Đăng Nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Quên Mật Khẩu
Đăng ký
Trang chủ
Đăng nhập
Đăng nhập iSach
Đăng nhập = Facebook
Đăng nhập = Google
Đăng ký
Tùy chỉnh (beta)
Nhật kỳ....
Ai đang online
Ai đang download gì?
Top đọc nhiều
Top download nhiều
Top mới cập nhật
Top truyện chưa có ảnh bìa
Truyện chưa đầy đủ
Danh sách phú ông
Danh sách phú ông trẻ
Trợ giúp
Download ebook mẫu
Đăng ký / Đăng nhập
Các vấn đề về gạo
Hướng dẫn download ebook
Hướng dẫn tải ebook về iPhone
Hướng dẫn tải ebook về Kindle
Hướng dẫn upload ảnh bìa
Quy định ảnh bìa chuẩn
Hướng dẫn sửa nội dung sai
Quy định quyền đọc & download
Cách sử dụng QR Code
Truyện
Truyện Ngẫu Nhiên
Giới Thiệu Truyện Tiêu Biểu
Truyện Đọc Nhiều
Danh Mục Truyện
Kiếm Hiệp
Tiên Hiệp
Tuổi Học Trò
Cổ Tích
Truyện Ngắn
Truyện Cười
Kinh Dị
Tiểu Thuyết
Ngôn Tình
Trinh Thám
Trung Hoa
Nghệ Thuật Sống
Phong Tục Việt Nam
Việc Làm
Kỹ Năng Sống
Khoa Học
Tùy Bút
English Stories
Danh Mục Tác Giả
Kim Dung
Nguyễn Nhật Ánh
Hoàng Thu Dung
Nguyễn Ngọc Tư
Quỳnh Dao
Hồ Biểu Chánh
Cổ Long
Ngọa Long Sinh
Ngã Cật Tây Hồng Thị
Aziz Nesin
Trần Thanh Vân
Sidney Sheldon
Arthur Conan Doyle
Truyện Tranh
Sách Nói
Danh Mục Sách Nói
Đọc truyện đêm khuya
Tiểu Thuyết
Lịch Sử
Tuổi Học Trò
Đắc Nhân Tâm
Giáo Dục
Hồi Ký
Kiếm Hiệp
Lịch Sử
Tùy Bút
Tập Truyện Ngắn
Giáo Dục
Trung Nghị
Thu Hiền
Bá Trung
Mạnh Linh
Bạch Lý
Hướng Dương
Dương Liễu
Ngô Hồng
Ngọc Hân
Phương Minh
Shep O’Neal
Thơ
Thơ Ngẫu Nhiên
Danh Mục Thơ
Danh Mục Tác Giả
Nguyễn Bính
Hồ Xuân Hương
TTKH
Trần Đăng Khoa
Phùng Quán
Xuân Diệu
Lưu Trọng Lư
Tố Hữu
Xuân Quỳnh
Nguyễn Khoa Điềm
Vũ Hoàng Chương
Hàn Mặc Tử
Huy Cận
Bùi Giáng
Hồ Dzếnh
Trần Quốc Hoàn
Bùi Chí Vinh
Lưu Quang Vũ
Bảo Cường
Nguyên Sa
Tế Hanh
Hữu Thỉnh
Thế Lữ
Hoàng Cầm
Đỗ Trung Quân
Chế Lan Viên
Lời Nhạc
Trịnh Công Sơn
Quốc Bảo
Phạm Duy
Anh Bằng
Võ Tá Hân
Hoàng Trọng
Trầm Tử Thiêng
Lương Bằng Quang
Song Ngọc
Hoàng Thi Thơ
Trần Thiện Thanh
Thái Thịnh
Phương Uyên
Danh Mục Ca Sĩ
Khánh Ly
Cẩm Ly
Hương Lan
Như Quỳnh
Đan Trường
Lam Trường
Đàm Vĩnh Hưng
Minh Tuyết
Tuấn Ngọc
Trường Vũ
Quang Dũng
Mỹ Tâm
Bảo Yến
Nirvana
Michael Learns to Rock
Michael Jackson
M2M
Madonna
Shakira
Spice Girls
The Beatles
Elvis Presley
Elton John
Led Zeppelin
Pink Floyd
Queen
Sưu Tầm
Toán Học
Tiếng Anh
Tin Học
Âm Nhạc
Lịch Sử
Non-Fiction
Download ebook?
