Mắc Kẹt epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 22
racy gọi điện cho Stan Fields vào buổi chiều hôm đó và nói rằng có thể anh ta sẽ muốn gặp cô. Cô hẹn vào ngày thứ Tư, mùng Năm tháng Bảy, ngày nghỉ của cô. Fields đòi Tracy cho biết lý do về cuộc gặp mặt mà cô còn úp mở, nhưng rồi anh ta lại nói rằng cũng đáng để lái xe từ phía bắc tới thành phố Seattle. Cô đề nghị họ sẽ gặp nhau ở nhà hàng Cactus nằm trên bãi biển Alki. Nếu có bất kì câu hỏi nào về cuộc gặp mặt thì việc giải thích sẽ dễ dàng hơn trong một bữa trưa tại một nhà hàng gần nhà vào ngày nghỉ của cô, hơn là cố gắng giải thích tại sao cô lại lái xe một quãng dài tới Tacoma để điều tra một vụ án mà đáng nhẽ ra cô không được làm nữa.
Mười hai giờ hơn trưa thứ Tư, Tracy ngồi chờ dưới mái hiên màu xanh lục và đỏ trong sân sau của nhà hàng Cactus, nhai khoai chiên chấm sốt salsa và uống vài ngụm trà chanh. Phía bên kia đường, mọi người tụ tập trên bãi cát và lối đi được lát ván của bãi biển Alki, đông tới mức những người chạy bộ phải mạo hiểm chạy xuống phố để tránh. Đánh giá từ việc trên đường đang dày đặc xe ô tô, có thể thấy sẽ còn có thêm nhiều người tới tận hưởng ở bãi biển này, hoặc là tới ăn trưa ở một trong những nhà hàng với cảnh quan đáng giá cả tỉ đô la. Du khách túm tụm lại chỗ tháp chuông làm bằng bê tông để kỉ niệm nơi được xem là nơi sinh của thành phố Seattle, hoặc ít nhất là chỗ mà những người dân định cư của Đảng Denny đặt chân lên bờ vào mùa thu năm 1851 để thành lập khu định cư đầu tiên của họ. Những người Mỹ bản địa sinh sống ở vùng đó có thể sẽ tranh cãi rằng vùng đất này đã được tìm thấy từ trước đó.
Tracy quan sát Fields tiến lại gần sân sau từ đại lộ Sáu Ba, nằm vuông góc với đại lộ Alki. Anh ta đang hút một điếu thuốc. Vẫn mang phong cách những năm bảy mươi, Fields mặc một bộ com lê sọc nhỏ màu ghi, áo sơ mi cổ mở khoe sợi dây chuyền vàng, và một cặp kính râm phi công. Tracy thì mặc rất bình thường với quần soóc, áo ba lỗ màu xanh dương và một chiếc áo sơ mi màu trắng.
Fields rít một hơi thuốc lá cuối cùng trước khi bỏ nó xuống và dùng giày dập nó đi. Vào trong nhà hàng, anh ta chào Tracy. “Giao thông quanh đây thật tồi tệ. Cảm ơn vì cuộc gọi nhắc tôi chỗ để xe.”
Vì sống ở gần đây, Tracy biết những nơi đỗ xe bí mật, Ví dụ như ga ra dưới hầm liền kề với tòa nhà này.
“Những người này không phải đi làm sao?” Fields nói, quan sát lượng lớn người đi bộ trên lối đi lát ván phía bên kia đường.
“Giờ ăn trưa mà.” Tracy nói. “Những người ở phía Tây Bắc ra ngoài khi mặt trời đang chói chang. Mùa thu và mùa đông có thể sẽ kéo dài.”
Fields cởi áo khoác và kéo ghế ra, ngồi xuống. Anh ta có mùi của khói thuốc lá. “Ở Arizona thì người ta ở trong nhà vào mùa hè và ra ngoài chơi khi mùa thu và mùa đông tới.”
Anh ta bỏ chiếc kính râm phi công xuống, gập nó lại và cho vào trong túi áo sơ mi. Khi nữ phục vụ bàn tới, anh ta nói. “Làm ơn, cho tôi một chai bia Corona với một quả chanh nhé, cưng.” Tracy cố gắng để kiềm chế lời nói của mình. Fields đổ dồn sự chú ý sang Tracy. “Thế nào, cô có âm mưu gì à?”
“Chả có âm mưu gì cả. Tôi có một số thông tin cho anh về vụ của Andrea Strickland đây, một vài thứ chúng tôi đang làm đó khi họ hủy quyền xét xử.”
“Không có âm mưu gì à?” Fields ném cho Tracy một nụ cười đểu. Ria mép nhếch lên. “Đánh giá từ vẻ ngoài của cô, hôm nay cô không đi làm. Cô có thông tin cho tôi nhưng không phải là trong tập tài liệu cô mang tới, nhưng cô cũng không muốn nói về nó qua điện thoại, và cô muốn tôi tới chỗ cô. Tôi cũng đã làm việc này lâu rồi đấy.”
“Vâng, tôi biết. Đây không phải là lần đầu tiên của anh.” Tracy nói. “Vậy là anh nhận được tập tài liệu rồi?”
Fields gật đầu. “Và tôi đã có một cuộc trò chuyện khác với Graham Strickland, hoặc là, tôi nên nói là, tôi đã cố gắng.”
“Anh ta gọi luật sư rồi à.”
Bộ ria co giật một chút. “Mọi thứ đều phải thông qua luật sư. Tôi đã nói với luật sư rằng chúng tôi sẽ phạt tiền anh ta và khách hàng của anh ta vì tội cản trở.”
