Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Phi Trường
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Phần II 13
T
hanh tra Hải quan Hoa Kỳ Harry Standish không nghe thấy thông báo về việc khởi hành sắp đến của Chuyến Hai, nhưng biết rằng nó đã được thực hiện. Thông báo chuyến bay không được chuyển đến Phòng hải quan, vì chỉ có hành khách quốc tế đến mới tới đó, vì vậy Standish có được thông tin đó trên điện thoại, từ Trans America Airlines. Ông đã được thông báo rằng Chuyến Hai bắt đầu cho kháhc lên ở cổng bốn mươi bảy và sẽ khởi hành vào thời gian được lên lịch lại là 11:00 PM.
Standish đang xem đồng hồ và sẽ đến cổng bốn mươi bảy trong vài phút, không phải vì công việc chính thức, mà là để nói lời tạm biệt với cháu gái của mình, Judy - con của em gái ông - người sắp tốt nghiệp ở châu Âu năm sau. Standish đã hứa với em gái mình, đang sống ở Denver, rằng ông sẽ tiễn Judy đi. Đầu giờ tối, trong nhà ga, ông đã dành một chút thời gian với cháu gái của mình - một cô gái dễ chịu, tự chủ, mười tám tuổi - và nói rằng ông sẽ ghé qua để tạm biệt lần cuối trước khi chuyến bay của cô cất cánh.
Còn lúc này, Thanh tra Standish đang cố gắng giải quyết một vấn đề mệt mỏi ở gần cuối của một ngày đặc biệt vất vả.
“Thưa bà”, ông ôn tồn nói với người phụ nữ gầy nhom, kiêu kỳ có vài chiếc vali được trải rộng trên bàn kiểm tra hải quan giữa họ, “Bà có chắc là không có điều gì phải sửa lại trong tờ khai của mình không?”
Bà ta cáu kỉnh quay lại, “Tôi cho rằng ông đang đề nghị tôi nên nói dối, khi tôi đã nói với ông sự thật. Thực sự mọi người thật đáng ghét, quá khó tính, đôi khi tôi tự hỏi liệu chúng tôi có đang sống trong nhà nước cảnh sát hay không”.
Harry Standish phớt lờ lời nhận xét thứ hai, vì các nhân viên Hải quan được đào tạo để bỏ qua nhiều lời lăng mạ mà người ta nói với họ, và trả lời một cách lịch sự, “Tôi không đề nghị gì cả, thưa bà. Tôi chỉ hỏi bà có muốn sửa đổi lời khai của mình về những món đồ này - váy, áo len và áo khoác lông hay không thôi”.
Người phụ nữ có hộ chiếu Mỹ cho thấy là bà Harriet Du Barry Mossman sống ở Evanston, và vừa trở về sau một tháng ở Anh, Pháp và Đan Mạch, đã trả lời một cách chua chát, “Không. Tôi không sửa đổi gì cả. Hơn nữa, nếu luật sư của chồng tôi nghe về cuộc thẩm vấn này...”
“Vâng, thưa bà”, Harry Standish nói. “Trong trường hợp đó, tôi đề nghị bà cảm phiền ký vào tờ khai này. Nếu bà muốn, tôi sẽ giải thích cho bà”.
Những bộ váy, áo len và áo khoác lông được trải ra trên các vali. Bà Mossman đã mặc chiếc áo khoác - một chiếc áo khoác cỡ lớn - cho đến vài phút trước khi Thanh tra Standish đến trạm kiểm tra hải quan số mười một; ông đã yêu cầu bà cởi áo khoác ra để ông có thể nhìn nó kỹ hơn. Ngay trước lúc đó, một cái đèn đỏ trên một bức tường gần trung tâm của phòng Hải quan rộng lớn đã báo hiệu cho Standish. Mỗi trạm có một cái đèn, nó bật sáng để chỉ ra rằng một nhân viên hải quan có vấn đề và cần sự giúp đỡ của thanh tra.
Bây giờ, anh hải quan trẻ tuổi người đã tiếp bà Mossman ban đầu đang đứng bên cạnh Thanh tra Standish. Hầu hết các hành khách khác, những người đã đến trên một chiếc Scandinavian Airlines DC-8 từ Copenhagen đã làm xong thủ tục Hải quan và đã rời đi. Chỉ có người phụ nữ Mỹ ăn mặc đẹp đẽ này đặt ra một vấn đề, nhấn mạnh rằng tất cả những gì bà đã mua ở châu Âu là một số nước hoa, trang sức cho quần áo và giày. Tổng giá trị khai báo là chín mươi dollar - ít hơn mười dollar so với mức miễn trừ mà bà được phép. Viên hải quan trẻ đã nghi ngờ.
“Tại sao tôi nên ký vào cái gì đó?” Bà Harriet Du Barry Mossman hỏi.
Standish liếc nhìn chiếc đồng hồ trên cao; lúc đó là mười một giờ kém mười lăm. Ông vẫn còn thời gian để hoàn thành việc này và đi đến Chuyến Hai trước khi nó rời đi. Ông kiên nhẫn trả lời, “Để làm mọi thứ dễ dàng hơn cho bà, thưa bà. Chúng tôi chỉ yêu cầu bà xác nhận bằng văn bản những gì bà đã nói với chúng tôi. Bà nói rằng những chiếc váy đã được mua...”
“Tôi phải nói với ông bao nhiêu lần nữa? Chúng được mua ở Chicago và New York trước khi tôi đi châu Âu; áo len cũng vậy. Chiếc áo khoác là một món quà - được mua ở Hoa Kỳ. Tôi đã được tặng nó sáu tháng trước.
Harry Standish tự hỏi, Tại sao mọi người làm điều đó để làm gì? Ông biết chắc chắn, tất cả các tuyên bố vừa được bà ta nói ra đều là dối trá.
