Chương 23
ự im ắng của một ngôi nhà chìm trong bóng đêm là điều đầu tiên gây bức bối khi Camden đứng đánh răng trước một chậu rửa mặt. Sau đó một tiếng rơi vỡ vang lên phía bên trái anh, một chấn động mạnh chạy từ mắt cá chân lên đầu gối, tiếp theo là một tiếng thét bị nghẹn lại.
Ngôi nhà có sáu phòng ngủ ở tầng trên - phòng của bà Rowland ở phía đông và năm phòng khác thẳng hàng được bố trí ở phía nam. Camden ở trong phòng ngủ gần nhất với phòng bà Rowland và Gigi ở căn phòng xa nhất.
Tiếng thét đến từ hướng của Gigi.
Anh nhổ kem đánh răng ra khỏi miệng và kéo cửa mở. Cửa phòng bà Rowland mở một giây sau đó, "Chúa tôi, chuyện gì thế?", bà hét lên.
"Có lẽ là trần nhà", anh nói.
Gigi cũng đang ở trong hành lang, mặt cô tái nhợt đối nghịch với chiếc áo choàng màu xanh lam, "Có chuyện gì với ngôi nhà của mẹ thế?", cô rít lên với mẹ.
Camden bắt đầu mở những cánh cửa. Căn phòng cạnh phòng anh dường như vẫn ổn, ngoại trừ rất nhiều bức tranh đã rơi khỏi tường. Anh mở cánh cửa căn phòng ở giữa. Một cơn mưa vôi vữa chào đón anh. Gần như toàn bộ trần nhà đã sụp xuống, bao phủ sàn nhà và đồ nội thất trong đám bụi dày đặc của thạch cao và gỗ. Phía trên anh là một cái hốc trống rỗng của gác mái.
"Chúa ơi! Sao lại xảy ra chuyện này?", bà Rowland rên rỉ, "Đây là ngôi nhà chắc chắn nhất".
"Con nghĩ không nên ngủ trên tầng này cho đến khi trần nhà được sửa chữa và toàn bộ ngôi nhà được kiểm tra lại", Camden nói.
"Mẹ và con có thể cùng ở phòng gia sư ở tầng dưới", Gigi nói với bà Rowland, "Mẹ có cái võng nào cho Camden không?".
"Vớ vẩn!", bà Rowland thốt lên, "Cậu Tremaine lần đầu tiên đến thăm ngôi nhà này. Mẹ sẽ không để cậu ấy ngủ cả đêm trên một chiếc võng trong phòng khách như một người làm thuê. Mẹ sẽ hỏi để ở lại nhà của bà Moreland cuối đường - bà ấy có hai đứa con gái hay đến thăm, vì thế bà ấy luôn có một phòng ngủ trống để sẵn. Con và Camden sẽ ở trong phòng gia sư".
"Vậy con sẽ lấy võng và ngủ trong phòng khách", Gigi nói. "Con không phải khách lần đầu tiên đến thăm. Con ngủ ở đâu không thành vấn đề. Hoặc con có thể đi với mẹ đến nhà bà Moreland".
"Hai đề xuất điên rồ của con đều hoàn toàn không được!", bà Rowland phản ứng với nỗi kinh hoàng lộ liễu, "Mẹ sẽ không để những tin đồn kiểu thế lan truyền. Hai đứa con có thể ly dị và tạo một cơn bão ở Luân Đôn, nhưng ở đây mẹ cần cân nhắc đến danh tiếng. Mẹ sẽ không để mọi người hỏi tại sao con gái mình không ở chung một căn phòng với người chồng kết hôn theo pháp luật của nó. Đấy, mẹ nghe thấy Hollis đang đi lên. Mẹ sẽ bàn bạc với ông ta về việc sắp xếp này. Đừng có làm gì để mẹ xấu hổ, Gigi. Không võng hay bất cứ thứ gì".
Sau khi bà Rowland vội vã xuống cầu thang với sinh lực và sự nhanh nhẹn đáng ngạc nhiên, Gigi rủa thầm nho nhỏ, "Sắp xếp cái chân tôi", cô nói, giọng cô sôi sục, "Bà ấy sắp đặt để cái trần nhà rơi xuống! Ngôi nhà này đã được kiểm tra từ nóc đến sàn chỉ một năm trước bởi vì em lo rằng nó có thể đã xuống cấp.
Nó vẫn vững chãi. Trần nhà có cấu trúc bền chặt không thể rơi xuống như thế, và chắc chắn không rơi một cách đẹp đẽ như vậy, chính xác trong phòng không người để không ai bị thương".
"Chúng ta đã đánh giá thấp quyết tâm của mẹ em".
"Bà ấy nên có một cuộc tình với công tước, đó là điều bà ấy nên làm", Gigi gắt gỏng, "Nhìn bà ấy xem, bà ấy hy sinh cái trần nhà trên đầu để đẩy chúng ta vào cùng một phòng ngủ khi chúng ta đã... không còn bận tâm".
Camden cảm thấy trái tim anh bắt đầu đập rộn ràng. Anh không hề định ghé qua phòng Gigi, dù sao đây cũng là nhà của bà Rowland. Nhưng nếu họ sắp bị mắc kẹt trong một căn phòng - một cách tình cờ và khá là chật chội - và buộc phải nằm chung một chiếc giường, ừm...
"Em có cần mang theo thứ gì không?", anh hỏi.
Cô bắn cho anh một cái nhìn nghi ngại, nhưng trong ánh sáng hắt ra từ những cánh cửa đang mở, anh thấy cô không còn nhợt nhạt như một phút trước nữa, "Không, cám ơn. Anh đi trước đi".
Anh đi xuống cầu thang. Hollis đưa anh đến phòng gia sư. Anh thấy mình ở trong một căn phòng rộng và đẹp đẽ hơn nhiều căn phòng cũ, những bức tường phủ lụa Đa- mát màu kem họa tiết những cây hồng vàng duyên dáng và những đường thêu uốn lượn. Những cành hoa mao lương hồng và trắng cắm trong chiếc bình sơn màu Limoges đặt trên bàn để đầu giường. Chiếc giường khá lớn, những tấm chăn mùa hè bằng vải lanh trắng đã kéo xuống đầy mời mọc.
"Bà Rowland sử dụng phòng này để nghỉ ngơi trong những chiều mùa hè", Hollis thông báo với anh, "Nó mát mẻ hơn những căn phòng tầng trên".
Camden tắt đèn và mở cửa sổ. Không khí ban đêm tràn vào, lành lạnh, ẩm ướt và nồng nàn hương hoa kim ngân. Mặt trăng tròn treo trên cao, tỏa ánh sáng dìu dịu và trong veo. Anh cởi áo choàng, ngập ngừng một lúc - anh đang cố lừa bịp ai đây? Napoleon muốn nước Nga còn ít hơn nhiều so với mong muốn được nằm với cô của anh - anh cởi bỏ nốt số quần áo còn lại.
Gigi đến đúng mười lăm phút sau đó. Tiếng bước chân cô dừng ở ngoài cửa.
Sau đó không có gì xảy ra. Sự im lặng mở ra và trải dài, bao lấy anh trong tầng tầng lớp lớp ngột ngạt của nó, khiêu khích sự kiên nhẫn và thần kinh của anh.
Rốt cuộc nắm cửa cũng xoay, nhẹ nhàng. Cô đóng cửa lại nhưng không tiến xa hơn, mà đứng dựa lưng vào cửa, chân cô đặt đúng trên vệt sáng của ánh trăng. Anh chợt nhớ đến một đêm rất lâu trước đây, trong một ngôi nhà khác cũng thuộc về bà Rowland, nơi có mặt trăng lộng lẫy như dát bạc một dải trong căn phòng - sự khởi đầu của một sự kết thúc, sự kết thúc của một khởi đầu.
"Giống như trước đây, đúng không?", anh nói, sau một phút đầy trôi qua.
Lại im lặng, "Ý anh là gì?", cuối cùng cô hỏi, giọng hơi run rẩy.
"Đừng nói với anh là em đã quên".
Cô chuyển động, những âm thanh gần như không nghe thấy của tiếng lụa trượt trên da thịt và chạm vào cánh cửa gỗ, "Vậy là anh đã thức", cô nói vẻ buộc tội.
"Anh là một người dễ thức giấc. Và anh đang ở trong một chiếc giường xa lạ, trong một ngôi nhà xa lạ".
"Anh lợi dụng em".
Anh cười thành tiếng, "Em mong đợi gì nhỉ, sau khi đã làm anh bồn chồn suốt? Anh có thể đã làm nhiều hơn và em sẽ cho phép anh".