Tracy có thể tưởng tượng chiến thuật đó đã tác động đến Fields sâu sắc tới mức nào.
“Anh ta nói tôi hoặc là chịu đựng hoặc hãy ngậm miệng vào.” Fields tiếp tục. “Chúng tôi đã thỏa hiệp. Luật sư sẽ cho chúng tôi gặp Strickland để thẩm vấn hắn.” Fields tựa lưng ra sau, ngắm nhìn hai người phụ nữ trẻ tuổi mặc quần soóc đi ngang qua sân sau trước khi lại tập trung vào Tracy. “Không thể biết chắc điều đó sẽ có lợi bao nhiều vì chúng ta không thể xác định chính xác thời điểm gây án, và bên pháp y cũng không đưa ra được bằng chứng nào vì nước biển đã tác động nhiều tới cái lồng cua cũng như cái xác. Kể cả chúng ta tìm thấy khẩu súng, mà điều này thì vẫn chỉ là nghi vấn, chúng ta cũng không có được viên đạn. Chúng tôi điều tra thẻ tín dụng của Strickland và hồ sơ cuộc gọi để xem liệu hắn có thuê chiếc thuyền câu cua nào vào ngày hôm đó không. Không hề có.” Fields lấy một miếng khoai, chấm nó vào xốt salsa, rồi bỏ nó vào mồm. “Nói cách khác, vẫn chưa có đủ chứng cứ, và thằng khốn kia biết điều đó.”
Nữ bồi bàn quay lại với chai bia của Fields, một lát chanh dính trên cổ chai.
“Ông đã muốn gọi đồ chưa ạ?” Cô bồi bàn hỏi.
“Cứ cho tôi một phần thịt bò bít tết mà nhà hàng có đi.” Fields nói. “Nó gọi là gì ấy nhỉ, came asada, phải không?”
Nữ bồi bàn mỉm cười. “Ông muốn miếng thịt chín ở mức nào ạ?”
“Vẫn còn màu đỏ máu nhé! Nói với đầu bếp rằng tôi muốn miếng thịt kêu “ụm bò” khi tôi xiên cái nĩa vào. Và ném vào đó một vài miếng ớt xanh nướng nữa nhé!”
Trac gọi một phần tostada “Không cần xốt kem chua hay xốt guacamole đâu.” Cô nói.
Fields cho miếng chanh vào trong chai bia. “Giữ dáng hả?” Anh ta nhấp một ngụm bia. “Thế cô có gì cho tôi nào?”
Tracy chấm một miếng khoai và nhai. “Tôi đã nói chuyện với dì của Andrea Strickland ở thành phố San Bernadino.”
“Thế à?” Fields nói, nghe có vẻ ngạc nhiên và khá khó chịu. “Cái gì cơ? Cô lại tình cờ đi xuống đó à? Như kiểu là cô vô tình dành ngày nghỉ của mình để điều tra một vụ án không còn là của mình nữa ấy. Họ có khiến cho cô bận rộn ở cái đất Seattle này không vậy?” Fields nhíu mày.
“Tôi cũng đã nói chuyện với bác sĩ tư vấn của cô ta.” Tracy nói, phớt lờ anh ta.
“Của Strickland hay của bà dì kia?”
“Của Strickland. Bà dì đưa Andrea tới gặp chuyên gia tư vấn tâm lý sau vụ tai nạn xe đã giết chết cả bố và mẹ của cô ta. Bà dì tiếp tục phải làm vậy khi biết chồng mình lạm dụng tình dục Andrea.”
“Hẳn rồi?” Fields nói to tới mức những người ngồi ở những chiếc bàn khác phải quay sang nhìn.
Tracy nhấp một ngụm trà đá. “Đứa trẻ mất cả bố và mẹ trong một tai nạn xe và sau đó phải chịu đựng những điều tồi tệ như vậy.”
“Không phải ai cũng lớn lên trong bộ phim Đại gia đình Brady đâu.” Fields nói, nhấp thêm một ngụm bia nữa.
“Vâng, tất nhiên là không được như vậy.” Tracy nói.
“Vậy là cuộc đời cô nàng bị hủy hoại.” Fields nói.
“Bác sĩ tư vấn gọi cho Trung tâm Bảo vệ trẻ em và cô gái được đưa ra khỏi căn nhà đó cho tới khi bà dì chuyển tới nơi khác.”
“Bị phạt hành chính chứ?”
“Tôi chưa điều tra.”
“Chuyện gì xảy ra tiếp theo?”
“Bác sĩ tư vấn không chắc chắn nhưng nói rằng hoàn toàn có khả năng Andrea đã nhiễm chứng bệnh mà ông ta gọi là chứng rối loạn phân li - cô gái mang rất nhiều nhân cách khác nhau để né tránh thế giới thực.”
“Kiểu như là phim Sybil ấy à?”
“Sao tôi biết được chứ.”
“Ông ta có nói tên các nhân cách khác nhau không?”
“Ý anh là Lynn Hoff hả? Không, nhưng ông ta nói Andrea bị ám ảnh với việc đọc sách và có thể lấy vai của một nhân vật trong những quyển sách mà cô ta đã đọc.”
“Mong rằng cô nàng không đọc cuốn Carrie.” Fields nói. “Nghe cứ như kiểu cô nàng là một con tàu đang chực chờ bị trật bánh ấy.”
“Có thể đấy. Bác sĩ tư vấn cũng nói rằng cô ta dễ có những hành vi bạo lực.”
“Ông ta chứng kiến bao giờ chưa?”
