Hai Mươi Mốt
hắc là tôi đã làm đứt cúc quần.
MICK JAGGER
Francisco cho chúng tôi mười ngày phép để nghỉ ngơi và hồi sức.
Bernhard nói anh ta sẽ đi nghỉ ở Hamburg, và cái vẻ mặt anh ta dường như cho thấy sẽ có liên quan đến tình dục; Cyrus tới Evian Les Bains, bởi vì mẹ anh ta đang hấp hối - mặc dù cuối cùng thì hóa ra bà đang hấp hối ở Lisbon, và Cyrus chẳng qua là muốn ở cách xa bà hết sức lúc bà ra đi; Benjamin và Hugo bay tới Haifa để đi lặn; Francisco thì quanh quẩn trong ngôi nhà ở Paris, đóng vai một vị chỉ huy cô đơn.
Tôi bảo sẽ đi Luân Đôn, và Latifa bảo muốn đi cùng với tôi. “Chúng mình sẽ có những ngày tuyệt vời ở Luân Đôn. Em sẽ chỉ anh xem nhiều thứ. Luân Đôn là một thành phố tuyệt vời.” Cô cười cười, chớp mắt nhìn xung quanh.
“Mẹ kiếp,” tôi nói. “Tôi không muốn cô luẩn quẩn ở cạnh tôi.”
Đó là những lời nghiệt ngã, rõ ràng thế, và tôi thành thựcước gì mình không phải làm sự việc thành ra như thế. Nhưng cái nguy cơ hiện diện ở Luân Đôn với Latifa bên cạnh, và một vài thằng đần gào tên tôi trên phố, “Thomas, lâu rồi không gặp, em nào thế?” là một điều quá tệ hại; tôi không muốn phải nhìn thấy nó. Tôi cần được đi lại thoải mái, và bỏ lại Latifa là việc duy nhất mà tôi có thể làm.
Tất nhiên, tôi có thể bịa ra vài câu chuyện như đi thăm ông bà, hay bảy đứa con tôi, hoặc gặp người tư vấn về bệnh sinh dục của tôi, nhưng cuối cùng tôi quyết định rằng “mẹ kiếp” là đỡ phức tạp hơn cả.
Tôi bay từ Paris tới Amsterdam với hộ chiếu mang tên Balfour, và dành ra một giờ đồng hồ cố xem xem có tay người Mỹ nào đủ kiên nhẫn để còn theo tôi không. Có vẻ họ không có lý do cụ thể nào để làm điều đó nữa. Vụ ám sát ở Mürren đã thỏa mãn hầu hết bọn họ rằng tôi là một tay chơi đồng đội, và dù sao, Solomon cũng đã nói hãy cứ thả lỏng cho đến lần gặp gỡ tiếp theo.
Mặc dù thế, tôi không muốn trong một vài ngày tới có bất cứ một người nào, dù ở bên nào, nhướng mày hỏi “cái gì thế này?” đối với bất cứ thứ gì tôi đã làm hay nơi nào tôi đã tới. Bởi vậy, ở sân bay Schiphol tôi mua một vé tới Oslo rồi vứt đi, sau đó mua một bộ quần áo để thay, một đôi kính râm mới, và dùng dằng trong nhà vệ sinh một lúc trước khi lẻn ra ngoài và lại trở thành Thomas Lang, một kẻ vô danh tiểu tốt.
Tôi tới sân bay Heathrow lúc sáu giờ tối và nhận phòng ở khách sạn Post House; một địa điểm thuận tiện, bởi nó rất gần sân bay, và cũng đáng sợ, bởi nó quá gần sân bay.
Tôi tắm thật lâu, rồi quăng mình xuống giường với một bao thuốc lá và một cái gạt tàn, quay số của Ronnie. Tôi muốn nhờ cô một việc, anh biết đấy - cái kiểu việc mà ta phải cần thời gian để rào đón trước - bởi thế tôi dàn xếp cho một cuộc nói chuyện dài.
