Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 25
iệc lấy được các mẫu ADN không đơn giản như Tracy dự đoán. Khi Tracy gọi điện cho Penny Orr vào thứ Bảy ngay sau hôm họ bàn bạc, người phụ nữ này đã thận trọng trả lời khi nghe thấy tên Tracy.
Tracy đã suy nghĩ thật cẩn thận về cách tiếp cận của mình trước khi gọi điện thoại. Cô không thể nào gọi cho người dì qua điện thoại để nói rằng người cháu gái mà bà ta tưởng đã chết rồi - không phải một, mà là hai lần có thể vẫn còn sống. Cô không thể cho họ hi vọng kiểu đó cho tới khi cô đã biết chắc chắn. Bất chấp mọi lý do hay sự phản đối mạnh mẽ nào, Tracy đã hi vọng trong suốt hai mươi năm rằng họ sẽ tìm thấy Sarah vẫn còn sống vào một ngày nào đó. Kể cả sau khi cô đã trở thành một điều tra viên án mạng và biết rằng cơ hội để điều đó xảy ra là vô cùng nhỏ, cô vẫn cố níu lấy ý nghĩ rằng em gái mình sẽ sống sót nhiều tới mức khi họ thực sự tìm thấy những gì còn lại của Sarah, cô đã suy sụp.
Cô nói với Penny Orr rằng họ muốn xác thực nhân dạng của xác chết qua kết quả phân tích ADN và giải thích họ có thể làm việc đó thông qua Orr.
Trước sự ngạc nhiên của Tracy, Orr miễn cưỡng trả lời: “Tôi sẽ phải làm gì?”
“Chuyện này hoàn toàn không xâm phạm gì cả.” Tracy nói, cho rằng có lẽ Orr đang nghĩ bà ta phải cung cấp mẫu tủy hoặc máu. “Tôi sẽ gửi bộ dụng cụ lấy mẫu ADN cho bà. Cách làm thì tùy ở bà. Tôi sẽ dán nhãn chuyển hoàn cho nó để bà có thể chuyển lại nó cho tôi ngay.” Cái nhãn chuyển hoàn đó có ghi địa chỉ hộp thư cá nhân nơi Tracy nhận tất cả các loại thư.
Orr thở dài, có vẻ vẫn không chắc chắn, và Tracy hoàn toàn không thể hiểu được sự dè đặt của Orr. “Chỉ là, nếu như đó không phải con bé, việc đó sẽ làm dấy lên nghi ngờ về những chuyện xảy ra với nó một lần nữa. Tôi không chắc là tôi có thể vượt qua được chuyện đó hay không.” Orr nói.
“Tôi hiểu rằng chuyện này thực sự khó khăn.” Tracy nói. “Nhưng nếu đó không phải Andrea, có thể sẽ có một gia đình khác ngoài kia cũng đang thắc mắc điều tương tự chuyện gì đã xảy ra với con gái của họ? Họ cũng xứng đáng được biết kết cục chứ.”
Orr có vẻ suy nghĩ một chút về lập luận vừa rồi của Tracy. Sau một vài giây, bà nói: “Được rồi. Gửi bộ dụng cụ lấy mẫu ADN cho tôi.”
Chị gái của Devin Chambers, Alison McCabe, cũng không đồng ý, nhưng cuối cùng cô ấy cũng mềm lòng.
Tracy nghĩ rằng cho dù quan hệ giữa hai người này không tốt thì máu mủ vẫn là máu mủ.
Một tuần sau đó, cả hai người phụ nữ cùng chuyển lại mẫu ADN và Tracy mang cả hai mẫu ADN được bảo mật đó tới trụ sở của Phòng Nghiên cứu Tội phạm Sở Cảnh sát bang Washington. Nơi này nằm ở một khu công nghiệp phía nam trung tâm thành phố, trông giống một kho chế biến thức ăn hơn là một phòng nghiên cứu công nghệ cao chuyên phân tích bằng chứng kết tội những kẻ giết người, hiếp dâm và những tên tội phạm đê tiện khác.
Mike Melton ngồi trong văn phòng. Hôm nay, ông không phô diễn tài nghệ guitar và giọng hát của mình nữa. Khi Tracy gõ cửa, Melton đang cắn dở một miếng sandwich tự làm, nhắc Tracy nhớ về những chiếc sandwich phô mai mà mẹ thường làm cho cô và Sarah - hai lát bánh mì gối, xốt mayonnaise và một lát phô mai hiệu Velveeta. Một quả táo, một chai nước không có nắp và một chiếc túi màu nâu đang mở nằm trên bàn của Melton.
“Có vẻ như tôi tới không đúng lúc.” Tracy đứng ở cửa vào và nói.
Melton vẫy tay chào cô khi ông đang nhai và nuốt, uống một ngụm nước để trôi miếng sandwich xuống. “Chỉ là đang ăn bữa trưa muộn thôi.” Ông nói. “Tôi vừa ở tòa án làm một số công việc chuẩn bị phút chót cho vụ án Lipinsky.”
“Kins nói rằng vụ đó sẽ kết thúc vào tuần sau.” Cô nói.