Tracy lắc đầu. “Andrea rời đi khi cô ta tròn mười tám tuổi. Ông ấy nói triệu chứng có thể sẽ biểu lộ ra ngoài, và nếu có thì cũng vào khoảng những năm đầu của độ tuổi hai mươi.”
“Thế có nghĩa là cô nàng như một quả bom hẹn giờ chờ phát nổ ấy à? Ông ta có nói thứ gì sẽ khiến các triệu chứng đó bộc phát không?”
“Ông ấy có dự đoán một số thứ những chấn thương khác, bị bạo hành, bị bỏ rơi, hoặc nếu như cô ấy thấy tuyệt vọng.”
Nữ bồi bàn quay lại với phần tostada của Tracy và came asada của Fields. Anh ta dùng nĩa xiên vào miếng thịt. “Tôi không nghe thấy nó kêu “ụm bò”.” Anh ta nói. Nữ phục vụ bàn trông có vẻ lo lắng. “Đừng lo, bé cưng. Tôi chỉ trêu đùa với em thôi. Mang cho tôi thêm một chai bia Corona nữa nhé.”
Nữ bồi bàn dọn cái chai không trên bàn di.
Fields lấy con dao và cắt miếng thịt ra, bỏ một miếng lớn vào miệng, vừa nhai vừa nói: “Cô vừa nói tới bỏ rơi, thế có nghĩa là nếu như chồng cô ta ngoại tình hoặc lên kế hoạch giết cô ta, và cô ta phát hiện ra?”
“Có khả năng.”
“Được rồi. Vậy thì manh mối này sẽ đưa tôi tới đâu?”
Tracy lấy một ít xốt salsa rưới lên trên phần tostada. “À thì, điều này có thể giải thích làm thế nào mà một người phụ nữ trông có vẻ sống nội tâm lại xuống núi ngay từ đầu, và đạt tới đỉnh điểm là làm cho chồng cô ta trông có vẻ như đã mưu sát cô ta.”
Fields hạ dao và nĩa xuống. “Ý cô là gì, gài bẫy chồng à?”
“Theo như báo cáo của ông, người chồng không hề hay biết về điều khoản bảo hiểm mà anh ta là người thụ hưởng.”
“Đó là những gì mà hắn ta nói, nhưng chúng ta đều biết rằng đó có thể là bịa đặt.” Fields nói.
“Có thể là không phải.” Tracy nói. “Cũng chẳng có gì xác nhận về sự tồn tại của người “bạn gái” mà Andrea tin là chồng cô ta đã qua đêm cùng. Những gì chúng ta biết chỉ là cô ta đã xuống núi, nhưng trước đó không quên bỏ lại đống quần áo và dụng cụ, thế có nghĩa là cô ta đã phải mang một số đồ đạc khác theo người khi xuống núi. Cô ta không hề bày cái đống kia ra chỉ để cho vui. Và cô ta có một cái bằng lái xe giả, tất cả những thứ đó đều đã được tính toán trước.”
“Ý cô là Andrea lập điều khoản bảo hiểm như vậy để cho mọi thứ trông có vẻ như là chồng cô ta đang cố gắng giết cô ta?”
“Hoặc có thể đúng là anh ta muốn giết cô ta thật và cô ta đã điều tra ra.” Tracy nói. “Nhưng mà, đúng vậy, tham vấn một luật sư về việc ly hôn, nói với sếp của mình rằng cô ta nghi ngờ chồng mình lại ngoại tình lần nữa, tất cả có thể đều chỉ là một phần của kế hoạch rải vụn bánh mì để dẫn tới nghi vấn rằng thủ phạm là chồng cô ta.”
“Cô ta không cho tôi cảm giác rằng cô ta thông minh đến vậy, đặc biệt nếu cô ta là một ả điên như tay bác sĩ tâm lý đã nói.”
“Bundy cũng là một gã điên.” Tracy chờ một lúc để đối phương suy nghĩ về điều đó. “Theo như sếp của Andrea, cô ta rất thông minh.”
Fields đặt dao nĩa xuống và dùng khăn ăn lau khóe miệng. “Thôi được rồi, nhưng câu hỏi là, ai mới là người giết cô ta? Cứ giả sử như cô đúng - rằng cô nàng đã phát hiện ra kế hoạch giết người của chồng mình và cô nàng cài bẫy lại ông chồng đó cũng có thể là lý do mà hắn ta tìm cô nàng và giết cô ta mà. Thế thì chúng ta lại quay lại với nghi vấn về người chồng.”
“Cũng có thể, mặc dù tôi vẫn thấy ham muốn lấy khối tài sản ủy thác có nhiều khả năng là động cơ gây án hơn nếu như hắn ta đã giết người, điều này lại dẫn đến một chuyện mà tôi muốn nói với ông. Có người đã tìm kiếm Lynn Hoff và Devin Chambers.”
“Sao cô biết chuyện này?”
“Tôi nhờ một người bạn trong ngành tìm người hỏi han và cho tôi biết xem có ai đó tìm kiếm Lynn Hoff không. Và quả là có ai đó.”
“Ai đó là ai cơ?”
“Bạn tôi không biết. Khách hàng đã sử dụng một tài khoản email ảo để đảm bảo rằng danh tính của họ không bị lộ.”
“Thế thì là ngõ cụt rồi còn gì.”
“Không hẳn.”
Nữ bồi bàn quay lại với chai bia thứ hai của Fields và rót thêm trà đá vào cốc của Tracy. Tracy đợi cho tới khi cô bồi bàn rời đi.