"Em cũng có thể làm nhiều hơn. Em suýt nữa đã trèo lại lên giường anh đêm đó. Sẽ là một con đường ngắn đến bệ thờ".
"Em không nói", anh lẩm bẩm, "Điều gì đã ngăn em lại".
"Em nghĩ như thế là mất danh dự. Trớ trêu, đúng thế không?" Cô bước khỏi cánh cửa và đi đến cạnh giường, bên kia, dáng người cô rõ nét dưới ánh trăng, những đường cong tối mờ của cơ thể vừa đủ nhìn rõ bên dưới chiếc váy ngủ trong mờ.
Anh nuốt nghẹn.
"Lẽ ra em nên tiến lên và kết thúc mọi việc vào đêm đó", cô nói. "Anh sẽ phải cưới em, em biết là anh sẽ làm thế. Nhưng anh sẽ không đủ giận dữ để chạy đến Mỹ, mà chỉ đủ khinh ghét để không hạnh phúc với em. Chúng ta sẽ giống mọi cặp vợ chồng khác trong xã hội - một cuộc sống bình thường, anh thấy đấy".
"Không", anh nói, giọng anh thô ráp nhiều hơn anh định, "Em nên làm điều ngay thẳng. Theodora kết hôn một ngày trước chúng ta. Nếu em kiên nhẫn hơn một chút, khi anh trở lại Anh vào Lễ phục sinh, em sẽ có được chiếc bánh của mình và được ăn nó nữa".
Chiếc giường lún xuống dưới trọng lượng của cô. Cô chui xuống lớp chăn, an toàn phía bên kia giường. "Em nghĩ em đã học được bài học của mình".
"Thật không?".
Cô không trả lời. Thay vào đó cô hỏi anh một câu hỏi khác, "Tại sao anh quá quan trọng việc đạt được sự ngang bằng về tài chính với em thế?".
Bởi vì anh kết hôn với em, người đàn bà giàu nhất ở Anh sau Victoria Regina, đồ ngốc. Một người đàn ông vẫn còn mơ được ăn nằm với em sẽ phải làm gì?
Anh vươn tay dưới tấm chăn, túm lấy phía trước váy ngủ của cô và kéo cô về phía anh. Cô thở dốc. Và thở dốc hơn nữa khi răng anh cọ vào đường cong ở cổ cô.
Anh lăn lên phía trên cô... rên rỉ với sự tuyệt vời có cô bên dưới anh. Từ khi anh trở về, anh đã thấy cô trần truồng. Anh đã đạt đỉnh bên trong cô. Nhưng anh không cho phép mình được cảm nhận làn da mềm mượt như lụa, cơ thể nhấp nhô săn gọn của cô. Anh túm lấy váy ngủ của cô và kéo nó lên, "Bỏ nó ra".
"Không. Anh có thể làm điều anh muốn hoàn toàn tốt trong khi vẫn có nó".
"Anh muốn em trần truồng. Không một mảnh vải".
"Đó không phải một phần thỏa thuận của chúng ta. Anh chưa bao giờ nói em phải thoát y trước mặt anh".
"Sao thế?", anh dịu dàng nói vào tai cô, thích thú với sự run rẩy của cô, "Sợ phải trần truồng bên dưới anh à?".
"Không phải. Em sẽ không hạ nhục Fređie bằng cách cho phép anh được tùy tiện hơn mức cần thiết".
Đột nhiên anh nổi giận, trước sự ngoan cố của cô. Anh nắm lấy váy ngủ của cô ở cổ và xé nó theo dọc chiều dài, tiếng vải rách rít lên trong bóng tối ảm đạm một cách thô bạo, "Đó. Giờ nếu ngài Frederick có hỏi, mà cũng chẳng phải việc của anh ta, em có thể nói với anh ta một cách thành thật rằng em không cho phép anh tùy tiện chút nào".
Cô thở hổn hển, âm thanh của một người không thể hít đủ không khí, tiếng thở ra của cô chìm trong tiếng kêu nghẹn lại của những con dế không ngủ trong vườn.
Anh hạ thấp người xuống cô, cảm giác làn da cô áp vào da anh ngay lập tức quen thuộc đến sửng sốt và mới mẻ đến bức bối, như thể anh chưa từng rời khỏi giường cô trong những năm vừa qua, như thể đây mới là đêm thứ hai trong tuần trăng mật của họ và anh đã nhìn cô chằm chằm cả ngày, mòn mỏi chờ mặt trời lặn và một đêm sung sướng vô tận buông xuống.
Anh là một tên ngốc. Một tên ngốc vì yêu cô lần đầu tiên. Và một tên ngốc vì quay lại lúc này, khi anh đã biết quá rõ điểm yếu của mình, đã vật lộn với nó từng ngày trong mười năm qua.
Quá muộn.
Anh chìm đắm vào cảm giác mềm mượt của cô, chiêm ngưỡng làn da cô với từng hơi thở. Anh hôn một vệt trên bờ vai cô, lưỡng lự rời bỏ từng xăngtimét vuông làn da tuyệt vời của cô, nóng lòng thưởng thức tất cả của cô.
Cô đặt hai bàn tay lên cánh tay anh nhưng không đẩy ra, mà chỉ thốt ra một âm thanh tuyệt vọng, ngọt ngào khi anh hôn lên cổ họng cô. Sự đau khổ trong trái tim anh vơi đi một chút, dù anh biết chuyện này không gì hơn ngoài sự điên rồ.
Rồi anh hôn dần lên cằm cô, đến điểm mềm mại ngay dưới môi cô. Anh ngập ngừng ở đó. Nếu bây giờ anh hôn lên môi cô thì khác gì anh nói với cô rằng cô sẽ kết hôn với ngài Frederick trên xác chết của anh.
Bên dưới anh, anh cảm nhận nhịp đập của trái tim cô, dồn dập, bất thường, và không đều đặn, cũng như nhịp đập của chính trái tim anh. Anh có muốn đi xuống con đường đó không? Liệu anh có dám không? Và cái gì sẽ đợi anh ở đoạn cuối cay đắng nếu anh đi vào con đường điên rồ này?
"Có vài điều em muốn nói với anh", cô đột nhiên nói, cắt đứt giây phút chờ đợi. "Việc anh ngủ với em không có ích gì. Tuyệt đối không. Em đang sử dụng một màng chắn. Em vẫn sử dụng nó từ lúc đó đến giờ. Anh không có cơ hội nào để làm em mang thai, vì thế tốt hơn là để em một mình".
Khi sáu tuổi, trong một lần chơi trò đuổi bắt nhộn nhịp trong hành lang của nhà ông nội, anh đã chạy thẳng vào một bức tường. Sau đó anh thấy mình nằm thẳng băng dưới sàn nhà, quá choáng váng, không hiểu chuyện gì vừa xảy ra.
Giờ đây anh có đúng cảm giác đó. Anh không biết điều gì gây ra cơn bộc phát của cô, quyết định đột ngột đẩy mọi thứ đến bờ vực của cô.
Anh nhìn xuống cô. Khuôn mặt cô chỉ hiện rõ một nửa trong ánh sáng mờ ảo của ánh trăng, bóng dáng của một gò má cao, một đôi môi đầy đặn sẫm màu, và đôi mắt như nước ở đáy một giếng sâu, đen thăm thẳm và có những điểm sáng như ánh sao phản chiếu.
"Vậy tại sao em lại nói cho anh biết? Tại sao không tiếp tục lừa dối anh?
Như thế tốt cho mục đích của em hơn".
"Bởi vì em không thể chịu đựng thêm nữa", cô nói trong khi nằm im, "Em chắc rằng anh sẽ vui vẻ chứng minh ý kiến của mình về em. Nhưng nó không quan trọng. Em không thể đi xa hơn nữa".
"Tại sao?", anh lùa ngón tay vào mái tóc cô, mái tóc thật bồng bềnh. Tóc cô dày, mượt, óng ả và lạnh như sương mai. Anh chưa bao giờ nhớ mái tóc của một phụ nữ nào khác như mái tóc cô. "Chuyện gì xảy ra với bản tính tàn nhẫn huyền thoại của em thế?".
Cô nhắm mắt lại và quay mặt đi khỏi anh.
Những ngón tay anh có cảm giác an ủi một cách kỳ lạ trên da đầu cô. Chúng chuyển động với sự dịu dàng trấn an, dừng lại một phút cạnh thái dương, sau đó trượt xuống thấp hơn dọc tai, cằm và cuối cùng là môi cô. Mặt trong ngón tay cái của anh lướt trên môi cô, lăn nhẹ nó để anh có thể chạm vào mặt ẩm ướt phía trong miệng cô.