“Đó là những gì họ nói với chúng ta thôi.” Melton dùng một tờ giấy ăn để lau hai bên miệng ẩn dưới bộ ria rậm rạp màu nâu đỏ. Qua năm tháng, nó đã chuyển sang lấm tấm bạc. Tracy đã nghe qua về khái niệm “người gấu” dùng để miêu tả những người đàn ông to cao, nhưng trong trường hợp của Melton thì sự so sánh hoàn toàn trùng khớp, không chỉ bởi vì kích thước cơ thể ông. Ngoài bộ ria trông có vẻ dài và rậm hơn sau mỗi lần Tracy tới đây, Melton có bộ tóc được chải ngược ra sau, những lọn xoăn chạm vào cổ áo của ông. Ông cũng có ngoại hình của một người thợ đốn gỗ, với cánh tay và đôi bàn tay chắc nịch trông như thể có khả năng xé quyển danh bạ điện thoại làm đôi, thế nhưng những ngón tay của ông lại nhanh nhẹn đủ để gảy dây đàn guitar. Các điều tra viên gọi Melton là Grizzly Adams bởi sự tương đồng đến kỳ lạ giữa ông và ngôi sao truyền hình Dan Haggerty
“Vào đây và ngồi xuống đi!” Melton bước tới phía bên kia bàn nơi Tracy đứng và chuyển một chiếc túi xách da ra khỏi một trong hai chiếc ghế. Chiếc còn lại chất đầy sách kĩ thuật.
“Ông đọc sách à?” Tracy hỏi.
“Chỉ đang cố gắng để nắm bắt được mọi thứ thôi.”
Tracy ngồi xuống. Melton không quay trở lại phía sau chiếc bàn của mình mà tựa vào cạnh bàn. “Tôi nghe nói là quận Pierce tiếp quản vụ lồng cua.”
Melton không phải tên ngốc. Là một nhà khoa học đứng đầu một phòng nghiên cứu, ông sở hữu rất nhiều bằng cấp, nhưng chẳng có cái nào được treo trên tường phòng làm việc của ông cả. Thay vì bằng cấp, ông giữ những vật lưu niệm từ những vụ án thú vị trước đây một cái búa, một lưỡi cưa, một cái gậy bóng chày. Ông cũng biết rằng khi một điều tra viên bỗng dưng xuất hiện ở cửa văn phòng của ông thì hẳn là họ đang mong muốn một điều gì đó.
“Phải.” Cô nói. “Và họ bỏ lại cho tôi một số chuyện còn dang dở mà tôi đang cố gắng giải quyết.”
“Ví dụ như?” Melton nói, quay trở lại chỗ ngồi và cầm miếng sandwich phô mai đang ăn dở lên.
“ADN. Với tình trạng của cái xác này thì đó là cách duy nhất để xác định danh tính.”
“Tôi nghe nói bố mẹ nạn nhân đã qua đời và nạn nhân không có anh chị em ruột.” Melton nói, cắn thêm một miếng.
“Tôi tìm được một người dì ở San Bernardino. Em gái của mẹ nạn nhân.”
“À.” Melton đặt chiếc bánh xuống và uống thêm một ngụm nước.
Tracy không còn cách hỏi nào khác nhẹ nhàng hơn. “Tôi hi vọng ông có thể cung cấp cho tôi hồ sơ ADN của nạn nhân để tôi có thể gửi nó cho một phòng phân tích ADN ở bên ngoài để đối chiếu.”
Melton dựa lưng ra sau. “Cô không thích cách làm việc của chúng tôi ở đây à?”
“Ở thời điểm này thì đưa cho một phòng nghiên cứu bên ngoài làm sẽ tốt hơn.”
“Thế Nolasco và Martinez có thích chuyện đó không?” Ông nói, khóe miệng nhếch lên thành một nụ cười nhẹ.
“Ông nghe về vụ đó rồi à?”
“Tôi nghe được mọi thứ. Cô biết mà.”
Cô khẽ cười. “Có lẽ họ sẽ không thích bằng việc từ đầu tôi đã đi gặp người dì đâu.”
Melton bình luận sau một lúc suy nghĩ. “À, chúng tôi luôn gửi hồ sơ ADN ra ngoài khi chúng tôi cần trợ giúp vì ở đây bị quá tải. Thực ra, với vụ Lipinsky chiếm quá nhiều thời gian, tôi cũng nghĩ là chúng tôi cần phải gửi hồ sơ đó ra ngoài để có thể đẩy nhanh tiến độ.”
Tracy mỉm cười. “Cảm ơn ông, Mike.”
“Đừng cảm ơn tôi. Tôi chỉ làm đúng việc của mình thôi. Có phải cũng sẽ tốt hơn nếu như tôi không hỏi cô tại sao cô lại sử dụng một phòng nghiên cứu ở bên ngoài không?”
“Có lẽ vậy.”
Melton gật đầu. “Cô không nghĩ đó là nạn nhân phải không? Cô không nghĩ đó là người phụ nữ mà mọi người vẫn cho là đã ngã xuống núi Rainier.”
“Như tôi đã nói rồi đấy, cô ta có một người dì ở Nam California và người dì thực sự muốn biết sự thật.” Tracy nói.