Chúng tôi nói chuyện thật lâu, điều đó tốt, dù gì cũng tốt, nhưng đặc biệt tốt bởi về lâu về dài Murdah sẽ phải trả tiền cho cuộc gọi đó. Cũng như ông ta sẽ phải trả tiền cho rượu sâm banh và thịt bò mà tôi gọi phục vụ tại phòng, và cây đèn tôi làm vỡ khi vấp ngã vào mép giường. Tất nhiên, tôi biết ông ta sẽ cần khoảng một phần trăm giây để kiếm ra số tiền đủ chi cho những cái đó- nhưng mà, khi bước vào cuộc chiến, anh phải sẵn sàng sống với những chiến thắng dẫu nhỏ nhoi như thế, trong khi chờ đợi những cái lớn lao, vĩ đại.
“Ông Collins. Mời ông ngồi.”
Người thư ký gạt một công tắc và nói vào không khí.
“Ông Collin tới để gặp ông Barraclough.”
Tất nhiên câu đó không phải nói vào không khí. Mà là vào một chiếc micrô đính vào bộ tai nghe giấu đâu đó trong bộ tóc kiểu cách của cô ta. Nhưng tôi phải mất đến năm phút mới nhận ra điều đó, chứ lúc ấy tôi muốn gọi cho ai đó mà bảo họ người thư ký này đang bị ảo giác khá nặng.
“Xin chờ một phút,” cô ta nói. Với tôi hay với chiếc micrô, tôi không chắc.
Cô ta và tôi đang ở trong văn phòng của Smeets VeldeKerkplein; còn tôi là Arthur Collins, một họa sĩ từ Tauton đến.
Tôi không chắc Philip có còn nhớ Arthur Collins không, thực ra nếu như anh ta không nhớ thì cũng chẳng vấn đề gì; nhưng tôi cần phải có chỗ bấu víu nho nhỏ nào đó để lên được tầng mười hai đây, và Collins dường như là một lựa chọn tốt. Dù sao, đó là một tiến bộ, nếu so với cách xưng danh Một Gã Nào Đó Đã Từng Ngủ Với Hôn Thê Của Anh.
Tôi đứng dậy, chầm chậm đi quanh phòng, nghiêng đầu theo kiểu họa sĩ nhìn hàng tá tranh đương đại treo kín trên tường. Các mảng lớn trên các bức tranh được trát màu xám và ngọc lam, với những sọc màu tía rất ư kỳ quặc. Trông như chúng được tạo ra trong một phòng thí nghiệm, có lẽ được chế tạo riêng nhằm nâng cao tối đa cảm giác tự tin và lạc quan trong lồng ngực một người vào thám sát văn phòng SVK lần đầu. Chúng không có tác dụng gì đối với tôi, tôi ở đây vì những lý do khác kia mà.
Một cánh cửa gỗ sồi màu vàng mở ra và Philip thò đầu vào. Anh ta liếc nhìn tôi một lúc, rồi bước ra và giữ cho cửa mở rộng.
“Arthur,” anh ta nói, có chút lưỡng lự. “Ông thế nào?”
Anh ta mặc quần dây đeo màu vàng tươi.
Philip đứng quay lưng lại phía tôi, đang rót dở cho tôi một cốc cà phê.
“Tên tôi không phải Arthur,” tôi nói, trong khi ngồi xuống một chiếc ghế.
Anh ta quay đầu lại, rồi quay lại như cũ.
“Chết tiệt,” anh ta nói và bắt đầu mút ống tay áo. Rồi anh ta quay người gọi to về phía cánh cửa đang mở. “Jane, em yêu, lấy cho anh một cái giẻ, được không?” Anh ta nhìn xuống chỗ cà phê đổ, sữa và bánh bích quy sẫm nước, quyết định không để ý tới những thứ đó nữa.
“Xin lỗi,” anh ta nói, vẫn đang liếm áo mình, “ông nói gì cơ?” Anh ta đi thong dong phía sau tôi, tới nơi ẩn náu ở bàn của mình. Tới đó rồi, anh ta ngồi xuống rất chậm rãi. Hoặc anh ta bị bệnh trĩ, hoặc bởi vì có khả năng tôi sẽ làm một điều gì đó nguy hiểm. Tôi mỉm cười, để chỉ ra rằng anh ta bị bệnh trĩ.