Phản ứng của anh làm cô bối rối. Cô muốn hỏi anh, hỏi thật to, rằng anh có nghe cô vừa nói gì không - rằng cô chưa thay đổi, chưa học được bài học nào, và đã cố gắng lừa gạt anh lần nữa. Nhưng cái đụng chạm của anh thôi miên cô.
Nó ấm áp, tò mò, và hoàn toàn không có thù oán. Cô không thể nói. Nhưng cô nhận thức được tất cả - những mất mát, khao khát và những đau đớn không thể chịu được.
Anh hôn lên vành tai cô, xương hàm cô, đỉnh cằm cô. Anh hôn cổ, vai và chỗ lõm vào của xương đòn. Cô nhắm chặt mắt. Trong bóng tối tuyệt đối đó, anh là tất cả hơi ấm và cảm giác đối với cô, môi anh là một ngọn lửa lạnh lẽo nhưng đốt cháy mọi thứ chúng chạm vào, gây ra một cơn sóng ham muốn xuyên qua cơ thể cô, khiến cô trở nên vô thức và yếu ớt.
Đột nhiên miệng anh khép lại quanh núm vú của cô. Cô thở hắt ra, một âm thanh sửng sốt của khoái cảm. Cô muốn vùng vẫy, lăn lộn và cầu xin thêm nữa.
Móng tay cô cắm vào mặt giường. Bàn tay anh tìm thấy núm vú kia của cô và kẹp nó giữa ngón cái và ngón trỏ, với đủ lực để khiến cô từ bỏ mọi cố gắng giữ im lặng. Cô rên lên thành tiếng.
Tay anh chuyển xuống thấp hơn, xuống sườn cô, ngừng lại trong khoảng một giây cạnh hông cô và sau đó tách hai chân cô ra. Cô cố gắng yếu ớt để giữ chúng khép vào nhau, nhưng anh chỉ phải xoay lưỡi chầm chậm một vòng quanh núm vú là cô đã quên hết mọi thứ.
Anh tìm thấy cô, có lẽ thứ dễ nhất trên thế giới - nhưng anh phải đi đến tận đầu nguồn ẩm ướt của cô. Và sau đó ngón tay của anh, không phải, những ngón tay của anh ở bên trong cô.
"Nếu em bảo anh dừng lại, và anh sẽ dừng", anh nói.
Ở đâu đó bên trong tâm trí cô, cô nhận ra anh đang làm gì:
gỡ và tháo bỏ màng chắn. Cô có lẽ đã phản đối nếu cô có khả năng nói liền mạch. Nhưng những âm thanh duy nhất cô thốt ra là những tiếng rên rỉ tắc nghẹn vì bị kích thích.
Anh dễ dàng tách màng chắn ra khỏi cô và vứt nó sang bên cạnh giường. Cô run rẩy.
"Giờ thì không có gì giữa chúng ta nữa", anh nói.
Một tia chớp kinh hoàng nhá lên đột ngột làm cô tê liệt. Cô hoàn toàn bị phơi bày trước anh - nơi kín đáo của cô, tương lai của cô, toàn bộ cuộc sống của cô.
Và cũng đột ngột như vậy, một làn sóng ham muốn ào ạt tràn ngập cô. Cô muốn anh ở bên trong cô, chiếm hữu cô, làm cô tan vỡ, lấp đầy mọi khoảng trống và phá hủy mọi sự phòng thủ của cô.
Với một tiếng rên tuyệt vọng, cô túm lấy anh và kéo anh xuống với cô, hôn anh thật mạnh bạo khiến răng họ va vào nhau. Anh kéo ra một chút, giữ chặt mặt cô giữa hai bàn tay, và hôn cô theo cách của anh, chậm hơn, âu yếm hơn, và toàn tâm toàn ý hơn nhiều.
Cô mở rộng chân để anh đến với cô, cứng và nóng, trong khi anh vẫn hôn cô.
Cô quấn chân quanh anh, thúc giục anh, muốn thứ gì đó nhanh, mạnh và có sức tàn phá hoàn toàn. Nhưng anh từ chối tuân theo cô.
Anh hành hạ cô với những cái vuốt ve dài và chậm chạp trong khi đẩy vào cô thật thong thả. Anh khiến cô phải cầu xin anh những cú thúc tuyệt diệu. Anh khiến cô phải vùng vẫy, lăn lộn, rên rỉ và thút thít. Và chỉ đến khi cô hoàn toàn bị chế ngự, tuyệt vọng, chứng tỏ rằng cô sẽ mãi mãi ở trong tình trạng kích động đến run rẩy và phát sốt này, anh mới đem tới cho cô sự thỏa mãn đầy sung sướng, hoang dã và rã rời.
Giá như cô có thể khiến thời gian dừng lại. Giá như cô không bao giờ cần phải rời xa hơi ấm của vòng tay anh và trạng thái thỏa mãn của cuộc làm tình của họ. Giá như thế giới của cô chỉ bao gồm căn phòng tối ngập trong hương vị ngọt ngào của ân ái, được bảo vệ khỏi ngày mai và ngày kia bởi những bức tường vô tận của bóng đêm.
Nếu cô có một đồng ghinê cho mọi giá như trong cuộc đời cô, cô có thể dát vàng một con đường lớn từ Liverpool đến Newfoundland.
Hơi thở anh vẫn nhanh và đứt quãng, chồng cô rời khỏi cô và nằm ngửa xuống, không chạm vào cô. Cô cắn môi dưới, xúc tua của hiện thực lạnh lẽo và ẩm ướt đã bò lần trên chân tay lên đến trái tim cô.
Anh có thể không nói điều gì không hay. Nhưng sự im lặng của anh đủ để nhắc cô nhớ về mọi điều cô đã thề không bao giờ làm khi anh quay lại. Và tất cả những tuyên bố về tình yêu dành cho Fređie, không lẽ chúng không hơn gì những lời nói, và là những lời nói rỗng tuếch hay sao?
"Anh đã đến khách sạn tìm em ở Copenhagen", anh nói.
Phải mất đúng một phút cô mới nhận ra anh nói gì. Và ngay cả vậy cô cũng không hiểu. "Anh... anh không để lại danh thiếp?".
"Em đã đi, trên tàu Margrethe".
Một ngọn lửa hân hoan nuốt chửng cô, chỉ để bị thay thế bởi một sự nghi ngờ u ám, một sự sửng sốt bất lực trước trò đùa của số phận, "Em không bắt kịp tàu Margrethe", cô thẫn thờ nói. "Nó đã khởi hành khi em đến cảng".
"Cái gì?".
Cô chưa bao giờ nghe anh nói "Cái gì?" trước đây. Anh quá hoàn hảo, anh không nói như thế, anh không bao giờ quên dùng từ chính xác và lịch sự hơn, "Thứ lỗi, xin nhắc lại?" Cho đến giây phút này.
"Vậy, em đã đi đâu?".
"Trở lại đúng khách sạn đó. Em ra về vào ngày hôm sau".
Anh cười, với vẻ nghi ngờ cay đắng, "Người quản lý khách sạn không nói với em là có một tên ngốc đến tìm em, với những bông hoa hay sao?".
Chuyện này giống như khi phát hiện ra mình có thai, rồi bị chảy máu suốt ba tuần sau. "Người quản lý đó chắc đã về khi em quyết định cần một nơi để ở lại đêm đó".
Anh đã đến vì cô. Cho dù vì lý do gì, anh đã đến với cô. Và họ đã bỏ lỡ mất nhau lần nữa, cứ như Shakespeare đã viết lên câu chuyện của họ trong một ngày đặc biệt căm ghét con người.
"Anh đã mang hoa gì?", cô hỏi, bởi vì cô không thể nghĩ ra điều gì khác để nói.
"Vài...", giọng anh lạc đi, một âm điệu khác cô chưa bao giờ nghe ở anh, "Vài bông hoa tú cầu xanh. Chúng đã héo rồi".
Tú cầu xanh. Loài hoa yêu thích của cô. Đột nhiên cô cảm thấy muốn khóc.
"Em sẽ không để tâm". Cô nói tiếp để kìm những giọt nước mắt, "Em đã quá buồn nên đi tìm Felix ngay khi tàu cập cảng ở Anh. Và được biết anh ấy đã kết hôn trong thời gian em đi xa. Dù sao, em đã biến mình thành một kẻ ngốc và một mối phiền toái".
Anh thốt ra một âm thanh nửa giống khịt mũi nửa như gầm ghè, "Anh ghét phải hỏi".
"Anh không cần phải lo lắng. Anh ấy không ngã gục trước sự theo đuổi của em. Em tĩnh trí lại. Và câu chuyện kết thúc".