Chat
Truy Tìm Dracula
ePub
A4
A5
A6
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Chương 22
C
ha ngại ngần không muốn dẫn tôi đến Oxford. Cha nóicha sẽ phải lưu lại ở đó sáu ngày, lại một thời gian đủ lâu để tôi bỏ lỡ chươngtrình trên lớp. Tôi ngạc nhiên khi cha muốn để tôi ở nhà; cha đã không làm vậydù chỉ một lần từ khi tôi phát hiện ra cuốn sách có hình con rồng. Phải chăngcha định để tôi ở nhà do một vài sự đề phòng đặc biệt nào đó? Tôi kỳ kèo vớicha là chuyến du lịch ở vùng bờ biển Nam Tư kéo dài gần hai tuần nhưng việc họccủa tôi đâu có dấu hiệu bê trễ nào. Cha nói học hành là việc ưu tiên trước hết.Tôi nhắc lại là cha luôn biện minh du lịch là phương cách giáo dục tốt nhất, màtháng Năm là tháng tuyệt vời nhất để du lịch. Tôi đưa cho cha xem phiếu điểmmới nhất, dày đặc những điểm xuất sắc, và tấm giấy khen mà trên đó vị giáo viênhướng dẫn vốn khá ưa ngôn từ khoa trương đã viết: "Em bộc lộ một khả năng thấuhiểu khác thường bản chất của việc nghiên cứu lịch sử, đặc biệt đối với mộtngười ở độ tuổi như em," một lời khen tôi luôn ghi nhớ và thường lặp đi lặp lạinhư một câu thần chú trước khi ngủ.
Vẻ nao núng thấy rõ, cha đặt dao nĩa xuống bàn theo cái cáchmà tôi biết là chỉ hàm ý tạm dừng trong phòng ăn cổ xưa kiểu Hà Lan của chúngtôi chứ chưa phải chấm dứt bữa ăn. Cha nói công việc lần này của cha quá bậnrộn để có thể dẫn tôi đi tham quan nơi này nơi nọ, và cha không muốn làm hỏngấn tượng đầu tiên của tôi về Oxford qua việc phải nhốt tôi lại đâuđó. Tôi bảo tôi thích được nhốt ở Oxford hơn là bị nhốt ở nhà với bàClay - nói đến đây cả hai cha con đều hạ giọng, mặc dù hôm đó bà Clay nghỉ. Vảlại, tôi cũng đã đủ lớn khôn để tự một mình lang thang đây đó, tôi nài nỉ. Chanói ông không biết liệu dẫn tôi theo có phải là một ý tưởng hay ho không, vìnhững cuộc nói chuyện ở đó hứa hẹn khá nhiều… căng thẳng. Có thể không hẳn đếnmức như vậy, nhưng cha không thể nói tiếp, và tôi biết lý do vì sao. Cũng nhưtôi không thể dùng lý lẽ thực sự của mình để thuyết phục ông cho đi Oxford, chakhông thể nói ra lý do thực sự khiến ông muốn ngăn không cho tôi đi. Tôi khôngthể lớn tiếng nói thẳng với cha là lúc này tôi không chịu đựng nổi việc để chađi xa, ra khỏi tầm mắt của tôi, với những quầng thâm trên hai mắt cùng đôi vaiđã khòm xuống và vầng trán hằn sâu những nếp nhăn mỏi mệt ấy. Và cha cũng khôngthể lớn tiếng nói thẳng rằng có thể cha không an toàn tại Oxford và do đó tôicũng không thể an toàn khi ở với ông. Cha im lặng trong chốc lát, rồi bằnggiọng từ tốn lên tiếng hỏi món tráng miệng, tôi vội lấy ra món bánh nho khô bộtgạo dở tệ mà bà Clay đã làm sẵn như để đền bù việc bà đi xem phim ở BritishCenter mà không có cha con tôi đi cùng.
