Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 24
C
ha tôi đã có những lý do giải thích khá khôi hài về việccha hiện diện trong phòng đọc tuyển tập ma cà rồng của trường Oxford, thayvì ở chỗ hội nghị. Hội nghị đã bị hủy vào phút chót, cha nói trong lúc bắt tayStephen Barley với thái độ niềm nở như thường lệ. Theo thói quen cũ cha đã langthang đến đây - nói đến đó cha dừng lại, gần như cắn môi, sau đó nói tiếp. Chađi tìm một nơi chốn yên tịnh, (đây là điều tôi có thể tin dễ dàng). Có thể nhậnthấy rõ vẻ biết ơn của cha trước sự hiện diện của Stephen, vóc dáng cao lớn,mạnh khỏe cũng như vẻ tráng kiện trong chiếc áo len dài tay của anh. Giả sử,nếu chỉ có một mình tôi bất ngờ bắt gặp cha ở đó, thì cha sẽ phải nói với tôichuyện gì nhỉ? Ông phải giải thích với tôi thế nào về cuốn sách khổ đôi đangcầm trong tay, thậm chí là tình cờ đóng nó lại bằng cách nào chứ? Cha đã đóngsách lại, nhưng quá trễ; tôi đã đọc được tên của chương sách, nổi bật trêntrang giấy dày màu trắng ngà: Vampires de Provence et des Pyrénées 1.
Đêm hôm đó tôi trằn trọc không yên giấc trên chiếc giường cómàn che sặc sỡ, trong nhà của thầy quản lý, cứ vài giờ lại giật mình thức giấcvì các giấc mơ kỳ lạ. Một lần tôi đã có cảm giác yên tâm khi nhìn thấy có ánhsáng phía dưới cửa phòng tắm nằm giữa phòng cha và phòng tôi. Mặc dù vậy, đôilúc cái cảm giác về việc cha vẫn đang thao thức, về sự tĩnh lặng trong cănphòng cạnh bên lại đột ngột lôi tôi ra khỏi giấc ngủ. Gần sáng, khi màn sươngnhàn nhạt bắt đầu ló dạng sau tấm rèm vải màn, tôi thức dậy hẳn.
Lần này chính sự im lặng đã đánh thức tôi dậy. Mọi vật đềuquá tĩnh lặng: đường nét lờ mờ của cây cối trong sân vườn (tôi dòm quanh méprèm), chiếc tủ đồ sộ cạnh bên giường ngủ, và trên tất cả - phòng cha ở cạnhbên. Không phải vì tôi cho rằng cha vẫn còn thức vào giờ này; có thể cha vẫncòn ngủ nữa là khác - có thể đang ngáy chút đỉnh nếu cha nằm ngửa - đang cốgắng quên đi những lo âu của ngày hôm qua, trì hoãn lại chương trình làm việcmệt mỏi, với các buổi diễn thuyết và hội thảo và tranh luận đang chực chờ cha ởphía trước. Trong những chuyến du hành của chúng tôi, cha thường vui vẻ gõ gõlên cửa phòng sau khi tôi đã hoàn toàn tỉnh ngủ, một tín hiệu thúc giục tôi maura để cùng đi bộ tập thể dục với ông trước khi dùng điểm tâm.
Không biết vì sao cái im lặng của buổi sáng hôm đó lại đènặng lên tôi, tôi bước xuống giường, mặc quần áo và choàng khăn lên vai. Tôi sẽvào tắm bồn và lắng nghe tiếng cha ngủ trong lúc ngồi trong đó. Tôi gõ nhẹ cửaphòng tắm để chắc chắn không có cha bên trong. Sự im lặng càng nặng nề hơn khitôi vào đứng trước tấm gương trong phòng tắm, lau mặt. Tôi áp tai vào cửa phòngcha. Chắc chắn cha đang ngủ say. Tôi biết đánh thức cha lúc này là một hànhđộng vô tâm, vì hẳn phải khó khăn lắm cha mới dỗ được giấc ngủ, nhưng cảm giáckinh hoàng bắt đầu trườn lên chân tay tôi. Tôi gõ nhẹ lên cánh cửa. Không cótiếng động nào trong phòng. Nhiều năm qua cha con chúng tôi vẫn luôn tuyệt đốitôn trọng riêng tư của nhau, nhưng bây giờ, trong ánh ban mai trắng đục hắt vàotừ cửa sổ phòng tắm, tôi vặn nắm cửa.