"Anh cũng tĩnh trí lại, sau một thời gian", anh từ từ nói, "Anh thuyết phục mình rằng những chuyện đã xảy ra giữa chúng ta không thể coi như chưa xảy ra, không bao giờ có thể coi như chưa từng xảy ra".
"Và không có gì như là một khởi đầu mới. Thực sự không", cô đồng ý, nước mắt cô trào ra, căn phòng tối mờ đi.
Lần đầu tiên trong đời, cô nhìn thấy chính xác những gì cô đã vứt bỏ khi cô quyết định chiếm lấy anh cho dù bằng cách xấu xa hay đúng đắn. Lần đầu tiên cô thực sự hiểu, sâu trong tâm khảm, rằng cô không cứu anh mà đã đánh giá sai anh bằng cách cho rằng khả năng đưa ra lựa chọn cho riêng mình của anh chỉ bằng khả năng của một con rùa trong hộp. Cô đã là người - đúng như cô không muốn thừa nhận - nhẫn tâm, thiển cận và ích kỷ.
"Em không nên làm những gì đã làm. Em xin lỗi".
"Anh cũng không phải một hình mẫu đúng đắn chuẩn mực, đúng không?
Anh nên thành thực đối diện với em, cho dù cuộc đối diện đó không vui vẻ đến đâu. Thay vào đó, anh lẩn tránh vấn đề và nhầm lẫn trả thù với công lý".
Cô cười cay đắng. Đối với hai con người thông minh, họ chắc chắn đã đưa ra toàn những lựa chọn sai lầm mà họ có thể. Và sau đó lại tiếp tục sai lầm.
"Em ước..." Cô ngăn mình lại. Có ích gì nữa chứ? Họ đã đánh mất cơ hội của mình rồi.
"Anh cũng ước thế. Rằng anh đuổi kịp em ngày đó, bằng cách nào đó". Anh thở dài, một âm thanh nuối tiếc nặng nề. Anh quay về phía cô và cô quay về phía anh, bàn tay anh nắm chặt cánh tay cô, "Nhưng giờ vẫn chưa muộn".
Trong một lúc lâu cô không hiểu ý anh. Sau đó một tiếng sét đánh thẳng vào cô, khiến cô choáng váng sững sờ. Đã có thời gian cô sẵn sàng đi bằng chân trần qua cả dặm đường trải kính vỡ để được hội ngộ với anh, và sẽ ngừng thở vì vui sướng khi được nghe những từ đó.
Nhưng đấy là nhiều năm, nhiều năm trước, một quá khứ xa xôi. Tuy nhiên, trái tim khờ dại của cô vẫn nhảy múa, bùng nổ và lộn nhào như những bánh xe bò vụng về vì hân hoan. Rồi ngay sau đó cô lao thẳng vào một bức tường.
Cô đã hứa hẹn với Fređie. Fređie, người tin cô một cách vô điều kiện.
Người yêu thương cô nhiều hơn hẳn những gì cô xứng đáng. Cô đã xác định ước muốn của mình và quyết tâm kết hôn với anh mỗi lần gặp anh, lần gần đây nhất mới cách đây hai ngày.
Làm sao cô có thể tát vào mặt Fređie với sự phản bội trắng trợn như thế này?
"Anh đã cố gắng không nghĩ như thế", Camden nói, đôi mắt anh sáng rực trong đêm, "Nhưng anh cứ luôn tự hỏi rằng điều gì sẽ xảy ra, trở lại năm 88, nếu anh quyết tâm. Nếu anh có can đảm trở về Anh tìm em".
Tại sao anh không làm thế? Cô gào lên trong lặng lẽ. Tại sao anh không về với em khi em cô đơn và đau đớn? Tại sao anh đợi cho đến khi em đã ràng buộc với người đàn ông khác?
Cô nhắm mắt, nhưng trong đầu cô hỗn loạn, ồn ào, những suy nghĩ dữ dội xâm chiếm lẫn nhau. Đột nhiên, một bài hát thần tiên vang lên trên những tiếng ầm ĩ, ngọt ngào và không thể cưỡng lại, và cô không thể nghe thấy gì khác.
Một khởi đầu mới. Một khởi đầu mới. Một khởi đầu mới. Một mùa xuân mới sau mùa đông chết chóc. Một con chim phượng hoàng sống dậy từ nắm tro tàn của nó. Cơ hội thứ hai kỳ diệu đã luôn luôn lẩn tránh những cuộc truy lùng vô ích của cô giờ đây hiện diện trước cô trên một chiếc đĩa vàng, trên một chiếc giường phủ đầy cánh hoa hồng.
Cô chỉ phải vươn tay ra và...
Đây cũng chính là nỗi khao khát tham lam, sự thôi thúc muốn đạp đổ mọi thứ và mọi người đã đánh bại cô một thập kỷ trước. Cô đã từ bỏ nguyên tắc của mình và hành động vì lợi ích của bản thân. Và nhìn xem chuyện gì đã xảy ra.
Cuối cùng, cô không còn cả lòng tự tôn và hạnh phúc.
Nhưng bài hát thần tiên vẫn réo rắt và trở nên đẹp hơn. Hãy nhớ hai người đã cùng nhau cười đùa và huyên thuyên về mọi thứ như thế nào. Hãy nhớ những kế hoạch hai người đã vạch ra:
leo lên đỉnh Alps và chèo thuyền đến Riviera? Hãy nhớ chiếc võng hai người sẽ nằm trong thời tiết ấm áp, chỉ hai người, vai kề vai, với Croesus duỗi dài trên họ?
Không, đó là những điều kỳ diệu, những ký ức, và những khao khát bị xuyên tạc bóp méo qua lăng kính màu hồng. Tương lai của cô là với Fređie, người không đáng bị gạt qua một bên một cách nhục nhã. Người xứng đáng với những gì tốt nhất cô có thể dâng tặng. Anh đã giao phó toàn bộ hạnh phúc của anh cho cô. Cô không thể sống với chính mình nếu cô đùa giỡn với niềm tin đó.
Thế còn...
Không. Nếu cô phải chịu đựng bài hát thần tiên đó, giống như Odyseus, vẫy vùng và vật vã trong sự quyến rũ, thì cô sẽ chịu đựng. Nhưng cô không thể từ bỏ Fređie, hay lý trí của cô. Không phải lần này. Không bao giờ nữa.
Cô nhìn Camden, "Em không thể", cô nói, giọng cô chỉ hơn tiếng thì thầm một chút, "Em đã cam kết với người khác".
Những ngón tay anh siết chặt cánh tay cô thêm một chút. Sau đó hơi lạnh của buổi đêm thay thế bàn tay ấm áp của anh. Mắt anh không rời khỏi cô, nhưng cô không thể nhìn thấy ánh sáng trong đôi mắt anh nữa. Anh nhìn cô bằng ánh mắt u tối, "Thế tại sao em lại nói với anh về cái màng chắn?".
Tại sao? "Em...". Nếu có một cái roi cưỡi ngựa ở gần, cô sẽ vui lòng quật nó vào mình. "... em nghĩ anh sẽ ghê tởm em đến mức không muốn làm gì với em nữa".
"Anh hiểu, để bảo toàn lòng trung thành của em với ngài Frederick".
Giọng anh đã lạnh đi. Cũng như trái tim cô. Hơi lạnh lan tỏa ngoại trừ một ngọn lửa trắng của đau đớn.
"Vậy, tại sao em không phản đối khi anh đẩy em vào nguy cơ có hậu quả?".
Cô có thể nói gì đây? Rằng cô đã từng như vậy? Rằng anh chỉ cần thể hiện sự âu yếm nhỏ nhất với cô là cô có thể quên hết mọi thứ quan trọng khác? Rằng cô là một kẻ khờ dại nhất trên giường anh?
"Em đã không suy nghĩ gì. Em xin lỗi".
Chiếc giường kẽo kẹt. Trong một giây thoáng qua cô thấy đường rãnh sâu giữa lưng anh khi anh ngồi chống tay hai bên và đầu cúi xuống. Sau đó anh rời khỏi giường.
"Anh mong sao em sớm nhớ đến tất cả những đắn đo này", anh nói, một cơn giận dữ ngấm ngầm dưới vẻ lịch sự không tỳ vết của anh. Anh nhún vai khoác chiếc áo choàng và thô bạo buộc chặt thắt lưng.
Cô ngồi lên, giữ chặt tấm chăn trên ngực. Ở lại, cô muốn nói. Ở lại với em.
Đừng đi. Thay vào đó, cô lẩm bẩm với vẻ ngớ ngẩn hết sức, "Chính anh nói rằng chuyện giữa chúng ta không thể coi như chưa hề xảy ra, không bao giờ có thể coi như chưa xảy ra".