“Tên tôi không phải Arthur,” tôi nhắc lại.
Ngập ngừng một lúc, và có hàng ngàn lời đáp khả dĩ đang xủng xoảng trong óc Philip, quay vòng trong mắt anh ta như một cái máy xay hoa quả.
“Ồ?” Cuối cùng anh ta nói.
Hai quả chanh và một chùm quả anh đào. Nhấn nút bắt đầu.
“Tôi e rằng Ronnie đã nói dối anh ngày hôm đó,” tôi nói, vẻ hối lỗi.
Anh ta ngồi thẳng lại trên ghế, nở một nụ cười bình tĩnh, thoải mái, nụ cười kiểu anh-nói-gì-cũng-chẳng-chọc-tức-tôi- được-đâu.
“Thế à?” Ngừng lại. “Cô ta thật là láo.”
“Đó không phải là cái gì tội lỗi. Ý tôi là, anh phải hiểu rằng không hề có chuyện gì xảy ra giữa chúng tôi cả.” Tôi ngừng một chút - khoảng bằng với thời gian đủ để nói câu “Tôi ngừng một chút” - và rồi đưa ra câu chốt. “Vào lúc đó.”
Anh ta lưỡng lự. Thấy rõ.
Tất nhiên là thấy rõ. Bởi vì nếu ngược lại thì tôi đã không biết. Điều tôi muốn nói là, nó là một sự lưỡng lự rất rõ, gần như giật mình. Đủ lớn, đủ rõ, để làm thỏa mãn một vị trọng tài giám sát gôn.
Anh ta nhìn xuống cái dây đeo quần và lấy móng tay cạo vào một cái nấc hãm bằng đồng.
“Vào lúc đó. Hiểu rồi.” Rồi anh ta ngước lên nhìn tôi. “Tôi xin lỗi,” Philip nói, “nhưng tôi cảm thấy tôi nên hỏi tên thật của ông, trước khi chúng ta đi xa hơn. Tôi muốn nói là, nếu ông không phải là Arthur Collins, ông biết đấy...” Giọng anh ta trầm xuống, tuyệt vọng và hoảng hốt, nhưng không muốn để lộ ra. Ít nhất là trước mặt tôi.
“Tên tôi là Lang,” tôi nói. “Thomas Lang. Và hãy để tôi nói rằng trước tiên tôi đã ý thức được là điều này sẽ gây sốc cho anh.”
Anh ta phẩy tay trước cố gắng xin lỗi của tôi, và ngồi đó một lúc, cắn đốt ngón tay, nghĩ xem tiếp theo mình sẽ làm gì.
Năm phút sau, anh ta vẫn đang ngồi nguyên vậy thì một cánh cửa mở ra, một cô gái mặc áo sọc, đoán chừng là Jane, đứng đó với một chiếc khăn bàn cùng Ronnie.
Hai phụ nữ dừng ở ngưỡng cửa, đưa mắt nhìn quanh, trong khi Philip và tôi đứng dậy và cũng nhìn quanh mãi. Nếu là một đạo diễn phim, anh sẽ khá vất vả với việc quyết định sẽ đặt máy quay ở chỗ nào. Hoạt cảnh vẫn cứ diễn ra như thế, mỗi chúng tôi quằn quại trong cùng một hoàn cảnh khốn khổ, cho đến khi Ronnie phá tan sự im lặng.
“Anh yêu,” cô nói.
Philip, anh chàng đờ đẫn khốn khổ, tiếp nhận điều đó trước tiên.
Nhưng Ronnie hiện giờ đang hướng về đầu bàn phía tôi, bởi thế Philip chuyển động tác của mình thành một cử chỉ không rõ ràng về phía Jane, và chuyện xảy ra với cốc cà phê là thế này, bánh quy thì thành ra thế kia, và em có muốn trở thành một người tình không?