Trong phòng cha, những tấm rèm dày vẫn còn khép kín, vì vậyphải mất vài giây tôi mới nhận ra được đường nét mờ mờ của đồ đạc và các bứctranh trang trí trong phòng. Sự tĩnh lặng của không gian khiến phần da dọc saugáy tôi sởn lên rờn rợn. Bước sát đến giường ngủ, tôi lên tiếng gọi cha. Nhưngđến gần, chiếc giường vẫn gọn gàng phẳng phiu, nổi lên tối sẫm trong căn phòngtối. Căn phòng trống không. Tôi buông ra hơi thở nãy giờ vẫn cố kìm nén. Cha đãra ngoài, đi bộ tập thể dục một mình, có lẽ thế, để được yên tĩnh suy nghĩ.Nhưng một cái gì đó xui tôi bật ngọn đèn bên giường ngủ, đưa mắt nhìn quanh cẩnthận hơn. Trong vòng sáng tròn có một lá thư đề gửi cho tôi, và trên đó là haimón đồ khiến tôi phải ngạc nhiên: cây thánh giá bạc nhỏ gắn vào một sợi dâychuyền trông chắc chắn và một củ tỏi tươi. Sự hiện diện rành rành của những mónđồ đó khiến dạ dày tôi quặn lên, thậm chí trước khi đọc lá thư của cha.
Con gái thân yêu của cha,
Cha vô cùng xin lỗi vì đã làm con bất ngờ thế này, nhưng chacó công việc gấp rút phải lên đường ngay, và không muốn làm xáo trộn giấc ngủcủa con. Cha chỉ đi vài ngày, cha hy vọng như vậy. Cha đã thu xếp với thầyJames để anh bạn của chúng ta, Stephen Barley, đưa con về nhà. Anh ấy được chonghỉ học hai ngày và sẽ đưa con về Amsterdam tối nay. Cha đã bảo bà Clay ra đóncon, nhưng chị bà ấy đang ốm nên bà đã về Liverpool. Bà sẽ cố gắng gặp con ởnhà tối nay. Trong bất kỳ trường hợp nào, con cũng sẽ được chăm sóc chu đáo vàcha tin con sẽ biết tự chăm sóc mình một cách hợp lý. Đừng lo âu về việc chavắng mặt. Đây là một chuyện bí mật, nhưng cha sẽ cố trở về sớm nhất có thể, sauđó sẽ kể lại cho con nghe. Trong khi chờ đợi, từ đáy lòng mình, cha muốn conlúc nào cũng phải đeo thánh giá và bỏ tỏi trong túi. Con biết cha không phải làngười buộc con phải tin theo một tôn giáo hay chuyện mê tín nào đó, và cha cũngkhông tin vào những chuyện đó. Nhưng chúng ta phải đối phó với cái ác theo cáchcủa nó, hết sức có thể, và con đã biết những cách này là gì rồi đấy. Riêng vềđiểm này, cha hết lòng xin con đừng coi thường ý nguyện của cha.