"Và anh nên nghe theo lời khuyên khôn ngoan của chính mình", anh nói cụt lủn, tiến về phía cánh cửa.
"Đợi đã?", cô gọi với theo, "Anh đang đi đâu? Căn phòng trên tầng không an toàn. Không biết có nguy hiểm gì hay không".
"Anh sẽ trông cậy vào may mắn của mình", anh nói. "Nhất định phải có một chiếc giường nào đó trong ngôi nhà này kém nguy hiểm hơn giường của em".
Camden nằm trên giường trong phòng ngủ đầu tiên được sắp xếp cho anh.
Anh nhìn chằm chằm vào trần nhà và nửa mong rằng nó sẽ đổ sụp xuống anh và làm anh bất tỉnh.
Cũng không phải anh còn đủ tỉnh táo. Em đã không suy nghĩ gì, cô nói. Chắc chắn cô không phải người duy nhất không suy nghĩ. Có thể anh đã không có một ngày tỉnh táo đúng đắn kể từ khi lá thư đầu tiên yêu cầu bãi bỏ cuộc hôn nhân từ những luật sư của cô đến vào tháng Chín vừa qua.
Đã từ lâu anh coi cuộc hôn nhân của mình như là "một sự tồn tại có thể chịu đựng được." Chịu đựng được bởi về mặt pháp lý cô vẫn gắn kết với anh, và anh hy vọng một ngày nào đó, trong một tương lai xa xôi phủ đầy bụi vàng, họ có thể vượt qua Cơn bão tố và khủng hoảng của tuổi trẻ và hạnh phúc bên nhau.
Không phải anh sẵn sàng thừa nhận những suy nghĩ khao khát đó với chính mình, nhưng mười bốn giờ làm việc từ ngày đến đêm đã khiến anh quá mệt mỏi để kiểm soát suy nghĩ của mình.
Khi cô thực hiện những bước chính thức để hủy bỏ cuộc hôn nhân của họ, với những lá thư luật sư của cô gửi phủ tối bầu trời như những đàn châu chấu của Ai Cập, tình trạng trì trệ của anh tụt dốc thành một trạng thái mất cân bằng hỗn loạn. Anh thấy mình như một kẻ chết đứng, không thể làm điều gì khác ngoài việc quăng hết những lá thư đó vào lò sưởi.
Bãi bỏ hôn nhân là một chuyện. Ly dị, tuy nhiên, lại là một chuyện khác hẳn.
Khi cô thực sự tiến lên phía trước và đệ đơn xin ly dị, anh đã nhảy dựng lên vì phẫn nộ, một cơn thịnh nộ nhuốm máu có thể giết chết hết nông dân và xát muối cả trái đất. Cuộc hôn nhân này là giao ước với ma quỷ của họ, bắt đầu bằng những dối trá và đóng dấu bằng thù oán. Làm sao cô dám bứt khỏi sợi xích cay đắng ràng buộc họ. Không ai trong họ xứng đáng với điều gì tốt hơn.
Anh đã dại dột như thế nào khi không hiểu được sự phẫn nộ tích lũy trong nhiều năm. Và anh đã mù quáng như thế nào, khi nghĩ rằng mình đã tìm ra một giải pháp chín chắn và hợp lý với yêu cầu một người thừa kế như là một điều kiện để giải thoát cô khỏi cuộc hôn nhân của họ.
Tất cả những gì anh đạt được là sức cám dỗ như một con thú mà anh đã mất nhiều năm để chế ngự. Nhưng nếu trước đó con thú đó tàn phá cô, thì lần này nó lại nuốt chửng anh.
Anh không biết là lòng can đảm hay sự điên rồ đã xui khiến anh thẳng thừng yêu cầu cô đừng vứt bỏ mọi thứ họ đã có. Anh chỉ biết đến nỗi đau ghê gớm bởi sự từ chối của cô, cảm giác mất mát khiến anh nghẹt thở.
Không hiểu tại sao anh vẫn không thể tin chuyện này sẽ xảy ra như thế, rằng câu chuyện của họ sẽ kết thúc thật thảm hại, như là Hansel và Gretel 1 rốt cuộc đã trở thành bữa tối của phù thủy, hay hoàng tử của Người đẹp ngủ trong rừng chỉ là một đống xương mục trong Khu rừng bị bỏ bùa. Nhưng giọng nói của cô, mặc dù khó nhận thấy, vẫn chắn chắn và rõ ràng. Cô có thể níu chặt và quằn quại bên dưới anh - và mất lý trí trong phút chốc - nhưng cô vẫn kiên định theo đuổi mục tiêu lớn hơn của mình. Và mục tiêu đó là cắt đứt mọi sợi dây ràng buộc với anh.
Có lẽ cô đã đúng. Có lẽ anh vẫn mắc kẹt trong năm 1883. Có lẽ đây thực sự là cách kết thúc câu chuyện của họ. Cô sẽ là cô dâu rạng rỡ của một người đàn ông khác, và anh chỉ là một vết mờ trong lịch sử cuộc đời cô.
Cô đang ở trong phòng ăn tối, nhìn chằm chằm vào tách trà đã nguội lạnh khi anh xuất hiện bên cạnh cô trong bộ đồ cưỡi ngựa và mái tóc bị gió thổi rối bù.
"Anh nghĩ chúng ta sẽ biết, trong một vài tuần, liệu có hay không có hậu quả từ hành động của chúng ta tối qua", anh nói mà không hề mào đầu.
"Em cũng nghĩ vậy", cô nhìn lại vào tách trà, cảm nhận rõ sự hiện diện của anh, của hương vị sương mù ban mai vẫn bám vào anh, và hoang mang trước tin tức mà chu kỳ của cô mang lại. "Nếu không có kết quả gì, anh sẽ để em đến với Fređie chứ?".
"Và nếu có, em vẫn khăng khăng kết hôn với anh ta ư?".
"Nếu có", cô cố đẩy những từ ngữ qua cục nghẹn trong cổ họng, "Em sẽ tuân thủ thỏa thuận của chúng ta đến cuối cùng, và em hy vọng anh sẽ thực hiện phần của mình".
Để đáp lại, anh khẽ cười thành tiếng, một âm thanh lạnh lẽo và vô cảm. Anh chầm chậm nâng cằm cô lên, buộc cô nhìn vào anh, "Anh hy vọng ngài Frederick không sống để hối tiếc với lựa chọn của mình", anh nói, "Tình yêu của em là một điều khủng khiếp".<
Ngày 5 tháng 6 năm 1893.
Không, không, cái này không được. "Hãy lấy cho ta cái màu xanh", Langford nói. Ông cởi nút chiếc áo gi- lê màu vang đỏ - cái thứ ba ông đã gạt đi - vứt lại cho tên hầu phòng.
Một người đàn ông trung tuổi cau có nhìn lại ông chằm chằm trong gương.
Ông chưa bao giờ thực sự đẹp trai, nhưng trong thời hoàng kim của mình, ông luôn luôn có điều gì đó hấp dẫn. Ông luôn chải chuốt và ăn vận hoàn hảo, và bên cạnh ông luôn có mặt đội quân những người đẹp đáng khao khát nhất ngả ngớn trong tay.
Mười lăm năm ở thôn quê và ông đã trở thành một tên đần thộn. Quần áo của ông đã lỗi mốt cả thập kỷ. Ông đã quên cách để bôi sáp lên tóc. Và ông khá chắc chắn rằng ông không còn nhớ làm thế nào để quyến rũ một người đàn bà.
Quyến rũ là một vấn đề của tư duy. Một người đàn ông chắc chắn một trăm phần trăm về mình sẽ dụ được đàn bà ăn trong tay mình. Một người đàn ông chắc chắn tám mươi phần trăm về mình chỉ có những con chim bồ câu ăn trong tay mình.
Và người đàn ông có tám mươi phần trăm chắc chắn này, vì những lý do chỉ được liệt kê trên danh sách của ma quỷ, đã mời bà Rowland đến uống trà - trà cơ đấy! - cứ như ông là mấy mụ già hay gây phiền não mong ngóng một vài mẩu bánh xốp và tin đồn nhảm.
Ồ, còn tệ hơn nữa, giống như ông là kẻ khù khờ đa cảm nào đó tìm cách quay đồng hồ ngược lại ba mươi năm trước.
Tên hầu phòng quay lại với chiếc áo gi- lê màu xanh lá cây sẫm, màu của một thung lũng cây cối rậm rạp. Langford khoác áo vào, quyết tâm đi tới cùng với lựa chọn đặc biệt này cho dù ông trông giống một hoàng tử hay một con cóc.
