Chương 22
ời kể của Colin Lamb
“Thế là cậu đã trở về,” Hercule Poirot nói.
Ông cẩn thận cài dải lụa đánh dấu vị trí trang sách đang đọc. Lần này một tách sôcôla nóng để trên bàn cạnh khuỷu tay ông. Quả thật Poirot có một khẩu vị thức uống rất kinh khủng!
“Bác khỏe không?” tôi hỏi.
“Tôi đang bị rối. Rối lắm. Người ta đang tân trang, trang trí lại, thậm chí thay đổi cấu trúc trong những căn hộ này.”
“Như vậy chẳng tốt hơn sao?”
“Đúng là có cải thiện, nhưng lại làm tôi bực bội lắm. Tôi sẽ phải tự làm xáo trộn bản thân. Rồi sẽ có mùi sơn!” Ông nhìn tôi với vẻ giận dữ.
Rồi cho qua đi những khó khăn của mình bằng một cái phẩy tay, ông hỏi: “Cậu đã thành công rồi, đúng không?”
Tôi trả lời chậm rãi: “Cháu không biết nữa.”
“À —ra thế.”
“Cháu đã tìm ra điều mình được phái đi tìm kiếm. Cháu đã không tìm người đàn ông đó. Cháu cũng không biết cần tìm cái gì nữa. Thông tin? Hay một cái xác?”
“Nói về các xác chết, tôi đọc biên bản buổi sơ thẩm bị hoãn ở Crowdean rồi. Một vụ cố sát do một hay nhiều người chưa biết là ai. Và cái xác của cậu cuối cùng cũng được cho một cái tên.”
Tôi gật đầu.
“Harry Castieton, là ai đi nữa cũng vậy thôi.”
“Được vợ ông ta nhận diện. Cậu đã đến Crowdean rồi à?”
“Chưa. Cháu định mai sẽ xuống đó.”
“À, cậu có đôi chút thời gian nhàn rỗi phải không?”
“Chưa đâu. Cháu vẫn đang làm nhiệm vụ. Nhiệm vụ đưa cháu tới đó…” tôi tạm dừng một lát rồi nói tiếp, “Cháu không biết gì nhiều về những chuyện xảy ra trong khi cháu ở nước ngoài — chỉ biết chuyện nhận diện thôi—bác nghĩ gì về chuyện ấy?”
Poirot nhún vai.
“Đấy là điều được mong đợi.”
“Vâng — cảnh sát rất giỏi…”
“Và các bà vợ rất sốt sắng.”
“Bà Merlina Rival! Tên gì kỳ quá!”
“Nó nhắc tôi nhớ tới cái gì đấy,” Poirot nói. “Mà nhớ tới cái gì chứ nhỉ?”
Ông nhìn tôi có vẻ suy tư nhưng tôi không thể giúp ông. Đã biết rành Poirot rồi, điều đó có thể đã nhắc ông nhớ tới bất cứ cái gì.
“Một cuộc viếng thăm bạn bè — trong một ngôi nhà ở thôn quê,” Poirot tư lự, rồi lắc đầu. “Không — cách nay quá lâu rồi.”
“Khi nào trở lại London, cháu sẽ tới kể cho bác nghe tất cả những gì cháu biết được từ Hardcastle về bà Merlina Rival,” tôi hứa.
Poirot phẩy tay nói: “Chả cần thiết đâu.”
“Bác muốn nói đã biết hết về bà ta chẳng cần nghe kể lại à?”
“Không. Tôi muốn nói tôi không quan tâm đến bà ta.”
“Bác không quan tâm — nhưng tại sao không? Cháu không hiểu.” Tôi lắc đầu.
“Phải tập trung vào những điểm thiết yếu chứ. Thay vào đấy hãy kể về cô gái tên Edna — đã chết trong buồng điện thoại ở Wilbraham Crescent đi!”
“Cháu không thể kể nhiều hơn những gì đã kể bác nghe — Cháu không biết gì về cô gái ấy.”
“Vậy tất cả những gì cậu biết, ” Poirot nói với vẻ quy kết, “hay tất cả những gì cậu có thể nói với tôi, rằng cô ta là một con thỏ bé nhỏ đáng thương cậu đã gặp ở một văn phòng đánh máy, cô ta đã làm gãy rời cái gót giày của mình do kẹt vào một tấm lưới sắt…” ông đột ngột ngừng lại. “Mà này, tấm lưới sắt ấy ở đâu?”
“Bác Poirot ơi, thật tình làm sao cháu biết được chứ?”
“Cậu có thể biết nếu đã hỏi. Làm sao mong biết được điều gì nếu cậu không đặt những câu hỏi thích đáng chứ?”
“Nhưng làm sao mà nơi cái gót giày rớt ra lại có thể là vấn đề quan trọng?”