“Vậy thì quá dễ để tìm ra sự thật rồi.”
“Hẳn là vậy.” Tracy nói.
Melton dừng lại một lần nữa. Một người đàn ông luôn cân nhắc trước khi nói. “Ừ thì…” Ông lại tiếp tục. “Đó là công việc của chúng tôi mà, đúng không? Tìm ra một kết quả chắc chắn để người nhà nạn nhân có thể biết được sự thật.”
“Tôi luôn nghĩ vậy.”
“Vậy nên công việc thử ADN của tôi chỉ là công cụ để đảm bảo chắc chắn.”
“Sẽ là như vậy, nếu đó vẫn là vụ án của chúng tôi.”
“Có thể không phải là của các cô, nhưng đó là vụ án của tôi. Tôi cũng quản lý các chi nhánh.” Melton nói, hàm ý rằng ông là người đứng đầu của tất cả các phòng nghiên cứu tội phạm của bang, kể cả một phòng ở Tacoma đang phục vụ cho quận Pierce.
“Tôi đang vướng vào một cuộc đua ngớ ngẩn với quận Pierce.” Tracy nói.
“Tôi có nghe.” Melton nói.
“Họ sẽ không vui khi biết tôi làm một số chuyện để giúp họ phá án đâu. Có lẽ tốt nhất là ông không nên dính vào để bị chỉ trích.”
Melton cười nhạo. “Thế họ sẽ làm gì, đuổi việc tôi à?” Cả hai người đều biết rõ rằng với chuyên môn của mình, Melton có thể có một công việc khác ngay tức khắc với mức lương thậm chí còn cao hơn khi làm ở một trong những phòng nghiên cứu tư nhân ngoài kia. Ông ở lại phòng nghiên cứu tội phạm với mong muốn thực hiện nhiệm vụ tìm công lí cho người nhà của nạn nhân.
“Tôi không muốn ông phải lựa chọn việc đó chỉ vì tôi, Mike ạ.”
“Cô chọn phòng nghiên cứu nào?”
“Phòng nghiên cứu tư ALS.” Cô nói.
Melton gật đầu. “Họ là một đội tuyệt vời đấy. Tôi biết Tim Lane. Ông ta cũng chiêu mộ tôi mấy năm nay rồi. Tôi sẽ gọi cho ông ta và bảo ông ta đối xử tử tế với cô, đẩy nhanh tiến độ.”
Tracy đứng dậy, đẩy ghế ra sau và đưa tay ra. “Như tôi đã nói, tôi thực sự rất trân trọng việc làm của ông, Mike.”
“Tôi biết mà.” Ông nói, bắt tay cô. “Đó là lý do tôi sẵn sàng làm việc đó.”
Những ngày còn lại của tuần, mỗi lần Tracy bước vào phòng làm việc, Kins, Faz và Del, hoặc là cả ba, sẽ nhìn Tracy như thể cô là một bác sĩ sản khoa và bọn họ là những người cha đang chờ đợi ở phòng chờ bệnh viện. Tracy sẽ lắc đầu để nói cho họ biết rằng phòng nghiên cứu chưa gọi cho cô. Cho tới thứ Sáu, khi cô đang xử lý vụ án một người đàn ông vô gia cư đâm người khác, điện thoại của cô reo lên. Màn hình điện thoại không hiển thị người gọi nhưng mã vùng là số của Seattle.
“Điều tra viên Crosswhite?” Người gọi hỏi, khiến trong lòng cô dâng lên một thoáng trông chờ.
“Tôi đây.”
“Mike Melton nói rằng tôi phải đối xử tốt với cô, và với chức vụ của ông ấy thì tôi không muốn ông ấy giận tôi đâu.”
ALS có một văn phòng ở Burien, cách Học viện Cảnh sát Seattle không quá xa, mất chừng ba mươi phút lái xe từ trụ sở cảnh sát. Tim Lane nói rằng ông có thể email cho Tracy kết quả để cô không phải lái xe tới, nhưng Tracy không muốn để lại dấu vết trên máy tính. Cô nói với ông rằng cô cần phải nói chuyện với một nhân chứng ở ngay gần chỗ của ông và sẽ tới để lấy kết quả. Thật lạ lùng, cô cũng không muốn nghe tin qua điện thoại, và Lane cũng không hỏi thêm gì nữa. Có vẻ như ông cũng đã cảm thấy điều gì đó khi ông nhận ra rằng ông đang không gọi vào số của trụ sở cảnh sát mà là số điện thoại riêng.
Tracy và Kins dùng chiếc BMW của Kins thay vì một chiếc xe công vụ. Đúng là họ có một nhân chứng cần phải lấy lời khai ở Des Moines, nằm ngay cạnh Burien, để đề phòng việc có ai đó cáo buộc họ sử dụng thời gian mà người dân phải trả thuế để lấy chứng cứ cho một vụ án không thuộc thẩm quyền của họ nữa.
ALS nằm trong một khu công nghệ cao bao gồm một nhà máy bia, một phòng tập thể hình, và tất nhiên là một câu lạc bộ bóng rổ. Số lượng phòng nghiên cứu tư nhân bùng nổ với những tiến bộ gần đây trong việc phân tích ADN và song hành với đó là mong muốn của những cá nhân muốn tìm tổ tiên, di truyền học, và xu hướng những bệnh nguy hiểm đến tính mạng trong tương lai.