“Bạn của tôi nói rằng lúc đầu người đó có đề nghị tay chuyên săn lùng tung tích kia tìm cái tên Lynn Hoff, nhưng ngoại trừ bằng lái xe ở bang Washington mà chúng ta tìm được, anh ta cũng chẳng tìm được gì khác.”
Fields vắt chanh vào miếng thịt, sau đó cho vỏ chanh vào trong chai bia. “Phải rồi, thế nên ngoại trừ việc biết được có ai đó tìm kiếm nạn nhân, nó vẫn là ngõ cụt.”
“Thế có nghĩa là có ai đó biết Andrea đổi danh tính thành Lynn Hoff.” Tracy nói, cảm giác cô đang phải bón từng thìa cho Fields trong quá trình điều tra của anh ta, chẳng trách quá trình điều tra ban đầu không ra được kết quả gì. “Và rồi, khi tay săn lùng tung tích kia nói rằng những kênh thông thường chẳng cho ra bất cứ kết quả gì về Lynn Hoff, khách hàng ẩn danh này lại ném cho anh ta cái tên Devin Chambers.”
“Khách hàng biết cái tên này?”
“Hẳn là vậy.”
“Và Devin Chambers cũng biến mất cùng lúc với Andrea Strickland.” Fields nói. “Đó là những gì người quản lý của họ khai ra, phải không?”
Tracy đã viết thông tin đó trong bản báo cáo phỏng vấn Brenda Berg. “Chambers nói với hàng xóm rằng cô ta sẽ rời khỏi đây và đi châu Âu. Cô ta nhờ ai đó trong khu chung cư lấy thư hộ nhưng lại không có ý định lấy lại chúng, kể cả đồ đạc của cô ta. Có vẻ như cô ta có một người chị gái ở New Jersey, người này nói rằng Devin gặp vấn đề lớn trong việc quản lý tiền nong và có khả năng liên quan tới vấn để về thuốc kê đơn.”
“Cô nghĩ là cô nàng đứng sau số tiền của Andrea à?”
“Tay săn lùng tung tích tìm thấy địa chỉ của một hộp thư trong một hiệu thuốc ở thành phố Renton đăng ký dưới tên Lynn Hoff. Hiệu thuốc cũng có bản ghi chép về việc trước đây có ít nhất một đơn thuốc dưới cái tên đó. Và thành phố Renton cũng là nơi Andrea Strickland sử dụng cái tên Lynn Hoff để chỉnh hình khuôn mặt và làm thủ tục mở tài khoản ngân hàng.”
“Vậy cô nghĩ là hai người họ hợp tác với nhau à, Chambers và Strickland ấy?”
“Đó chỉ là một cách nhìn nhận thôi. Còn có trường hợp khác nữa mà. Nhân viên kiểm lâm mà tôi nói chuyện cùng tin rằng Strickland có người giúp đỡ trong lúc cô ấy xuống núi và bỏ đi. Còn nữa, hai ngày sau khi Kurt Schill kéo cái xác trong lồng cua lên, có ai đó đã rút sạch tiền ra khỏi tài khoản ngân hàng của Lynn Hoff, cũng có nghĩa là người đó phải biết tên ngân hàng, số tài khoản và cả mật khẩu.”
“Phải rồi, vậy cô nghĩ là cái cô Devin Chambers này đã giúp Andrea xuống núi và có thể đã hợp tác với bạn mình hoặc chỉ lấy lòng rồi cuối cùng giết luôn cô bạn?”
Tracy không định đi xa tới vậy, cũng không định đưa ra kết luận từ những chứng cứ mà đáng lẽ ra cô không cần phải điều tra trong vụ án mà cô không còn quản lý nữa. “Tôi nghĩ Chambers là một nghi phạm mà ông sẽ muốn thẩm vấn đấy.”
Fields cầm chai bia lên và tựa ra sau, uống từng ngụm. “Thế sao những thông tin vừa rồi không có trong bản báo cáo của cô?”
Tracy nhún vai. “Như tôi nói, lúc đó chúng tôi chưa có. Tôi vừa mới biết được thôi.”
“Trong tài liệu cô nộp không hề nhắc đến người dì hay tay bác sĩ tâm lý nào. Cũng không hề nhắc tới việc cô lan truyền tin ở trên phố để hỏi xem có ai tìm kiếm Lynn Hoff không. Những thông tin đó không hề được nhắc tới trong tiến trình công việc.”
“Chúng tôi được lệnh đóng hồ sơ và đưa xuống cho các anh, và hoàn thành mọi việc mà chúng tôi đang làm dở. Thế thì có khác gì đâu? Đằng nào thì giờ các anh cũng đã có thông tin rồi.”
Fields đặt chai bia xuống và lấy chiếc khăn ăn ở trên đùi mình đặt lên đĩa, mặc dù anh ta vẫn chưa ăn xong đĩa carne asada của mình. Rõ ràng là anh ta không hài lòng chút nào vì Tracy đã xen vào quá trình điều tra của anh ta. Tracy chẳng quan tâm, cô chẳng hề để ý tới cảm xúc của Fields. Cô chỉ quan tâm tới việc điều tra xem hung thủ là ai.
Fields nhìn thấy cô bồi bàn, ra hiệu bằng mắt, đề nghị tính tiền. Anh ta quay lại với Tracy. “Cảm ơn vì thông tin của cô, và cả bữa trưa nữa.”
Tracy lắc đầu. “Vụ án của anh mà.” Cô nói. “Và bữa trưa của anh được trả bằng thẻ tín dụng của anh.”