Vào lúc anh ta kết thúc mà quay trở lại với chúng tôi, Ronnie đã trong vòng tay tôi, đang ôm tôi như một đoàn tàu cao tốc. Tôi ôm lại cô, bởi vì dường như tình huống đòi hỏi điều đó, và cũng bởi vì tôi muốn nữa. Mùi hương của cô thật tuyệt.
Sau một lúc, Ronnie khẽ lùi ra, ngửa người về sau để nhìn vào tôi. Tôi nghĩ có lẽ cô đã khóc, thế là hẳn nhiên cô đã sống với chính mình trong giây phút đó. Rồi cô quay người hướng về phía Philip.
“Philip... em có thể nói gì đây?” Cô nói, có vẻ đó là tất cả những gì cô có thể nói.
Philip gãi gáy, đỏ mặt lên một chút, rồi quay trở lại với chỗ vấy cà phê ở ống tay áo. Anh ta là một người Anh, được thôi.
“Để đấy một lúc đã, được không Jane?” Anh ta nói mà không nhìn lên. Đó là điều Jane muốn nghe, và cô biến ra khỏi cửa trong tích tắc. Philip cố cười một cách lịch sự.
“Thế,” anh ta nói.
“Vâng,” tôi nói. “Thế,” tôi cũng cười, ngượng nghịu. “Tôi nghĩ rằng như thế đó, thực sự. Tôi xin lỗi, Philip. Anh biết đấy...” Chúng tôi đứng như thế, ba người chúng tôi, trong một năm sau đó, chờ đợi ai đó thì thầm lời nhắc vở từ góc phòng. Rồi Ronnie quay lại tôi, đôi mắt cô nói: hãy làm đi.
Tôi hít một hơi sâu.
“Nhân tiện, Philip,” tôi nói, gỡ mình ra khỏi Ronnie rồi bước về phía bàn anh ta, “tôi băn khoăn liệu có thể nhờ anh... anh biết không... liệu anh có thể làm ơn?”
Philip trông như thể tôi vừa đập cả một tòa nhà vào anh ta.
“Làm ơn ư?” Anh ta hỏi, và tôi có thể nói rằng anh ta đang cân nhắc giữa lợi và hại của việc nổi giận.
Ronnie tặc lưỡi đằng sau tôi.
“Thomas, đừng làm thế,” cô nói. Philip nhìn cô và khẽ cau mày, nhưng cô không chú ý. “Anh đã hứa không làm điều này,” cô thì thầm.
Điều đó đã được đánh giá đúng.
Philip đã đánh hơi trong không khí và thấy rằng nếu nó không ngọt ngào thì cũng đỡ chua chát hơn trước đó, bởi vì trong vòng ba mươi giây chúng tôi đã cho anh ta thấy rằng chúng tôi là cặp hạnh phúc duy nhất trong phòng này, và giờ đây có vẻ như Ronnie và tôi chuẩn bị cãi nhau.
“Ơn huệ gì thế?” Anh ta hỏi, khoanh tay trước ngực.
“Thomas, em nói không mà.” Lại là Ronnie, lần này giận dữ hơn.
Tôi nửa quay lại nói với cô, nửa lại nhìn về phía cánh cửa, như thể chúng tôi đã tranh cãi chuyện này nhiều lần trước đây.
“Này em, anh ấy có thể nói không, phải không nào?” Tôi nói. “Chúa ơi, tôi chỉ hỏi thôi mà.”
Ronnie tiến lên trước vài bước, khẽ chạm vào mép bàn cho tới khi ở giữa chúng tôi. Philip nhìn xuống đùi cô, và tôi thấy anh ta đang đánh giá vị trí tương đối giữa chúng tôi. Tôi chưa xong chuyện này đâu, anh ta đang nghĩ vậy.
“Anh đừng lợi dụng anh ấy, Thomas,” Ronnie nói, dịch khỏi chỗ đang đứng một chút. “Đừng làm thế. Thật không công bằng. Không phải lúc này.”