Để bắt đầu, những chiếc váy - sáu cái, tất cả đều có chất lượng cao - đều bị cắt mất nhãn hiệu. Không ai làm điều đó một cách ngây thơ vô tội cả; phụ nữ thường tự hào về nhãn hiệu của các hãng thời trang trong quần áo. Thêm vào đó - tay nghề để may những chiếc váy là của người Pháp, không thể nhầm lẫn được; kiểu dáng của áo khoác lông cũng vậy - mặc dù nhãn Saks Fifth Avenue đã được may một cách khéo léo trong lớp lót áo khoác. Điều mà những người như bà Mossman không nhận ra là một người làm Hải quan được đào tạo không cần phải xem nhãn để biết hàng may mặc có nguồn gốc từ đâu. Cắt, khâu - ngay cả cách đặt dây kéo - giống như chữ viết tay quen thuộc, đều đặc biệt chỉ rõ tác giả là ai.
Điều tương tự cũng đúng với ba chiếc áo len đắt tiền. Chúng cũng không có nhãn mác, và không thể nhầm lẫn là từ Scotland, với các sắc thái điển hình của người Anh, không có ở Hoa Kỳ. Khi một cửa hàng ở Hoa Kỳ đặt mua áo len tương tự, các nhà máy Scotland đã làm cho chúng có màu sắc sặc sỡ hơn, mà thị trường Bắc Mỹ ưa chuộng. Tất cả điều này, và nhiều thứ khác, các nhân viên Hải quan đã học như một phần trong khóa đào tạo của họ.
Bà Mossman hỏi, “Điều gì sẽ xảy ra nếu tôi ký vào tờ khai?”
“Sau đó bà có thể đi, thưa bà”.
“Và mang những thứ này đi với tôi chứ? Tất cả mọi thứ của tôi?”
“Đúng vậy”.
“Giả sử tôi từ chối, không ký?”
“Khi đó, chúng tôi bắt buộc phải giữ bà ở đây trong khi chúng tôi tiếp tục điều tra”.
Có một chút do dự ngắn ngủi, rồi: “Rất tốt. Ông ghi vào tờ khai đi; tôi sẽ ký”.
“Không được, thưa bà; bà phải tự tay ghi. Đây, xin vui lòng mô tả các mặt hàng, và bên cạnh là tên của các cửa hàng và địa chỉ nơi bà nói đã mua chúng. Cũng vậy, vui lòng cho biết tên người đã tặng bà chiếc áo khoác lông...”
Harry Standish nghĩ: Ông sẽ phải rời đi trong một phút; bây giờ là mười một giờ kém mười. Ông không muốn đến Chuyến Hai sau khi cánh cửa đã đóng. Nhưng trước tiên ông có linh cảm...
Ông chờ đợi trong lúc Bà Mossman hoàn tất tờ khai rồi ký vào đó.
Bắt đầu vào ngày mai, một nhân viên điều tra sẽ bắt đầu kiểm tra tuyên bố mà bà Mossman vừa đưa ra. Những chiếc váy và áo len sẽ được trưng dụng và đưa đến các cửa hàng nơi bà tuyên bố đã mua; chiếc áo khoác lông sẽ được đưa đến Saks Fifth Avenue, nơi chắc chắn sẽ không nhận ra nó... Bà Mossman - mặc dù bà chưa biết điều đó - đã gặp rất nhiều rắc rối, bao gồm một số tiền thuế hải quan nặng nề phải trả, và gần như chắc chắn một số tiền phạt lớn.
“Thưa bà”, Thanh tra Standish nói, “Bà còn gì khác muốn khai báo không?”
Bà Mossman thình lình nổi giận, “Chắc chắn là không!”
“Bà có chắc không?” Nguyên tắc của Hải quan là cung cấp cho khách du lịch cơ hội tối đa để khai báo tự nguyện. Hải quan bị cấm không được cố tình đưa họ vào bẫy trừ khi họ tự sa vào đó.
Không thèm trả lời, bà Mossman nghiêng đầu khinh bỉ.
“Trong trường hợp đó, thưa bà”, Thanh tra Standish nói, “Bà có vui lòng mở túi xách của mình không?”
Lần đầu tiên người phụ nữ kiêu căng phản bội sự tự tin của mình. “Nhưng chắc chắn, túi xách không bao giờ bị kiểm tra. Tôi đã qua Hải quan nhiều lần...”
“Bình thường thì không. Nhưng chúng tôi vẫn cỏ quyền”.
Yêu cầu xem bên trong túi xách của phụ nữ là rất hiếm; giống như túi của một người đàn ông, một chiếc túi xách được coi là cá nhân và hầu như không bao giờ bị xem xét. Nhưng khi một cá nhân chọn sự khó khăn, nhân viên Hải quan cũng có thể khó khăn theo.
Bà Harriet Du Barry Mossman miễn cưỡng mở túi xách.
Harry Standish kiểm tra một thỏi son và hộp phấn bằng vàng. Khi ông thăm dò bột trong hộp phấn, ông rút ra một chiếc nhẫn đính kim cương và ngọc ruby: ông thổi bột trên chiếc nhẫn. Có một ống kem dưỡng da tay, đã được sử dụng một phần. Cuộn ống ra, ông có thể thấy đáy nó đã bị mở ra. Khi ông ấn gần đỉnh ống kem, có thứ gì đó cứng bên trong. Ông tự hỏi khi nào thì những kẻ buôn lậu mới nghĩ ra cách giấu gì đó mới hơn. Thủ đoạn cũ rích! Ông đã nhìn thấy tất cả chúng nhiều lần quá rồi.
Có thể thấy bà Mossman tái mặt. Thái độ kiêu ngạo của bà đã biến mất.
“Thưa bà”, Thanh tra Standish nói, “Tôi phải rời đi một thời gian ngắn, nhưng tôi sẽ quay lại. Trong mọi trường hợp, điều này sẽ mất một chút thời gian”. Ông chỉ thị cho nhân viên Hải quan trẻ tuổi bên cạnh, “Kiểm tra mọi thứ khác thật cẩn thận. Kiểm tra lớp lót của túi xách và vali, đường may và đường viền của tất cả quần áo. Lập danh sách. Cậu biết phải làm gì rồi đó”.