Khi Tracy về nhà sau bữa trưa với Stan Fields, Dan đang ngồi trên một trong hai chiếc ghế dài ngoài hiên. Không hề khó chịu vì sức nóng khủng khiếp mà mặt trời chiếu xuống, trông anh thật thoải mái dưới bóng râm rộng lớn của một chiếc ô ở sân sau. Lúc Tracy bước ra ngoài hiên, Dan đang viết tờ kê khai chứng cứ hợp pháp với một cây bút trên tay. Rex và Sherlock trông như đã chết rồi và tìm được thiên đường ở trong bóng râm đó. Khi chúng nhìn thấy Tracy đang đi tới, chỉ có Sherlock đứng lên vẫy đuôi chào đón cô. Tracy không trách Rex khi nhận được cái nhìn bẽn lẽn của nó.
Dan ngẩng lên nhìn cô từ sau cặp kính tròn có gọng bằng kim loại mỏng - đáng lẽ phải khiến anh trông như giáo sư nhưng giờ đã mãi mãi gắn liền với hình ảnh của Harry Potter. Anh đã đi làm từ sớm để kịp hoàn thành đống giấy tờ và đảm bảo rằng sẽ không có gì cản trở việc họ dành cả buổi chiều hôm nay với nhau.
“Chúng ta có thứ này từ lúc nào vậy?” Tracy hỏi. Cái ô không chỉ to mà còn có màu gỉ sét trông rất khiếp, nhưng cô đã tránh nói ra điều đó.
“Thật tuyệt phải không em? Anh đã mua nó trên đường từ cơ quan về nhà. Anh phát hiện ra rằng với thời tiết đẹp tuyệt thế này, chẳng cần phải dành cả ngày làm việc ở trong nhà, thêm nữa, em cần phải tránh ánh nắng mặt trời.”
“Em chỉ cần bôi kem chống nắng là được rồi.” Cô nói. “Chẳng bao giờ em nghĩ rằng một ngày nào đó chúng ta lại mua ô ở thành phố Seattle mà không phải dùng để che mưa.”
“Trái Đất nóng lên mà em.” Anh nói. “Băng tan, nước biển dâng cao, hạn hán, nạn đói, chó và mèo sống chung với nhau…”
“Chúng ta đang nghe Bill Murray giảng về khí tượng đấy à?” Cô hỏi, khá chắc chắn phần cuối câu được Dan lấy ra từ câu thoại trong bộ phim hài nào đó.
“Em đã đi đâu vậy? Em đi dạo à?” Dan hỏi.
Cô lấy cốc nước đá của Dan và uống một ngụm. “Không, em có một cuộc gặp mặt nói chuyện về công việc.”
“Vào ngày nghỉ của em ư?”
Cô ngồi xuống mép chiếc ghế dài bên cạnh, đối mặt với anh. “Em đến gặp tay điều tra viên của quận Pierce, đang tiếp quản vụ án người phụ nữ trong lồng cua.”
“Vào ngày nghỉ của em ấy à?” Anh hỏi lại. “Anh tưởng em không thích gã đó.”
Cô quay sang tập trung quan sát quang cảnh xung quanh. “Có vài thông tin mà em cần nói cho anh ta biết, những thông tin không có trong bản báo cáo.”
“Vào ngày nghỉ của em?” Dan nhắc lại lần nữa.
“Có phải đây sẽ là một cuộc tranh luận về chuyện em bị ám ảnh với việc giải quyết những vụ giết người có liên quan tới các cô gái trẻ vì những gì đã xảy ra với em gái của em không?”
“Không.”
“Thế sao anh cứ hỏi mãi một câu thế?” Cô nói, rất tức giận.
Dan đặt tờ khai xuống và hít một hơi. “Em nói với anh rằng thế giới của cô gái ấy thật tồi tệ, rằng cô ấy đang từ con gái của một bác sĩ trở thành một đứa trẻ mồ côi bị lạm dụng tình dục bởi ông chú dượng, rồi thành vợ của một người chồng vũ phu.”
“Đúng là vậy.” Cô nói.
“Thế nên anh thắc mắc không biết chuyến đi tới San Bernadino của em có liên quan gì tới việc em cảm thấy có mối liên hệ nào đó giữa em và cô ấy không.”
“Sao nào, anh định bạo hành em à?”
“Anh sợ em thì có, em biết điều đó mà.” Anh mỉm cười để khiến tâm trạng tốt hơn. “Nghe này, anh chỉ muốn nói là chúng ta đều biết cuộc đời cũng không công bằng với em, Tracy. Bố em là một bác sĩ và em cũng mất cả ông lẫn em gái em chỉ trong một thời gian ngắn.”
“Em sẽ không chìm đắm trong nỗi tiếc nuối đâu Dan.”
“Thì anh có nói là em như vậy đâu.”
“Em được trao quyền xử lý vụ án này.” Cô nói, nghĩ về Nolasco. “Em đã từng điều tra vụ án này và, vâng, anh biết đấy, đôi khi những vụ án mang tính chất cá nhân. Chẳng phải một số vụ của anh cũng riêng tư hơn những vụ khác sao?”
“Tất nhiên rồi, nhưng trong những vụ án mà em cho là riêng tư thì bao nhiêu phần trăm nạn nhân là phụ nữ trẻ?”
“Rất nhiều.” Cô nói. “Bởi vì rất nhiều người bị bắt cóc và giết chết là phụ nữ trẻ. Em không biết em cần phải làm gì nữa.”
“Nếu đó là vụ án em quản lý, anh không nghĩ là em cần phải làm gì cả. Anh tin rằng đó sẽ là động lực để em làm việc tốt hơn. Nhưng nếu nó không thuộc quyền quản lý của em và em đưa ra những quyết định sai lầm thì anh nghĩ là em cần phải tư vấn về cái gọi là động lực của mình.”