“Có thể không thành vấn đề. Mặt khác, chúng ta nên biết một địa điểm đích xác nơi cô gái này đã đến, có thể có liên quan mật thiết với một người cô ta từng gặp ở đấy — hoặc với một sự kiện nào đó đã xảy ra ở nơi ấy.”
“Bác đang cường điệu quá rồi. Dù sao cháu cũng biết là rất gần văn phòng vì cô ấy nói như vậy, và cô ấy đã mua một cái bánh mì tròn nhỏ rồi đi cà nhắc trở về trên hai bàn chân mang vớ dài để ăn bánh trong văn phòng và kết cuộc cô nói, làm sao mình có thể về nhà như vầy đây?”
“A, và cô ta đã đi về nhà như thế nào?” Poirot hỏi vẻ quan tâm.
Tồi nhìn ông chăm chăm.
“Cháu cũng không biết nữa.”
“A — sao lại có thể như thế, cái kiểu cậu chả bao giờ hỏi đúng câu hỏi! Hậu quả là cậu chả biết gì về những chuyện quan trọng cả.”
“Bác nên xuống Crowdean và tự mình hỏi câu này câu nọ đi nhé!” Tôi bực mình nói.
“Ngay lúc này thì không thể được. Có một cuộc bán đấu giá bản thảo của các tác giả cực kỳ thú vị vào tuần tới.”
“Bác vẫn còn cái thú chơi đó hay sao?”
“Vẫn còn chứ,” mắt ông sáng lên. “Lấy các tác phẩm của John Dickson Carr hay là Carter Dickson, như đôi lúc ông ấy tự xưng…”
Tôi chuồn thẳng trước khi ông kịp chắn lối cản đường, lấy cớ có một cuộc hẹn khẩn cấp. Tôi chẳng còn tâm trí nào nghe thuyết giảng về các bậc thầy về nghệ thuật viết tiểu thuyết trinh thám trong quá khứ.
Chiều tối hôm sau tôi ngồi trên bậc thềm trước nhà Hardcastle. Tôi đứng lên thoát ra khỏi bầu không khí u buồn để chào đón anh về tới nhà.
“Chào, Colin hử? Cậu đấy ư? Thế là cậu lại từ trời xanh rơi xuống, phải không?”
“Nếu anh gọi là từ lò lửa nóng đỏ lọt ra thì thích hợp hơn rất nhiều.”
“Cậu ngồi đây, trên bậc thềm trước cửa nhà tôi bao lâu rồi?”
“Ôi, chừng nửa tiếng đồng hồ.”
“Rất tiếc cậu đã không vào nhà được.”
“Lẽ ra tôi đã vào được trong nhà dễ ợt,” tôi nói vẻ tự trọng. “Ông anh không biết tôi đã được huấn luyện mà!”
“Thế sao cậu không vào?”
“Tôi không muốn hạ thấp uy tín của ông anh bằng bất cứ cách nào,” tôi giải thích. “Một thanh tra của ngành cảnh sát nhất định sẽ mất mặt nếu nhà ông ta bị đạo chích đột nhập dễ như trở bàn tay vậy đó.”
Hardcasde lấy chìa khóa từ trong túi ra và mở cửa trước. Ông bảo: “Thôi vào đi! Đừng nói vớ vẩn nữa!”
Ông dẫn đường vào phòng khách rồi tiếp tục đi lấy nước giải khát.
“Hãy nói lúc nào mới uống đây!”
Tôi nói không quá sớm, rồi chúng tôi ngồi xuống bên ly rượu của mình.
“Cuối cùng mọi sự cũng chuyển động rồi,” Hardcastle nói. “Chúng ta đã nhận dạng được xác chết.”
“Tôi biết rồi. Đã xem kỹ cả chồng nhật báo — Harry Castleton là ai?”
“Một gã đàn ông vẻ bề ngoài cực kỳ đáng kính và hắn kiếm sống bằng cách cưới hay chỉ đính hôn với những phụ nữ khá giả nhẹ dạ cả tin. Họ ký thác tiền dành dụm được cho hắn vì có ấn tượng tốt với kiến thức cao siêu của hắn về tài chính, và chẳng bao lâu sau đấy hắn lẳng lặng biến mất tăm mất tích.”
“Hắn ta trông không có vẻ là hạng người ấy,” tôi hồi tưởng lại.
“Đấy là vốn liếng chính yếu của hắn ta.”
“Hắn chưa từng bị khỏi tố sao?”