Ông đang rời đi thì bà Mossman gọi theo. “Thưa ông!”
Ông dừng lại. “Vâng, thưa bà”.
“Về áo và váy... có lẽ tôi đã sai lầm... Tôi đã nhầm lẫn. Tôi đã mua chúng, và có một số thứ khác...”
Standish lắc đầu. Điều mà mọi người dường như không bao giờ học được là phải có một điểm giới hạn ở đâu đó; qua khỏi điểm giới hạn đó, là không thể quay đầu lại được nữa. Ông nhận thấy rằng cậu nhân viên trẻ đã tìm thấy thứ gì đó khác.
“Xin vui lòng!... Tôi cầu xin ông... chồng tôi...” Khi Thanh tra quay đi, khuôn mặt của người phụ nữ trắng bệch và đờ đẫn.
Bước vội vã, Harry Standish đã sử dụng một lối đi tắt dành cho nhân viên, bên dưới tầng công cộng của nhà ga, để đến sảnh “D” và cổng bốn mươi bảy. Trong lúc đi, ông ngẫm nghĩ về sự dại dột ngu ngốc của bà Harriet Du Barry Mossman và những người như bà ta. Nếu bà ta thành thật về áo khoác và váy, và khai thật về chúng, tiền thuế phải trả sẽ không lớn, đặc biệt đối với một người rõ ràng là rất giỏi. Cậu nhân viên Hải quan trẻ, mặc dù chú ý đến áo váy, có lẽ sẽ không bận tâm nhiều đến chúng; và chắc chắn túi xách của bà ta sẽ không được kiểm tra. Những nhân viên hải quan nhận thức được rằng hầu hết khách du lịch khi quay về đều có mang lậu một chút gì đó và thường khoan dung với điều đó. Ngoài ra, nếu được hỏi, họ sẽ giúp mọi người kê khai các mặt hàng cao cấp như thế nào để được giảm thuế, và miễn thuế đối với các mặt hàng khác có mức giá thấp hơn.
Còn những người bị bắt, bị phạt, và đôi khi bị truy tố, luôn là những người tham lam vô độ như bà Mossman, người đã cố mang thoát mọi thứ. Điều khiến Harry Standish chán ngán hôm nay là có quá nhiều người khác cùng loại như bà ta.
Ông cảm thấy nhẹ nhõm khi thấy cửa ra Chuyến Hai của Trans America vẫn chưa đóng, và một vài hành khách còn lại vẫn đang được kiểm tra. Đồng phục Hải quan Hoa Kỳ của ông là hộ chiếu ở bất cứ đâu trong sân bay, và nhân viên trực cổng bận rộn chỉ liếc mắt khi Thanh tra Standish đi qua. Standish nhận thấy, nhân viên trực cổng đang được giúp đỡ bởi một nữ nhân viên quan hệ khách hàng tóc đỏ mà ông biết là bà Livingston.
Viên thanh tra bước vào hành lang đến khoang cho khách du lịch; một nữ tiếp viên đứng ở cửa máy bay. Ông mỉm cười. “Tôi chỉ ở đây một phút thôi. Đừng để cho tôi bay đi đấy nhé”.
Ông tìm thấy cháu gái của mình, Judy, ngồi ghế sát lối đi trong hàng có ba chỗ ngồi. Cô đang bế và vui đùa với một đứa bé, đứa bé thuộc về một cặp vợ chồng trẻ ở hai ghế bên cạnh. Giống như tất cả các khoang du lịch của máy bay, nơi này luôn luôn có vẻ chật chội và đông đúc, các hàng ghế áp sát nhau. Trong một vài chuyến đi trên không, do Thanh tra Standish tự đi, ông ngồi khoang du lịch, nhưng luôn có cảm giác ngột ngạt. Tối nay ông không ghen tị với bất kỳ ai vì hành trình đơn điệu dài mười giờ trước mắt họ.
“Cậu Harry!” Judy kêu lên. “Cháu cứ nghĩ cậu sẽ không đến được”. Cô trao đửa bé lại cho mẹ nó.
“Cậu chỉ đến để nói Chúa phù hộ cho cháu!” Ông bảo với cô. “Chúc một năm tốt đẹp, và khi cháu quay về, đừng thử mang bất kỳ món hàng lậu nào”.
Cô cười to. “Không có đâu. Tạm biệt cậu, cậu Harry”.
Cháu ông ngước mặt lên cho một nụ hôn, và được cô âu yếm đầy yêu thương. Ông cảm thấy yên tâm về Judy. Ông có cảm giác cô sẽ không trở thành một bà Mossman nữa.
Rời khỏi máy bay, với một cái gật đầu chào thân thiện với các cô tiếp viên, thanh tra hải quan dừng lại một lát ở cổng sảnh chờ, và quan sát. Những khoảnh khắc cuối cùng trước khi khởi hành bất kỳ chuyến bay nào, đặc biệt là một chuyến đi đến một nơi xa xôi, luôn mê hoặc ông, cũng như nhiều người. Thông báo cuối cùng... “Hãng hàng không Trans America xin thông báo về việc khởi hành ngay lập tức của Chuyến Hai, Du thuyền vàng...” đã diễn ra ngay sau đó trên hệ thống phát thanh.
Đám đông người chờ lên máy bay đã giảm xuống chỉ còn hai. Nhân viên quan hệ khách hàng tóc đỏ, bà Livingston, đang thu thập giấy tờ của mình khi nhân viên trực cổng xử lý người đến cuối cùng, một người đàn ông tóc vàng cao, không có mũ, và mặc áo khoác lông lạc đà. Bây giờ, người đàn ông tóc vàng rời khỏi bàn của nhân viên trực cổng và đi vào hành lang tới khoang du lịch. Bà Livingston cũng rời đi, đi từ cổng khởi hành, về phía khu vực chính của nhà ga.
