Đoạn Khép
iữa Lôdan và Moocgiơ, đường xe lửa xuyên qua núi dài khoảng hai cây số. Phía tây miệng hầm mở ra một khung cảnh man dại của những rừng thông mênh mông, leo lên sườn một thung lũng dựng đứng; dưới lòng thung, một con suối lạnh ngắt chảy.
Gia đình Humlơ đã đến cắm trại và ăn ngoài trời ở bên con suối đó: ông bố, Frăng Humlơ, đã viện cớ trời đẹp và ngày nghỉ thứ bảy của mình để đưa vợ và hai con, Giăng Frăngxoa mười một tuổi, Misen chín tuổi, đi chơi xa.
- Mẹ, - Misen nói, - chúng con leo lên đồi được không?
- Con đã ăn hết bánh ga tô của con đâu nào?
- Con không ăn nữa.
Biêghit gói cẩn thận những thứ thừa lại của bữa ăn vào trong một cái túi nhựa. Lúc lên đường, chị sẽ cất nó vào thùng xe để mang về Moocgiơ vất vào thùng rác. Khi chị dọn dẹp xong, không còn một mẩu bánh, một mảnh giấy nào làm bẩn cỏ cả. Nếu không sợ bị cười, chị còn đẩy cái cơn bệnh ám ảnh về sự sạch sẽ lên tới chỗ vuốt phẳng lại cỏ ở chỗ họ ngồi nữa kia.
- Các con đừng đi xa đấy... Giăng Frăngxoa nhớ trông em.
Misen khinh khỉnh nhún vai:
- Con cũng lớn bằng anh ấy rồi.
- Đừng để bẩn, - bà mẹ thêm.
Hai đứa trẻ chạy ra xa, thốt lên những tiếng hét của người da đỏ.
- Frăng, anh mở cho em cái thùng xe với?
Frăng lại bên chiếc Vonvô màu đỏ cà chua mới toanh, quỳ xuống, thấm nước bọt vào đầu ngón tay và bắt đầu cọ nhẹ một vết bùn tí xíu ở bên dưới hòm xe.
- Anh mở cho em không? - Biêghit nhắc lại cố giữ không phì cười.
- Tại sao em cười?
- Anh như trẻ con ấy.
- Nó có đẹp không, không à?
- Tuyệt...
- Mà nếu ta cho chạy thử một tí nhỉ, tội gì ở lại đây?
- Frăng, ở đây dễ chịu quá chứ... Anh sẽ có bao nhiêu dịp thử nữa cơ mà.
Chị đặt cái túi xuống và định đóng thùng xe lại. Anh vội sấn tới.
- Khoan, đừng sờ vào. Chớ đóng sầm. Chỉ đẩy nhè nhẹ thế này thôi.
- Nào đi! - Biêghit phì cười. - Đi tìm đám quỷ sứ.
Chị cầm tay anh kéo đi. Họ đã uống hết một chai rượu vang Andax được ngâm cho lạnh buốt ở dưới suối. Không khí dịu, rất tươi lành, nhẹ và trong suốt. Họ leo dốc, len lỏi qua những cây thông, đôi khi trượt chân trên tấm thảm lá kim của chúng.
- Anh có thấy các con không? - Biêghit hỏi.
Frăng đưa mắt nhìn theo sườn dốc dựng đứng cắt dừng lại ở suốt dọc con đường xe lửa ngoằn ngoèo. Ở bên dưới kia, rất gần đường sắt, anh trông thấy những vết đỏ và xanh lơ của quần áo con mình. Chúng bất động, tí xíu trong một khe hẻm toàn thông là thông.
- Frăngxoa! Misen! - Frăng hét.
Hai đứa trẻ vung tay ra hiệu gọi họ đến chỗ chúng đứng, dưới gốc cây thông, có một bầy quạ cứ bay lượn ở trên. Ở ngọn cây, một mảng tuyết mà mặt trời chói chang mùa này vẫn chưa làm tan đi được.
- Lại đây, - Frăng nói.
Họ leo tiếp. Khi họ đến gần, có thể nghe được rồi, Giăng Frăngxoa và Misen gọi to lên:
- Bố, mẹ! Lại đây xem... Chim!
- Mẹ tưởng mẹ đã bảo các con không được đi xa cơ mà, Biêghit nghiêm trọng trách.