“Ôi, vì Chúa,” tôi nói, đầu thõng xuống.
“Làm ơn kiểu gì?” Philip lại hỏi, và tôi cảm nhận thấy hy vọng đang lớn dần lên trong anh ta.
Ronnie vẫn dịch lại gần hơn.
“Không, đừng, Philip,” cô nói. “Đừng làm vậy. Bọn em sẽ đi, bọn em sẽ để anh...”
“Nào,” tôi nói, đầu vẫn cúi xuống, “có thể anh sẽ không có cơ hội như thế này một lần nữa. Anh phải hỏi anh ấy. Đây là nghề của anh, nhớ không? Hỏi han mọi người.” Tôi đang bắt đầu trở nên mỉa mai cay độc, và Philip thích thú với mỗi giây của nó.
“Xin đừng nghe, Philip, em xin lỗi...” Ronnie ném vào tôi một cái nhìn giận dữ.
“Không, không sao đâu,” Philip nói. Anh ta quay lại nhìn tôi, chậm rãi, nghĩ rằng tất cả những gì anh ta phải làm lúc này là không phạm lỗi. “Mà anh làm nghề gì hả, Thomas?”
Thật là tuyệt, Thomas. Một cách mới ngọt ngào, bạn hữu, ấn tượng để gọi một người vừa mới đánh cắp vị hôn thê của anh.
“Anh ấy là nhà báo,” Ronnie nói, trước khi tôi có cơ hội trả lời. Từ “nhà báo” buột ra như thể đó là một thứ nghề nghiệp khá tồi. Hãy đối mặt với nó...
“Anh là nhà báo, và anh muốn hỏi tôi điều gì đó?” Philip nói. “Rồi, nói đi.” Philip giờ đang cười. Lịch sự trong thất bại. Một quý ông.
“Thomas, nếu anh hỏi anh ấy, vào thời điểm như thế này, sau khi chúng ta đã đồng ý...” Cô buông nửa chừng ở đó. Philip muốn cô nói hết.
“Gì thế?” Tôi hỏi, với vẻ hùng hổ.
Ronnie liếc nhìn tôi giận dữ, rồi xoay người quay mặt vào tường. Trong khi làm thế cô quệt vào khuỷu tay Philip, và tôi thấy anh ta cong người một chút. Thật là đẹp. Tôi đã ở rất gần, anh ta nghĩ thế. Làm điều đó thật dễ dàng.
“Làm một đoạn tin về sự sụp đổ của nhà nước toàn trị,” tôi nói một cách mệt mỏi, như một người say.
Vài phóng viên mà tôi từng nói chuyện trong đời dường như có một điểm chung: sự mệt lử thường trực, bởi vì phải đương đầu với những người không được thú vị lắm như người ta nghĩ. Tôi đang cố gắng thể hiện điều đó lúc này, và dường như nó diễn ra khá đạt. “Quyền lực kinh tế của các công ty đa quốc gia lấn át các chính phủ,” tôi líu nhíu, như thể từ đây mỗi thằng ngu trên trái đất này đều hiểu rằng đó là một vấn đề nóng hổi.
“Cho tờ báo nào thế, Thomas?”
Tôi thụp người xuống ghế. Giờ đây hai người kia đang đứng, cùng nhau, ở đầu kia bàn, trong khi tôi thì rũ người xuống. Tất cả những điều tôi cần làm là ợ một vài cái và bắt đầu khều rau chân vịt dính ở răng, và Philip có thể biết anh ta sắp sửa trở thành người chiến thắng.
“Bất cứ tờ báo nào cũng sẽ đăng, cơ bản là thế,” tôi nói, với một cái nhún vai cục cằn.
Philip giờ đang thấy tôi thật tội nghiệp, tự hỏi làm sao mà mình lại tin rằng tôi là một mối đe dọa.
“Và anh muốn một chút... thông tin nào đó?” Dong buồm qua eo biển cuối cùng tới chiến thắng.