Ông chẳng giống thứ gì, chỉ là một tên đàn ông bối rối, xáo trộn, và hơi sợ hãi không biết chính xác nên xuôi theo hoàn cảnh hay tiếp tục đứng ngoài lề.
Phải làm thôi, ông nghĩ.
Cỗ xe của bà đến trước dinh thự ở Ludlow Court chính xác lúc năm giờ quá hai phút. Bên dưới chiếc dù ren, bà trông thanh nhã và nghiêm trang như đến uống trà với chính nữ hoàng. Trang phục bà chọn làm ông hài lòng - một chiếc váy buổi chiều màu ngọc trai và xanh nhạt. Ông thích sắc màu kem và xanh tùng lam vốn chiếm ưu thế trong tủ quần áo của bà, những màu sắc của một mùa xuân vĩnh cửu, mặc dù trước đây nếu có ai hỏi ông, thì ông đã tuyên bố rằng những màu sắc đó thật quá tẻ nhạt.
Ông đích thân ra đón bà, đưa bàn tay đeo găng đỡ bà xuống xe. Bà hài lòng xen với đôi chút bối rối - tốt, cả hai người họ đều như vậy.
"Tôi đã ghé thăm ngài vài tuần trước, thưa Đức ngài", bà nói, nửa e dè nửa thách thức, "Nhưng ngài không ở nhà".
Họ đều biết rằng ông ở nhà. Nhưng chỉ ông biết rằng ông đã quan sát bà từ cửa sổ của tầng trên, trong sự bực bội pha lẫn với thích thú, "Chúng ta uống trà nhé?", ông nói và đưa cánh tay ra.
So với những tiêu chuẩn của công tước, Ludlow còn hơn cả khiêm tốn, nói đúng hơn là xoàng xĩnh. Cách đây rất lâu rồi lúc ông khoảng hai mươi tuổi, Langford đã được mời đến lâu đài Blenheim. Khi cỗ xe của ông tiếp cận công trình vĩ đại đó từ một khoảng cách, ông đã bị choáng ngợp bởi cảm giác không tương xứng mạnh mẽ. So sánh với dinh thự khổng lồ của dòng tộc Marlborough, nơi ở của ông dường như chỉ là ngôi nhà nhỏ của một cha xứ.
Tuy nhiên, vẻ hùng vĩ bề ngoài của lâu đài Blenheim nhanh chóng chứng minh rằng đó chỉ là vẻ bề ngoài, hoặc, chính xác hơn, một ảo ảnh. Vì khi cỗ xe của ông chạy đến gần ngôi nhà, vẻ ngoài đó hóa ra đang ở trong tình trạng không được tu sửa từ lâu. Bên trong tòa dinh thự, những tấm rèm đã mốc meo và lỗ chỗ, những bức tường đen sì bởi những ống khói ít được dọn dẹp, và trần nhà trong hầu hết những căn phòng đều lốm đốm những vệt nước - đấy là sau khi gia đình đã bán hết những đồ đạc quý báu của gia tộc Marlborough danh tiếng để trang trải cuộc sống. Vài năm sau chuyến đến thăm của ông, vị công tước thứ bảy đã phải đệ đơn xin Quốc hội cắt đứt chế độ thừa kế để có thể mang toàn bộ ngôi nhà ra bán đấu giá nhằm thanh toán những khoản nợ của gia đình.
Ngược lại, dinh thự ở Ludlow là một hòm châu báu, một hình ảnh nhỏ nhưng hoàn hảo của lối kiến trúc Palladis với những đường nét sắc sảo, sang trọng, cân xứng, và một không gian bên trong mà Langford có thể duy trì tương đối dễ dàng và thỉnh thoảng đổi mới.
Nhưng khi ông đi qua sảnh chờ và lối đi chính, khi bàn tay bà Rowland khẽ chạm vào cánh tay ông, ông băn khoăn không biết liệu bà nghĩ gì về nó. Nơi ở hiện nay của bà có thể chỉ lớn hơn căn nhà săn bắn một chút, nhưng ông biết rằng trước đây bà đã sống trong một nơi lớn hơn nhiều, một dinh thự rộng hơn dinh thự của ông và chắc là hiện đại hơn, nội thất sang trọng hơn, dựa vào tài sản của người chồng đã khuất của bà.
"Ông đã sửa chữa lại hàng hiên", bà Rowland nói khi họ bước vào phòng khách phía nam. Một mặt của căn phòng nhìn ra đường dốc với hàng hiên ở phía sau ngôi nhà, dẫn xuống một khu vườn vuông vắn, gọn gàng và một cái hố nhỏ ở phía xa xa, "Nữ công tước vẫn thường băn khoăn về nó".
"Vậy sao?", lại là một điều khác ông không biết về mẹ mình.
"Đúng thế. Nhưng bà quyết định không sửa chữa để không làm phiền cha ngài trong tình trạng bệnh tật", bà Rowland nói. "Đức bà là một người rất tốt".
Ông đã nhận ra điều đó quá muộn. Trong những năm tuổi trẻ ngông nghênh của mình, ông thầm nghĩ mẹ ông quá thô kệch và quê mùa, không có vẻ gì là quý phái và vương giả tương xứng với cương vị vợ hoàng tử của một lãnh thổ.
Ông chịu đựng tình yêu lo âu của bà như thể nó là một hòn đá treo quanh cổ, chả mấy nghi ngại rằng ông sẽ trôi dạt nếu không có nó.
"Bà chưa bao giờ nói gì về nó với tôi. Và tôi e rằng tôi quá trì độn và bận rộn với chính mình nên không thể đoán ra. Tôi chỉ ra lệnh sửa chữa nó khi tôi bắt đầu tổ chức những bữa tiệc cuối tuần ở đây".
"Nó rất đẹp", bà nói, nhìn những bông hồng vàng tươi tốt nở rộ dọc những hàng rào ngoài cửa sổ. Trên chiếc mũ của bà cũng có những bông hồng, được kết từ những sợi ruy băng lụa màu xanh nhạt, "Bà ấy sẽ thích nó".
"Bà có thích dùng trà trong hàng hiên hơn không?", ông bốc đồng hỏi, "Hôm nay ngoài trời rất đẹp".
"Có, tôi thích thế, cám ơn", bà nói và hơi mỉm cười.
Ông ra lệnh chuẩn bị một bàn uống trà đặt dưới một mái hiên đã được cơi nới rất rộng, với một tấm khăn trải bàn trắng và một vài bông hồng bà vừa chiêm ngưỡng cắm trong một chiếc bình pha lê.
"Tôi nghĩ giờ là lúc tôi xin lỗi", bà nói khi họ ngồi xuống trong hai chiếc ghế, xếp cạnh nhau thành một góc rộng để mỗi người đều có thể thưởng thức tầm nhìn không hạn chế ra khu vườn.
"Điều đấy không cần thiết. Tôi hoàn toàn thích thú với bữa tối, cảm thấy thức ăn và sự bầu bạn thật thú vị".
"Tôi không nghi ngờ về điều đó". Bà cười, phần nào là cố ý, "Với một kịch bản như thế ngài không thể làm tốt hơn. Nhưng tôi muốn xin lỗi vì toàn bộ kế hoạch của mình:
Đầu tiên là tôi cho tất cả người hầu nghỉ và làm con mèo nhỏ mắc kẹt trên một cái cây để có thể yêu cầu ngài giúp đỡ".
Ông mỉm cười, "Tôi chắc chắn với bà rằng tôi không tham dự vào kế hoạch của bà như một kẻ bị lừa bịp ngu ngơ. Tôi biết mình đang tham gia vào cái gì khi tôi đồng ý đóng vai người làm tạm thời của bà thay vì trở thành Ngài Galahad 1 ngờ ngệch".
Bà đỏ mặt, "Tôi cũng đoán như thế từ những sự việc gần đây, tin tôi đi.
Nhưng tôi vẫn có nghĩa vụ phải xin lỗi vì sự lừa dối ban đầu của mình".
Trà được đưa đến giữa lúc hai người vẫn còn tỏ ra kiểu cách và khách sáo.
Bà Rowland uống trà với đường và kem, ngón tay út của bàn tay phải chỉ hơi đưa ra một chút và uốn cong tinh tế như một cánh hoa cúc phương Đông.
"Tôi đồng ý với những lời thú nhận liên quan đến sự lừa dối ban đầu, nhưng tôi quan tâm đến những câu chuyện sau đó liên quan đến tôi hơn", ông nói, không để ý đến tách trà của mình mà quan sát bà khuấy tách trà của mình với vẻ nhàn nhã duyên dáng, "Bà cũng xin lỗi vì những điều đó chứ?".