Tôi đã tưởng tượng Oxford là nơi chốn thanh tịnh và xanhmát, như một thánh đường ngoài trời, ở đó các giáo sư mặc trang phục thời Trungcổ rảo bước qua lại, mỗi người có một sinh viên ở bên, diễn giảng về lịch sử,văn chương cũng như môn thần học khó hiểu. Nhưng thực tế thì nơi này sống độngmột cách đáng ngạc nhiên: xe gắn máy bóp còi inh ỏi, đôi khi xe con phóng vèovèo, gần như suýt đụng phải sinh viên băng qua đường, một nhóm du khách đangchụp hình một cây thánh giá trên lối đi ven đường, trước khi trở thành lối đi,tại đây, bốn trăm năm trước, hai vị giám mục đã bị trói vào cột rồi thiêu sống.Giáo sư và sinh viên, thật thất vọng, chỉ mặc quần áo theo kiểu hiện đại, phầnlớn là áo len dài tay, thầy thì quần vải flannel còn trò thì quần bò xanh.Trước khi xuống xe buýt ở phố Broad, tôi nghĩ đến thời của thầy Rossi với cảmgiác tiếc nuối: bốn mươi năm trước, hẳn người ta ít nhất phải ăn mặc trịnh trọnghơn chút đỉnh.
Rồi tôi cũng thấy ở đó ngôi trường đại học đầu tiên mìnhđược tận mắt nhìn, nhô lên phía trên vách tường bao trong ánh nắng ban mai, cònhiện ra lờ mờ gần đó là hình dạng hoàn hảo của thư viện Radcliffe Camera màthoạt tiên tôi cứ ngỡ là một đài thiên văn nhỏ. Đằng sau đó vút lên những ngọntháp của một giáo đường đồ sộ màu nâu, và chạy dọc theo con đường là một bứctường trông cũ kỹ đến nỗi đám địa y bám trên đó cũng có vẻ như đồ cổ. Tôi khôngthể hình dung trông chúng tôi hiện tại sẽ thế nào trong mắt những người từngqua lại trên những con đường này thời bức tường vừa mới được dựng lên - tôi mặcváy đầm ngắn màu đỏ, đi tất đan kim màu trắng, cha mặc áo khoác hải quân, quầnxám, áo len cao cổ màu đen và đội mũ vải tuýt, mỗi người kéo theo một va linhỏ. "Chúng ta đến nơi rồi," cha thốt lên, và tôi cảm thấy phấn khởi khi haicha con chúng tôi rẽ vào một cánh cổng trên bức tường phủ đầy địa y. Cổng bịkhóa, chúng tôi phải đứng chờ cho đến khi một sinh viên ra giữ cánh cổng sắtuốn ấy mở cho vào.
Ở Oxford cha sẽ phải phát biểu tại một hội nghị về các mốiliên hệ chính trị giữa Hoa Kỳ và Đông Âu, giờ đang phát triển mạnh trong thờikỳ băng tan. Vì trường đại học chủ trì tổ chức hội nghị, nên chúng tôi được mờiở tại những phòng riêng trong nhà một trong các quản lý của những trường trựcthuộc Đại học Oxford. Các vị quản lý này, cha giải thích là các nhà độc tàinhân hậu chuyên chăm lo cho sinh viên đang sống trong khuôn viên các trườngtrực thuộc đó. Khi đã bước qua lối vào thấp và khá tối, chúng tôi lọt vào mảnhsân trong ngập tràn ánh nắng mặt trời, lần đầu tiên tôi nhận ra chẳng bao lâunữa mình cũng sẽ vào đại học, và tôi ngoéo tay làm dấu cầu may mắn ngay trênquai cặp sách, thầm ước một ngày nào đó sẽ được học tại một nơi như thế này.
Xung quanh chúng tôi là những phiến đá lót lối đi mòn nhẵnnằm im lìm, chen vào đó đây là những bóng cây to - những cây cổ thụ nghiêmtrang, trầm mặc, thỉnh thoảng có một chiếc ghế đá dài dưới gốc. Một vuông cỏhoàn hảo và một hồ nước nhỏ nằm ngay dưới chân tòa nhà chính của trường. Đó làmột trong các kiến trúc cổ xưa nhất của Oxford, được vua Edward III thế kỷ thứmười ba tài trợ xây, các chi tiết thêm vào mới nhất của nó cũng là do các kiếntrúc sư thời nữ hoàng Elizabeth I thiết kế. Ngay cả khoảng cỏ được cắt tỉa cẩnthận này trông cũng có vẻ đáng tôn kính; đương nhiên tôi không thấy có ai bướcchân lên đó rồi.