“Cô đã làm chuyện đó chưa?” Kins hỏi Tracy khi anh lái xe vào khu vực đỗ xe có chữ in hoa màu trắng dành riêng cho khách của ALS.
“Làm gì? Lập hồ sơ ADN của tôi ấy à? Chưa. Còn anh?”
“Chưa. Tôi muốn biết chuyện đó để làm gì?” Kins ra khỏi xe và Tracy ra khỏi ghế hành khách. “Ông nội tôi mắc chứng Alzheimer. Tôi đã đủ lo về chuyện đó rồi chứ chẳng cần ai phải nhắc rằng tôi nên bắt đầu lo ngại đi. Khi họ nói với tôi rằng họ biết cách chữa, đó mới là lúc mà tôi muốn biết.”
Hai người gặp nhau ở đầu xe và cùng nhau bước vào trong. “Thế còn về tổ tiên hay gia sản thì sao? Anh có tò mò không?”
“Cả cuộc đời tôi lớn lên nghĩ rằng tôi là người Anh và tin rằng tôi chịu đựng những thứ như trà, đồ ngọt, khí hậu lạnh và sương mù. Tôi sẽ phải làm gì nếu như tôi phát hiện ra mình là người Ý và đáng nhẽ ra phải ăn uống theo kiểu của Fazio suốt những năm qua? Với lại, suy cho cùng, tất cả chúng ta đều xuất phát từ một cội nguồn thôi mà. Đều bắt đầu từ Adam và Eva, không phải sao?”
“Trời ạ, thế có nghĩa là chúng ta có họ hàng với Nolasco sao?” Tracy nói, kéo mở cánh cửa kính. “Tôi khá chắc chắn Nolasco là tên đê tiện.”
Tracy nói với lễ tân rằng họ có hẹn gặp Tim Lane, và họ bước tới phía những chiếc ghế trong phòng chờ với trần nhà ngói thấp, đèn huỳnh quang, tường màu xanh da trời với những tấm poster về rất nhiều dịch vụ của phòng nghiên cứu.
“Nơi này trông giống như trường mầm non mà chúng tôi từng đưa hai đứa con trai tới ấy.” Kins nói.
Có hai cặp đôi đang ngồi chờ. Tracy cũng đã từng đọc được rằng các cặp vợ chồng có thể mang mẫu gen di truyền của họ đi phân tích trước khi có con để quyết định xem con của họ có khả năng nhiễm các bệnh rối loạn di truyền, ví dụ như bệnh thiếu máu tế bào hồng cầu hình liềm hoặc hội chứng Down hay không. Ở tuổi bốn mươi ba, những sự khác thường của Tracy có khả năng di truyền sang cho con nhiều hơn so với những bà mẹ trẻ khác.
Cánh cửa trong góc của một căn phòng được kéo mở ra và một người đàn ông có mái tóc vàng, hơi hói, mặc một chiếc áo khoác màu trắng của phòng nghiên cứu trùm ra bên ngoài một chiếc áo sơ mi hồng và một cái cà vạt đỏ bước ra. “Các điều tra viên.” Ông nói, nở một nụ cười sáng chói như bóng điện 100 watt với họ. “Tôi là Tim Lane.” Họ bắt tay nhau. “Theo tôi nào.”
Tracy và Kins theo Lane đi xuôi theo một lối đi trải thảm. Ông dẫn họ vào trong một phòng họp không có gì đặc sắc với một cái cửa sổ nhìn ra một vùng đất nhỏ với bãi cỏ xanh lốm đốm nâu. Lane bước tới phía bên kia của chiếc bàn, ở đó ông đã đặt hai tập tài liệu.
“Mike nói rằng cô phải được hưởng sự đối đãi của khách VIP.” Lane nói, giọng ông dày và trầm.
“Nghe nói ông cũng đang cố gắng chiêu mộ ông ấy. Các vị điều tra viên sẽ làm loạn lên đấy.” Tracy nói.
“Trước đây chúng tôi từng làm việc ở Phòng Nghiên cứu tội phạm cùng nhau, từ rất lâu rồi.” Lane nói. “Nhưng tôi chỉ làm ở đó năm năm thôi.”
“Làm thế nào mà ông chuyển sang làm tư vậy?” Tracy hỏi
“Tôi được đào tạo chuyên sâu ngành Hóa học và trở lại để học nốt MBA. Tôi đã luôn sẵn sàng khởi nghiệp và muốn gây dựng sự nghiệp kinh doanh của chính mình. Với những bước tiến của ngành ADN và những vụ án còn tồn đọng ở phần lớn các phòng nghiên cứu tội phạm ở các đô thị lớn, tôi đã nhìn ra cơ hội mà tôi có thể nắm bắt. Chúng tôi là một trong những phòng nghiên cứu tư nhân đầu tiên. Giờ nếu cô tìm kiếm cụm từ “Xét nghiệm ADN tư nhân”, cô có thể nhận được hàng trăm gợi ý.”