"Chỉ khi đó là một chuyện bịa đặt trắng trợn".
Ông lơ đãng uống một ngụm trà. Ông vẫn không thích điều đó, "Bà đang có ý nói với tôi rằng đó không phải là một chuyện bịa đặt trắng trợn?".
Bà tiếp tục khuấy trà, "Sau khi suy nghĩ kỹ, tôi quyết định rằng tôi cũng không biết nữa".
Ông nguyền rủa sự tò mò của mình. Và sự thiếu khéo léo của mình. Một người đàn ông thận trọng hơn sẽ không hỏi một câu hỏi mà không thể đương đầu với câu trả lời cởi mở của bà.
"Có lẽ ngài có thể giúp tôi quyết định", bà nói, "Tôi muốn hiểu ngài nhiều hơn".
Tôi không còn là một cô gái trẻ nữa. Vì vậy tôi quyết định đi ngược với mánh khóe của một cô gái và chọn cách tiếp cận trực tiếp hơn. Điều đấy, ít nhất, không phải là bịa đặt, "Bà muốn biết gì?".
"Rất nhiều chuyện. Nhưng đặc biệt là, tại sao và làm thế nào ông trở thành người như hiện nay? Tôi thấy điều này là một bí ẩn gây nhiều tò mò".
Trái tim ông đập thình thịch, "Không hề bí ẩn. Tôi gần như đã chết".
Nhưng bà không dễ thỏa mãn như thế, "Con gái tôi suýt chết vào năm mười sáu tuổi. Trải nghiệm đó chỉ làm củng cố thêm con người hiện tại của nó, không phải trở thành một con người khác hoàn toàn - giống như ngài, trên mọi phương diện".
Bà nâng tách trà và để nó lơ lửng ngay dưới môi, cổ tay bà chắc chắn như đồng bảng Anh. "Bản năng mách bảo tôi rằng tôi không thể hiểu được ngài, cho đến khi tôi biết câu chuyện phía sau sự biến đổi của ngài. Và rằng câu chuyện của ngài còn phức tạp hơn cả chuyện một người đàn ông chạm đến cái chết. Tôi có đoán sai không?".
Ông cân nhắc rất nhiều câu trả lời rồi gạt bỏ chúng. Đã hưởng thụ đặc quyền được nói thẳng thừng trong cả cuộc đời, ông không quen với việc đột nhiên phải quanh co.
"Không", ông nói.
Tách trà vẫn lơ lửng quanh cằm bà, gần giống một cái khiên, cũng như một vật che đậy, che giấu sự minh mẫn nguy hiểm của bà đằng sau một mẩu đồ sứ tráng men vẽ dây trường xuân và hoa hồng, "Có lẽ tôi hỏi quá thẳng thừng, có phải liên quan đến một người đàn bà không?".
Ông không cần phải trả lời câu hỏi của bà. Nhưng vậy thì, ông cũng không cần mời bà đến uống trà. Ông cũng không hiểu kế hoạch của mình giống như bà, có lẽ còn ít hơn nhiều.
"Phải, có một người đàn bà", ông trả lời, "Và một người đàn ông".
Mặt bà đông cứng lại vì cơn sốc bất ngờ. Thận trọng, bà đặt tách trà xuống.
Có thể thấy là sự chắc chắn của cổ tay bà không hề sánh được với sự thích thú của trí tưởng tượng khá thô tục của bà.
"Chúa lòng thành", bà lẩm bẩm.
Ông hơi cười, với vẻ hối lỗi, "Đó là một câu chuyện xấu xa".
"Ồ", bà nói.
"Bà có thể đã nghe về tai nạn trong lúc săn bắn. Tôi đã từng bị bắn, máu chảy không cầm được, phải phẫu thuật trong sáu giờ, và may mắn sống sót", ông nói, "Nhưng bà nói đúng. Nó làm thay đổi cuộc sống đối với tôi nhiều hơn là vết thương hoặc một ca khó tiêu tồi tệ".
Một tuần sau khi Langford qua khỏi nguy hiểm, người bắn ông - Francis Elliot đã đến gặp ông. Elliot là bạn cùng lớp với ông ở trường Eton, có nhà ở làng bên cạnh mà Langford thường xuyên đến thăm khi ông ở nhà vào kỳ nghỉ.
Sau nhiều năm, tình bạn thân thiết của họ nhạt dần, và họ rất ít khi gặp nhau.
Trong khi Langford sống ăn chơi và an nhàn, thì Elliot ổn định cuộc sống, làm một địa chủ điềm đạm, trách nhiệm nhưng trì trệ theo hình mẫu của tổ tiên ông ta.
Buổi sáng đặc biệt đó, trong tâm trạng hết sức cáu kỉnh vì cơn đau và buồn chán, Langford đã chỉ trích tài săn bắn kém cỏi của Elliot và phỉ báng nhân cách của ông ta. Elliot không nói gì cho đến khi Langford tuôn ra hết những lời xấu xa - một kỳ công không hề dễ dàng, vì Langford được đào tạo để trở thành một nhà văn, sở hữu một vốn từ vựng không biên giới.
Sau đó, lần đầu tiên trong đời, Langford nghe thấy Elliot quát lên.
"Rõ ràng người đàn ông đó đã chủ tâm bắn tôi, mặc dù anh ta không có ý định giết tôi. Đó là kết quả của sự hồi hộp và nhắm bắn kém - bởi vì tôi đã quyến rũ vợ anh ta".
Bà Rowland với tay định lấy một chiếc bánh sandwich kẹp dưa chuột.
Nhưng bà khựng lại. Ông đã làm bà sửng sốt ngay cả khi chưa đi đến phần tệ nhất của câu chuyện.
"Tôi không hiểu anh ta đang nói gì. Tôi nghĩ tôi chưa bao giờ gặp vợ anh ta, cho đến khi nhớ ra, rất mơ hồ là có một cuộc gặp gỡ ở một bữa tiệc hóa trang tổ chức bởi một người bạn khác của tôi sáu tháng trước. Đã có một phụ nữ, một người đàn bà trẻ với vẻ đau thương tràn ngập.
Thực ra đó chỉ là một sự xao nhãng của tôi trong một buổi tối, không gì hơn, nhưng đã gây ra một cuộc khủng hoảng cho người bạn của tôi. Anh ta yêu vợ mình. Họ đang trải qua một giai đoạn khó khăn, nhưng anh ta yêu cô ta, yêu sâu sắc, cuồng nhiệt, nếu không nói là kỳ lạ và vô lý".
Lúc đầu, câu chuyện của Elliot không tác động gì đến Langford ngoài sự khinh rẻ. Ông không bao giờ coi một người đàn bà hay bất kỳ người đàn bà nào, quan trọng đối với ông bằng một nửa như vậy.
Tiếp đó, sau cơn bộc phát ban đầu của mình, Elliot làm một điều giật mình:
anh ta xin lỗi. Qua hai hàm răng nghiến chặt, anh ta xin lỗi vì mọi chuyện - xin lỗi vì anh ta đã phán quyết sai lầm, đã đổ nỗi tuyệt vọng của mình lên Langford khi lỗi lầm bắt nguồn từ anh ta vì không làm cho vợ mình hạnh phúc.
Langford, vẫn còn cáu giận, chấp nhận những lời xin lỗi của anh ta mà không buồn khoác lên mình vẻ lịch sự giả tạo. Nhưng sau khi Elliot đi khỏi, ông không thể xua hình ảnh người đàn ông đó ra khỏi đầu, không thể không nhớ lại thái độ của Elliot khi anh ta xin lỗi, một thái độ chỉ chứa đựng vẻ tự- trách- mắng và một quyết tâm làm điều đúng bất chấp sự khinh miệt mà anh ta chắc chắn sẽ nhận được.
Với lời xin lỗi vô điều kiện này, bất chấp những hành động trước đó, Elliot đã chứng tỏ mình là một người đàn ông có lòng dũng cảm, có lương tâm và đứng đắn - tất cả mọi thứ mà Langford căm ghét và khinh bỉ vì nó quá tầm thường so với cái tôi cao quý của ông.
"Tôi không muốn phải thay đổi hay bị thay đổi", Langford nói. "Tôi sống với nhiều lạc thú, rất dễ say mê. Tôi không muốn phải từ bỏ nó. Nhưng mọi chuyện đã thay đổi. Tôi đang rúng động. Trong những ngày dưỡng bệnh tiếp theo, tôi bắt đầu đặt câu hỏi về mọi thứ tôi coi như là đặc quyền về những lựa chọn trong cuộc đời mình. Tôi đã gây tổn hại cho bao nhiêu người trong những lần săn đuổi lạc thú vô tâm của mình? Tôi đã làm được gì hữu ích với tài năng và gia tài khổng lồ của mình? Và người mẹ tội nghiệp đã nghĩ gì về tôi?".
Bà Rowland lắng nghe với sự tập trung tuyệt đối, không hề rời mắt khỏi ông, "Chuyện gì đã xảy ra với bạn ngài và vợ ông ta?".
Đó là một câu hỏi vẫn ám ảnh ông trong bóng tối. Từ những gì ông biết, họ dường như ổn cả, không hề có những tin đồn về những cuộc cãi cọ đáng xấu hổ hay những cuộc chè chén vô độ, "Tôi biết là họ đã có với nhau ba người con.
Đứa lớn nhất ra đời một năm sau khi anh ta bắn tôi".
"Tôi rất vui khi nghe thế", bà nói.
"Nhưng điều đó không thực sự cho chúng ta biết điều gì thực chất xảy ra, đúng không?" Một cặp vợ chồng có thể thực hiện việc sinh đẻ trong sự kinh tởm lẫn nhau. Ông muốn vẽ lên hình ảnh một gia đình hòa thuận vì chính mình, nhưng trong đầu ông chỉ hiện lên hình ảnh những đứa trẻ sợ hãi, rón rén bước đi quanh cha mẹ, những người giam cầm nhau trong nỗi cay đắng đáng sợ. Nỗi cay đắng mà Langford gây nên.
"Hôn nhân là những điều kỳ lạ", bà Rowland nói, "Rất nhiều cuộc hôn nhân cực kỳ dễ đổ vỡ. Nhưng cũng có những cuộc hôn nhân bền chặt một cách khác thường, có thể hồi phục từ những tổn thương trầm trọng nhất".
Ông muốn tin bà. Nhưng những cuộc hôn nhân ông biết hầu hết là những cuộc hôn nhân hờ hững, "Tôi hy vọng bà rút ra từ kinh nghiệm của bản thân".
"Đúng thế", bà nói chắc chắn.
"Kể thêm với tôi đi", ông nói, "Tôi đòi hỏi điều gì đó giật gân ít nhất bằng một nửa so với việc tiết lộ quá khứ không thể nói ra của chính mình".
Bà cầm tách trà lên và sau đó, khá là cương quyết, đặt nó xuống lần nữa, "Chuyện này không hề giật gân. Điều giật gân nhất tôi từng làm trong cuộc đời mình là nói tuột ra rằng tôi muốn kết hôn với ngài. Nhưng lúc này xem ra nó không đáng ngạc nhiên chút nào khi tôi thực sự đã mong chờ được kết hôn với ngài, hơn ba mươi năm trước".
Nghe bà nói một cách thành thật như thế ông vẫn ngạc nhiên.
"Tôi tin rằng tôi có phong thái được mẹ ngài chấp thuận. Trở ngại duy nhất là tuổi trẻ và sự miễn cưỡng hiển nhiên của ngài khi phải kết hôn với một cô gái do mẹ ngài lựa chọn. Nhưng tôi không hề coi điều đó là không thể vượt qua.
Khi ngài học xong đại học, tôi vẫn còn trong độ tuổi kết hôn. Và trong thời gian đó tôi tự học hỏi những tác phẩm kinh điển, để làm mình khác biệt so với những cô gái khác đang ganh đua để nhận được lời cầu hôn của ngài.
Không nghi ngờ gì là kế hoạch của tôi sẽ gây ấn tượng với ngài vì nó đầy tự tin và quyết tâm. Đúng thế. Nhưng tôi đã tuyệt đối tin tưởng vào nó. Về chuyện sau này, tôi có thể nhận ra rằng chúng ta đã cư xử với nhau thật khủng khiếp - tôi đã kinh hoàng bởi quá khứ phức tạp của ngài và ngược lại ngài cự tuyệt sự quấy rầy với vẻ tôn sùng của tôi, như con gái tôi đã gọi. Nhưng trong những ngày sôi nổi của năm 1862, ngài là sự hoàn hảo như huyền thoại và tôi thực sự lưu luyến ngài.
Không cần phải nói, khi ông Rowland bắt đầu theo đuổi tôi, tôi không hề rung động trước sự quan tâm của ông ấy. Tôi ham muốn địa vị và khinh rẻ tiền bạc được tạo ra bằng những cách bẩn thỉu, trong khi ông ấy không sở hữu cái gì ngoài nó. Tôi không hiểu tại sao cha tôi chào đón những cuộc viếng thăm của ông ấy, cho đến khi tôi cũng phải làm thế. Tin tôi đi, buộc phải kết hôn với ông ấy vì một chuyện tủi nhục là tình trạng tài chính đổ nát của gia đình không hề khiến ông ấy trở nên dễ mến với tôi.".
Trong giọng bà lộ vẻ hối tiếc. Đột nhiên Langford nhận ra rằng niềm tiếc nuối đấy không phải dành cho ông mà dành cho ông Rowland đã mất từ lâu.
Ông cảm thấy một thoáng ghen tị kỳ lạ, "Bà định nói với tôi rằng cuộc hôn nhân của bà đã hồi phục lại từ điều tồi tệ đó?".
"Phải. Nhưng phải mất rất nhiều thời gian. Khi kết hôn với ông Rowland, tôi quyết định trở thành một người vợ đứng đắn. Trong khi tôi từ chối hạ thấp mình bằng cách tìm kiếm tin tức của ngài hay theo đuổi những cuộc tình, tôi cũng từ chối nhìn nhận ông ấy với bất kỳ tư cách nào khác ngoại trừ là một người mà tôi đã hy sinh những giấc mơ của mình vì lợi ích của gia đình. Thậm chí khi những suy nghĩ của tôi đã thay đổi, tôi cũng không biết phải làm gì. Cảm nhận điều gì đó khác ngoài nghĩa vụ và bổn phận đối với một người đàn ông mà tôi chỉ gọi là ông Rowland trong quá nhiều năm dường như là rất kỳ cục".
Giọng bà bé dần. Cuối cùng bà đưa chiếc bánh sandwich kẹp dưa chuột lên môi lần nữa, "Chúng tôi đã có ba năm hạnh phúc trước khi ông ấy qua đời".
Ông không biết nói gì. Ông luôn luôn coi hôn nhân hạnh phúc là câu chuyện thần thoại, giống như những con rồng thở ra lửa trong thời kỳ cơ khí hóa. Ông thấy mình không đủ tư cách để bình luận về mất mát của bà.
Bà ăn chiếc bánh trong im lặng với vẻ ngon lành. Khi ăn xong, bà lắc đầu và mỉm cười buồn bã, "Bây giờ tôi nhớ ra rằng tại sao xã hội văn minh không giao tiếp với nhau bằng sự thành thật. Như thế này thật kỳ quặc, đúng không?".
"Không nhiều như mọi người nghĩ", ông trả lời. "Tôi không nghĩ mình có một cuộc nói chuyện thẳng thắn nào nữa trong toàn bộ cuộc đời mình, về những vấn đề quan trọng".
"Và bây giờ chúng ta không còn gì để nói ngoại trừ vấn đề thời tiết", bà gượng gạo nói.
"Cho phép tôi được đính chính quan điểm sai lầm của bà ở đây, thưa bà", ông nói với vẻ tỉnh khô, "Tôi hiểu rằng bên dưới vẻ ngoài đầy nữ tính, bà là một nữ học giả đã được học hành đầy đủ để coi trọng kiến thức uyên thâm của tôi".
"Ô kìa, hãy xem ngài ngạo mạn chưa kìa, thưa đức ngài", bà nói, cười toe toét, "Ngài có thể thấy nó hoàn toàn khác đấy. Trong khi đêm đêm ngài ra ngoài chè chén no say, tôi đã đọc những điều được ghi lại trong suốt thời kỳ cổ đại".
"Có thể là thế. Nhưng bà có ý tưởng cơ bản nào về nó không?", ông thách thức.
Bà nghiêng người về trước một chút. Với sự thích thú, ông nhìn thấy tia sáng trong mắt bà, "Ngài sẽ có vài ngày để nghe chứ, thưa ngài?".
Chú thích
1 Hansel và Gretel là câu chuyện cổ tích của Đức kể về anh em Hansel và Cretel bị mẹ kế bỏ vào rừng sâu, sau đó bị lạc vào ngôi nhà kẹo của mụ phù thuỷ. Cả hai anh em bị bắt và suýt nữa thì bị phù thuỷ ăn thịt, nhưng nhờ sự mưu trí và dũng cảm cuối cùng hai anh em đã thoát được nguy hiểm.
Giao Ước Định Mệnh Giao Ước Định Mệnh - Sherry Thomas Giao Ước Định Mệnh