Chúng tôi men theo bãi cỏ và hồ nước, đi qua phòng trực củabảo vệ ngay bên trong, từ đó đến một dãy phòng sát với nhà ông quản lý. Nhữngcăn phòng này chắc hẳn đã từng là một phần thiết kế nguyên thủy của trường đạihọc, mặc dù khó mà đoán được ban đầu chúng được sử dụng cho mục đích gì; trầnphòng rất thấp, cửa sổ ốp gỗ màu sậm và cửa sổ đóng khung chì bé xíu. Phòng ngủcủa cha treo rèm xanh trời. Phòng của tôi, thật hết ý, có một giường ngủ caovới màn che sặc sỡ.
Chúng tôi mở va li, sắp xếp đồ một chút, rửa ráy khuôn mặtbụi bặm vì đi đường xa của mình trong một chậu rửa màu vàng nhạt của phòng tắmdùng chung cho cả hai phòng, sau đó đến gặp thầy James, quản lý, người đang chờchúng tôi trong văn phòng ở phía đầu kia tòa nhà. Hóa ra ông là người thân mật,nói năng ân cần, có mái tóc xám bạc và một vết sẹo lồi ngay chỗ xương gò má.Tôi thích cái bắt tay ấm áp và ánh nhìn từ đôi mắt to, hơi lồi màu nâu đỏ củaông. Hình như ông chẳng thấy việc tôi tháp tùng cha đến hội nghị có gì lạ lùngmà thậm chí còn đề nghị sẽ cho sinh viên phụ tá của ông đưa tôi đi tham quantrường đại học chiều hôm đó. Sinh viên phụ tá này, theo lời ông, là người lịchthiệp rất nhiệt tình và kiến thức rộng. Cha nói chắc chắn tôi có thể đi cùnganh ta; vì chiều nay cha sẽ bận rộn với những cuộc hội họp, vả lại tại sao lạikhông đi thăm thú những kho báu của nơi chốn này khi đang có mặt ở đây nhỉ?
Ba giờ chiều, tôi háo hức có mặt, một tay cầm chiếc mũ nồimới, tay còn lại cầm cuốn sổ ghi chép vì cha đã gợi ý tôi nên ghi chép lạichuyến tham quan này để dùng cho một bài tập ở trường. Người hướng dẫn tôi làmột sinh viên năm cuối tóc hoe vàng, thầy James giới thiệu anh ta là StephenBarley. Tôi thích đôi bàn tay thon, nổi gân xanh và chiếc áo len dài tay dày sụkiểu dân đánh cá của anh - "jumpah" - anh gọi cái áo thế khi tôi lên tiếng trầmtrồ khen nó. Tôi có cảm giác như mình được tạm thời chấp nhận trong cộng đồngưu tú này khi dạo bước bên anh qua sân trong của trường. Tôi còn cảm thấythoáng chút xao xuyến tình cảm lứa đôi, một cảm giác mơ hồ rằng khi cùng tản bộvới nhau nếu tôi nắm tay anh thì một cánh cửa đâu đó trên bức tường dài củathực tế mà tôi vẫn biết sẽ mở ra và không bao giờ khép lại. Tôi cho rằng mìnhđã có một cuộc sống quá khép kín - khép kín đến nỗi, giờ tôi mới nhận ra, đếnnỗi gần mười tám tuổi đầu mà tôi cũng không nhận ra cuộc sống đó tù túng đếnmức nào. Cái rùng mình nổi loạn mà tôi cảm nhận khi cùng sánh bước với mộtchàng sinh viên đẹp trai đã đến với tôi như một nét nhạc của nền văn hóa xa lạ.Nhưng tôi giữ chặt cuốn sổ ghi chú hơn, và cả tuổi thơ của mình nữa, hỏi anh tavì sao sân trường phần lớn được lót đá thay vì trồng cỏ. Anh mỉm cười đáp lời."Chà, anh không biết. Trước giờ chưa ai thắc mắc điều đó cả."
Anh dẫn tôi vào phòng ăn lớn - một kiểu phòng giản dị cótrần cao, xà kiểu Tudor, đầy những chiếc bàn gỗ - và chỉ cho tôi thấy nơi trướcđây chàng trai trẻ Earl of Rochester 1 đã khắc câu gì đó thô lỗ lên một chiếcghế trong lúc ngồi ăn ở đây. Tường nhà ăn có trổ những dãy cửa sổ khung chì,chính giữa mỗi cửa sổ được trang trí một bức tranh mô tả cảnh tượng những việclàm từ thiện cổ xưa: Thomas à Becket 2 quỳ cạnh giường một người chết, mộtthầy tu mặc áo choàng dài đang múc xúp cho một hàng dài những người nghèo khổco ro cúm rúm, một thầy thuốc thời Trung cổ đang băng bó chân cho một ngườibệnh. Phía trên băng ghế của Rochester là một bức tranh mà tôi không thể hiểunổi, một người đeo thánh giá ở cổ và cầm một cây lao trong tay, đang cúi ngườixuống vật gì đó trông giống như đống giẻ rách màu đen. "Ồ, bức tranh kia thựcsự là của hiếm đấy," Stephen Barley lên tiếng. "Bọn anh rất hãnh diện với nó.Em thấy đấy, người đàn ông này là giáo sư của trường anh từ những năm đầu tiên,đang chuẩn bị phóng một mũi lao bằng bạc vào tim một con ma cà rồng."
Tôi chăm chú nhìn anh, im lặng một lúc. "Ngày xưa ở Oxfordcó ma cà rồng à?" cuối cùng tôi cất tiếng hỏi.
"Anh cũng không biết nữa," anh thú nhận, nhoẻn miệng cười."Nhưng tương truyền, các học giả của trường đại học này ngày xưa đã từng bảo vệvùng quê quanh đây khỏi lũ ma cà rồng. Thực sự, người ta thu thập khá nhiềutruyền thuyết về ma cà rồng, những chuyện kỳ quặc, và em vẫn có thể thấy trongthư viện Radcliffe Camera, bên kia đường. Truyền thuyết nói rằng những giáo sưcủa thời kỳ ban sơ ấy thậm chí còn không cất giữ những cuốn sách nói về chuyệnhuyền bí này tại trường đại học, vì vậy họ phải cất chúng ở những nơi khácnhau, cuối cùng cứ ở những nơi đó mãi."
Tôi chợt nhớ đến thầy Rossi và băn khoăn thầm hỏi không biếtliệu ông có đọc được cuốn nào trong bộ tuyển tập cổ xưa kia hay không. "Có cáchnào để tìm được tên những sinh viên ngày xưa đã học ở trường không - ý em là - có thể năm mươi năm trước? Các sinh viên đã tốt nghiệp?"
"Lẽ dĩ nhiên." Anh bạn đồng hành nhìn tôi có vẻ hơi giễu cợtlúc đi ngang qua một băng ghế gỗ. "Anh có thể hỏi thầy quản lý hộ em việc này,nếu em muốn."
"Ồ, không," tôi cảm thấy mặt mình đỏ bừng, nỗi khổ thườngtrực thời trẻ của tôi. "Không có gì quan trọng. Nhưng em sẽ… em có thể đọcnhững truyền thuyết nói về ma cà rồng được không?"
"Chà, em thích đọc truyện kinh dị à?" Anh trông có vẻ thíchthú. "Chẳng nhiều nhặn gì đâu, em biết đấy - chỉ vài tập sách cổ khổ lớn và mộtmớ sách giấy da. Nhưng thôi được. Giờ chúng ta sẽ đến thư viện trường - emkhông nên bỏ qua nơi này - sau đó anh sẽ đưa em đến thư viện Camera."
Lẽ dĩ nhiên, thư viện là một trong những viên ngọc quý củatrường đại học này. Ngay từ lúc còn nhỏ, tôi đã thăm rất nhiều trường đại họcvà hiểu biết khá tường tận về chúng, đã từng lang thang qua các thư viện, nhànguyện và nhà ăn của các trường này, nghe giảng trên giảng đường và uống trà ởcác phòng tiếp khách. Tôi có thể khẳng định không có nơi nào bằng thư viện củatrường đại học cổ xưa nhất này, có lẽ chỉ ngoại trừ nhà Nguyện trường Đại họcMagdalen cùng với phong cách trang trí siêu phàm của nơi đó. Trước tiên chúngtôi vào phòng đọc sách, được bao quanh bằng lớp kính màu, giống như một nhà ươmlồng kính cao, trong đó các sinh viên, những loài thảo mộc quý hiếm bị cầm giữ,ngồi quanh những chiếc bàn mà tuổi đời cũng xa xưa không kém gì bản thân ngôitrường. Những ngọn đèn kỳ lạ treo lủng lẳng trên trần, và những chao đèn đồ sộtừ thời vua Henry VIII nằm tư lự trên các đế cột ở các góc phòng. StephenBarley đưa tay chỉ những bộ tự điển Oxford English Dictionary nguyên tác, xếphàng trên các kệ dọc một bức tường; trên các kệ khác nhau chứa đầy hoặc nhữngtập bản đồ xa xưa hàng thế kỷ, hoặc các danh sách những nhà quý tộc và các tácphẩm cổ trong lịch sử nước Anh, hoặc những cuốn giáo trình bằng tiếng Latin vàHy Lạp thuộc mọi thời kỳ từ khi trường ra đời đến nay. Giữa phòng là một cuốnbách khoa tự điển vĩ đại trên một bệ đỡ điêu khắc theo phong cách Ba rốc, gầnlối dẫn sang căn phòng bên cạnh có một hộp thủy tinh, trong đó là một cuốn sáchcổ bìa cứng mà Stephen cho biết là cuốn Thánh kinh Gutenberg. Phía trên, nhữngvệt nắng dài chiếu xuyên qua cửa sổ trần tròn như cửa sổ trên mái vòm một nhàthờ Byzantine. Lũ bồ câu bay lượn bên trên. Vệt ánh nắng lung linh những hạtbụi chiếu xuống mặt các sinh viên đang lật đọc những trang sách trên bàn, lướtqua những chiếc áo ngoài nặng nề và gương mặt nghiêm nghị của họ. Đây là thiênđường của việc học hành, tôi thầm cầu mong sau này được nhận vào học ở đây.
Căn phòng cạnh đó là một đại sảnh, có ban công với những cầuthang uốn, một khoảng tường có dãy cửa sổ bằng kính. Sách xếp dọc theo các bứctường, từ trên xuống dưới, từ nền nhà đá lên tận trần mái vòm. Tôi thấy rấtnhiều bìa sách bọc da, những kệ danh mục, rất nhiều cuốn sách nhỏ màu đỏ sậm từthế kỷ mười chín. Tôi băn khoăn thầm hỏi không biết bên trong chúng chứa đựngđiều gì? Liệu tôi có hiểu được bất kỳ điều gì trong số đó không? Những ngón taytôi khát khao muốn lấy vài cuốn ra khỏi kệ nhưng rốt cuộc không dám chạm vàongay cả một bìa sách. Tôi mơ hồ không biết nơi đây là thư viện hay viện bảotàng. Chắc hẳn tôi đã nhìn ngắm khắp nơi với ánh mắt ngây dại, vì bất chợt tôinhận ra chàng sinh viên hướng dẫn mỉm cười thích thú. "Không tệ lắm phải không?Chắc em cũng là dân mọt sách. Thôi nào, đi tiếp nào - em đã nhìn thấy những gìhay ho nhất ở đây rồi, giờ mình đến Camera đi."
Sau cái tĩnh lặng của thư viện, ánh trời chói chang và tiếngồn từ những chiếc ô tô phóng vèo vèo làm tôi thấy khó chịu hơn bao giờ hết. Tuynhiên, tôi cũng thầm cám ơn chúng, vì chúng đã mang lại một món quà bất ngờ:khi chúng tôi vội vã băng qua đường, để bảo đảm an toàn, Stephen đã nắm tay,kéo tôi đi. Tôi nghĩ chắc anh phải là ông anh cả độc đoán của ai đó, nhưng cáitiếp xúc của lòng bàn tay khô ấm ấy gửi một tín hiệu rộn ràng đến bàn tay tôi,bàn tay vẫn nóng rực ngay cả khi tay anh đã không còn ở đó. Tôi cảm thấy chắcchắn, khi liếc mắt lén nhìn khuôn mặt nghiêng nghiêng không biểu hiện chút xúcđộng nào và vẫn hớn hở tươi cười của anh, là thông điệp rộn ràng kia chỉ đượcghi nhận theo một chiều. Nhưng đối với tôi, nhận được thông điệp ấy là đủ.
Radcliffe Camera, như mọi người yêu mến nước Anh đều biết,là một trong các địa điểm hấp dẫn nhất của kiến trúc nước Anh, đẹp đẽ và kỳ lạ,một kho sách đồ sộ. Một mặt của tòa nhà hầu như nằm sát mặt đường, nhưng phầncòn lại được bao quanh bởi một thảm cỏ lớn. Chúng tôi bước đi thật im lặng, dùmột đám du khách ồn ào đang đứng chật ních khu vực trung tâm của gian nội thấthình tròn lộng lẫy. Stephen lưu ý với tôi nhiều khía cạnh khác nhau trong thiếtkế tòa nhà, những đặc điểm được giảng dạy trong mọi chương trình đào tạo kiếntrúc Anh quốc và được viết trong mọi cuốn sách hướng dẫn. Đây là một nơi chốndễ thương và gợi nhiều cảm hứng, tôi tiếp tục nhìn quanh trong lúc trầm tư nghĩthật kỳ lạ biết bao khi đây lại là cái kho chứa những truyền thuyết về ma quỷ.Cuối cùng anh dẫn tôi đến cầu thang, và chúng tôi leo lên đến ban công. "Ở đâynày." Anh đi về phía một ô cửa trổ giữa vách tường đầy kín sách. "Có một phòngđọc sách nhỏ ở đằng kia. Anh mới chỉ đến đây một lần, nhưng anh nghĩ đó là nơihọ lưu giữ tuyển tập nói về ma cà rồng."
Căn phòng sáng mờ mờ thực ra rất nhỏ và tĩnh mịch, hoàn toànkhông nghe được tiếng ồn ào của đám du khách bên dưới. Những cuốn sách uy nghi,bìa màu nâu nhạt, giòn và dễ vỡ như xương lâu năm. Ở giữa chúng, một cái sọngười trong một hộp thủy tinh mạ vàng càng cho thấy rõ bản chất bệnh hoạn củatuyển tập. Phòng này nhỏ đến nỗi chỉ có đủ chỗ để kê một bàn đọc sách ở giữa,chúng tôi gần như đụng vào nó khi bước vào. Điều này còn có nghĩa là chúng tôiđột ngột mặt đối mặt với một học giả đang ngồi lật xem những trang giấy của mộttập sách khổ lớn, vội vã ghi chép lên một tập giấy. Đó là một người đàn ông khágầy, da xanh tái. Hai mắt ông ta sâu hoắm, sợ hãi và gấp gáp, nhưng cũng trànđầy say mê khi ông ngước nhìn lên. Đó là cha tôi.
Chú thích
1 Earl of Rochester, John Wilmot (1647- 1680), một cận thầncủa triều đình vua Charles II vàcũng là một nhà thơ đầy tai tiếng về tình ái,cách sống phóng đãng, và cái chết vì bệnh giang mai.
2 Thomas Becket: (1118?- 1170): Tổng Giám mục giáo phậnCanterbury (Anh) từ năm 1162; vì có quan điểm tôn giáo chống đối mạnh mẽ vuaHenry II nên đã bị hiệp sĩ của nhà vua ám sát, sau đó được Tòa Thánh Vatican LaMã phong thánh.
Chương trước
Mục lục
Chương sau
Truy Tìm Dracula
Elizabeth Kostova
Truy Tìm Dracula - Elizabeth Kostova
https://isach.info/story.php?story=truy_tim_dracula__elizabeth_kostova