Trong khi ông đang quan sát, Thanh tra Standish nhận ra, gần như trong tiềm thức, về một người khác ở gần đó, đối diện với cửa sổ nhìn ra cổng khởi hành. Bây giờ gương mặt đó quay lại. Ông thấy rằng đó là một bà già; bà ấy trông nhỏ bé, nghiêm trang và yếu đuối. Bà ấy mặc quần áo màu đen theo phong cách thời trang xưa cũ, và mang một chiếc túi xách đính cườm đen. Bà ấy trông như thể cần ai đó chăm sóc, và ông tự hỏi tại sao một người nào đó quá già, và dường như đi một mình, lại ở đây quá khuya như vậy.
Di chuyển với sự nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên, bà lão đi tới nơi nhân viên kiểm soát vé Trans America vừa xử lý hành khách Chuyến Hai cuối cùng. Standish nghe một số, mặc dù không phải tất cả, về những gì được nói; những lời của bà già bị ngắt quãng bởi tiếng ồn từ bên ngoài, từ động cơ máy bay đang được khởi động. “Xin lỗi... con trai tôi vừa lên... tóc vàng, không mũ, áo lông lạc đà... quên ví... tất cả tiền của mình”. Standish quan sát thấy bà lão đang cầm thứ gì trông giống như cái ví đàn ông.
Nhân viên trực cổng liếc nhìn sốt ruột. Anh ta xuất hiện vẻ bị làm phiền; người trực cổng thường như vậy ở những giây phút cuối cùng trước khi máy bay khởi hành. Người nhân viên đưa tay cầm lấy ví, sau đó quan sát bà lão, đổi ý và nói nhanh gì đó. Anh ta chỉ vào hành lang tới khoang du lịch và Standish nghe thấy, “Hãy hỏi một cô tiếp viên”. Bà lão mỉm cười gật đầu, rồi bước vào hành lang. Một lúc sau bà khuất mắt.
Tất cả những gì Thanh tra Hải quan Standish quan sát được chỉ mất vài phút - có khi chưa đến một phút. Bây giờ, ông thấy một người mới đến - một người đàn ông lưng khòm, lật đật, vội vã đi xuống sảnh “D” về phía cổng bốn mươi bảy. Người đàn ông có khuôn mặt hốc hác và bộ ria mép thưa màu hung nhạt. Y mang một cái cặp ngoại giao nhỏ.
Standish đã định quay đi, nhưng có cái gì đó về người kia đã thu hút sự chú ý của ông. Đó là cách người mới đến đang giữ cái cặp của y - kẹp dưới cánh tay, như một cách bảo vệ. Harry Standish đã nhiều lần quan sát mọi người làm điều tương tự khi họ đi qua Hải quan. Đó là một sự chỉ điểm rằng bất cứ cái gì bên trong cái cặp đều là thứ muốn bị che giấu. Nếu người đàn ông này đến từ nước ngoài, Standish sẽ bắt y mở cái cặp, và sẽ khám nghiệm bên trong nó. Nhưng người đàn ông này đi ra khỏi Hoa Kỳ, nên thôi.
Nói đúng ra, đó không phải là việc của Harry Standish.
Nhưng dù sao… linh tính, một giác quan thứ sáu mà những nhân viên Hải quan đã phát triển, cộng với mối liên hệ cá nhân, qua Judy, với Chuyến Hai... một thứ gì đó khiến người thanh tra quan sát, đôi mắt ông nhìn vào chiếc cặp ngoại giao nhỏ mà người đàn ông lập cập đang kẹp cứng.
* * *
Lúc này D.O. Guerrero vẫn còn cảm giác tự tin như lúc tại quầy bảo hiểm. Khi y đến gần cổng bốn mươi bảy, quan sát thấy rằng y vẫn còn kịp Chuyến Hai, y có một niềm tin rằng hầu hết những khó khăn của y đã kết thúc. Y tự trấn an mình, từ giờ trở đi mọi thứ sẽ diễn ra như y đã thấy trước. Như để giữ vững niềm tin này, không có vấn đề gì xảy ra ở cổng khởi hành. Như y đã lên kế hoạch từ đầu, tại thời điểm này, y đã thu hút sự chú ý đến sự khác biệt nhỏ giữa cái tên “Buerrero” trên vé và “Guerrero” trên hộ chiếu. Vừa liếc nhìn hộ chiếu, nhân viên soát vé ở cổng đã sửa ngay tên y trên vé và cả trên danh sách hành khách của mình, sau đó xin lỗi, “Xin lỗi, thưa ông; đôi khi máy bán vé tự động cũng xảy ra nhầm lẫn”. Bây giờ, Guerrero ghi nhận với sự hài lòng, tên của y đã được ghi lại đúng; sau này, khi Chuyến Hai được báo cáo là mất tích, sẽ không còn nghi ngờ gì về nhận dạng của chính y nữa.
“Chúc một chuyến bay tốt đẹp, thưa ông”. Nhân viên soát vé trả lại vé cho y và y di chuyển vào hành lang tới khoang du lịch.
Khi D.O. Guerrero bước vào máy bay, vẫn giữ cẩn thận cái cặp ngoại giao của y, các động cơ bên mạn phải đã khởi động.
Chỗ ngồi của y - bên cạnh cửa sổ trong một hàng ba chỗ ngồi - đã được y chọn khi check-in trong trung tâm thành phố. Một tiếp viên dẫn y đến đó. Một hành khách nam khác, đang ngồi cạnh lối đi, đứng lên một chút khi Guerrero chen vào. Ghế trung tâm giữa hai người, hãy còn trống.
D.O. Guerrero để thăng bằng chiếc cặp của y một cách thận trọng trên đầu gối khi thắt dây an toàn. Chỗ ngồi của y ở giữa khoang du lịch, cánh bên trái. Ở những nơi khác trong khoang, các hành khách khác vẫn đang ổn định, sắp xếp hành lý xách tay và quần áo; một vài người đang chặn lối đi ở giữa. Một trong những nữ tiếp viên đang đếm số lượng khách, đôi môi cô lặng lẽ di chuyển, trông như cô đang ước mọi người sẽ giữ im lặng.
Lần đầu tiên mới được thư giãn kể từ khi rời khỏi khu nhà South Side, D.O. Guerrero dựa lưng vào ghế và nhắm mắt lại. Bàn tay y, vững vàng hơn bất cứ lúc nào tối nay, giữ chắc chiếc cặp ngoại giao. Không cần mở mắt, những ngón tay y mân mê dưới tay cầm và định vị chuỗi vòng hết sức quan trọng. Cảm giác về nó đã trấn an y. Y sẽ ngồi chính xác như thế này, y quyết định, khoảng bốn giờ nữa kể từ bây giờ y sẽ kéo vòng dây, giải phóng dòng điện để mồi lượng thuốc nổ khổng lồ trong cặp. Khi khoảnh khắc đó đến, y tự hỏi, y sẽ có bao nhiêu thời gian để nhận biết? Để trả lời, y lập luận: sẽ có ngay lập tức... chỉ một phần nhỏ của một giây thoáng qua... trong khi y tận hưởng hương vị của chiến thắng và sự thành công. Rồi sau đó, thật đáng thương, không còn gì nữa...
Bây giờ y đã lên máy bay và đã sẵn sàng, y ước chuyến bay sẽ đi ngay. Nhưng khi y mở mắt ra, cô tiếp viên vẫn đang đếm.
* * *
Tại thời điểm này trong khoang du lịch có hai cô tiếp viên. Bà lão nhỏ bé ở San Diego, bà Ada Quonsett, thỉnh thoảng quan sát cả hai, nhìn qua cánh cửa hé mở của một nhà vệ sinh nơi bà ta đang trốn.
Số lượng hành khách trước khi cất cánh được đếm bởi một tiếp viên, vẫn đang thực hiện, là điều mà bà Quonsett biết rõ; bà ta cũng nhận thức được rằng đây là thời điểm mà bất cứ ai lên máy bay bất hợp pháp đều dễ bị phát hiện nhất. Nhưng nếu người đi lậu có thể sống sót sau khi đếm, rất có thể người đó sẽ không bị phát hiện nữa.
May thay, cô tiếp viên hiện đang đếm số khách không phải là người mà bà Quonsett gặp phải khi bà lên máy bay.
Bà Quonsett đã có một vài khoảnh khắc lo lắng bên ngoài trong khi thận trọng nhìn con nhân viên tóc đỏ chó chết, người làm bà ta đau khổ, đang làm nhiệm vụ ở cổng bốn mươi bảy. May thay, người phụ nữ đó đã rời đi ngay trước khi chuyến bay cho khách lên xong, và bà Quonsett đi qua nhân viên soát vé ở cổng thật dễ dàng.
Sau đó, bà Quonsett lặp lại câu chuyện của mình về chiếc ví cho cô tiếp viên đang làm nhiệm vụ ở cửa máy bay. Cô tiếp viên, người đang cố gắng đối phó với các câu hỏi từ nhiều người khác chen chúc ở lối vào, đã từ chối nhận chiếc ví khi cô biết có “rất nhiều tiền trong đó” - một phản ứng mà bà Quonsett đã tính đến. Đúng như mong đợi, bà lão nhỏ bé được bảo rằng bà có thể tự mình đưa ví cho con trai, nếu bà nhanh lên.
Người đàn ông cao cao tóc vàng, vô tình thành “con trai” của bà Quonsett, đang ngồi vào một chỗ ngồi gần phía trước cabin. Bà Quonsett di chuyển theo hướng của anh ta, nhưng chỉ trong một thời gian ngắn. Bà ta đang nhìn một cách bí mật, chờ đợi sự chú ý của cô tiếp viên gần cửa chuyển hướng. Điều đó xảy ra gần như ngay lập tức.
Bà Quonsett tiếp tục phần còn lại của kế hoạch rất linh hoạt. Có một chỗ ngồi gần đó, mà bà ta có thể chiếm giữ; tuy nhiên, một số hành khách di chuyển đột ngột để lộ ra con đường trống dẫn đến một nhà vệ sinh máy bay. Một hoặc hai phút sau, qua cánh cửa nhà vệ sinh được mở hé, bà thấy cô tiếp viên ban đầu đi ra khỏi tầm mắt và một tiếp viên khác đếm số khách, bắt đầu từ phía trước.
Khi tiếp viên thứ hai - vẫn đang đếm - gần phía sau máy bay, bà Quonsett xuất hiện từ nhà vệ sinh và nhanh chóng bước qua với một tiếng lẩm bẩm, “Xin lỗi”. Bà ta nghe cô tiếp viên tặc lưỡi sốt ruột. Bà Quonsett cảm thấy rằng bây giờ bà ta đã được tính vào - tất cả là như thế.
Một vài hàng ghế phía trước, ở phía bên trái, có một chỗ chưa có người ngồi ở giữa hàng ba ghế. Theo kinh nghiệm đi lậu của mình, bà lão nhỏ bé ở San Diego đã học cách tìm kiếm chỗ ngồi như vậy bởi vì hầu hết hành khách không thích ngồi ở ghế giữa; do đó, chỗ đó thường được lựa chọn cuối cùng và, nếu một chiếc máy bay chưa đầy khách, thường hay bị bỏ trống.
Sau khi ngồi vào ghế, bà Quonsett vẫn cúi đầu xuống, cố gắng tỏ ra kín đáo nhất có thể. Bà ta không ảo tưởng rằng mình có thể tránh bị phát hiện vô thời hạn. Tại Rome sẽ có các thủ tục nhập cảnh và hải quan, khiến bà ta không thể bỏ đi mà không bị ngăn cản, như bà đã quen làm sau khi bay bất hợp pháp đến New York; nhưng nếu may mắn, bà ta sẽ có được sự hồi hộp khi đến nước Ý, cộng với một hành trình dễ chịu khi bay về. Trước mắt, trên chuyến bay này, sẽ có một bữa ăn ngon, một bộ phim và sau đó, có lẽ, một cuộc trò chuyện thú vị với hai người bạn đồng hành của bà.
Bà Ada Quonsett tò mò về những người bạn đồng hành của mình. Bà ta đã nhận thấy rằng cả hai đều là đàn ông, nhưng trong lúc này, phải tránh nhìn người đàn ông bên phải vì điều đó có nghĩa là quay mặt về phía lối đi và các tiếp viên, cả hai người hiện đang di chuyển qua lại, đang đếm đầu người một lần nữa. Bà Quonsett thỉnh thoảng lại liếc trộm người đàn ông bên trái bà, tuy nhiên, việc quan sát trở nên dễ dàng hơn bởi thực tế là y đang ngã người trên ghế và mắt nhắm lại. Y là một người đàn ông gầy gò, sầu thảm, như bà quan sát, với khuôn mặt vàng vọt và cái cổ yếu đuối, có vẻ như y cần một bữa ăn thật thịnh soạn. Y có một bộ ria mép màu hung nhạt.
Trên đầu gối của y, bà Quonsett nhận thấy, người đàn ông bên trái bà ta có một cái cặp ngoại giao và, mặc dù thực tế là đôi mắt của y đang nhắm, y vẫn giữ chặt nó.
Các tiếp viên đã hoàn thành việc đếm đầu người xong. Bây giờ một tiếp viên thứ ba xuất hiện từ khoang hạng nhất ở phía trước, và cả ba người đang vội vã bàn bạc điều gì đó.
Người đàn ông bên trái bà Quonsett mở mắt. Y vẫn đang nắm chặt chiếc cặp. Bà lão nhỏ bé ở San Diego - một tâm hồn tò mò theo bản năng - đang tự hỏi có gì trong đó.
* * *
Đi trở về phòng Hải quan - lần này qua sảnh hành khách của nhà ga - Thanh tra Harry Standish vẫn đang suy nghĩ về người đàn ông với chiếc cặp ngoại giao. Standish không thể nghi ngờ người đàn ông; bên ngoài phòng Hải quan, nhân viên hải quan không có quyền thẩm vấn bất cứ hành khách nào, trừ khi tin rằng hành khách (đến từ nước ngoài) đã trốn tránh việc kiểm tra hải quan. Người đàn ông ở cổng khởi hành rõ ràng là không phải như vậy.
Dĩ nhiên, những gì Standish có thể làm là điện báo mô tả của người đàn ông cho Hải quan Ý, khuyên rằng y có thể mang theo hàng lậu. Nhưng Standish cũng nghi ngờ điều đó, có thể là không. Có rất ít sự hợp tác giữa các cục hải quan quốc tế, chỉ có một sự cạnh tranh chuyên nghiệp dữ dội. Ngay cả hải quan Canada, gần trong tầm tay, điều tương tự cũng đúng; sự cố đã được ghi nhận khi Hải quan Hoa Kỳ bị lật tẩy rằng các lô hàng kim cương bất hợp pháp đang được nhập lậu vào Hoa Kỳ, nhưng - như một vấn đề chính sách - chính quyền Canada không bao giờ được báo. Thay vào đó, các đặc vụ Hoa Kỳ phát hiện ra các nghi phạm khi đến Canada và bám đuôi chúng, chỉ thực hiện vụ bắt giữ khi chúng vượt qua biên giới vào Hoa Kỳ. Lý do của Hoa Kỳ là: quốc gia nào khám phá ra vụ buôn lậu thì được tịch thu tất cả hàng lậu đó, và các cơ quan Hải quan không thích chia sẻ chiến lợi phẩm.
Không, Thanh tra Standish quyết định sẽ không gửi điện tín đến Ý. Tuy nhiên, ông sẽ báo cho Trans America về những nghi ngờ của mình và để cho họ tự quyết định.
Trước mặt ông, ông thấy cô Livingston, nhân viên quan hệ khách hàng người đã ở cổng khởi hành Chuyến Hai. Cô đang nói chuyện với một công nhân vận chuyển hàng hóa và một nhóm hành khách. Harry Standish đợi cho đến khi họ đi.
“Chào ông Standish”, Tanya nói. “Tôi hy vọng mọi việc yên tĩnh hơn trong phòng Hải quan so với ở đây”.
“Không yên tĩnh đâu”, ông nói với cô, nhớ đến bà Harriet Du Barry Mossman, chắc chắn đang bị thẩm vấn tại Phòng hải quan.
Khi Tanya đợi ông nói tiếp, Standish lại ngập ngừng. Đôi khi ông tự hỏi liệu mình có trở nên quá đa nghi không, quá lo xa về sự nhạy bén của bản năng hay không. Mặc dù đã nhiều lần, bản năng của ông đã được chứng minh là đúng.
“Tôi đang quan sát lúc Chuyến Hai của cô cho khách lên”, Standish nói. “Có một điều gì đó làm phiền tôi”. Ông mô tả người đàn ông gầy gò, lập cập và cái cách y siết chặt một cái cặp ngoại giao đáng nghi ngờ.
“Ông có nghĩ là y mang thứ hàng gì lậu không?”
Thanh tra Standish mỉm cười. “Nếu y đến từ nước ngoài, thay vì rời đi, tôi sẽ tìm hiểu được. Tất cả tôi có thể nói, cô Livingston, là có một cái gì đó trong chiếc cặp mà y không muốn cho người khác biết”.
Tanya nói một cách ân cần, “Tôi hoàn toàn không biết mình có thể làm gì”. Ngay cả khi người đàn ông đó buôn lậu, cô cũng không cho rằng đó là việc của hãng hàng không.
“Có lẽ không làm gì được. Nhưng mọi người các cô hợp tác với chúng tôi, vì vậy khi có thông tin tôi nghĩ rằng phải chuyển ngay cho các cô”.
“Cảm ơn, ông Standish. Tôi sẽ báo cáo với ông TBVC của chúng tôi và có lẽ ông ấy sẽ muốn thông báo cho cơ trưởng”.
Khi thanh tra hải quan rời đi, Tanya liếc nhìn đồng hồ nhà ga treo trên cao; đã mười một giờ kém một phút. Hướng đến văn phòng Trans America trên tầng lửng điều hành, cô suy nghĩ: bây giờ đã quá muộn để giữ Chuyến Hai tại cổng khởi hành; nếu chuyến bay chưa rời khỏi cổng, chắc chắn sẽ đi trong vài phút tới. Cô tự hỏi liệu ông TBVC có ở trong văn phòng của ông ta không. Nếu ông TBVC nghĩ rằng thông tin quan trọng, ông ta có thể thông báo cho Cơ trưởng Demerest bằng radio trong khi Chuyến Hai vẫn đang di chuyển trên đường lăn. Tanya bước vội.
Ông TBVC không có trong văn phòng, nhưng Peter Coakley thì có.
Tanya xẵng giọng, “Cậu đang làm gì ở đây?”
Cậu nhân viên Trans America trẻ, người mà bà lão nhỏ bé ở San Diego phải trốn tránh, đã kể lại một cách ngượng ngùng những gì đã xảy ra.
Peter Coakley vừa bị chửi rủa một trận nên thân. Bác sĩ được yêu cầu đến phòng vệ sinh nữ vì một trò lừa vặt vãnh, đã mắng mỏ và phẫn nộ. Cậu Coakley trẻ chắc chắn sẽ có nhiều điều tương tự từ bà Livingston. Quả nhiên cậu ta nghĩ đúng.
Tanya nổ bùng, “Chết tiệt, chó má, đồ khốn!” Cô mắng, “Không phải tôi đã cảnh báo cậu rằng bà ta có vô số mánh khóe hay sao?”
“Phải, bà có dặn, thưa bà Livingston. Tôi đoán…”
“Bây giờ muộn mất rồi! Gọi điện thoại ngay đến từng cổng của chúng ta. Cảnh báo họ hãy cảnh giác với một bà già, trông ngây thơ mặc đồ đen - cậu biết mô tả bà ta rồi đấy. Bà ta đang cố gắng đến New York, nhưng cũng có thể bay vòng. Nếu thấy bà ta, nhân viên trực cổng phải giữ bà ta lại và gọi về đây. Bà ta không được phép lên bất kỳ chuyến bay nào, bất kể bà ta nói gì. Trong khi cậu gọi điện, tôi cũng sẽ gọi cho các hãng hàng không khác.
“Vâng, thưa bà”.
Có nhiều điện thoại trong văn phòng. Peter Coakley đến một máy, Tanya một máy khác.
Cô nhớ thuộc lòng số điện thoại của TWA, American, United và Northwest; cả bốn hãng hàng không đều có chuyến bay thẳng đến New York. Cuộc gọi đầu tiên tới số đối tác của cô ở TWA, Jenny Henline, trong lúc đó cô có thể nghe Peter Coakley nói, “Vâng, rất già... trong bộ đồ đen... khi anh nhìn thấy bà ta, anh sẽ không tin...”
Một cuộc đấu trí cân não đã bắt đầu, Tanya nhận ra, giữa cô và bà Ada Quonsett khéo léo, trơn tuột. Tanya tự hỏi, cuối cùng rồi ai sẽ đánh lừa được ai đây?
Hiện tại, cô đã quên mất cuộc trò chuyện với Thanh tra Hải quan Standish và ý định tìm kiếm ông TBVC.
* * *
Trên máy bay Chuyến Hai, cơ trưởng Vernon Demerest tức xì khói, “Đứa quỷ nào giữ chúng ta lại thế?”
Động cơ số ba và bốn, ở phía mạn phải của máy bay số N-731-TA, đang chạy. Trên khắp máy bay, tiếng rít động cơ phản lực trầm trầm nhưng mạnh mẽ của chúng có thể cảm nhận được.
Vài phút trước, các phi công đã nhận được phép của giám sát ở hành lang xếp qua điện thoại nội bộ để khởi động động cơ số ba và bốn, nhưng vẫn đang chờ được phép để khởi động động cơ một và hai, ở phía khách lên và thường không được kích hoạt cho đến khi tất cả các cửa được đóng lại. Một chiếc đèn màu đỏ - trên bảng điều khiển trước mặt các phi công - đã nháy một hoặc hai phút trước đó rồi tắt, cho thấy cửa thân máy bay phía sau đã đóng và an toàn; ngay sau đó, hành lang xếp lên máy bay phía sau đã được rút ra. Nhưng một ánh đèn đỏ rực khác, vẫn phát sáng, cho thấy cửa cabin phía trước chưa được đóng lại, và một cái liếc qua cửa sổ buồng lái xác nhận rằng hành lang xếp lên máy bay phía trước vẫn còn.
Xoay người trên chiếc ghế bên phải, cơ trưởng Demerest chỉ thị cho phi công thứ hai Jordan, “Mở cửa ra”.
Cy Jordan ngồi sau hai phi công khác trước một bảng điều khiển phức tạp các khí cụ và động cơ. Bây giờ anh ta nhổm dậy một nửa và kéo dài dáng người gầy gò của anh ta, mở cánh cửa khoang lái máy bay ra bên ngoài. Qua ô cửa, trong khoang hành khách phía trước, họ có thể thấy một nửa tá nhân viên mặc đồng phục Trans America, Gwen Meighen cũng trong số đó.
“Gwen!” Demerest gọi. Khi cô bước vào khoang lái, “Cái quỷ gì đang xảy ra vậy?”
Gwen có vẻ lo lắng. “Số lượng hành khách khoang du lịch đếm không khớp. Chúng em đã đếm hai lần; chúng em vẫn không thể đồng ý với bảng danh sách hành khách và vé”.
“Có người giám sát hành lang xếp đấy không?”
“Có, bây giờ anh ấy đang kiểm tra số lượng kiểm đếm của chúng em”.
“Tôi muốn gặp anh ta”.
Ở giai đoạn này của bất kỳ chuyến bay của hãng hàng không nào luôn có vấn đề phân chia thẩm quyền. Trên danh nghĩa, cơ trưởng đã sẵn sàng chỉ huy, nhưng anh ta không thể khởi động động cơ cũng như đi ra mà không có sự cho phép từ người giám sát hành lang xếp. Cả cơ trưởng và người giám sát hành lang xếp đều có chung một mục tiêu - để thực hiện một chuyến khởi hành đúng lịch trình. Tuy nhiên, nhiệm vụ khác nhau của họ đôi khi tạo ra sự bất đồng.
Một lát sau, người giám sát hành lang xếp mặc đồng phục, một dải bạc độc nhất biểu thị cấp bậc của anh ta, đến khoang lái.
“Nhìn này, ông bạn”, Demerest nói, “Tôi biết ông bạn có vấn đề, nhưng chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi còn ngồi đây bao lâu nữa?”
“Tôi vừa ra lệnh kiểm tra lại vé, cơ trưởng. Có thừa một hành khách trong khoang du lịch mà chúng ta không biết là ai”.
“Tốt lắm”, Demerest nói. “Bây giờ tôi sẽ nói với ông bạn vài điều. Mỗi giây chúng tôi ngồi ở đây, chúng tôi đang đốt nhiên liệu vào động cơ ba và bốn, mà bạn đã cho phép khởi động... số nhiên liệu quý giá mà chúng tôi cần trong không trung tối nay. Vì vậy, máy bay này nên rời đi ngay bây giờ, nếu không tôi sẽ tắt hết mọi thứ và chúng tôi sẽ báo cho phòng nhiên liệu để cung cấp thêm đầy bồn chứa cho chúng tôi. Có một điều nữa ông bạn nên biết: kiểm soát không lưu vừa cho chúng tôi biết họ có một khoảng thời gian trống tạm thời ít giao thông. Nếu chúng tôi đi ra ngay lập tức, chúng tôi có thể lên khỏi mặt đất nhanh chóng; trong mười phút nữa kể từ bây giờ tình hình có thể sẽ thay đổi. Bây giờ, ông bạn đưa ra quyết định đi. Ông bạn quyết định gì?”
Bị giằng xé giữa hai trách nhiệm, người giám sát hành lang ngập ngừng. Anh ta biết cơ trưởng đúng về việc đốt nhiên liệu; nếu tắt động cơ ngay bây giờ và đổ đầy bồn chứa, có nghĩa là sẽ chậm cất cánh thêm nửa giờ nữa vào giờ mà Chuyến Hai đã trễ. Mặt khác, đây là một chuyến bay quốc tế quan trọng mà số lượng đầu người và vé phải khớp nhau. Nếu thực sự có một người đi lậu trên máy bay, anh ta phải tìm thấy rồi và cho cất cánh, sau đó người giám sát hành lang có thể biện minh cho quyết định giữ máy bay lại của anh ta. Nhưng nếu sự khác biệt về đầu người và vé hóa ra là một lỗi văn thư - điều hoàn toàn có thể xảy ra - thì ông TBVC sẽ nướng sống anh ta.
Anh ta đã đưa ra quyết định rõ ràng. Gọi qua cửa khoang lái, anh ra lệnh, “Ngừng kiểm tra lại vé. Chuyến bay này sẽ rời đi ngay bây giờ”.
Khi cánh cửa khoang lái đóng lại, Anson Harris đang cười, gọi điện thoại nội bộ cho đội mặt đất bên dưới. “Khởi động động cơ hai được chưa?”
Câu trả lời lạo xạo, “Cho nổ động cơ hai”.
Cửa phía trước máy bay đã được đóng và an toàn; trong khoang lái, đèn báo màu đỏ nháy lên rồi tắt.
Động cơ hai đã nổ đều.
“Cho nổ động cơ một được chưa?”
“Cho nổ động cơ một”.
Hành lang xếp phía trước, như một sợi dây rốn bị cắt đứt, đang lùi về phía nhà ga.
Vernon Demerest gọi kiểm soát mặt đất bằng radio để xin phép lăn ra đường băng.
Động cơ một đã nổ đều.
Ở ghế bên trái, cơ trưởng Harris, người sẽ lái đi ra và cất cánh, đặt chân chắc chắn lên bàn đạp điều khiển bánh lái.
Tuyết vẫn rơi không ngừng.
“Kiểm soát mặt đất gọi Trans America Chuyến Hai. Bạn được phép lăn ra…”
Tốc độ động cơ gia tăng nhanh chóng.
Demerest nghĩ: Rome... và Naples... chúng tôi đến đây!
* * *
Đúng hai mươi ba giờ, giờ chuẩn miền Trung.
Trong sảnh “D”, vừa chạy, vừa vấp, một nhân vật đến cổng bốn mươi bảy.
Ngay cả khi có thở được để hỏi, câu hỏi là không cần thiết nữa rồi.
Cửa ra hành lang xếp đã đóng. Những thông báo biểu thị cổng khởi hành của Chuyến Hai, Du thuyền vàng, đã bị gỡ xuống. Một chiếc máy bay đang lăn bánh rời khỏi cổng.
Bất lực, không biết nên làm gì tiếp theo, Inez Guerrero thẫn thờ nhìn ánh đèn máy bay lùi xa dần.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Phi Trường
Arthur Hailey
Phi Trường - Arthur Hailey
https://isach.info/story.php?story=phi_truong__arthur_hailey