republic” (Bài ca Chiến trận của nền Cộng hòa).
Bộ ca khúc của chính Fontane chỉ gồm đúng ba bài. Dường như không phải là cơ hội để phô bày tất cả điểm mạnh của chàng. Những phần ghi âm tuyệt vời nhất của anh gồm hoặc là những ca khúc bên ngọn đuốc được hát từ một viễn tượng đàn ông đặc thù (torch songs sung from a singularly male perspective) hoặc là những trình diễn theo phong cách thánh ca một số tiết mục về những kẻ thua cuộc thảm hại nhưng vẫn kham nhẫn để tồn tại (anthemic renditions of numbers about battered losers who endure) mà không có phần hòa âm nào diễn đúng nốt nhạc trong dịp đó.
Lúc đầu chúng ta thấy anh một mình, trong một hồ ánh sáng. Chiếc mũ được đặt trên một ghế đẩu bên cạnh anh. Âm nhạc khởi xướng, chỉ với một piano và dàn trống. Những đường chải chuốt lả lướt. Đấy là một bản chuyển soạn khoan thai, tỉa tót từ ca khúc “It Had to Be You”. Fontane giữ chiếc microphone xa khỏi mình, tạt ra thành một góc xéo và hát với đầu ngước lên trần. Xuyên suốt bài ca Fontane chuyển động micro để chuyển tông, trình diễn điệu nghệ như Charlie Parker biểu diễn kèn co. Những âm thanh tuyệt diệu dào dạt dâng tràn nhưng Johnny Fontane còn là một cái gì quí hiếm hơn: một ca sĩ ngoại hạng.
Đám đông bùng vỡ thành tràng pháo tay vang rền. Fontane tóm lấy chiếc mũ có chóp nhọn và ca bài Ridin High, đi hùng dũng qua sân khấu với vẻ dữ dội của con mãnh thú mà Cole Porter chưa hề tưởng tượng. Khi Fontane kết thúc, mệt đứt hơi, đám đông nhảy cẫng lên trên đôi chân. Nụ cười hân hoan của Fontane rõ là nụ cười của một đứa bé lớn lên không có gì và nhìn ra để thấy nó đã có được hơn là tất cả.
Trong khi có lẽ chỉ còn ít thôi để cứu vãn phiên bản sớm nhất của “Big Dreams” (Những giấc mộng lớn) mà cuộc vận động tranh cử của Shea cùng chọn như là bài ca chủ đề chính thức của họ (với ca từ mới được viết bởi Wally Morgan), Johnny Fontane, tràn ngập với khúc khải hoàn của thời khắc ấy, đã thực hiện một cú thử dũng cảm. Chắc chắn là anh thành thật. Sau câu mở đầu, bức màn đàng sau anh cuốn lên và những bạn diễn sải bước ra, xếp hàng thành dàn đồng ca. Khi ống kính camera hướng về phía công chúng khán thính giả, đèn trong phòng bật lên cho thấy mọi người đều đứng lên và cùng hát. Tổng thống hôn Đệ nhất Phu nhân. Fontane ném cho họ chiếc mũ nhọn đầu. Tổng thống bắt lấy và đội lên đầu mình. Vừa khít.
Bố Già Trở Lại! Bố Già Trở Lại! - Mark Winegardner Bố Già Trở Lại!