“Vâng, đúng vậy,” tôi nói. “Thực ra chỉ là về sự di chuyển của dòng tiền. Làm sao người ta có thể lách được bao nhiêu luật về tiền tệ, ném tiền vào những nơi mà sẽ chẳng ai biết đến bao giờ. Hầu hết là về những thứ cơ bản như thế, nhưng cũng có một vài trường hợp thực tế mà tôi chú ý.”
Tôi đã thực sự ợ một cái nho nhỏ khi nói ra điều đó. Ronnie nghe thấy, liền quay lại đối mặt với tôi.
“Ôi, bảo anh ta cút xéo đi thôi, Philip, vì Chúa!” Cô trừng trừng nhìn tôi. Cái nhìn hơi đáng sợ. “Anh ta xông vào chỗ này...”
“Này, đừng xía vào nữa, được không?” Tôi nói. Tôi nhìn trừng trừng lại cô một cách ngu ngốc, và anh ta có thể đoán rằng hai người chúng tôi là một cặp vợ chồng đã không hạnh phúc trong nhiều năm. “Philip không bận tâm, phải không, Phil?”
Philip đang dợm nói rằng anh ta không bận tâm điều đó, rằng tất cả mọi thứ đang diễn ra thật tuyệt vời theo quan điểm của anh ta, nhưng Ronnie không để anh ta làm điều đó. Cô đang thét ra lửa.
“Anh ấy lịch sự đấy, đồ đầu đất,” cô gào lên. “Philip là người nhã nhặn.”
“Không giống tôi?”
“Là chính anh nói đấy.”
“Em không phải nói.”
“Ồ, anh nhạy cảm quá đấy.”
Chúng tôi đang cãi nhau kịch liệt. Và chúng tôi chẳng tập trước tí nào.
Có một khoảng lặng dài, khó chịu, và có lẽ Philip bắt đầu nghĩ rằng tại khoảnh khắc cuối cùng đó tất cả mọi thứ có thể sẽ vọt đi mất, anh ta bèn nói:
“Thế là anh muốn lần theo sau đường đi của dòng tiền cụ thể nào đó phải không, Thomas? Hay là những cơ cấu chung chung mà người ta có thể sử dụng?”
Tuyệt vời.
“Lý tưởng nhất là cả hai, Phil,” tôi nói.
Sau một giờ rưỡi tôi bỏ Philip lại với chiếc máy tính của anh ta và một danh sách “những người bạn tốt có nợ ân tình”, để đi qua Luân Đôn tới Whitehall, nơi tôi có một bữa trưa tởm lợm với O’Neal. Dù rằng thức ăn khá là ngon.
Chúng tôi chuyện vãn một hồi về các loại cải bắp và những đức vua, rồi tôi thấy mặt O’Neal dần dần chuyển từ màu hồng, sang trắng, sang xanh, khi tôi tóm tắt lại chuyện đã diễn ra. Khi tôi đưa ra cái mà theo tôi có thể là đoạn kết khá sinh động cho toàn bộ mọi thứ, mặt ông ta chuyển thành xám.
“Lang,” ông ta rền rĩ, “ông không thể... ý tôi là... tôi không thể nào cứ đứng nhìn ông...”
“Ông O’Neal,” tôi nói, “tôi không hỏi xin sự cho phép của ông.” Ông ta thôi không rền rĩ nữa, chỉ ngồi đó, miệng hơi trễ xuống. “Tôi đang nói với ông điều mà theo tôi là sẽ xảy ra. Vì phép lịch sự.” Tôi thừa nhận rằng dùng từ đó trong tình huống như thế này thì hơi kỳ quặc. “Tôi muốn ông, và Solomon, và Bộ của ông, có thể thoát ra khỏi vụ này trước khi quá nhiều trứng thối được ném lên áo quý vị. Dùng nó, hay không dùng. Tùy các vị.”
“Nhưng...” ông ta lúng túng, “ông không thể... ý tôi là... tôi có thể báo với cảnh sát về ông.” Tôi nghĩ chính ông ta cũng có thể nhận thấy lời ông ta nghe yếu ớt thế nào.