- Bố! Frăngxoa bảo đấy là quạ! Không đúng phải không bố?
Đứt hơi, Frăng ngửng đầu lên. Các con quạ hình như đang tranh nhau một cái gì, cánh chúng sột soạt và những mảnh tuyết cứng rơi xuống vì cuộc tranh giành.
- Chúng làm cái gì đấy bố?
- Chúng ăn cái cây à?
Frăng đi xa ra vài mét. Lúc này anh đang ở ngay dưới đường sắt, chỗ miệng hầm đổ ra, nơi ngọn các cây thông chạm tới. Anh nhìn kỹ hơn. Ở một kẽ hở, kẹt giữa hai cành cây, anh trông thấy một người đàn ông, mặt ngửa lên trời. Hai con quạ đang moi mắt cái xác.
Những con khác bay chập choạng bên trên, chờ chiếm lấy chỗ đậu.
- Đi xuống dưới xe đi, - Frăng nói, giọng như người ngậm bông.
- Bố trông thấy cái gì thế bố? - Giăng Frăng lại gần hỏi.
- Con có đi không hử? - Anh cáu.
Anh vẫy vẫy mạnh tay ra hiệu cho vợ.
- Biêghít, dẫn con đi.
Qua giọng anh, chị biết anh đang chứng kiến một cái gì khốc liệt lắm. Chị không muốn biết là gì cả. Chị cầm lấy tay hai đứa con.
- A lê hấp, ta chạy thi nào. Frăng thấy ba người chạy đổ xuống dốc, qua những thân cây.
Người đàn ông - cái còn lại của người đó - mặc một bộ complê sẫm màu rất sang. Chiếc đồng hồ đeo tay toé trả lại ánh nắng bằng trăm nghìn mũi tên vàng li ti. Ngay ở cách năm sáu mét người ta đã thấy được chiếc giầy chân trái làm bằng một loại da đắt tiền. Cái xác không có chân phải. Ngang bẹn, nơi bị tiện đứt, đã phủ một lớp vẩy bằng máu đông.
Frăng rùng mình và cắm đầu chạy về con suối.
HẾT
[1] Tiếng lóng, chi tổ chức Mafia (các chú thích là của người dịch).
[2] Ngân hàng Quốc gia Thụy Sĩ.
[3] Nguyên văn tiếng Ý và Bồ Đào Nha, nghĩa như ngài.
[4] Trùm băng Mafia Chicago (Mỹ), lừng danh những năm 30.
[5] Nguyên văn tiếng Ý, có nghĩa Trùm sò. Từ nay đều dùng nguyên văn “capo” trong truyện.
[6] Một hãng đồng hồ cao cấp Thụy Sĩ.
[7] Tên tắt Mặt Trận Giải Phóng dân tộc Angiêri (tiếng Pháp).
[8] Hãng xì gà nổi tiếng, chủ là ngươi gốc Nga, tại Paris.
[9] Nguyên văn tiếng Ý, nghĩa là ôm hôn.
[10] Đại danh hoạ Pháp cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
[11] Đại danh họa và nhà bách khoa Ý thời Phục Hưng.
[12] Nguyên văn tiếng Ý: có nghĩa là ngài, ông, ý kính trọng.
[13] T – Shirt: Áo phông hình chữ T (của Mỹ).
[14] Nguyên văn tiếng Ý, có nghĩa: em yêu của anh.
[15] Khu tập trung người Do Thái. Halem là khu da đen ở New York.
[16] Hai nhà ngôn ngữ học nổi tiếng.
[17] Hãng thời trang, mỹ phẩm nổi tiếng thế giới của Pháp.
[18] Nhân vật cướp vặt nổi tiếng của điện anh Mỹ những năm 30.
[19] Paul Nevman diễn viên điện ảnh Mỹ nổi tiếng những năm 60, 70.
[20] Marylin Monroe nữ diễn viên điện ảnh Mỹ nổi tiếng, tự sát năm 1962.
[21] Tổ chức cảnh sát quốc tế phối hợp hành động giữa các nước.
[22] Nguyên văn tiếng Ý: Mặt trời của tôi, ca khúc Ý nổi tiếng.
[23] Nguyên văn tiếng Ý: cố vấn. Tác giả lầm chỗ này, trong truyện, nhân vật này toàn là trợ lý của capô thôi, chưa hề là cố vấn.