Cuối thư là một chữ ký ấm áp tràn đầy tình cảm thương yêu,nhưng tôi có thể nhận thấy nó đã được ký một cách vội vã. Tim tôi đập thìnhthịch. Tôi vội đeo dây chuyền vào cổ và tách củ tỏi để bỏ chúng vào các túi áo.Khi nhìn quanh, tôi thấy thật đúng là cha: vẫn sắp xếp giường gối gọn gàng ngaytrong lúc vội vã yên lặng rời khỏi trường đại học như vậy. Nhưng tại sao chalại vội vã như vậy? Dù mục đích chuyến đi của cha là gì, nó cũng không thể làmột nhiệm vụ ngoại giao thuần túy, nếu không cha đã không dặn dò tôi nhiều nhưvậy. Nghề nghiệp của cha khiến cha vẫn hay phải đi khi có công chuyện khẩn; tôitừng chứng kiến cha phải đi giải quyết một cuộc khủng hoảng ở phía bên kia củaÂu châu mà chẳng dặn dò gì nhiều, nhưng lúc nào cha cũng cho biết ông đi đâu.Lần này, con tim đang đập dồn dập của tôi cho biết cha không đi công tác. Hơnnữa, ông đã được sắp xếp ở lại đây, ở Oxford suốt tuần lễ này, để diễn thuyếtvà tham gia hội nghị. Cha đâu phải là người dễ bỏ ngang công việc.
Không. Việc cha biến mất chắc chắn có mối liên quan nào đóvới những dấu hiệu căng thẳng gần đây của cha - bây giờ tôi nhận ra ngay từ đầutôi đã lo sợ chuyện gì đó như thế này sẽ xảy ra. Và cả cảnh tượng ngày hôm quatại thư viện Radcliffe Camera nữa, cha hoàn toàn mê mải ở đó - chính xác cha đãđọc những gì? Và cha đi đâu, đi đâu mới được cơ chứ? Đi đâu, mà không có tôi?Lần đầu tiên trong suốt những năm tháng mà tôi còn nhớ được, những năm thángcha đã che chở tôi khỏi sự cô đơn của cuộc sống mồ côi mẹ, không anh em, khôngquê hương, những năm tháng ông vừa làm mẹ vừa làm cha - lần đầu tiên, tôi cảmthấy mình như một đứa trẻ mồ côi.
Thầy quản lý rất ân cần khi tôi xách va li và áo mưa trêntay đến chào từ biệt. Tôi giải thích với ông là tôi có thể một mình về nhà. Tôibảo đảm với ông là tôi rất biết ơn đề nghị cho học trò đưa tôi về nhà của ông - vượt qua cả một eo biển - và rằng tôi sẽ không bao giờ quên tấm lòng tử tế củaông. Tôi cảm thấy nhói trong lòng, một thoáng thất vọng dễ nhận ra khi nghĩ tớichuyện đó: sẽ vui thích biết bao khi được rong ruổi cả một ngày cùng StephenBarley, anh sẽ ngồi ở ghế đối diện trong xe lửa mỉm cười với tôi! Nhưng tôi vẫnphải nói thế. Chỉ vài giờ nữa là tôi sẽ về đến nhà an toàn, tôi lặp lại, cốgắng nén đi những tưởng tượng êm ái ngọt ngào trong đầu, lo ngại ông thầy tốtbụng đang tươi cười kia có thể biết tỏng tim đen của mình, có khi còn thấy rõthứ tình cảm ấy hiện ra trên mặt tôi. Tôi sẽ về tới nhà an toàn và sẽ gọi điệnthoại báo tin để ông an tâm. Sau đó, tất nhiên, tôi nói thêm với sự vờ vĩnh cònhơn thế, rằng vài ngày nữa cha cũng về nhà thôi.