“Chưa — Chúng tôi đã điều tra nhưng không dễ thu được nhiều thông tin. Hắn đổi tên rất thường xuyên. Ở Bộ chỉ huy Cảnh sát người ta nghĩ Harry Castleton, Raymond Blair, Lawrence Dalton, Roger Byron, tất cả chỉ là một người và cùng là người ấy. Nhưng họ chẳng bao giờ chứng thực được. Các bà, cậu thấy đấy, chả chịu trình báo. Họ thà chịu mất tiền còn hơn. Gã đàn ông không chỉ thay tên đổi họ mà còn đủ thứ chuyện — nảy sinh nơi này nơi nọ — luôn cùng một kiểu mẫu — nhưng vẫn lẩn tránh được một cách không thể tin nổi. Roger Byron nghe nói biến mất từ miền nam, và một gã đàn ông tên Lawrence Dalton lại bắt đầu hoạt động ở Newcastle đúng lúc ấy. Hắn xấu hổ chả chịu chụp hình — lảng tránh khi các bà bạn muốn chụp lén hắn. Tất cả chuyện này diễn ra rất lâu về trước — mười lăm hay hai mươi năm. Trong khoảng thời gian ấy dường như hắn thực sự biến mất. Tiếng đồn lan truyền rằng hắn đã chết—nhưng một số người lại bảo hắn đã ra nước ngoài…”
“Dù sao cũng chẳng nghe nói gì về hắn cho tới khi hắn xuất hiện, nằm chết queo trên tấm thảm trong phòng khách nhà cô Pebmarsh, phải không?” tôi hỏi.
“Chính xác.”
“Điều đó chắc chắn mở ra nhiều khả năng.”
“Chắc chắn thế.”
“Một người đàn bà đã khinh bỉ kẻ không bao giờ quên à?” tôi gợi ý.
“Thường xảy ra như thế, cậu biết rồi đấy. Có những phụ nữ nhớ dai không quên…”
“Và nếu một phụ nữ như vậy phải bị mù lòa — thì một nỗi thống khổ lại xảy đến lần thứ hai vượt lên trên cả nỗi khổ bị phụ bạc.”
“Chỉ là phỏng đoán mà thôi. Chưa có gì được chứng minh.”
“Bà vợ như thế nào — Bà — gì nhỉ — Merlina Rival hả? Cái tên kỳ cục quá chừng! Không thể là tên thật của bà ta.”
“Tên thật của bà ta là Flossie Gapp. Tên kia bà ta tự đặt. Phù hợp hơn với lối sống của bà ta.”
“Bà ta làm nghề gì? Làm gái à?”
“Không chuyên nghiệp.”
“Có phải trước đây vẫn thường được gọi một cách khéo léo là một quý bà có đức hạnh dễ dãi?”
“Tôi phải nói bà ta là một phụ nữ bản tính tốt và sẵn lòng giúp đỡ bạn bè. Tự miêu tả là một cựu diễn viên. Thỉnh thoảng làm chủ trì đám tiệc. Hoàn toàn có thể tin cậy.”
“Có thể tin cậy được sao?”
“Cũng đáng tin cậy như hầu hết mọi người. Bà ta nhận biết thật rõ ràng. Không hề ngần ngừ do dự.”
“Thật là may mắn.”
“Phải. Tôi đang bắt đầu thất vọng, số lượng các bà vợ tôi đã có ở đây! Tôi đã bắt đầu nghĩ đấy là một phụ nữ khôn ngoan, hiểu rõ chồng mình. Xin lưu ý, tôi nghĩ không chừng bà Rival đã biết nhiều hơn những gì bà ta tiết lộ.”
“Bà ấy có từng dính líu vào các hành vi phạm tội hay không?”
“Không có trong hồ sơ lưu trữ. Tôi nghĩ bà ta có thể đã có, có lẽ vẫn đang có một số bạn bè khả nghi. Chả có gì nghiêm trọng — chỉ là những quả lừa — đại loại thế.”
“Còn mấy chiếc đồng hồ thì sao?”
“Đối với bà ta không có một ý nghĩa nào. Tôi nghĩ bà ta nói thật. Chúng tôi đã truy ra dấu vết chúng từ — chợ Portobello. Đấy là chiếc mạ vàng giả và chiếc bằng sứ Dresden. Và chẳng giúp ích gì! Cậu biết một ngày thứ bảy ở đấy như thế nào không? Được một phu nhân người Mỹ mua, chủ gian hàng nghĩ thế — nhưng tôi phải nói chỉ là võ đoán. Chợ Portobello đầy du khách người Mỹ. Vợ hắn ta bảo một người đàn ông đã mua chúng. Chị ta không thể nhớ người đó trông ra sao. Còn chiếc đồng hồ bằng bạc thì đến từ một thợ bạc ở Bournemouth. Một phu nhân cao lớn đã muốn mua làm quà cho đứa con gái nhỏ! Tất cả những gì bà có thể nhớ về vị phu nhân là bà đội một chiếc mũ màu xanh lục.”
“Còn chiếc đồng hồ thứ tư thì sao? Chiếc đã biến mất ấy?”
“Miễn bình luận,” Hardcastle đáp.
Tôi hiểu ông nói vậy nghĩa là gì rồi.
Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ - Agatha Christie Những Chiếc Đồng Hồ Kỳ Lạ