“Tất nhiên là ông có thể,” tôi nói. “Nếu ông muốn Bộ của ông bị đóng cửa trong vòng bốn mươi tám tiếng đồng hồ, và các văn phòng của nó được biến thành nhà bè cho Bộ Nông nghiệp và Thủy sản, thì vâng, báo tôi với cảnh sát chắc chắn là một cách tuyệt vời để làm điều đó. Thế ông có địa chỉ chứ?”
Ông ta càng trễ miệng xuống, rồi rùng mình tỉnh lại, đi tới một quyết định, sau đó bắt đầu nhìn vờ như lén lút nhưng lồ lộ khắp nhà hàng, như một cách để nói với tất cả các thực khách khác rằng Tôi đang chuẩn bị đưa cho người này một mẩu giấy quan trọng.
Tôi nhận địa chỉ đó từ ông ta, tợp vội cốc cà phê, đứng dậy khỏi bàn. Khi liếc nhìn lại từ chỗ cửa, tôi có cảm giác rõ ràng O’Neal đang tự hỏi làm sao ông ta có thể sắp xếp đi nghỉ tháng tới cho được.
Địa chỉ đó ở Kentish Town, và hoá ra nó là một trong cụm sáu mươi khu nhà chung cư thấp tầng, với những tấm gỗ sơn còn mới, những hộp cửa sổ, và một dãy ga ra với một bên tường trát sỏi. Thang máy vẫn còn hoạt động.
Tôi đứng chờ ở cửa thang máy tầng hai, cố hình dung chuỗi lỗi lầm quan liêu kinh hoàng nào đã khiến cho chỗ này được chăm sóc tốt như vậy. Ở hầu hết mọi vùng của Luân Đôn, người ta thu nhặt thùng rác từ các phố trung lưu rồi đem tới đổ ở các khu chung cư, trước khi đốt cháy một vài chiếc Fort Cortina trên vỉa hè. Nhưng rõ ràng là ở đây không như thế. Ở đây có một tòa nhà vẫn đang hoạt động, nơi người ta có thể thực sự sống với một mức nhân phẩm nào đó, mà không cảm thấy dường như phần còn lại của xã hội biến mất sau đường chân trời trong một chiếc xe buýt Butlins. Tôi cảm thấy dường như mình đang viết một lá thư chán ngấy tới ai đó. Rồi thì xé nó đi và tung những mẩu giấy xuống bãi cỏ phía dưới.
Cửa kính của phòng mười bốn mở ra, một phụ nữ đứng đó.
“Xin chào,” tôi nói. “Tôi tên là Thomas Lang. Tôi tới để gặp ông Rayner.”
Bob Rayner cho cá vàng ăn trong khi tôi nói với ông ta điều tôi muốn. Lần này, ông ta mang kính và mặc bộ áo len chơi gôn màu vàng, những người đàn ông vất vả thì được phép làm thế trong ngày nghỉ của mình, tôi nghĩ vậy, còn vợ ông ta mang chè và bánh bích quy cho tôi. Chúng tôi có mười phút bối rối khi tôi hỏi han về cái đầu của ông ta, và ông ta bảo tôi ông ta vẫn đang phải chịu đựng những cơn đau đầu lạ; tôi nói rằng tôi xin lỗi thì ông ta bảo đừng cả nghĩ làm gì, trước khi bị tôi đánh ông ta vẫn thường bị thế mà.
Chỉ là có vẻ thế thôi. Nước chảy qua cầu. Bob là một tay chuyên nghiệp, anh thấy đấy.
“Ông nghĩ là ông có làm được không?” Tôi hỏi.
Ông ta gõ gõ vào bên thành bể cá, điều này có vẻ như không mảy may gây ấn tượng đối với lũ cá.
“Tốn kém cho anh đấy,” ông ta nói, sau một lúc.
“Được mà,” tôi nói.
Đúng như thế. Bởi vì Murdah sẽ trả tiền.
Tay Lái Súng Đa Cảm Tay Lái Súng Đa Cảm - Hugh Laurie Tay Lái Súng Đa Cảm