“Bao nhiêu phần công việc của ông là để phục vụ cộng đồng?” Kins hỏi.
“Hiện tại là khoảng 60%. Khi chúng tôi mới mở, chúng tôi chỉ đơn thuần phụ giúp cho các phòng nghiên cứu tội phạm. Chúng tôi đã làm rất nhiều xét nghiệm quan hệ huyết thống. Qua các năm, với sự tiến bộ của ngành xét nghiệm ADN và công nghệ để thực hiện việc xét nghiệm, những phòng nghiên cứu tội phạm có thể xử lý các vụ án của họ nhanh hơn nhiều so với lúc tôi còn ở đó, và không còn cần các phòng nghiên cứu tư nữa. Cuối cùng thì, các bạn không còn cần chúng tôi nữa. Các bạn có được hồ sơ ADN của kẻ xấu, đưa nó vào bộ nhớ, và hệ thống sẽ tìm kiếm trong cơ sở dữ liệu chính và cho ra kết quả chỉ trong vài phút.”
Lane ngồi xuống. Tracy và Kins cũng ngồi xuống hai chiếc ghế phía bên kia bàn. “Mike cũng có nói là hai người không cần hướng dẫn gì cả, thế nên tôi sẽ vào thẳng vấn đề, có được không?”
“Được.” Tracy nói.
Lane mở tập hồ sơ thứ nhất ra. “Chúng tôi sử dụng mẫu mà Mike gửi cho chúng tôi để dùng làm cơ sở so sánh với hai mẫu ADN mà cô cung cấp. Mẫu thứ nhất, chúng tôi được hỏi xem đó có phải là dì của nạn nhân hay không.”
“Chính xác.” Tracy nói.
“Chúng tôi có thể xác định ở mức độ chính xác hơn nhiều việc hai người này có họ hàng hay không.” Lane nói. Tracy và Kins đều đã được học về xét nghiệm và phân tích ADN qua vài vụ án, nhưng Tracy để mặc Lane nói tiếp. Bố cô đã từng đưa cô đi mua khẩu súng lục đầu tiên của cô, và mặc dù ông đã dùng súng lục từ khi mới biết đi, ông vẫn kiên nhẫn lắng nghe người bán hàng nói về từng khía cạnh của khẩu súng, sau đó cảm ơn người bán hàng vì sự tận tình của ông ta. Khi họ rời khỏi cửa hàng, Tracy hỏi bố tại sao ông lại lắng nghe bài thuyết giảng kia.
“Ngắt lời một người khi người đó đang nói về chuyên môn của mình cũng giống như nói với anh ta rằng những gì anh ta phải nói không hề quan trọng vậy. Vả lại, con sẽ chẳng bao giờ học được gì nếu con không chịu lắng nghe.”
Lane tiếp tục. “Nhưng nếu không có ADN của ít nhất là cha hoặc mẹ thì chúng tôi không thể chắc chắn được.”
“Cả hai đều đã qua đời rồi.” Tracy nói.
Kins nói: “Vậy ông phát hiện được gì trong trường hợp này?”
“Trong trường hợp này, chúng tôi tiến hành phân tích số liệu dựa trên những kiểu mẫu giống nhau tiêu biểu của những mối quan hệ dì - cháu đã được xác định trước. Bản phân tích này đã cung cấp cho chúng tôi một thứ gọi là “chỉ số thân nhân”. Một cặp dì cháu có liên quan về mặt sinh học cơ bản là có chỉ số thân nhân lớn hơn 1.0. Ngược lại, nếu họ không có liên quan về mặt sinh học, chỉ số thân nhân sẽ nhỏ hơn 1.0. Càng gần hoặc càng xa so với giá trị chỉ số thân nhân là 1.0 thì khả năng hai người có hoặc không có quan hệ huyết thống càng cao.”
“Và trong trường hợp này?” Tracy nói.
“Trong trường hợp này thì giá trị chỉ số thân nhân là ít hơn 1.0.”
Hoóc môn adrenaline dồn lên nhưng Tracy cố gắng hết sức để kiềm chế phản ứng của mình. “Thế nghĩa là họ không có quan hệ huyết thống phải không?”
Lane lắc đầu. “Theo như xác suất thống kê thì bọn họ không hề có.”
“Ông nói là “xác suất thống kê”,” Kins nói. “Chúng ta đang nói về cái gì ở đây vậy? Phần trăm là bao nhiêu?”
“Không đáng kể. Nếu anh muốn phần trăm, tôi có thể nói là 99.95% là họ không có quan hệ huyết thống.”
Kins nháy mắt với Tracy nhưng cũng chẳng nói gì cả. Cô hiểu anh quá rõ để biết rằng anh cũng đang nghĩ điều tương tự.
“Và xét nghiệm kiểm tra quan hệ chị em thì sao?” Tracy hỏi.