“Tất cả những gì em làm chỉ là theo dõi một số thứ thôi. Thế cũng là quyết định sai lầm sao?”
“Chuyến đi đến San Bernadino của em hoàn toàn không được cho phép.”
“Đó không phải là một chuyến đi công tác.”
“Thật không?”
“Nghe này, em nói chuyện với bà ấy trong khi anh đang ở tòa án và chuyển lại thông tin cho điều tra viên tiếp quản vụ án. Giờ anh ta đang nắm giữ mọi thứ. Anh ta được cái danh cảnh sát tốt còn gì. Em không thấy đó là một quyết định sai lầm.”
“Thế nên bây giờ em sẽ mặc kệ mọi chuyện phải không?”
“Em phải làm vậy, đúng không?”
Họ ngồi đó và im lặng. Dan đứng dậy. “Thôi được rồi. Anh có vài việc vặt phải làm.”
Cô biết mình thật bảo thủ và cũng hiểu rằng Dan chỉ muốn tốt cho cô mà thôi. Cô cũng biết rõ bản thân gặp vấn đề với việc mặc kệ mọi thứ. Cô đứng dậy và ôm lấy anh. “Em xin lỗi. Em không muốn cãi nhau về chuyện này. Được rồi, em cảm thấy có điều gì đó ở người phụ nữ ấy và em muốn được nhìn thấu mọi chuyện. Anh nói đúng. Chắc chắn là có mối liên hệ gì đó và em cảm thấy bực vì bọn em không giữ lấy vụ án đó. Em xin lỗi nếu em trút giận lên anh.”
“Đừng bận tâm.” Anh nói. “Anh là đàn ông mà. Nghe này. Anh sẽ ra ngoài lo một số việc gần như cả buổi chiều nay, nhưng sau đó chúng ta có thể dắt lũ chó đi dạo, khi thời tiết mát mẻ hơn.”
“Chắc chắn rồi.” Cô nói. “Em thích kế hoạch này.”
Anh vào trong nhà, sau đó quay trở lại. “À, và anh cũng đã nói chuyện với bác sĩ của anh về việc mà chúng ta đã bàn hôm trước, khi mình đang đi chạy.”
“Về việc thắt ống dẫn tinh ấy à?”
“Ông ấy nói rằng có thể tháo được.”
Cô biết rằng mình còn nhiều điều muốn hỏi Dan, không phải chỉ về cái phương pháp sẽ gây cho anh đau đớn từ một tới hai ngày, mà là cam kết trọn đời trở thành cha mẹ của đứa trẻ. Cô không muốn anh cảm thấy áp lực, chỉ đơn giản là vì đột nhiên cô lo rằng nhỡ đâu cô sẽ không thể có con.
“Nếu không phải vì em.” Cô nói. “Anh vẫn muốn có con chứ?”
“Anh không thể nếu đó không phải là em.” Anh nói. “Anh yêu em. Anh sẽ không làm vậy vì bất kì ai khác cả. Đây là câu hỏi mà em thực sự cần phải trả lời. Anh ghét phải nói ra câu này vì nghe như thể anh là một người theo chủ nghĩa Sô vanh vậy, nhưng vì Chúa không cho anh tử cung hay bộ ngực để làm việc kia nên gánh nặng sẽ đè lên em trong ít nhất là một năm đầu đấy. Em có chắc là mình đã suy nghĩ kĩ càng chưa?”
“Em đã luôn nghĩ là em sẽ có con.” Cô nói.
“Anh biết mà.” Anh nói. “Và sẽ sống ở thị trấn Cedar Grove cạnh Sarah và tất cả chúng ta sẽ tụ tập cùng nhau vào Chủ nhật hàng tuần để ăn đồ nướng và con của chúng ta sẽ đến trường cùng nhau.”
Cô mỉm cười, nhưng một giọt lệ ứa ra từ khóe mắt. “Anh đã nghĩ về chuyện đó à?”
“Chúng ta đã từng là bạn thân.” Anh nói, ôm chặt cô vào lòng. “Và đó là thế giới của chúng ta. Đó là những kí ức tươi đẹp nhất, Tracy à. Đó không phải là những kỉ niệm buồn. Giờ là lúc chúng ta cùng nhau tự tạo ra những kí ức riêng cho cả hai chúng ta.”
“Em không chắc là mình xứng đáng với cơ hội đó.” Cô nói.
Anh buông cô ra, nhìn cô. “Sao em lại nói thế? Vì Sarah à?”
Cô cố gắng không khóc. “Em ấy sẽ chẳng bao giờ yêu ai, Dan à, sẽ chẳng bao giờ làm đám cưới và nuôi con.”
Anh ôm lấy cô. “Những gì đã xảy ra với em ấy không phải là lỗi của em, Tracy. Em biết điều đó mà.”
Phải, cô biết điều đó, nhưng thế không có nghĩa là cô cảm thấy tốt hơn. Sarah luôn ở trong tâm trí cô. “Em vẫn nghĩ về em ấy, đáng lẽ em không bao giờ được để cho em ấy lái xe về nhà một mình.”
“Vậy em nghĩ Sarah muốn điều gì cho em?”
Tracy lau nước mắt, trả lời thật nhanh. “Em biết em ấy muốn em hạnh phúc.” Tracy nói.
“Tất nhiên là em ấy muốn vậy rồi.”
Tracy khóc, vùi đầu vào ngực Dan. Khi cô lấy lại được bình tĩnh, cô ngả về phía sau và nói, “Em nghĩ là cũng như anh nói với em hôm trước, chúng ta không nên tiến hành bước thứ hai khi chưa làm xong bước một.”
Dan bỏ tay cô ra. “Lại là lời cầu hôn đó.” Anh làm mặt ngốc nghếch. “Anh biết là anh đào hoa, nhưng mà thật sự là em sẽ phải làm cho anh xúc động đấy.”
Tracy cười và đánh yêu lên ngực anh.
“Được rồi.” Anh nói. “Chúng ta sẽ thực hiện bước một vào lúc khác.” Anh nhìn đồng hồ ở trong nhà. “Anh phải làm việc thêm vài giờ nữa và một số việc vặt khác, và khi anh quay lại, chúng ta có thể đưa Rex và Sherlock xuống bờ biển, được chứ?”
Tracy mỉm cười. “Em đồng ý.
Hơn bảy giờ, với nhiệt độ để chịu và làn gió nhẹ thối đến từ phương Bắc, Dan đưa Rex và Sherlock vào phía sau của chiếc SUV.
“Chúng ta không đi dạo à?” Tracy hỏi.
“Anh nghĩ hai cậu nhóc vẫn còn đau sau buổi chạy hôm trước. Đến anh cũng vẫn còn đau đây này.”
“Trông bọn nó chẳng có vẻ gì là đang đau cả.”
Sherlock và Rex giậm chân đầy thích thú, rên ư ử, thè lưỡi ra ngoài. “Chúng sẽ được chạy khi nào xuống xe.” Dan nói. “Chúng ta có thể lái xe xuống bờ biển và đi đạo ở đó. Anh muốn đi tới chỗ ngọn hải đăng.”
“Được thôi.” Tracy nói, ngồi vào ghế hành khách.
Dan lái xe xuống đồi. Bình thường, do khó khăn trong việc tìm chỗ đỗ xe vào mùa hè, họ sẽ đỗ xe ở một chỗ được chỉ định ngay đoạn giữa của con đường, nhưng hôm nay Dan lái xe qua các cửa hiệu và nhà hàng tới tận ngọn hải đăng.
“Chúng ta đưa chó đi đạo hay lái xe đưa chúng đi vậy?” Tracy hỏi.
Dan rẽ phải vào một bãi đỗ xe phía trên khu căn hộ phức hợp hình chữ V dẫn đến ngọn hải đăng mũi Alki. Một cái rào sắt có bánh xe chặn ở lối vào, và một tấm biển lớn cảnh báo rằng đây là khu vực cấm và những người xâm phạm sẽ bị truy tố.
“Đóng cửa mất rồi.” Cô nói, không biết Dan đang mong đợi gì vào giờ này.
“Hả?” Dan nói. “Để xem có đường nào xuống biển không.”
“Chúng ta đang chờ để bị bắt giữ cho ngày hôm nay thêm thú vị đấy à?” Tracy hỏi. Những biển báo nhỏ hơn đặt ở chỗ đỗ xe cho biết bãi đỗ xe được dành riêng cho những người thuê nhà chung cư, và những ai vì phạm sẽ bị giữ xe.
“Anh chưa bao giờ ra tới đó.” Dan nói. “Anh chỉ muốn ra đó ngắm cảnh thôi. Cùng lắm thì họ chỉ yêu cầu chúng ta rời đi mà thôi.” Anh bước xuống xe và mở cửa sau của xe. Rex và Sherlock nhảy ra, theo anh đi tới hàng rào sắt. Dan đẩy hàng rào và nó lăn sang bên trái.
“Cửa mở này.” Anh nói.
“Không, cửa đóng.” Cô nói, vẫn ngồi lì ở ghế xe. “Anh mở nó ra mà.”
“Đi nào, chúng ta chỉ ngắm cảnh một chút thôi. Nếu họ không muốn ai vào thì họ đã khóa nó lại rồi.”
“Anh sẽ không thỏa mãn cho tới khi chúng ta bị bắt phải không?”
“Đứng chết nhát thế chứ!”
“Chẳng phải em vừa mới nghe thuyết giảng về chuyện em làm những việc khiến cho em dính vào rắc rối đó sao?”
“Chuyện đó khác mà, em có thể bị đuổi việc. Còn ở đây, họ sẽ làm gì chúng ta nếu chúng ta chỉ đến ngắm cảnh chứ?”
“Bắt chúng ta. Quy kết chúng ta tội khủng bố. Gửi chúng ta đến vịnh Guantanamo. Tra tấn bằng nước.”
“Thôi nào.” Dan nói. Anh đi ra xa, xuống cuối đường.
“Được rồi.” Tracy nói, mở cửa và bước ra. “Chúng ta đi thôi.”
Cô đóng cái cổng đằng sau và đi thật nhanh để bắt kịp anh. Con đường lát đá tiếp tục trải dài qua hai căn nhà nữa, những căn nhà màu trắng mái đỏ và có hàng hiên. Những căn nhà này gợi nhắc cô về thứ gì đó bước ra từ điện ảnh những năm 1950. Tờ Seattle Times gần đây vừa cho đăng một bài báo kỉ niệm một trăm năm xây dựng ngọn hải đăng và có viết rằng hai căn nhà ở biển này giờ là nhà của nhân viên bảo hộ bờ biển cấp cao. Phía xa, cuối con đường, Tracy và Dan đi đến những tòa nhà đang được bảo trì, cũng có màu trắng và mái đỏ. Một con đường rải sỏi trắng dẫn tới ngọn hải đăng, nơi đánh dấu phần đầu của lối vào phía nam, và là nơi chuyển tiếp giữa eo biển Puget và vịnh Elliott.
Tracy vừa theo Dan đi dọc con đường rải sỏi vừa nghĩ rằng bảo vệ sẽ xuất hiện bất cứ lúc nào và yêu cầu họ lên bờ. Cửa dẫn lên ngọn hải đăng vẫn mở. Dan bước vào trong. Tracy theo sau. Căn phòng ở tầng trệt là một bảo tàng với những bức ảnh và dụng cụ miêu tả lịch sử của ngọn hải đăng. Dan không hề trì hoãn, leo ngay lên chiếc cầu thang hẹp và ngoằn ngoèo. Tracy theo anh lên tầng hai, cô nhận ra rằng nếu đã đi xa đến thế này rồi thì họ nên đi hết hành trình. Chiếc cầu thang kim loại dẫn lên một căn phòng có ánh sáng. Họ sẽ cần một cái cần cẩu để đưa được Rex và Sherlock lên cầu thang.
“Ngồi im nhé!” Dan nói.
Dan trèo lên từng bậc thang. Tracy theo sau. Ở phía dưới, Rex rên rỉ. “Yên nào.” Dan nói.
Khi Tracy leo lên, cô không thể thấy thứ gì ở bên trên. Dan đã chắn mất lối vào. Tuy nhiên, khi anh lên tới đỉnh và rời khỏi cầu thang, cô để ý thấy có thứ gì đó sáng nhấp nháy. Khi cô lên tới bậc thang trên cùng, Dan giơ tay ra để giúp cô vào trong căn phòng chật chội hình bát giác. Chiếc đèn dẫn đường được đặt ở giữa căn phòng. Tuy nhiên, ánh sáng kia lại không phát ra từ chiếc đèn dẫn đường. Nó phát ra từ mười hai cây nến lung linh phản chiếu bóng hình những bông hồng đỏ. Ngoài cửa sổ, ảnh sáng từ mặt trời đang mờ dần lấp lánh in trên mặt nước như hàng trăm viên kim cương.
Tracy cảm thấy đôi mắt mình ướt nhòe đi và đầu gối như muốn sụp xuống. Dan không thả tay cô ra. Anh quỳ gối xuống trong khi cho tay vào túi quần soóc kaki, lấy ra một cái hộp nhỏ màu đen.
“Ôi trời ơi.” Tracy nói, cảm thấy choáng ngợp, nước mắt lăn dài trên má.
“Tracy Anne Crosswhite.” Dan nói, mở chiếc hộp để lộ ra viên kim cương lớn ở bên trong.
Ngực cô phập phồng và khó thở. Cô lấy tay che miệng.
“Làm vợ anh nhé?” Dan hỏi.
Họ ngồi trong nhà hàng Ý yêu thích trên đường Beach Drive, ngay phía nam mũi đất. Ngoài cửa sổ, ánh nắng mặt trời mờ dần sau những hòn đảo và những ngọn núi Olympic ở phía xa. Những bông hồng đỏ, giờ được cắm gọn gàng trong bình hoa, được đặt trên bàn, nhưng Tracy không thể rời mắt khỏi chiếc nhẫn khiến cho bàn tay trái của cô đẹp hơn, và cả người đàn ông vừa đeo nó lên tay cô nữa. “Nó thật đẹp.” Cô nói. “Mọi thứ đều tuyệt đẹp. Anh chuẩn bị mọi thứ như thế nào vậy?”
“À thì, thú thật là anh đã không bắt đầu mối quan hệ này một cách trung thực, sáng nay anh đã không tới văn phòng.”
“Em cũng đoán ra. Thế anh làm cách nào để họ cho phép anh sử dụng ngọn hải đăng vậy?”
“Anh có một người bạn làm việc cùng đội Bảo hộ Bờ biển và cũng thân với người chỉ huy. Ông ấy cho một nhân viên bảo vệ để cổng không khóa và một người khác chuẩn bị hoa. Anh đã gọi điện và nhắc anh ấy thắp nến hộ anh. Anh nợ mấy người họ vài chai rượu ngon. Thế nào, anh đã làm tốt chứ?”
Anh thực sự khiến cô bất ngờ. Cô đã từng nghĩ về việc họ làm đám cưới, nhưng cô nghĩ đó sẽ chỉ là quyết định giữa hai người, và sau đó họ sẽ lái xe tới tòa án. Cô chưa bao giờ nghĩ tới việc Dan sẽ cầu hôn, chứ đừng nói là bỏ thật nhiều công sức để tạo bất ngờ và… khiến cô kinh ngạc. Cô không thể ngừng cười. Cô không thể nhớ lần cuối mình cười đến đau cả cơ mặt là lúc nào.
“Anh đã làm rất tốt.” Cô nói.
Cô xoay chiếc nhẫn trong ánh sáng mờ ảo xuyên qua ô cửa sổ, nhìn những viên kim cương nhỏ bao quanh một viên kim cương lớn ở giữa. Chúng thật lấp lánh. Phía ngoài cửa sổ, những con sóng nhẹ vỗ vào eo biển Puget, và vài con thuyền đánh cá chạy xuôi ngược hướng gió. Mọi thứ thật hoàn hảo. Toàn bộ buổi tối này thật hoàn hảo, cho tới khi cô nhận ra nơi này gần như nhìn thẳng ra điểm đánh bắt cá lý tưởng, nơi Kurt Schill đã kéo chiếc lồng cua đựng xác của Andrea Strickland bên trong.
Mắc Kẹt Mắc Kẹt - Robert Dugoni Mắc Kẹt