[24] Nguyên văn tiếng Ý: Tại sao?
[25] Nguyên văn tiếng Ý, có nghĩa là lạy Đức Mẹ đồng trinh.
[26] Nguyên văn tiếng Ý: người anh của em…
[27] Nguyên văn tiếng Ý: Ông chủ.
[28] Tiếng Ý: Em đang làm gì?
[29] Tiếng Ý: Không thể tin được Và đáng sợ.
[30] Tiếng Ý: Không có gì …
[31] Nguyên văn tiếng Ý: Xin hôn tay.
[32] Tiếng Ý, tên gọi của Maphia, có nghĩa: Chính nghĩa chúng ta.
[33] Tiếng Anh có nghĩa “Giấy bạc Liên bang”.
[34] Giấy bạc này thanh toán hợp pháp mọi nợ nần, công và tư.
[35] Tiếng Latinh: Khối thống nhất của nhiều người (Khẩu hiệu nước Mỹ).
[36] Tiếng lóng là người phá hoại hoạt đông ngầm.
[37] Nguyên văn tiếng Anh: Mày hiểu đấy.
[38] Hoạ sĩ Tây Ban Nha.
[39] Hai thứ rượu sâm banh nổi tiếng của Pháp. Bản thực đơn này có “tính lật đổ”, cho nên thứ tư món ăn, thức uống đều đặt lộn tùng phèo.
[40] Nguyên văn tiếng Ý: một người đáng trọng.
[41] André Gide Nhà văn lớn của Pháp.
[42] Một họa sĩ và điêu khắc nổi của Ý
[43] Trong nguyên văn dùng ngôi thứ hai. Vì trong tiếng nước ngoài không phân biệt nam nữ ở ngôi thứ hai.
[44] Một loại nhạc của người da đen.
[45] Một cách chơi chữ không dịch được. Tiếng “Bedờ” kéo dài âm “e” ra có nghĩa là giao hợp. Còn Bedờ là tên một vị thánh.
[46] Nơi nghỉ mát nổi tiếng ở miền Nam nước Pháp.
[47] Đội bóng rô nhà nghề Mỹ, toàn người da đen.
[48] Nguyên văn tiếng Ý, có nghĩa là: Tôi cũng là người Ý! Ở đâu? Ở Amanphi.
[49] Nguyên văn tiếng Anh, có nghĩa là kiểm tra.
[50] Một hoá chất gây mê.
[51] Nguyên văn tiếng Ý: - Chị là người Ý? Đúng! Ở đâu?
[52] Nguyên văn tiếng Ý: một lời chửi thề có cả Chúa lẫn cái bẩn thỉu.
[53] Đừng làm thế, người anh em
[54] Giết tao chứ đừng làm thế.
[55] Con lợn.
[56] Một loại ma tuý nhẹ, hút như thuốc lá.
[57] Nguyên văn tiếng Mỹ: Nào lại đây hát với tôi.
[58] Nguyên văn tiếng Ý: Anh cũng thế, em yêu.
[59] Chủng tộc da trắng ở Bắc Âu, Bắc Ấn.
[60] Nguyên văn tiếng Ý: Đứng lên, anh không phải người lạ.
[61] Nguyên văn tiếng Ý: bạn tôi.
[62] Nguyên văn tiếng Ý: một người đáng kính trọng.
[63] Địa điểm quân sự, nơi lưu trữ kho vàng của Mỹ.
[64] Tiếng Ba Tư: Vua.
[65] Nguyên văn tiếng Ý: Trường hợp chúng ta không thể được.
[66] Tiếng Đức, nghĩa là ông, ngài.
[67] Nguyên văn tiếng Ý: Thằng tráo trở.
[68] Nguyên tiếng Ý: Cứt đái thừa mứa ê hề.
[69] Nguyên văn tiếng Ý: Đức Mẹ.
[70] Nguyên văn tiếng Ý: Lạy chúa, ông chủ đi gấp lên.
[71] Một thứ máy đánh bạc tự động, cho đồng xu vào rồi chọn số lấy.
[72] Nguyên văn tiếng Ý: ông trùm của những ông trùm.
Đồng Tiền Thấm Máu Đồng Tiền Thấm Máu - Pierre Rey Đồng Tiền Thấm Máu