Lane đóng tập tài liệu lại, đẩy nó qua phía bên kia bàn cho Tracy, và mở tập thứ hai ra. “Một lần nữa, phương pháp nên làm để quyết định xem hai cá thể có quan hệ chị em về mặt sinh học hay không là phải xét nghiệm cả bố mẹ của họ. Xét nghiệm ADN về quan hệ cha con và mẹ con luôn luôn cho ta kết quả quyết định. Nhưng đó không phải là lựa chọn của chúng tôi, chúng tôi lại một lần nữa sử dụng xác suất. Trong trường hợp này, dựa vào loại vật liệu di truyền được thừa hưởng bởi từng người anh chị em, chúng tôi xác định được thứ gọi là 'chỉ số anh chị em ruột'.”
“Thế ông phát hiện được gì?” Tracy hỏi.
“Chỉ số anh chị em ruột lớn hơn 1. Theo xác suất thống kê thì hai người phụ nữ có hai mẫu gen mà cô cung cấp thực sự là hai chị em ruột.”
Tracy và Kins bước ra khỏi phòng nghiên cứu. Tracy cầm trên tay hai kết quả xét nghiệm. Kins đeo kính râm để tránh ánh nắng chói lóa. “Không có ý gì đâu nhưng một phần trong tôi đã hi vọng rằng chúng ta có kết quả ngược lại.”
“Điều đó có thể khiến mọi thứ dễ dàng hơn.” Tracy đồng ý.
“Nhưng sẽ không thể vui bằng.” Kins nói. “Và từ “dễ dàng hơn” chưa bao giờ là một từ mà tôi gán cho cô cả.”
Tracy dừng lại ở cửa bên phía ghế hành khách, đưa tay che ánh nắng chói lòa của mặt trời. “Thế có nghĩa là gì?”
Kins bấm điều khiển mở khóa cửa với một tiếng “bip”. “Đừng quá đề phòng, tôi chỉ đang nói là có vẻ như gần đây các vụ án của chúng ta thường đi sai hướng. Sẽ thật tốt nếu thi thoảng có một bằng chứng chắc chắn cho hướng đi của chúng ta.”
Họ mở cửa xe và chui vào trong chiếc BMW. Kins khởi động xe và bật điều hòa lên, nhưng trông anh có vẻ không vội di chuyển ngay. “Cô nghĩ chuyện gì đã xảy ra?”
“Tôi nghĩ sẽ là một sai lầm nếu chúng ta suy đoán. Tôi nghĩ ở thời điểm này thì câu hỏi cần đặt ra là bằng chứng cho chúng ta biết được điều gì?”
“Ở thời điểm này thì tôi sẽ chỉ chấp nhận những gì có lý thôi.” Kins nói.
“Vậy thì, hiện tại chúng ta biết chắc chắn rằng Andrea Strickland không phải là người phụ nữ trong lồng cua.” Cô nói. “Mà đó là Devin Chambers.”
“Không hề nghi ngờ gì về việc đó cả.” Kins nói.
“Chúng ta biết rằng Andrea Strickland và Graham Strickland đang gặp vấn đề với hôn nhân và kinh tế. Việc kinh doanh là một thất bại to lớn. Ngân hàng, chủ nhà và các chủ nợ khác đang đập cửa nhà họ với những tờ bảo lãnh cá nhân vì Strickland bắt đầu không trả được nợ. Chúng ta cũng biết rằng Andrea đang ngồi trên một đống tiền nhưng cô ta không để cho chồng mình động vào đó và cô ta e ngại rằng chồng mình bằng cách nào đó sẽ chiếm đoạt được số tiền ấy để trả cho những tay chủ nợ.”
“Đúng vậy.” Kins nói.
“Chúng ta cũng biết rằng hắn lừa dối cô ta, và nếu anh tin những gì Andrea nói với sếp của cô ta, hắn vẫn tiếp tục ngoại tình - có thể là với bạn thân của cô ta.”
“Có phải vậy không, hay cô ta chỉ muốn mọi người nghĩ rằng hắn vẫn đang lừa dối cô ta vì điều đó rất phù hợp với hồ sơ của một người đàn ông có lý do để giết vợ mình? Cũng giống như hợp đồng bảo hiểm mà hắn tuyên bố rằng hắn chẳng biết gì về nó.
“Giả sử hẳn có ngoại tình đi.” Tracy nói. “Nếu người mà hắn qua lại là Devin Chambers thì sao? Đó chính là động cơ để hắn giết Chambers.”
“Đó cũng có thể là động cơ để Andrea giết Chambers.” Kins nói. “Nếu Andrea vẫn sống, và tôi nghĩ là vậy đấy và có ai đó đã mang số tiền kia đi.” Anh lái xe ra khỏi bãi đậu xe. “Đi ăn gì đó đi! Có lẽ đồ ăn sẽ giúp chúng ta nghĩ thông suốt chuyện này.”
“Tôi biết một chỗ.” Tracy nói. “Lớp học nghiệp vụ của tôi thường tới đó.”
Cô chỉ đường cho anh tới quán bar Tin Room ở 152 phố Southwest, trung tâm Burien. Trước đây, đó từng là một cửa hàng thiếc khi khu phố này còn là một chuỗi những cửa hàng kinh doanh công nghiệp nối đuôi nhau, sau đó tòa nhà này được mua lại bởi một doanh nhân địa phương và ông ta đã biến một nửa tòa nhà thành rạp chiếu phim và nửa còn lại thành quán bar và nhà hàng mang phong cách chiết trung. Những dụng cụ của cửa hàng thiếc được treo trên tường và những chiếc bàn làm việc thì được chuyển thành bàn ăn. Cuộc cải tạo đã tạo nên sự hồi sinh cho khu phố, hiện giờ đây là nơi tọa lạc của sáu nhà hàng và quán bar khác.
Tracy và Kins chọn một bàn ở ngay bên dưới bức họa nghệ sĩ Mick Jagger, trưởng nhóm nhạc rock Rolling Stones. Cô gọi một suất taco cá và một cốc trà chanh. Kins gọi một phần hamburger và Coke dành cho người ăn kiêng. Modern Love, một trong những bài hát cuối cùng, vĩ đại và nổi tiếng nhất của David Bowie, được phát trên những chiếc loa ngay phía trên đầu. Vài người đàn ông và cả phụ nữ trong quán bar đang ngồi xem một trận đấu của đội Mariners trên màn hình ti vi.
“Chúng ta lại quay lại từ đầu phải không?” Kins nói. “Giờ chúng ta đang có ba tình huống. Hoặc là Graham Strickland thực sự đã giết vợ của mình và khiến cho nó trông như là một tai nạn. Hoặc là cô ta đã chết trên núi và đó thực sự là tai nạn. Hoặc là, cô ta lừa chồng, xuống núi và dựng lên việc hắn đã giết cô ta và cô ta vẫn còn sống.”
“Hãy bắt đầu từ tình huống đầu tiên đi.” Tracy nói. Cô nhấp một ngụm trà chanh rồi để cốc sang một bên, dùng một tờ giấy ăn cùng một chiếc bút để lập biểu đồ những suy nghĩ của mình. “Khi đang đứng bên bờ vực của sự khủng hoảng tài chính, hắn đã đẩy vợ mình xuống núi và nghĩ rằng hắn sẽ lấy được tiền bảo hiểm và khoản tiền tín thác mà cô vợ vẫn giấu hắn. Nhưng Văn phòng Công tố quận Pierce tuyên bố hắn là kẻ bị tình nghi, công ty bảo hiểm sẽ không chi trả tiền bảo hiểm, còn khoản tiền tín thác của người vợ thì lại biến mất. Trong tình huống đó, rõ ràng người lấy tiền tín thác phải là Devin Chambers, đúng không?”
“Có vẻ là vậy. Cô ta trả tiền để làm lại mặt và lấy luôn cái tên giả của Strickland.”
“Được rồi, vậy là trong tình huống đó, người chồng đã thuê người săn lùng tung tích.” Tracy nói. “Người săn lùng tung tích tìm thấy Devin Chambers, người chồng bắt được, giết cô ta và cuỗm trọn số tiền trong tài khoản ngân hàng.”
“Đến đây thì tôi đồng ý với cô.” Kins nói.
“Tình huống thứ hai.” Tracy nói. “Hắn định giết Andrea, hoặc có thể là không, nhưng trong thời gian đó, cô ta đã chết vì tai nạn.”
“Theo ý của tôi thì đây là tình huống khó xảy ra nhất, nhưng để lập luận thì mọi thứ còn lại vẫn y nguyên như tình huống đầu.” Kins nói.
“Đồng ý!” Tracy nói. “Còn lại tình huống thứ ba.”
“Cô ta lừa hắn. Cô ta phát hiện ra người chồng định giết mình khi ở trên núi, thế nên đã tự tạo dựng cái chết của mình, xuống núi, mang theo số tiền từ tài khoản tín thác, và vẫn còn sống đâu đó ngoài kia.” Kins nói. “Vậy người chồng biết mình bị lừa khi nào - khi hắn tỉnh dậy trong lều vào sáng hôm sau?” Kins nói.
“Có lẽ, nhưng nhiều khả năng nhất là khi Fields tới gõ cửa nhà hắn để hỏi về hợp đồng bảo hiểm mà hắn đáng lẽ được hưởng nhưng lại chẳng hề hay biết, và nói với hắn rằng vợ hắn đã từng gặp một luật sư chuyên giải quyết vấn đề ly hôn và cáo buộc rằng hắn lại ngoại tình.”
Nữ bồi bàn quay lại với món taco của Tracy và suất burger của Kins. Tracy đặt miếng giấy ăn sang một bên để lấy chỗ để đồ ăn. Kins cầm chai tương cà phun lên chiếc bánh của mình.
“Và giờ thì hắn có những vấn đề lớn hơn.” Kins nói, đập nhẹ vào đáy chai. “Quá trình điều tra cản trở việc được trả tiền bảo hiểm, và tài khoản tín thác của Andrea đã biến mất cùng với bạn gái của hắn, nhưng những tên chủ nợ vẫn gõ cửa nhà hắn và giờ hắn đang mất tất cả mọi thứ.”
“Và hắn đang thắc mắc không biết việc số tiền biến mất và việc Devin biến mất có liên quan gì đến nhau không.” Tracy nói, lấy một miếng khoai chiên của Kins. “Nên hắn sử dụng tài khoản email ảo để truy lùng Chambers.”
“Gã săn lùng tung tích nói rằng lúc đầu khách hàng tìm kiếm “Lynn Hoff”,” Kins nói. “Vậy làm thế nào mà người chồng biết được về Lynn Hoff?”
“Có lẽ là Devin Chambers.” Tracy nói. “Nếu cô ta và Graham Strickland đã cộng tác với nhau ngay từ đầu.”
“Nếu họ không phải như vậy thì sao?”
“Vậy thì tôi không biết. Có lẽ thứ gì đó ở trong nhà đã cảnh báo hắn ta.”
Kins cắn một miếng burger và lau tay vào miếng khăn lụa trên đùi. “Cô nghĩ rằng có thể Andrea đã nhờ cậy Devin Chambers?”
“Có thể đấy. Sếp của cả hai nói rằng họ rất thân thiết, có lẽ đó là người bạn duy nhất của Andrea.”
“Vậy khi cô ta phát hiện ra bạn thân ngủ với chồng mình, tại sao cô ta không bí mật bỏ đi? Tại sao lại lên núi làm gì?”
“Tôi nghĩ được hai lý do. Một là, cô ta đã tiết lộ cho Devin về Lynn Hoff, thế nên Devin sẽ biết được cách theo dõi cô ta và cả số tiền.”
Kins chấm một miếng khoai tây chiên vào xốt cà chua và bỏ vào miệng. “Được rồi, vậy lý do thứ hai là gì?”
“Bác sĩ tâm lý mà tôi nói chuyện cũng nói rằng có thể những năm tháng bị lạm dụng đã dẫn đến chứng rối loạn phân li, Andrea sẽ thay đổi rất nhanh nếu cô ta phải chịu đựng một số chấn thương khủng khiếp, hoặc là khi cô ta cảm thấy bị bỏ rơi hay tuyệt vọng.”
“Ví dụ như việc phát hiện ra người bạn duy nhất ngủ với chồng mình và đang cố gắng để tước đoạt khoản tiền tiết kiệm của mình?” Kins nói.
“Vậy nên cô ta chạy trốn không phải là để mọi người không tiếp cận được cô ta, mà là để trừng phạt cả hai người bọn họ.”
“Vậy ý của cô là, trong tình huống này, Andrea Strickland phải khiến cho mọi việc trông như thể người chồng đã giết cô ta ở trên núi và Chambers cũng tham gia vào.” Kins nói, cắn thêm một miếng nữa.
“Cô ta kí hợp đồng bảo hiểm, gặp luật sư chuyên giải quyết các vụ li dị, và gợi ý về việc chồng cô ta lại ngoại tình lần nữa.” Tracy nói. “Sau đó, cô ta thuê gã săn lùng tung tích tìm kiếm Devin Chambers. Chambers biến mất và mọi người đều nghĩ việc đó là do người chồng gây ra.”
“Tại sao Devin Chambers lại chạy trốn?”
“Cơ hội để bắt đầu cuộc sống mới với nửa triệu đô la tiền mặt.” Tracy nói.
“Có thể.” Kins nói. “Nhưng cô không nghĩ tới khả năng người chồng đã giết Chambers, nhưng Andrea Strickland đã mang số tiền đi trước khi hắn ta lấy được nó à?”
“Tôi không biết.”
“Tôi nghĩ cô ta vẫn còn sống.” Kins nói.
“Chúng ta cần tìm gã khách hàng kia. Có lẽ sẽ có cách nào đó để tìm hiểu xem những cái email kia bắt nguồn từ đâu. Nếu như chúng ta thu hẹp được phạm vi chỉ còn trong một thành phố nào đó thì chúng ta có thể xác định xem đó là người chồng hay là cô ta.”
Kins đặt chiếc hamburger xuống và tiếp tục nhấm nháp phần khoai chiên của mình. “Tôi tưởng cô nói rằng đó là email ẩn danh.”
“Chẳng có gì là hoàn toàn ẩn danh đâu. Anh còn nhớ sinh viên trường Harvard từng bị bắt vì gọi điện thoại dọa đánh bom chỉ để thoát bài kiểm tra cuối kì không?”
“Tôi không nhớ rõ lắm.”
“Tối hôm trước tôi đã tìm kiếm rồi. Cậu nhóc đó sử dụng tài khoản email ảo và một máy chủ ẩn danh, nhưng FBI điều tra ra rằng cậu nhóc đã đăng nhập bằng Wi-Fi của trường Harvard. Chúng ta không cần thiết phải liên kết các tài khoản email với một máy tính nào hết. Chúng ta chỉ cần chỉ ra chúng xuất phát từ những nơi như kiểu quán Starbucks ở Portland gần nhà Graham Strickland, hay một nơi nào đó mà Andrea đang ẩn nấp là được.” Tracy vỗ lên hai tập hồ sơ từ ALS. “Nhưng việc đầu tiên chúng ta cần phải làm là đưa thứ này cho Nolasco và Martinez để nói với họ rằng cái xác trong lồng cua không phải Andrea Strickland. Thế có nghĩa là quận Pierce không có bất kì căn cứ nào để tiếp quản quyền điều tra bởi vì sẽ chẳng có mối liên hệ nào giữa vụ mưu sát của chúng ta và vụ án mất tích của họ.”
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt