Chương 23
eilly trèo ra khỏi giường, tròng chiếc áo thun vào rồi nhìn ra cửa sổ từ căn hộ ở tầng bốn của mình. Đường phố bên ngoài lặng im như chết. Dường như chỉ cái thành phố không bao giờ ngủ là thích hợp với Reilly.
Vì một số nguyên nhân, Reilly thường không ngủ ngon. Một nguyên nhân đơn giản là anh không có khả năng buông xuôi. Đó là một vấn đề Reilly càng ngày càng vấp phải thường xuyên hơn trong những năm sau này, cái thói quen nghiền ngẫm không ngừng những manh mối và dữ kiện liên quan đến bất cứ vụ án nào mà anh đang giải quyết. Reilly không thực sự bị khó ngủ. Tình trạng kiệt sức hoàn toàn thường làm anh thiếp ngủ ngay. Nhưng Reilly thường về đến ngưỡng cửa lúc bốn giờ sáng và đột nhiên thấy mình tỉnh như sáo, đầu óc cứ khuấy tung cả lên, hết sắp xếp rồi phân tích, truy tìm những thông tin cốt lõi bị thiếu sót, những thông tin có thể cứu nhiều mạng người.
Đôi khi khối lưỡng công việc quá nặng và dồn dập chiếm trọn tâm trí Reilly. Tuy vậy, thỉnh thoảng tâm trí anh vẫn lặng lẽ tìm về với những vấn đề riêng của mình, lạc lối vào lãnh địa còn tăm tối hơn cả cái thế giới tội ác của những cuộc điều tra, và những cơn lo âu khó chịu lại lần mò trồi lên, tiếp tục tác oai tác quái.
Phần lớn vấn đề này liên can đến những gì xảy ra với cha của Reilly; ông đã dùng súng tự sát khi Reilly mới lên mười; ngày hôm ấy cậu bé từ trường về nhà, thơ thẩn vào phòng làm việc và thấy cha mình ở đó, ngồi trên chiếc ghế bành ưa thích như ông vẫn thường ngồi, chỉ khác là, lần này gáy của ông không còn nữa.
Dù thế nào đi nữa thì sau đó luôn luôn là vài tiếng đồng hồ vô cùng buồn chán đối với Reilly. Quá mệt mỏi để có thể ra khỏi giường và dành thời gian làm việc gì đó có ích, nhưng lại quá căng thẳng không ngủ lại được, Reilly cứ nằm đó trong bóng tối, mặc cho tâm trí lang thang đến những chốn hoang vắng. Và Reilly chờ đợi, giấc ngủ thường nhân từ kéo đến vào khoảng sáu giờ, chẳng thoải mái chút nào bởi anh lại phải thức dậy sau đó một giờ để đi làm.
Đêm ấy, Reilly thức dậy vào bốn giờ sáng vì một cuộc gọi của nhân viên trực đêm. Cuộc gọi thông báo cho anh biết người đàn ông bị anh săn đuổi qua các đường phố ở Hạ Manhattan đã chết. Nhân viên trực đề cập đến cái gì đó về xuất huyết bên trong, trụy tim, và những nỗ lực bất thành để làm hồi tỉnh người chết. Như thường lệ, Reilly đã bỏ ra hai giờ đồng hồ sau đó để xem xét lại vụ việc, một vụ án mà bây giờ cái manh mối thực sự duy nhất và hứa hẹn nhất đã biến mất, nếu Reilly không nghĩ là Lucien Broussard có thể khai báo gì nhiều, nếu và khi nào gã thực sự có thể nói lại được. Nhưng suy nghĩ về vụ án đã hoà quyện ngay với những ý tưởng khác đang quay cuồng trong tâm trí Reilly sau khi anh rời khỏi bệnh viện sớm hơn vào tối ấy. Những ý tưởng đó hầu hết đều liên quan đến Tess Chaykin.
Nhìn ra bên ngoài cửa sổ, Reilly nghĩ làm thế nào mà điều đầu tiên anh chú ý ở Tess khi họ ngồi trong quán cà phê là cô không mang nhẫn cưới, hoặc bất cứ loại nhẫn nào cho thấy cô đã kết hôn. Khả năng nhận xét những điều như vậy đóng một vai trò quan trọng trong cuộc sống nghề nghiệp của Reilly. Bản năng chú ý đến từng chi tiết đã hình thành sau bao năm tháng trong nghề.
Chỉ có điều, lần này không phải là công việc, và Tess không phải là đối tượng tình nghi.
“Tên gã là Gus Waldron.”
Reilly chăm chú lắng nghe, anh cầm trong tay một tách cà phê nóng trong lúc Aparo sục sạo danh sách tội phạm bằng đôi mắt sành sỏi, để giảm bớt thời gian truy lùng cho đội ngũ cốt cán các đặc vụ liên bang đã được triệu tập.
“Rõ ràng là một tay sừng sỏ của làng đao búa, kẻ sẽ được vô cùng tưởng nhớ đây”, Apraro tiếp tục. “Võ sĩ quyền Anh chuyên nghiệp, các liên đoàn nhỏ, một gã hoang dã cả trong và ngoài võ đài, bị cấm thi đấu tại ba bang. Bốn cáo buộc tấn công và cướp có vũ trang, cả tại đây lẫn Jersey. Một vài lần nằm ấp tại Rikers…” Aparo nhìn lên và nói giọng mỉa mai, “bao gồm một chuyến nghỉ mát trên chiếc Vernon Bain.” Vernon C.Bain – gọi theo tên của một quản giáo rất được ngưỡng mộ đã chết trong tai nạn xe hơi – là một chiếc xà lan có tám trăm giường dành cho các tù nhân cần được bảo đảm an ninh từ mức độ trung bình đến tối đa. “Bị tình nghi hai vụ giết người, đều là hành hung đến chết. Không có cáo trạng. Nghiện cờ bạc. Suốt nửa cuộc đời đã gặp toàn vận rủi.” Aparo ngước nhìn lên. “Hết”.
“Nghe như là một gã luôn luôn cần kiếm tiền thật nhanh.” Jansson nhận xét. “Gã giao du?”
Aparo lật nhanh một trang, dò xuống dưới danh sách những chiến hữu đã được biết đến của Waldron. “Josh Schlattmann, chết năm ngoái… Reza Fardoussi, một bao phân nặng một tạ rưỡi – khó lòng có con ngựa nào trong vùng chở nổi gã.” Ánh mắt Apara dò tìm những cái tên, lọc ra những kẻ chẳng còn hi vọng gì nữa. “Lonnie Morris, một tay buôn bán cò con hiện đang được tạm tha, và nếu các cậu tin thì, gã đang sống và làm việc cho người bà có cửa hàng hoa tại Queens.” Rồi Aparo lại ngước nhìn lên, lần này với một nét mặt khiến Reilly hiểu là có chuyện chẳng hay ho gì. “Banko Petrovic,” Aparo nói, giọng không vui, “một cựu cảnh sát. Và nên biết điều này – hắn từng ở trong đội cảnh sát cưỡi ngựa của sở cảnh sát New York.” Anh ngước nhìn họ. “Đã về hưu. Và không phải là do hắn muốn, nếu các cậu hiểu ý tôi.”
Amelia Gaines ném một cái nhìn hiểu biết cho Reilly, rồi lên tiếng hỏi. “Hắn đã phạm tội gì?”
“Trộm cắp. Bị bắt quả tang tại khu vực sau đợt khám xét tụ điểm buôn bán tàng trữ ma tuý,” Aparo trả lời. “Có vẻ như hắn không làm gì cả. Bị sa thải, mất quyền hưởng lương hưu.”
Reilly cau mày, không thật sự hài lòng với cái viễn cảnh này. “Chúng ta phải nói chuyện với hắn. Tìm hiểu xem lúc này hắn kiếm sống bằng cách nào.”
Nhật Ký Bí Mật Của Chúa Nhật Ký Bí Mật Của Chúa - Raymond Khoury Nhật Ký Bí Mật Của Chúa