Thầy James đã chắc chắn tôi có thể về nhà một mình; tôitrông như một thiếu nữ đã biết tự lo cho bản thân rồi, chắc chắn là vậy. Chỉ cóđiều ông không thể - ông càng cười dịu dàng hơn với tôi - đơn giản là ông khôngthể nuốt lời hứa với cha tôi, một người bạn cũ của ông. Tôi là tài sản vô giácủa cha tôi, và ông không thể để tôi ra đi mà không có sự bảo vệ thích đáng.Chính xác đó không phải vì tôi, tôi phải hiểu điều đó, mà vì cha tôi - chúng tanên tôn trọng ý nguyện ông ấy một chút. Stephen Barley đã xuất hiện trước khitôi nói thêm được lời nào, thậm chí trước cả khi tôi kịp ghi vào đầu ý tưởngthầy quản lý này là bạn cũ của cha trong khi tôi tin họ chỉ vừa mới gặp nhauhai ngày trước. Nhưng tôi không có thời gian để giải thích việc bất bình thườngnày; Stephen đang đứng đó, nhìn tôi như một người bạn cũ, đến lượt anh ta cũngtay xách va li tay cầm áo khoác, và tôi không thể nào hoàn toàn hối tiếc vì đãgặp lại anh. Tôi thấy hối tiếc vì việc này sẽ khiến chuyến đi của tôi thêm lòngvòng, nhưng không hoàn toàn hối tiếc như lẽ ra tôi phải thế. Không thể nàokhông chào đón nụ cười tươi tắn, thông minh, hoặc câu nói của anh "Em đã cứuthoát anh khỏi những việc vặt vãnh đấy!"
Thầy James tỏ vẻ nghiêm nghị hơn. "Anh bạn ạ, đây cũng làcông việc," ông dặn dò cậu học trò. "Tôi muốn anh gọi điện về cho tôi từAmsterdam ngay khi đến nơi, và tôi muốn nói chuyện với bà quản gia. Đây là tiềnmua vé tàu và ăn uống dọc đường, và nhớ đừng quên mang hóa đơn về cho tôi đấy."Lúc đó, đôi mắt màu nâu lục nhạt của ông chớp chớp. "Nhưng như vậy không cónghĩa là anh không được thưởng thức một ít sô cô la Hà Lan ở ga. Nhớ mang vềcho tôi một thanh. Không ngon như sô cô la Bỉ, nhưng cũng tạm được. Thôi bâygiờ hai đứa lên đường đi, và nhớ sử dụng cái đầu của mình đấy." Sau đó ông bắttay tôi và trao danh thiếp. "Chào cháu yêu. Nhớ lại đến và gặp bác khi cháunghĩ đến việc vào đại học."
Ra khỏi văn phòng, Stephen xách va li hộ tôi. "Bây giờ thìlên đường. Tàu sẽ khởi hành lúc mười giờ ba mươi, vậy là chúng ta khá dư thờigian đấy."
Tôi để ý thấy thầy quản lý và cha đã lo liệu từng chi tiết,và băn khoăn không biết khi về nhà mình có còn bị tròng thêm sợi xích nào vàocổ nữa không. Tuy nhiên, lúc này tôi còn có một việc khác. "Anh Stephen?" tôimở lời.
"Cứ gọi anh là Barley." Anh cười. "Mọi người đều gọi anh nhưthế, và anh đã quen với cái tên đó đến độ cứ rùng mình khi ai đó gọi tên cúngcơm của mình."
"Được rồi," nụ cười anh hôm nay vẫn vậy, vẫn là nụ cườikhiến người khác cũng muốn cười theo. "Anh Barley, em… anh có thể giúp em mộtviệc trước khi chúng ta rời khỏi đây không?" Anh gật đầu. "Em muốn vào Cameramột lần nữa. Chỗ đó quá tuyệt vời, em… và em muốn được xem lại tuyển tập về macà rồng. Em thực sự chưa được nhìn kỹ nó."
Anh rên lên. "Có thể thấy là em thích ba cái chuyện kinh dịkia. Có vẻ như đó là sở thích trong máu của gia đình em thì phải."
"Em biết." Tôi có cảm giác mặt mình đỏ bừng.
"Thôi được. Giờ mình đi xem lại thật nhanh, nhưng sẽ phảivội đấy. Thầy James chắc chắn sẽ cho anh một phát xiên qua tim nếu chúng ta bịlỡ tàu mất."
Sáng hôm đó Camera yên tịnh, gần như vắng tanh, chúng tôivội vã trèo lên cái cầu thang láng bóng để đến cái hốc rùng rợn mà hôm quachúng tôi đã tình cờ gặp cha. Tôi cố ngăn những giọt nước mắt cứ chực trào rakhi bước vào căn phòng nhỏ bé đó; chỉ mới mấy giờ trước đây, cha còn ngồi ở đó,vẻ xa xăm kỳ lạ hiện trong đôi mắt cha, vậy mà giờ đây, thậm chí tôi không biếtcha đang ở nơi đâu nữa.
Tôi nhớ nơi cha đã đặt lại cuốn sách trên kệ, mặc dù cha chỉđặt bừa lên đấy trong lúc chúng tôi nói chuyện với nhau. Nó nằm bên dưới cái kệhộp sọ người, về phía trái. Tôi lấy ngón tay lần theo mép ngăn kệ. Barley đứnggần tôi (chúng tôi không thể không đứng sát vào nhau trong căn phòng chật hẹpnày, và tôi muốn thay vì vậy anh nên ra ngoài ban công đứng thì hơn), quan sát,với vẻ tò mò không giấu giếm. Nơi đáng lẽ là cuốn sách bây giờ là một khoảngtrống như một chiếc răng sún trên hàm răng. Tôi lạnh người: chắc chắn cha khôngbao giờ, không bao giờ lấy trộm một cuốn sách, vậy thì ai lấy? Nhưng ngay sauđó tôi nhận ra cuốn sách nằm cách đó khoảng một gang tay. Chắc chắn có ai đó đãdời cuốn sách đi từ khi tôi thấy nó ở đó lần sau cùng. Cha đã quay lại để đọclần nữa chăng? Hay ai đó đã lấy nó ra khỏi kệ? Tôi nghi ngờ liếc nhìn cái sọngười trong hộp kính, nhưng chỉ nhận được một cái nhìn mỉa mai từ hai hốc mắt.Sau đó tôi lấy quyển sách xuống, rất cẩn thận - bìa sách màu xương lâu năm, mộtdải ruy băng lụa đen nhô ra trên đầu. Tôi đặt nó lên bàn và tìm trang nhan đề:Vampires du Moyen Age - Ma cà rồng thời Trung cổ, Baron de Hejduke, Bucharest,1886.
"Em muốn gì ở ba cái thứ ngớ ngẩn này nhỉ?" Barley chằm chằmnhìn qua vai tôi.
"Làm bài tập ở trường," tôi lầm bầm trả lời. Cuốn sách đượcchia ra thành nhiều chương, đúng như còn nhớ: "Vampires de la Toscane - Ma cà rồngở Toscane", "Vampires de la Normandie - Ma cà rồng ở Normandie", và vân vân.Cuối cùng tôi tìm được chương mình cần: "Vampires de Provence et des Pyrénées - Ma cà rồng vùng Provence và Pyrénées". Ôi! Lạy Chúa! Vốn liếng tiếng Pháp củamình có đủ đọc hết những cái này không? Barley bắt đầu liếc nhìn đồng hồ. Tôiđưa tay dò trang giấy, cẩn thận không chạm vào tờ giấy đánh máy màu ngà lộnglẫy. "Vampires dans les villages de Provence - Ma cà rồng tại các làng vùngProvences". Cha tìm kiếm điều gì ở đây nhỉ? Lúc đó cha đã trầm ngâm trên trangđầu tiên của chương này. "Il y a aussi une légende…- Cũng còn có một huyềnthoại". Tôi cúi xuống sát hơn.
Từ đó về sau, tôi nhiều lần được trải nghiệm lại những gìkhi đó tôi cảm thấy lần đầu tiên. Cho đến lúc đó, những nỗ lực chinh phục tiếngPháp của tôi chỉ đơn thuần vì động cơ thực dụng - để hoàn thành đa số các bàitập toán. Khi hiểu được một câu mới, đó chỉ là một cầu nối dẫn qua bài tập kếtiếp. Chưa bao giờ tôi cảm nhận được cái rùng mình đột ngột của sự thông hiểuđi từ con chữ vào tim vào óc con người, cách thức một ngôn ngữ mới có thể dichuyển, cuộn lại, bơi vào cuộc sống qua đôi mắt, cú nhảy vọt gần như man dạicủa nhận thức, sự giải phóng tức thời, hân hoan của ý nghĩa, cách thức từ ngữrũ bỏ phần xác dưới dạng những con chữ in của chúng trong một ánh chớp sángnóng rực. Từ đó, tôi đã được trải nghiệm khoảnh khắc chân lý đó với những ngônngữ khác: Đức, Nga, Latin, Hy Lạp và - trong một giờ ngắn ngủi - cả tiếng Phạn.
Nhưng lần đầu tiên đó đã khai thông lối vào các ngôn ngữkhác. "Il y a aussi une légende - còn có một huyền thoại khác," tôi thở ra vàBarley bất chợt cúi xuống đọc. Tuy nhiên, những gì anh lên tiếng dịch tôi đềuđã hiểu và thầm kinh ngạc: " ‘Còn có một huyền thoại nói về Dracula, ưu tú nhấtvà cũng nguy hiểm nhất trong số ma cà rồng, kẻ đã giành được quyền lực khôngphải trong vùng Wallachia mà, thông qua một dị giáo, tại tu viện Thánh Matthieutỉnh Pyrénées- Orientales, một nhà thờ thuộc dòng Biển Đức 2, được thành lậpvào năm 1000 sau Chúa Giáng sinh.’ Cái gì thế?" Barley lên tiếng hỏi.
"Để làm bài tập ở trường ấy mà," tôi lặp lại, nhưng ánh mắtchúng tôi lại gặp nhau một cách kỳ lạ bên trên cuốn sách, và trông anh như thểlần đầu tiên nhìn thấy tôi. "Chắc anh giỏi tiếng Pháp lắm?" tôi khiếm tốn hỏi.
"Dĩ nhiên." Anh cười rồi cúi xuống đọc tiếp. "Người ta nóirằng Dracula đến viếng thăm tu viện đó mười sáu năm một lần để tỏ lòng tôn kínhnguồn gốc của hắn và khôi phục lại những uy lực đã cho phép hắn sống trong cáichết."
"Anh đọc tiếp đi." Tôi ghì chặt cạnh bàn.
"Được thôi," anh đọc tiếp. "Theo tính toán của thầy tuPierre ở vùng Provence vào đầu thế kỷ mười bảy, Dracula thăm viếng tu việnThánh Matthieu vào giữa tuần trăng tháng Năm."
"Bây giờ là ngày bao nhiêu của tuần trăng rồi nhỉ?" tôi hổnhển hỏi, nhưng Barley cũng không biết. Không có thêm thông tin nào về tu việnThánh Matthieu; những trang còn lại ghi lại một tài liệu của một nhà thờ tạiPerpignan nói về những xáo trộn trong các đàn dê cừu tại vùng này vào năm 1428;nhưng không nói rõ là ma cà rồng hay con người đã trộm dê cừu. "Thật kỳ quặc,"Barley bình luận. "Đây là những gì gia đình em đọc để giải trí ư? Em muốn nghevề ma cà rồng đảo Cyprus không?"
Không còn điều nào khác trong cuốn sách có vẻ liên quan đếncác mục tiêu của tôi, và khi Barley lại liếc nhìn đồng hồ, tôi buồn rầu chiatay những bức tường cám dỗ đầy ắp sách.
"Chà, vui nhỉ," Barley nói khi bước xuống cầu thang. "Emkhông phải là một cô gái bình thường, đúng vậy không?" Dù không biết anh có ýgì nhưng hy vọng đó là một lời khen tặng.
Trên xe lửa, Barley giải khuây cho tôi bằng những câu chuyệngẫu về đám sinh viên bạn bè anh, một hoạt cảnh của những chàng khùng và nhữngkẻ chuyên phải đưa đầu chịu báng, sau đó mang hộ túi xách tôi xuống chiếc tàuđang neo trên mặt nước xám xịt loang đầy những vệt dầu của eo biển Manche. Hômđó là một ngày trời trong giá lạnh, chúng tôi ngồi vào những chiếc ghế nhựa bêntrong khoang tàu kín gió. "Suốt học kỳ, anh ngủ rất ít," Barley thông báo vớitôi, rồi nhanh chóng tựa vai lên chiếc áo khoác đã cuộn tròn, đánh một giấcngon lành.
Việc anh ngủ vài giờ cũng tiện cho tôi vì tôi cũng có nhiềuchuyện để suy ngẫm, cả những vấn đề thực tế lẫn học thuật. Vấn đề trước mắt củatôi không phải là câu hỏi về mối liên hệ giữa các sự kiện lịch sử mà là bà Clay.Bà sẽ đứng nghiêm nghị trong tiền sảnh nhà chúng tôi tại Amsterdam, lo âu đếnngạt thở cho cha và tôi. Sự hiện diện của bà sẽ khiến tôi không thể ra khỏi nhàít nhất đến sáng hôm sau, và nếu ngày hôm sau tôi không về nhà sau buổi học thìchắc chắn bà sẽ lồng lộn như bầy sói đi săn tìm tôi, chắc hẳn với cả nửa lựclượng cảnh sát Amsterdam theo trợ giúp. Lại còn Barley nữa. Tôi liếc nhìn gươngmặt say ngủ của anh; anh khe khẽ ngáy, hơi thở khẽ phả vào chiếc áo khoác đangcuộn trên vai làm gối. Ngày mai Barley sẽ lại quay lại bến phà khi tôi đếntrường, tôi sẽ cẩn thận để không chạm mặt anh trên đường đi.
Thật vậy, bà Clay đã có mặt ở nhà khi chúng tôi về đến nơi.Barley đứng cùng tôi trên bậc cửa trong lúc tôi lục tìm chìa khóa; anh nghển cổngắm nhìn những hiệu buôn cổ kính và những dòng kênh đào lấp lánh - "Tuyệt vời!Cả những mặt tiền phong cách Rembrandt trên những phố này nữa!" Khi bà Clay bấtngờ mở cửa và kéo tôi vào nhà, anh gần như không kịp bước vào theo tôi trướckhi cánh cửa sập lại. Nhưng rồi tôi nhẹ nhõm khi thấy sau đó anh cư xử thậtlịch sự. Khi bà Clay và Barley đi vào bếp để gọi điện cho thầy James, tôi chạyvội lên cầu thang, gọi với xuống nói là mình cần phải rửa mặt. Thực ra - ý địnhnày khiến tim tôi đập thình thịch vì cảm giác phạm tội - tôi định lục soát cấmcung của cha ngay tức khắc. Sẽ tính đến chuyện đối phó với bà Clay và Barleysau. Bây giờ tôi phải đi tìm những gì mà tôi chắc chắn bị giấu kín trong đó.
Căn nhà phố của chúng tôi được xây dựng vào năm 1620, có baphòng ngủ trên tầng hai, những căn phòng hẹp tranh sáng tranh tối mà cha rất ưathích, vì như cha nói, đối với ông chúng có vẻ như vẫn chứa đầy dấu vết của sựlao động cần mẫn và những con người giản dị từng sống ở đó trước đây. Phòng củacha là phòng lớn nhất, một nơi trưng bày tuyệt vời những thứ đồ gỗ Hà Lan quacác thời kỳ. Ông đã phối hợp những đồ đạc giản dị với thảm và màn treo giườngphong cách thời Ottoman, một bản phác thảo nhỏ của Van Gogh và mười hai chảođồng có xuất xứ từ một nông trại Pháp - chúng tạo thành một gallery trên tườngvà lấp lánh phản chiếu ánh sáng hắt lên từ dòng kênh bên dưới. Giờ tôi nhận racăn phòng này mới đặc biệt làm sao, không chỉ bởi cách trần thiết kế kiểu chiếttrung mà còn vì sự giản dị giống như tu viện. Trong phòng không có một cuốn sáchnào; sách vở đều được cất giữ trong phòng đọc sách dưới nhà. Không có áo quầnvắt lên lưng chiếc ghế dựa kiểu thế kỷ mười bảy, không có tờ báo nào xâm phạmđến chiếc bàn làm việc đồ sộ. Không có điện thoại, không cả đồng hồ - sáng nàocha cũng dậy sớm một cách tự nhiên. Đây là một khoảng không gian sinh hoạtthuần khiết, một căn phòng trong đó người ta ngủ, thức giấc và có thể cả cầunguyện - mặc dù tôi không rõ những buổi cầu nguyện có còn diễn ra ở đó haykhông - như khi nó mới được xây dựng. Tôi rất thích căn phòng nhưng ít khi vàođó.
Rón rén bước vào như một tên trộm, tôi đóng cửa phòng lại,mở hộc tủ bàn làm việc của cha ra. Quả là một cảm giác khủng khiếp, như phá vỡniêm phong một chiếc quan tài, nhưng tôi cứ dấn tới, mở hết các ngăn kéo, lụcsoát nhưng cẩn thận xếp trở lại chỗ cũ mọi thứ sau khi đã xem xong - thư từ củabạn bè, những chiếc bút đầu nhỏ, những trang ghi chú chằng chịt. Cuối cùng taytôi cũng tìm được một phong bì niêm kín. Tôi mở ra, chẳng hề cảm thấy xấu hổ vànhìn thấy bên trong có vài dòng chữ, viết cho tôi và khuyên tôi hãy đọc nhữnglá thư bên trong, chỉ trong trường hợp cha qua đời bất ngờ hay biệt tăm mộtthời gian dài. Chẳng phải tôi đã từng trông thấy cha ngồi viết miệt mài, hếtđêm này qua đêm khác, một cái gì đó mà cha vẫn dùng tay che lại khi thấy tôixuất hiện gần đó hay sao? Tôi vội vã chộp lấy cái phong bì, đóng tủ hộc bàn lạivà mang nó về phòng mình, căng tai lắng nghe xem có tiếng bước chân của bà Claytrên cầu thang không.
Cái phong bì đó đầy những lá thư, tất cả đều được xếp gọntrong một phong bì nhỏ hơn và đề gửi cho tôi theo địa chỉ nhà, tựa như cha đãnghĩ sẽ phải gửi chúng về cho tôi vào lúc nào đó từ một nơi nào khác. Tôi giữchúng theo thứ tự - ồ, hóa ra tôi đã học được nhiều điều mà không nhận ra - vàcẩn thận mở lá thư đầu tiên. Nó đề ngày sáu tháng trước đó và có vẻ như khôngphải được mở đầu chỉ bằng lời nói mà còn bằng một tiếng khóc tận đáy lòng. "Conthân yêu của cha" - nét chữ của cha như run rẩy dưới mắt tôi - "Nếu con đangđọc lá thư này, thì hãy tha thứ cho cha. Cha đang đi tìm mẹ con."
Chú thích
1 Nguyên văn tiếng Pháp: Ma cà rồng vùng Provence vàPyrénées.
2 Tiếng phiên âm của tên riêng Benedicli trong tiếng Latinhay Benedicli trong tiếng Anh. Thnahs Benedict lập ra dòng có tên quốc tế làOrdo Sancli hay Order of St. Benedict. (BT)
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova