Phi Trường epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Phần III. 01
ũng như mọi khi bắt đầu chuyến bay, tiếp viên trưởng Gwen Meighen trải nghiệm cảm giác nhẹ nhõm khi cánh cửa cabin phía trước đóng sầm lại và một lát sau, máy bay bắt đầu di chuyển.
Một chiếc máy bay lúc còn ở sân bay giống như một người họ hàng phụ thuộc, chịu sự thay đổi và thành công của gia đình đó. Nó không có được cuộc sống độc lập. Nó không phụ thuộc vào chính bản thân nó nữa; bị những đường cung cấp nhiên liệu, năng lượng cản trở nó; có những người lạ, những người không bao giờ bay lên không cùng với nó, di chuyển vào và ra.
Nhưng khi các cánh cửa được đóng lại khi máy bay chuẩn bị cất cánh, nó lại trở thành một thực thể sống động. Các thành viên phi hành đoàn nhận thức sâu sắc nhất về sự thay đổi; họ được đưa trở lại một môi trường khép kín, quen thuộc, trong đó họ có thể hoạt động với kỹ năng và sự độc lập mà họ đã được đào tạo. Không ai cản trở họ; không có gì là vướng chân họ, ngoại trừ những gì họ đã quen sử dụng như ở nhà. Công cụ và thiết bị của họ là tốt nhất; tài nguyên và những hạn chế của họ đã được kiểm tra và biết đến. Lòng tự tin trở lại với họ. Tình bạn trên không - vô hình, nhưng có thật với tất cả những người chia sẻ nó - lại là của họ.
Ngay cả hành khách - những người nhạy cảm hơn - được chứng kiến một sự chuyển sang tâm trạng mới và một khi đã ở trên không, nhận thức về sự thay đổi tăng lên. Ở trên cao nhìn xuống, mối quan tâm của thế giới hàng ngày dường như ít quan trọng hơn. Một số, suy nghĩ nhiều hơn những người khác, nhìn thấy viễn cảnh mới như một sự thoát khỏi những ràng buộc của trái đất.
Gwen Meighen, bận rộn với các thủ tục trước khi cất cánh, không có thời gian để phân tích như vậy. Trong khi bốn trong số năm tiếp viên bận rộn với công việc ổn định hành khách khắp máy bay, Gwen sử dụng hệ thống phát thanh để chào mừng hành khách trên máy bay. Với giọng Anh nhẹ nhàng của mình, cô đã làm tốt nhất có thể với lời lẽ ngọt ngào giả tạo từ cuốn sổ tay tiếp viên của mình, điều mà công ty khẳng định phải được đọc trên mỗi chuyến bay.
“Thay mặt cơ trưởng Demerest và phi hành đoàn của các quý vị... chúng tôi chân thành mong muốn rằng chuyến bay của các quý vị sẽ dễ chịu và thư giãn... chúng tôi sẽ rất vui được phục vụ... nếu có bất cứ điều gì chúng tôi có thể làm để chuyến bay được thú vị...”
Đôi khi Gwen tự hỏi có khi nào các hãng hàng không nhận ra rằng hầu hết hành khách xem những thông báo như vậy, vào đầu và cuối mỗi chuyến bay, là nhàm chán.
Điều cần thiết hơn là các thông báo về lối thoát hiểm, mặt nạ dưỡng khí và áo phao. Với hai trong số các tiếp viên khác biểu diễn, cô đã hoàn thành chúng một cách nhanh chóng.
Họ vẫn đang di chuyển trên đường lăn, Gwen quan sát - tối nay chậm hơn bình thường, mất nhiều thời gian hơn để đến đường băng. Không nghi ngờ gì, lý do là giao thông và cơn bão. Từ bên ngoài, cô có thể nghe thấy tiếng tuyết rơi thỉnh thoảng đập vào cửa sổ và thân máy bay.
Còn một thông báo nữa phải được đưa ra - điều mà các phi hành đoàn ghét nhất. Nó được yêu cầu thông báo trước khi cất cánh tại phi trường quốc tế Lincoln, New York, Boston, Cleveland, San Francisco và các sân bay khác có khu dân cư gần đó.
“Ngay sau khi cất cánh, các quý vị sẽ thấy tiếng ồn động cơ giảm rõ rệt, do phải giảm công suất. Điều này là hoàn toàn bình thường và được thực hiện như một biện pháp giảm tiếng ồn cho những người sống gần sân bay và trên đường bay trực tiếp”.
Thông báo thứ hai là một lời nói dối. Việc giảm sức mạnh động cơ là không bình thường cũng như không nên làm. Sự thật là: đó là một sự nhượng bộ - một số người cho rằng đó chỉ là một cử chỉ quan hệ công chúng - nhưng lại liên quan đến rủi ro đối với an toàn máy bay và tính mạng con người. Các phi công đã chống lại việc hạn chế tiếng ồn, giảm công suất một cách cay đắng. Nhiều phi công, bất chấp nguy cơ bị thôi việc, đã từ chối tuân theo.
Gwen đã nghe Vernon Demerest nhại lại, một cách riêng tư, thông báo mà cô vừa đưa ra... “Kính thưa quý bà và quý ông, tại thời điểm nguy hiểm nhất của việc cất cánh, khi chúng ta cần sức mạnh nhất của mình và có hàng trăm việc khác phải làm trong buồng lái, chúng tôi lại bị bóp cổ một cách mãnh liệt, sau đó thực hiện một cú leo dốc với tải trọng cao ở tốc độ tối thiểu. Đây là một thao tác cực kỳ ngu ngốc mà một học viên phi công sẽ bị ném ra khỏi trường bay. Tuy nhiên, chúng tôi phải thực hiện theo yêu cầu từ các hãng hàng không và Cục Hàng không Liên bang vì một số người ở dưới, những người đã xây dựng nhà của họ cạnh sân bay đã có sẵn, đang khăng khăng rằng chúng tôi phải rón rén bay lên. Họ không thèm quan tâm cái chết tiệt nào về an toàn hàng không, hoặc rằng chúng ta đang mạo hiểm cuộc sống của quý bà và quý ông và của chúng tôi. Vì vậy, mọi người hãy cứng rắn! Chúc may mắn cho tất cả chúng ta, và hãy bắt đầu cầu nguyện”.
Gwen mỉm cười, nhớ lại. Có rất nhiều điều cô đánh giá cao về Vernon. Anh sống cứng rắn; anh sở hữu những cảm xúc mạnh mẽ; khi một cái gì đó hấp dẫn anh ta, anh ta sẽ chủ động tham gia. Ngay cả những nhược điềm - tính hay gây sự, sự tự phụ của anh ta - cũng nam tính và thú vị. Anh ta cũng có thể dịu dàng - và, trong tình yêu, đáp ứng một cách háo hức với đam mê như Gwen đã biết. Trong tất cả những người đàn ông mà cô biết, không có ai mà cô khao khát có con như với Vernon Demerest. Trong suy nghĩ có một vị ngọt ngào mà cay đắng.
Đặt chiếc micro phát thanh vào chỗ của nó, cô nhận ra rằng tốc độ của máy bay đang chậm lại; họ chắc phải ở gần đầu đường băng. Đây là những phút cuối cùng cô có cơ hội cho những suy nghĩ riêng tư bất kỳ. Sau khi cất cánh, trong vài giờ tới sẽ không có thời gian cho bất cứ điều gì ngoài công việc. Gwen có bốn tiếp viên để giám sát, cũng như nhiệm vụ của riêng cô trong khoang hạng nhất. Rất nhiều chuyến bay ở nước ngoài có các tiếp viên nam phục vụ cabin trực tiếp, nhưng Trans America khuyến khích các nhân viên nữ cao cấp như Gwen chịu trách nhiệm khi họ chứng tỏ mình có khả năng.
Bây giờ máy bay đã dừng lại. Từ cửa sổ, Gwen có thể nhìn thấy ánh đèn của một chiếc máy bay khác ở phía trước, nhiều chiếc khác xếp hàng phía sau. Chiếc đi trước đang rẽ vào đường băng; Chuyến Hai sẽ tiếp theo. Gwen kéo xuống một chiếc ghế gấp và cài dây an toàn vào. Các cô gái khác cũng đã tìm thấy chỗ ngồi ở nơi khác.
Cô lại nghĩ: một sự ngọt ngào cay đắng, và luôn luôn cùng một câu hỏi cứ lặp lại. Con của Vernon và của chính cô - có phá thai hay không?... Có hay không? Tồn tại hay không tồn tại?... Họ đang trên đường băng... Phá thai hay không phá thai?... Tốc độ của động cơ ngày càng tăng. Họ đã lăn bánh, không lãng phí thời gian; trong vài giây, không hơn, họ sẽ ở trên không... Có hay không? Cho phép sống hay lên án chết? Làm thế nào, giữa tình yêu và thực tế, lương tâm và sự thỏa hiệp, có ai quyết định được không?
* * *
Như đã xảy ra, Gwen Meighen không cần phải đưa ra thông báo về việc giảm sức mạnh động cơ.
Trong khoang lái khi đang trên đường lăn, cơ trưởng Harris nói với Demerest một cách cộc cằn, “Tôi dự định bỏ qua các biện pháp giảm tiếng ồn trong tối nay”.
Vernon Demerest, đang ghi vào cuốn nhật ký hành trình của chuyến bay thông tin nhận được qua radio - một nhiệm vụ thường được thực hiện bởi phi công thứ nhất hôm nay vắng mặt - gật đầu. “Quá đúng, mẹ kiếp! Tôi cũng sẽ làm như vậy”.
Hầu hết các phi công chỉ dừng lại ở mức đó, nhưng Demerest, với bản tính cố chấp đặc trưng, đã kéo nhật ký chuyến bay về phía anh ta và thêm một mục trong cột chú thích: “N.A.P. không thực hiện. Lý do: thời tiết, an toàn”.
Sau này, mục nhật ký đó có thể sẽ gây rắc rối, nhưng đó là loại rắc rối mà Demerest rất thích và sẽ đương đầu trực tiếp.
Đèn trong khoang lái được tắt bớt. Quá trình kiểm tra trước khi cất cánh đã hoàn tất.
Họ đã gặp may mắn trong thời gian tạm lắng giao thông; nó cho phép họ đến điểm cất cánh, ở đầu đường băng 2-5, nhanh chóng, và không có sự chờ đợi lâu như đã làm vướng víu hầu hết các chuyến bay khác tối nay. Mặc dù vậy, đối với những chiếc khác theo sau, sự chậm trễ đã lập lại. Đằng sau Trans America Chuyến Hai là một hàng máy bay đang chờ và một đám máy bay khác đang di chuyển ra từ nhà ga. Trên radio, kiểm soát mặt đất của KSKL đang đưa ra hướng dẫn nhanh chóng cho các chuyến bay của United AirLines, Eastern, American, Air France, Flying Tiger, Lufthansa, Braniff, Continental, Lake Central, Delta, TWA, Ozark, Air Canada, Alitalia và Pan Am, các nơi đến của chúng giống như một bảng danh mục trong Atlas địa lý thế giới.
Dự trữ nhiên liệu bổ sung của Chuyến Hai, do Anson Harris yêu cầu để cho phép thêm thời gian chờ đợi trên mặt đất, rốt cuộc, không cần thiết. Nhưng ngay cả khi tải nhiên liệu nặng, máy bay vẫn ở trong giới hạn cất cánh an toàn, vì phi công thứ hai Jordan vừa tính toán, trải rộng biểu đồ của mình một lần nữa, như anh ta sẽ làm nhiều lần tối nay và ngày mai trước khi chuyến bay kết thúc.
Cả hai radio của Demerest và Harris giờ đã được chuyển sang tần số của kiểm soát cất cánh.
Trên đường băng 2-5, ngay trước Trans America, một chiếc VC-10 BOAC của Anh, đã nhận được thông báo cất cánh. Nó di chuyển về phía trước, với sự nặng nề chậm chạp lúc đầu, sau đó nhanh dần. Màu sắc logo của nó - xanh, trắng và vàng - lấp lánh thoáng qua trong sự phản chiếu ánh sáng của các máy bay khác, sau đó biến mất trong một loạt tuyết và khói đen. Ngay lập tức giọng nói của kiểm soát viên vang lên, Trans America Chuyến Hai, lăn vào vị trí, đường băng 2-5 và chờ; có máy bay đang hạ cánh trên đường băng 1-7L.
Đường băng 1-7L và đường băng 2-5 cắt ngang nhau. Có yếu tố nguy hiểm khi cùng sử dụng hai đường băng, nhưng những kiểm soát viên trên tháp đã trở nên lão luyện trong tính toán khoảng cách hai máy bay - hạ cánh và cất cánh - để không có hai máy bay nào đến ngã tư cùng một lúc và không lãng phí thời gian. Các phi công không được thoải mái khi họ nghe qua radio rằng cả hai đường băng đang được sử dụng nhưng nhận thức được sự nguy hiểm của vụ va chạm, đã tuyệt đối tuân theo mệnh lệnh của kiểm soát viên.
Anson Harris nhanh chóng và chuyên nghiệp điều khiển Chuyến Hai ra đường băng 2-5.
Nhìn ra ngoài qua tuyết đang rơi, Demerest có thể nhìn thấy ánh đèn của một chiếc máy bay, sắp chạm xuống đường 1-7L. Anh ấn nút micro của mình. “Trans America Chuyến Hai, Roger. Vào vị trí và chờ. Chúng tôi nhìn thấy máy bay đang hạ cánh”.
Ngay trước khi chiếc máy bay đang hạ cánh vượt qua đường cất cánh của họ, giọng nói của kiểm soát viên trở lại. “Trans America Chuyến Hai, cho phép cất cánh. Đi thôi, anh bạn, nhanh lên!”
Những lời cuối cùng không có trong bất kỳ hướng dẫn kiểm soát không lưu nào, nhưng đối với kiểm soát viên và phi công chúng có ý nghĩa giống hệt nhau: Di chuyển ngay đi quỷ sứ! Có một chuyến bay khác hạ cánh ngay bây giờ. Đã thấy những ánh đèn mới - gần sân bay một cách nguy hiểm - đang tiếp cận đường băng 1-7L.
Anson Harris không chậm trễ. Những ngón tay vươn ra của ông đẩy bốn cái cần tiết lưu chính về phía trước hết mức. Ông ta ra lệnh, “Cân bằng các tiết lưu”, và nhanh chóng giữ phanh chân của mình, để cho máy bay tập trung sức mạnh, trong khi Demerest thiết lập tỷ lệ áp suất đồng đều cho cả bốn động cơ. Tiếng động cơ từ rên rỉ đều đều tăng đến tiếng gầm sấm sét. Sau đó Harris thả phanh và chiếc N-731-TA lao về phía trước trên đường cất cánh.
Vernon Demerest báo cáo với tháp, “Trans America Chuyến Hai đang cất cánh”, sau đó đẩy cần điều khiển về phía trước trong khi Harris giữ tay lái bánh mũi bằng tay trái, tay phải của ông quay trở lại các cần tiết lưu.
Tốc độ máy bay tăng dần. Demerest gọi, “Tám mươi knot” [26]. Harris gật đầu. Đèn đường băng lóe lên trong tuyết xoáy. Gần tới tốc độ quyết định, sức mạnh của chiếc máy bay phản lực lớn dâng tràn... Ở tốc độ một trăm ba mươi hai knot, như đã tính trước đó, Demerest gọi, “Tốc độ cấp một” để báo cho Harris rằng họ đã đạt tới “tốc độ quyết định” là lúc việc cất cánh còn có thể hủy bỏ và dừng máy bay lại an toàn trong phạm vi đường băng. Nếu không, việc cất cánh phải tiếp tục... Bây giờ họ đã vượt qua Tốc độ cấp một... Vẫn đang tập trung tốc độ, họ băng qua ngã tư hai đường băng, liếc sang bên phải, ánh đèn hạ cánh của máy bay khác đang tiếp cận; chỉ trong vài giây, chiếc máy bay kia sẽ băng qua nơi Chuyến Hai vừa qua. Một rủi ro - được tính toán khéo léo - đã được giải quyết; chỉ những người bi quan mới tin rằng một ngày nào đó rủi ro như vậy có thể không... Khi tốc độ đạt tới một trăm năm mươi bốn knot, Harris kéo cần điều khiển về phía mình. Bánh xe mũi rời khỏi bề mặt đường cất cánh; họ bắt đầu vào trạng thái nhấc bổng, sẵn sàng rời khỏi mặt đất. Một chút nữa, với tốc độ vẫn tăng, họ đã ở trong không trung.
Harris khẽ ra lệnh, “Gấp càng”.
Demerest vươn tay ra, nâng một cái cần trên bảng điều khiển trung tâm. Âm thanh của càng bánh xe gấp lại vang vọng khắp chiếc máy bay, rồi dừng lại với một tiếng rít khi cánh cửa khoang bánh xe đóng lại.
Họ đang lên cao rất nhanh - đã qua bốn trăm feet. Trong khoảnh khắc nữa, đêm và mây sẽ nuốt chửng họ.
“Cánh tà, hai mươi”.
Vẫn đang thực hiện nhiệm vụ của phi công thứ nhất, Demerest ngoan ngoãn vặn nút điều khiển cánh tà từ ba mươi sang hai mươi độ. Một cảm giác hụt hẫng ngắn ngủi khi những cánh tà - cung cấp thêm lực nâng khi cất cánh - đã nâng lên một phần.
“Cất cánh tà”.
Bây giờ những cánh tà đã được hoàn toàn cất đi, xếp vào cánh chính.
Demerest lưu ý, về việc làm báo cáo của mình sau này, rằng trong lúc cất cánh, không có lúc nào anh ta có thể chê trách cách làm việc của Anson Harris dù là ở mức độ nhẹ nhất. Anh ta đã không mong đợi như vậy. Mặc dù bị những điều hạch sách trước đó, Vernon Demerest nhận thức được rằng Harris là một cơ trưởng hàng đầu, chính xác trong cách làm việc - chính ông và những người khác - như chính Demerest. Đó là lý do Demerest đã biết trước rằng chuyến bay tới Rome tối nay của họ sẽ là một hành trình dễ dàng.
Chỉ vài giây trôi qua kể từ khi họ rời khỏi mặt đất; bây giờ, vẫn tiếp tục leo lên cao, họ vừa bay qua cuối đường cất cánh, ánh đèn bên dưới đã mờ dần qua đám mây và tuyết rơi. Anson Harris đã không còn nhìn ra ngoài và chỉ bay dựa vào các công cụ máy móc.
Phi công thứ hai Cy Jordan vươn về phía trước từ ghế bay của mình, điều chỉnh các cần tiết lưu để cân bằng sức mạnh của cả bốn động cơ.
Lúc bay trong các đám mây máy bay bị lắc mạnh; ngay từ đầu hành trình của họ, những hành khách phía sau đã có một chuyến đi khó khăn. Demerest tắt công tắc đèn hiệu “Không hút thuốc”; còn đèn hiệu “Thắt dây an toàn” sẽ được duy trì cho đến khi Chuyến Hai lên được tầng không khí ổn định hơn. Sau đó, Harris hoặc Demerest sẽ có thông báo cho hành khách; nhưng chưa. Hiện tại, tập trung vào việc bay là quan trọng hơn.
Demerest báo cáo cho kiểm soát khởi hành. “Đang lượn trái hướng một tám không; đã vượt qua một nghìn năm trăm feet”.
Anh ta thấy Anson Harris mỉm cười khi anh ta sử dụng những từ ngữ “Đang lượn trái” thay vì “Đang rẽ trái”. Cụm từ đầu tiên là chính xác nhưng không chính thức. Đó là một trong những cụm từ riêng của Demerest; nhiều phi công kỳ cựu đều có - hàm ý một cuộc nổi loạn nho nhỏ chống lại thứ ngôn ngữ cứng nhắc của những trung tâm KSKL mà ngày nay tất cả những người làm nghề bay bị bắt buộc phải sử dụng. Các kiểm soát viên mặt đất thường xuyên học cách nhận ra từng phi công nào đó bằng những từ ngữ riêng như vậy.
Một lát sau Chuyến Hai nhận qua radio, được phép leo lên hai mươi lăm nghìn feet. Demerest xác nhận trong khi Anson Harris điều khiển máy bay tiếp tục lấy độ cao. Ở đó trong vài phút nữa, họ sẽ ở trong không khí trong suốt, yên tĩnh, những đám mây bão đã ở phía dưới và trên cao, trong tầm mắt, là những vì sao.
* * *
Cụm từ “Đang lượn trái” đã được Keith Bakersfield trên mặt đất chú ý.
Keith đã quay trở lại phòng radar hơn một giờ trước, sau thời gian ở trong phòng thay đồ của kiểm soát viên, một mình, nhớ lại quá khứ và tái khẳng định ý định của mình cho đêm nay.
Từ lúc đó tay Keith đã vài lần theo bản năng cho vào túi mình, chạm vào chiếc chìa khóa của căn phòng thuê bí mật tại khách sạn O'Hagan. Ngoài điều đó ra, anh đã tập trung vào màn hình radar trước mặt. Bây giờ anh đang xử lý những chiếc máy bay đến từ phía đông và lưu lượng giao thông lớn liên tục đòi hỏi sự tập trung cao độ.
Anh không quan tâm trực tiếp đến Chuyến Hai; tuy nhiên, kiểm soát viên khởi hành chỉ ngồi cách anh một vài feet và trong một khoảng thời gian ngắn giữa các lần trao đổi qua radio của mình, Keith đã nghe thấy cụm từ “Đang lượn trái” và nhận ra nó, cùng với giọng nói của ông anh rể. Cho đến lúc đó, Keith không biết rằng Vernon Demerest sẽ bay tối nay; không có bất cứ lý do nào. Keith và Vernon ít gặp nhau. Giống như Mel, Keith chưa bao giờ đạt được bất kỳ mối quan hệ thân thiết nào với anh rể của mình, mặc dù không có bất kỳ xích mích nào giữa họ làm hỏng mối quan hệ như giữa Demerest và Mel.
Ngay sau khi Chuyến Hai khởi hành, Wayne Tevis, người giám sát radar, đẩy chiếc ghế được trang bị bánh xe của mình tới chỗ Keith.
“Nghỉ năm phút đi, cậu”, Tevis nói bằng giọng mũi Texas ngân nga của mình. “Tôi sẽ thay cho cậu. Ông anh lớn của cậu đến tìm đấy”.
Khi rút tai nghe ra và quay lại, Keith phát hiện ra hình dáng của Mel đằng sau trong bóng tối. Anh nhớ hy vọng trước đó của mình rằng Mel sẽ không đến đây tối nay; tại thời điểm Keith sợ rằng anh không chịu nồi sự căng thẳng của cuộc gặp gỡ này. Bây giờ anh lại thấy rằng anh rất vui vì Mel đã đến. Họ luôn là những người bạn tốt của nhau cũng giống như là anh em của nhau, và điều đó là đúng đắn và đặc biệt nên có một sự chia tay, mặc dù Mel không biết rằng đó là cuộc chia tay vĩnh viễn - ít nhất là cho đến khi ông biết được vào ngày mai.
“Chào”, Mel nói. “Anh đang đi ngang qua đây. Công việc thế nào?”
Keith nhún vai. “Em nghĩ mọi việc đều tốt”.
“Cà phê nhé?” Mel đã mang tới hai cốc cà phê từ một nhà hàng ở sân bay trên đường đi, đựng trong một cái túi giấy; ông đưa một cốc cho Keith và tự mình lấy cái còn lại.
“Cảm ơn”. Keith rất biết ơn về cà phê cũng như phút nghỉ giải lao này. Bây giờ anh đã rời khỏi màn hình radar, dù chỉ trong một thời gian ngắn, anh nhận ra rằng sự căng thẳng tinh thần của chính mình đã được tích lũy trở lại trong vòng một giờ qua. Anh quan sát, như thể đang nhìn người khác, rằng tay anh cầm cốc cà phê mà run run.
Mel liếc quanh phòng radar bận rộn. Ông cẩn thận không nhìn thẳng vào Keith, người có vẻ ngoài - khuôn mặt gầy gò, căng thẳng với những hốc mắt sâu bên dưới đôi mắt - đã khiến ông sốc. Ngoại hình của Keith đã xuống sắc trong những tháng gần đây; tối nay, Mel nghĩ, em trai mình trông tệ chưa bao giờ thấy.
Tâm trí ông vẫn hướng về Keith, ông gật đầu về phía hệ thống phong phú các thiết bị radar. “Anh tự hỏi ông cụ sẽ nghĩ gì về tất cả những thứ này”.
“Ông cụ” ở đây là cha của họ, Wally (Wild Blue) Bakersfeld, phi công thế hệ đầu tiên, bay nhào lộn, bay phun thuốc trừ sâu, bay đưa thư đêm, và người nhảy dù - công việc cuối cùng ông thường làm khi nào bí tiền. Wild Blue là người cùng thời với Lindbergh, một người bạn thân của Orville Wright, và đã bay đến cuối đời, ông ấy chết đột ngột trong một cảnh đóng thế phim Hollywood - cảnh quay mô phỏng một vụ tai nạn máy bay, nhưng hóa ra lại là tai nạn thực tế. Chuyện xảy ra khi Mel và Keith còn ở tuổi thiếu niên, nhưng trước đó Wild Blue đã khắc sâu vào lòng cả hai cậu bé một sự chấp nhận hàng không sẽ là cuộc sống của họ, vẫn tồn tại đến tuổi trưởng thành. Trong trường hợp của Keith, Mel đôi khi nghĩ rằng, người cha đã làm hại nhiều hơn cho đứa con trai út của mình.
Keith lắc đầu không trả lời câu hỏi của Mel, điều đó không phải là vấn đề bởi vì nó chỉ mang tính tu từ, Mel đánh dấu thời gian trong khi tự hỏi làm thế nào tốt nhất để tiếp cận những gì sâu nhất trong tâm trí Keith. Ông quyết định làm trực tiếp.
Nói nhỏ, Mel nói, “Keith, chú không khỏe; chú trông thật đáng sợ. Anh biết điều đó, chú biết điều đó; vậy tại sao lại giả vờ? Nếu chú cho phép, anh muốn giúp đỡ. Chúng ta có thể nói chuyện - về bất cứ vấn đề rắc rối gì không? Chúng ta đã luôn thẳng thắn với nhau mà”.
“Đúng vậy”, Keith công nhận, “Chúng ta bao giờ cũng thế”. Anh uống cà-phê và cố không nhìn vào mắt Mel.
Việc nhắc đến cha của họ, mặc dù bình thường, đã khiến Keith cảm động một cách kỳ lạ. Anh nhớ rất rõ Wild Blue; ông ấy không bao giờ kiếm được nhiều tiền - gia đình Bakersfeld luôn túng thiếu - nhưng là một thiên tài đối với những đứa con của ông, đặc biệt nếu cuộc nói chuyện là về việc bay, như hai cậu bé thường muốn. Nhưng cuối cùng, đó không phải là Wild Blue, người từng là cha của Keith, mà là Mel; Mel Bakersfeld, người sở hữu cảm giác âm thanh và sự cân bằng, lâu như Keith còn nhớ, điều mà cha họ thiếu. Đó là Mel, người luôn trông chừng Keith, mặc dù không bao giờ phô trương về điều đó, hoặc bảo vệ quá mức như một số anh trai, do đó không làm tồn thương lòng tự trọng của chú bé. Mel đã làm mọi thứ, để chia sẻ cho các em của mình.
Mel đã chia sẻ mọi thứ với Keith, rất chu đáo và ân cần, ngay cả trong những chuyện nhỏ. Ông vẫn thế. Mang cà phê tối nay là một ví dụ, Keith nghĩ, rồi tự kiểm tra: Đừng lẫn lộn tình cảm với một cốc cà phê chỉ vì đây là cuộc gặp gỡ cuối cùng. Lần này, Mel không thể giúp anh thoát khỏi cảm giác đơn độc, nỗi thống khổ và cảm giác tội lỗi của Keith. Ngay cả Mel cũng không thể trả lại cuộc sống cho cô bé Valerie Redfern và bố mẹ.
Mel hất đầu chỉ ra cửa và họ di chuyển ra hành lang bên ngoài phòng radar.
“Nghe này chú”, Mel nói. “Chú cần nghỉ ngơi lánh xa tất cả những cái này một thời gian; có lẽ nhiều hơn một kỳ nghỉ. Hay có lẽ chú cần phải tránh xa hẳn nơi đây”.
Lần đầu tiên Keith mỉm cười. “Anh đã nghe Natalie nói rồi đấy”.
“Natalie rất nhạy cảm”.
Dù các vấn đề của Keith có thể là gì đi nữa, Mel suy nghĩ, em ông đã rất may mắn vì có Natalie. Ý nghĩ về em dâu khiến Mel nhớ đến vợ của mình, Cindy, người có lẽ đang trên đường đến sân bay. Mel cho rằng so sánh cuộc hôn nhân trắc trở của mình với của người khác là không khôn ngoan; mặc dù đôi khi thật khó tránh khỏi làm điều đó. Ông tự hỏi liệu Keith có thực sự biết mình may mắn như thế nào không - ít nhất là về mặt này trong cuộc sống.
“Còn một cái gì đó khác nữa”, Mel nói. “Trước đây anh chưa từng nói tới, nhưng có lẽ bây giờ đã đến lúc. Anh không nghĩ chú đã từng nói toàn bộ những gì đã xảy ra tại Leesburg vào ngày hôm đó, về vụ tai nạn. Có lẽ chú đã không nói cho ai biết, vì anh đã đọc tất cả các báo cáo điều tra. Có điều gì khác mà chú chưa bao giờ nói không?”
Keith ngập ngừng trong giây lát. “Vâng, có”.
“Anh cho rằng có thể có chuyện gí đó”. Mel chọn lời nói của mình một cách cẩn thận; ông có cảm giác rằng những gì đang trôi qua giữa họ có thể là điều quan trọng then chốt. “Nhưng anh cũng cho rằng nếu chú muốn anh biết, chú sẽ nói; và nếu chú không nói, tốt thôi, đó không phải là việc của anh. Tuy nhiên, đôi khi, nếu chú quan tâm đủ đến ai đó - như anh em chẳng hạn - chú nên biến nó thành công việc của mình, cho dù người ta có muốn chú tiếp cận hay không. Vì vậy, đó là việc anh đang làm bây giờ”. Anh nhẹ nhàng nói thêm, “Chú có nghe anh nói không?”
“Vâng”, Keith nói, “Em nghe anh”. Anh nghĩ: Anh có thể dừng cuộc trò chuyện này, dĩ nhiên; có lẽ anh nên ngăn chặn việc tự bào chữa bây giờ, ngay lập tức - vì điều đó là vô nghĩa - và quay trở lại với màn hình radar. Mel sẽ cho rằng họ có thể tiếp tục cuộc trò chuyện hai người với nhau sau này, không biết rằng sẽ không còn lần sau nào nữa.
“Ngày hôm đó tại Leesburg”, Mel nhấn mạnh. “Điều mà chú chưa bao giờ nói ra - nó có gì đó liên quan đến tâm trạng của chú hiện nay, ngay bây giờ. Phải không?”
Keith lắc đầu. “Bỏ chuyện đó đi, Mel. Xin anh đấy!”
“Như vậy anh đoán đúng. Có sự liên hệ với nhau, đúng không?”
Chuyện rõ ràng như vậy, còn điểm nào để chối cãi? Keith gật đầu. “Đúng”.
“Chú không muốn nói với anh sao? Chú phải nói với ai đó; sớm muộn gì chú cũng phải nói”. Giọng của Mel khẩn khoản, khẩn thiết. “Chú không thể sống với thứ này được - bất kể nó là gì - trong lòng chú mãi mãi. Ai tốt để nói hơn anh? Anh sẽ hiểu được”.
Chú không thể sống với thứ này được… Ai tốt để nói hơn anh?
Keith dường như có cảm tưởng rằng giọng nói của anh mình, thậm chí là hình ảnh của Mel, đang đến với anh từ đầu xa, rất xa của một đường hầm. Ở cuối đường hầm cũng vậy, tất cả những người khác - Natalie, Brian, Theo, Perry Yount, bạn của Keith - người mà anh đã mất liên lạc từ lâu. Bây giờ, trong tất cả những người đó, Mel một mình vươn ra, cố gắng thu hẹp khoảng cách giữa họ... nhưng đường hầm quá dài, sự xa cách của họ quá lớn sau tất cả thời gian mà Keith tự thu mình lại.
Vậy mà…
Keith hỏi, cảm thấy giọng mình như giọng người nào khác, “Ý anh là nói ở đây? Ngay bây giờ sao?”
Mel thúc giục, “Sao lại không chứ?”
Mà quả thực tại sao không chứ? Một cái gì đó trong Keith bị khuấy động; một cảm giác chờ đợi để giải tỏa, mặc dù cuối cùng nó không thể thay đổi gì cả... Hay là nó? Đó không phải là cái mà việc xưng tội nói đến; một giáo đường, một phép trừ tà thông qua sự thừa nhận và sự ăn năn hay sao? Sự khác biệt, tất nhiên, là việc xưng tội mang tới sự tha thứ và giải thoát, còn đối với Keith không thể có sự chuộc tội bao giờ hết. Ít nhất... anh không nghĩ nữa. Bây giờ anh tự hỏi Mel có thể nói gì.
Một cánh cửa đã bị đóng lại từ lâu đâu đó trong tâm trí Keith, từ từ mở ra.
“Em cho rằng không có lý do gì để trả lời tại sao em không nên nói với anh”, anh nói chậm rãi. “Sẽ không mất nhiều thời gian lắm đâu”.
Mel vẫn im lặng. Linh cảm nói với ông rằng nếu nói ra những lời nói khỏng đúng có thể phá vỡ tâm trạng của Keith, có thể cắt đứt sự tự tin dường như sắp được trao, điều mà Mel đã chờ đợi rất lâu và mong muốn được nghe. Ông lập luận: nếu cuối cùng ông có thể tìm hiểu điều gì đã dày vò hành hạ Keith, thì giữa họ có thể giải quyết được điều đó. Nhận xét vẻ mặt của em trai tối nay, tốt hơn là nên để điều đó xảy ra càng sỏm càng tốt.
“Anh đã đọc các báo cáo điều tra”, Keith nói. Giọng anh đều đều. “Anh vừa nói như vậy. Anh đã biết hầu hết những gì xảy ra ngày hôm đó”.
Mel gật đầu.
“Cái mà anh không biết, hoặc chưa có ai biết trừ em; điều không được đưa ra trong cuộc điều tra, điều em đã nghĩ đi nghĩ lại suốt ngày đêm...” Keith do dự; dường như anh không muốn tiếp tục.
“Vì Chúa! Vì lý do của riêng chú, vì lợi ích của Natalie, vì anh - hãy tiếp tục đi!”
Đến lượt Keith gật đầu. “Em sắp kể đây”.
Anh bắt đầu tả lại buổi sáng tại Leesburg một năm rưỡi trước đó; hình ảnh giao thông hàng không khi anh đi vệ sinh; giám sát viên Perry Yount; kiểm soát viên thực tập phụ trách ngay lập tức. Trong một khoảnh khắc, Keith nghĩ, anh sẽ thừa nhận mình đã để cho đầu óc lang thang như thế nào; làm thế nào anh làm hại những người khác qua sự thờ ơ và cẩu thả; làm thế nào anh quay lại công việc quá muộn; làm thế nào vụ tai nạn, bi kịch về những cái chết của gia đình Redferns, chỉ là do anh làm; và cách người khác bị buộc tội. Bây giờ, cuối cùng anh đã làm được điều bấy lâu mong đợi, mà không biết điều đó, anh có một cảm giác nhẹ nhõm, như được ban phước lành. Những từ ngữ, giống như một thác nước lớn chết tiệt bị chặn lại từ lâu, bắt đầu tuôn ra.
Mel lắng nghe.
Bất ngờ, một cánh cửa cuối hành lang mở ra. Giọng của người chỉ huy tháp gọi, “Ồ, ông Bakersfeld!”
Tiếng bước chân ông vang vọng dọc hành lang, người chỉ huy tháp bước về phía họ. “Thiếu úy Ordway đã cố gọi ông, ông Bakersfeld; cả Phòng chỉ huy chống tuyết cũng vậy. Cả hai đều muốn ông gọi cho họ”. Ông gật đầu. “Chào Keith!”
Mel chỉ muốn khóc, muốn thét lên bảo ông ta im lặng hoặc đừng nói gì, cầu xin được ở một mình với Keith thêm vài phút nữa. Nhưng ông biết điều đó không đúng. Ngay khi nghe giọng nói của người chỉ huy tháp, Keith đã dừng lại giữa chừng như công tắc bị ngắt.
Rốt cuộc, Keith chưa kịp thủ nhận cảm giác tội lỗi của chính mình với Mel. Khi tự động trả lời lời chào của người chỉ huy tháp, anh tự hỏi: Tại sao mình lại bắt đầu kể ra? Anh hy vọng có thể đạt được những gì? Không bao giờ có thể sửa được gì, không bao giờ quên chuyện đó được. Không có lời thú nhận nào - cho dù với ai đi nữa - có thể xóa tan ký ức được. Thoáng chốc anh đã nắm bắt được những gì anh lầm tưởng là một tia hy vọng mờ nhạt, thậm chí có lẽ là hối hận. Như nó đã dễ dàng xảy ra, nó cũng dễ dàng chứng minh đó là ảo tưởng. Có lẽ câu chuyện bị gián đoạn có khi lại tốt.
Một lần nữa, Keith nhận ra, một lớp vỏ cô đơn, giống như một tấm màn dày vô hình, bao quanh anh. Bên trong lớp vỏ, anh chỉ có một mình với những suy nghĩ, và bên trong suy nghĩ của anh là một phòng tra tấn, nơi không ai, thậm chí là anh ruột, có thể vượt qua.
Từ căn phòng tra tấn đó... anh chờ đợi, luôn chờ đợi... chỉ có thể có một sự giải thoát. Đó là cách anh đã chọn, và sẽ thực hiện.
“Tôi đoán họ có thể cần cậu trở lại trong đó, Keith”, người chỉ huy tháp nói. Đó là kiểu trò chuyện nhẹ nhàng nhất. Keith đã có một giờ nghỉ làm tối nay rồi; một lần nghỉ nữa chắc chắn gây ra gánh nặng cho người khác. Đó cũng là một lời nhắc nhở với Mel, có lẽ ngoài ý muốn, rằng với tư cách là tổng giám đốc sân bay, trách nhiệm của ông không phải ở đây.
Keith lầm bầm điều gì đó và gật đầu chào. Với vẻ bất lực, Mel nhìn em trai mình trở vào phòng radar. Ông đã nghe đủ để biết rằng điều đó rất quan trọng và ông cần nghe nhiều hơn nữa. Ông tự hỏi khi nào sẽ tiếp tục như vậy, và làm thế nào. Vài phút trước, ông đã phá vỡ được sự bảo vệ bí mật của Keith. Chuyện đó có thể xảy ra một lần nữa không? Với sự tuyệt vọng, Mel nghi ngờ điều đó.
Chắc chắn là sẽ không có thêm tâm sự gì của Keith tối nay được nữa.
“Tôi rất tiếc, thưa ông Bakersfeld”. Như thể đoán được suy nghĩ của Mel, người chỉ huy tháp dang hai tay. “Ông đã cố gắng làm điều tốt nhất cho mọi người. Chuyện đó không phải lúc nào cũng dễ dàng”.
“Tôi hiểu”. Mel cảm thấy muốn thở dài, nhưng đã kiềm chế bản thân. Khi chuyện gì như thế này xảy ra, chỉ có thể hy vọng có dịp xảy ra lần nữa; trong khi đó vẫn phải tiếp tục những việc khác phải làm.
“Xin vui lòng nhắc lại”, Mel nói, “Những tin nhắn đó là gì?”
Người chỉ huy tháp nhắc lại.
Thay vì gọi điện cho Phòng chỉ huy chống tuyết, Mel đi bộ xuống tầng dưới của tháp và bước vào. Danny Farrow vẫn đang ngồi chủ trì bên bàn chỉ huy bận rộn.
Có một vấn đề về các ưu tiên trong việc dọn sạch các khu vực đỗ máy bay của các hãng hàng không cạnh tranh, mà Mel đã giải quyết, sau đó ông đã kiểm tra tình hình liên quan đến đường băng 3-0 bị chặn. Không có thêm thay đổi gì, ngoại trừ việc Joe Patroni hiện đang ở trên sân bay và chịu trách nhiệm di chuyển chiếc 707 Aéreo-Mexican bị sa lầy, vẫn đang cản trở việc sử dụng đường băng. Một vài phút trước đó, Patroni đã báo cáo bằng radio rằng ông dự kiến sẽ thực hiện một nỗ lực nữa để di chuyển chiếc máy bay trong vòng một giờ. Biết danh tiếng của Joe Patroni là người giải quyết các tình trạng khẩn cấp hàng đầu, Mel quyết định không yêu cầu anh báo cáo, không cần gây thêm áp lực gì cho anh ta nữa.
Tại Phòng chỉ huy chống tuyết, Mel nhớ tin nhắn của Cảnh sát trưởng Ordway. Cho rằng trung úy vẫn còn ở trong nhà ga, Mel đã nhắn tin tìm anh ta và một lát sau, Ordway gọi lại. Mel tưởng rằng lời nhắn của trung úy là về đoàn biểu tình chống ồn của cư dân Meadowood. Nhưng không phải vậy.
“Dân chúng Meadowood đã bắt đầu đến, nhưng họ không phải là vấn đề và họ chưa hỏi ông về vấn đề gì”, Ned Ordway đáp khi Mel nêu câu hỏi. “Tôi sẽ báo cho ông biết khi họ yêu cầu”.
Điều anh ta gọi, người cảnh sát báo cáo, là vì một phụ nữ đã được một cảnh sát của anh ta giữ. Bà ta đang khóc, và dường như lang thang vô định trong nhà ga chính. “Chúng tôi không thể hiểu bà ta nói gì, nhưng bà ta không làm gì sai nên tôi không muốn đưa bà ta đến văn phòng cảnh sát trong nhà ga. Chưa có điều đó thì bà ta dường như có vẻ tội nghiệp lắm rồi”.
“Các anh đã iàm gì rồi?”
Ordway nói như có lỗi, “Tối nay không tìm được nơi nào yên tĩnh quanh đây, vì vậy tôi đưa bà ấy vào phòng chờ bên ngoài văn phòng của ông. Tôi nghĩ tôi sẽ báo cho ông biết trước khi ông quay về”.
“Tốt lắm. Bà ta ngồi một mình à?”
“Một người của chúng tôi ở cạnh bà ta, dù có thể anh ta đã đi rồi. Nhưng bà ta hoàn toàn vô hại, tôi chắc chắn như vậy. Chúng tôi sẽ sớm kiểm tra lại bà ấy”.
“Tôi sẽ trở về văn phòng sau vài phút nữa”, Mel nói. “Tôi sẽ xem liệu tôi có thể làm được gì không”. Ông tự hỏi liệu ông sẽ có thành công khi nói chuyện với người phụ nữ lạ mặt hơn với Keith hay không; ông ngờ rằng ông có thể làm tệ hơn. Ý nghĩ về Keith, người dường như gần đến điểm phá vỡ được sự bảo vệ bí mật, vẫn khiến Mel đau đớn sâu sắc.
Như nhớ lại, ông hỏi, “Anh có biết tên của người phụ nữ đó không?”
“Vâng, có, chúng tôi đã nhận ra. Đó là một cái tên nghe như tiếng Tây Ban Nha. Xin chờ một chút; tôi có nó ghi ra”.
Có một giây yên lặng, rồi Trung úy Ordway nói, “Tên bà ấy là Guerrero. Bà Inez Guerrero”.
* * *
Tanya Livingston nói một cách hoài nghi, “Ông nói thế nghĩa là bà Quonsett đang trên Chuyến Hai?”
“Tôi e là không còn nghi ngờ gì về điều đó, bà Livingston. Có một bà cụ nhỏ, chính xác như cách bà mô tả”. Nhân viên trực ở cổng ra, người đã giám sát cho hành khách lên Du thuyền vàng, đang ở trong văn phòng của TBVC và Tanya và anh chàng Peter Coakley trẻ tuổi, người đã bị bà Ada Quonsett lừa gạt khi bà ta đang bị anh ta giám sát.
Anh nhân viên trực cổng đến văn phòng vài phút trước, sau khi nghe lời cảnh báo qua điện thoại của Coakley, tới tất cả vị trí cổng của Trans America, về bà Quonsett trơn tuột.
“Tôi không biết có điều gì sai trái xảy ra ở đây”, anh nhân viên trực cổng nói. “Chúng tôi đã cho hành khách lên tàu tối nay; họ đã đi rồi”. Anh ta nói thêm như thanh minh, “Dù sao đi nữa, tôi đã chịu áp lực cả buổi tối. Chúng tôi thiếu người, và ngoài thời gian bà ở đó giúp đỡ, tôi đang làm việc của hai người. Chính bà cũng biết đấy”.
“Vâng”, Tanya nói, “Tôi biết”. Cô không có ý định đổ lỗi cho ai. Nếu có ai chịu trách nhiệm cho những gì đã xảy ra, thì đó là chính Tanya.
“Ngay sau khi bà rời đi, thưa bà Livingston. Bà già nói gì đó về con trai bà ta đã bỏ quên ví tiền, tôi nghĩ như vậy. Bà ta thậm chí còn cho tôi xem. Nó có tiền trong đó, bà ta nói vậy, đó là lý do tại sao tôi không nhận chuyển cái ví”.
“Bà ta chỉ mong có thế. Đó là một trong những mánh khóe của bà ta”.
“Tôi không biết điều đó, vì vậy tôi đã để bà ta lên tàu. Từ lúc đó cho đến khi tôi nhận được cuộc điện thoại vài phút trước, tôi không còn nhớ đến bà ta nữa”.
“Bà ta đã đánh lừa ông”, Peter Coakley nói. Anh liếc nhìn Tanya. “Bà ta chắc chắn cũng đã đánh lừa tôi nữa”.
Người trực cổng lắc đầu. “Tôi không tin được điều đó, ngay cả bây giờ cũng không tin nổi. Nhưng bà ta đã lên tàu, đúng như vậy”. Ông ta mô tả sự khác biệt giữa số lượng kiểm đếm đầu người ở khoang du lịch và số vé, sau đó là quyết định cho phép máy bay rời đi của người giám sát hành lang xếp, thay vì phải chịu thêm sự chậm trễ.
Tanya nói nhanh, “Tôi cho rằng không nghi ngờ gì nữa, Chuyến Hai đã cất cánh”.
“Vâng, họ đã bay rồi. Tôi đã kiểm tra trên đường đến đây. Ngay cả khi họ chưa cất cánh, tôi không chắc việc họ sẽ đưa máy bay quay trở lại, đặc biệt là đêm nay”.
“Không, họ sẽ không làm vậy”. Cũng không có cơ hội dù nhỏ nhất, Tanya biết, về việc Du thuyền vàng thay đổi hướng và quay trở lại nhà ga, chỉ vì bà già Ada Quonsett. Thời gian và chi phí để loại bỏ người lậu vé sẽ lên đến hàng nghìn dollar - nhiều hơn nhiều so với việc đưa bà Quonsett đến Rome và chở bà ta trở về.
“Có điểm dừng nào để tiếp thêm nhiên liệu không?” Đôi khi, Tanya biết, các chuyến bay đi châu Âu phải dừng lại không theo lịch trình để lấy thêm nhiên liệu tại Montreal hoặc Newfoundland. Nếu vậy, sẽ có cơ hội kéo bà Quonsett ra, tước đi thú vui đến được Ý của bà ta.
“Tôi đã hỏi phòng điều vận về việc đó”, người trực cổng trả lời. “Kế hoạch chuyến bay cho thấy họ sẽ bay thẳng. Không dừng lại”.
Tanya thốt lên, “Bà già khốn nạn!”
Vì vậy, bà già Ada Quonsett sẽ được bay đến Ý và trở về, với một đêm giữa hai chuyến bay và được cung cấp các bữa ăn - tất cả chi phí đều của hãng, Tanya nghĩ một cách giận dữ: cô đã đánh giá thấp quyết tâm của bà già không chịu để cho người ta bắt mình gửi về Bờ Tây; cô cũng đã sai lầm khi cho rằng bà Quonsett sẽ chỉ muốn đến New York thôi.
Gần mười lăm phút trước, Tanya đã nghĩ về cuộc tranh đua đang phát triển giữa mình và bà Ada Quonsett như một cuộc đấu trí. Nếu đúng như vậy, không còn nghi ngờ gì nữa, bà già nhỏ bé ở San Diego đã thắng.
Với sự tàn nhẫn vô nghĩa, Tanya mong muốn hãng hàng không sẽ truy tố bà Quonsett như một trường hợp ngoại lệ. Nhưng cô biết sẽ không có chuyện đó.
Peter Coakley trẻ định nói già đó.
Nhưng Tanya ngắt lời, “Ôi, câm đi!”
Ông TBVC trở lại văn phòng vài phút sau khi Coakley và nhân viên trực cổng rời đi. Ông TBVC, Bert Weatherby, là một người làm việc chăm chỉ, người điều hành khó tính, tuổi gần cuối bốn mươi, người đã thăng tiến một cách khó khăn, bắt đầu từ một nhân viên xử lý hành lý. Bình thường là người ân cần, và có khiếu hài hước, tối nay ông tỏ ra mệt mỏi và nóng tính sau ba ngày căng thẳng liên tục. Ông ta sốt ruột lắng nghe báo cáo của Tanya, trong đó cô tự mình chấp nhận trách nhiệm chính, chỉ đề cập đến Peter Coakley một cách tình cờ.
Tay vò mái tóc hoa râm thưa thớt của mình, ông TBVC quan sát, “Tôi muốn kiểm tra xem có còn ai nữa ở trên đó không, những thứ như thế này đang thọc gậy bánh xe chúng ta đấy”. Ông ta cân nhắc, rồi gay gắt, “Cô đã đưa chúng ta vào mớ hỗn độn này; tốt hơn cô nên giải quyết nó. Nói chuyện với tổng đài các chuyến bay; yêu cầu họ gọi cho cơ trưởng Chuyến Hai trên radio của hãng và báo cho anh ta về những gì đã xảy ra. Tôi không biết anh ta có thể làm gì. Cá nhân mà nói, tôi muốn ném bà phù thủy già khỏi máy bay ở độ cao ba mươi nghìn feet, nhưng điều đó sẽ tùy thuộc vào anh ta. Nhân tiện, ai là cơ trưởng?”
“Cơ trưởng Demerest”.
Ông TBVC rên lên. “Lại còn thế nữa. Anh ta có lẽ sẽ nghĩ ra một trò đùa tuyệt vời vì sự đần độn của những nhà quản lý. Dù sao, hãy khuyên anh ta nên giữ bà già trên tàu sau khi hạ cánh, và không được phép ra đi nếu không có người hộ tống. Nếu nhà cầm quyền Ý muốn bỏ tù bà ta, thì càng lâu càng tốt. Sau đó thông tin cho đại diện của chúng ta ở Rome. Khi họ bay đến, ông ấy phải trông coi bà ta như con nít và tôi hy vọng ông ấy có nhiều người có năng lực hơn chúng ta”.
“Vâng, thưa ông”, Tanya nói.
Cô bắt đầu nói với ông TBVC về vấn đề khác liên quan đến Chuyến Hai - người đàn ông có vẻ ngoài đáng ngờ với một cái cặp ngoại giao mà Thanh tra Hải quan Standish đã nhìn thấy đang lên tàu. Trước khi cô có thể kết thúc, ông TBVC ngắt lời cô.
“Quên chuyện ấy đi! Hải quan muốn chúng ta làm thay công việc của họ à? Miễn là hãng không tham gia, tôi sẽ mặc kệ gã mang theo cái gì. Nếu Hải quan ở đây muốn biết có gì trong cặp của anh ta, họ hãy yêu cầu Hải quan Ý kiểm tra, không phải chúng ta. Tôi sẽ bị nguyền rủa nếu tôi thẩm vấn, và có thể xúc phạm, một hành khách trả tiền vé cho một thứ không phải là việc của chúng ta”.
Tanya ngập ngừng. Một cái gì đó về người đàn ông với cái cặp ngoại giao cứ ám ảnh cô - mặc dù cô thực sự không nhìn thấy ông ta. Có những trường hợp cô đã nghe về nơi... Dĩ nhiên, ý tưởng đó thật vô lý...
“Tôi đang tự hỏi”, cô nói. “Có thể ông ta không buôn lậu gì cả”.
Ông TBVC ngắt lời, “Tôi đã nói hãy quên nó đi”.
Tanya đi ra. Trở lại bàn làm việc, cô bắt đầu viết tin nhắn cho Cơ trưởng Demerest của Chuyến Hai liên quan đến bà Ada Quonsett.
 Phi Trường  Phi Trường - Arthur Hailey  Phi Trường