Bẫy-22 epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Tướng Dreedle
ại tá Cathcart thực ra không nghĩ tới cha tuyên úy nữa, mà đang rối bời trong một vấn đề mới tinh và đầy nguy hiểm của riêng gã: Yossarian!
Yossarian! Chỉ cần nghe cái tên xấu xí, bỉ ổi đó máu gã đã đông lại và hơi thở gã hổn hển chật vật. Khi cha tuyên úy lần đầu tiên nhắc đến cái tên Yossarian! thì nó đã vang vọng vào tận sâu thẳm ký ức gã như một tiếng cồng báo điềm gở. Ngay khi cửa vừa chốt lại, toàn bộ ký ức nhục nhã về một người đàn ông trần truồng đứng xếp hàng đã ùa về đổ ập lên gã dưới dạng một dòng lũ ô nhục và uất nghẹn của những chi tiết nhức nhối. Gã bắt đầu toát mồ hôi và run rẩy. Một sự trùng hợp ngẫu nhiên bất khả và nham hiểm đã phát lộ, một ám chỉ quá hiểm ác chẳng thể là gì khác ngoài những điềm báo gớm ghiếc nhất. Tên của kẻ trần truồng đứng trong hàng hôm đó để nhận huân chương Chữ Thập Bay Xuất sắc từ tướng Dreedle cũng là - Yossarian! Và giờ cũng chính một người tên Yossarian đang đe dọa chống lại vụ sáu mươi trận mà gã vừa lệnh cho người trong liên đoàn của mình phải bay. Đại tá Cathcart ủ ê tự hỏi liệu đó có phải cùng một Yossarian không.
Gã khó nhọc đứng lên trong đau khổ vật vã và bắt đầu đi lại trong phòng. Gã có cảm giác như đang ở bên một thứ gì đó rất thần bí. Người đàn ông trần truồng đứng trong hàng, gã buồn bã thừa nhận, quả đúng là một vết đen đối với gã. Cũng như vụ lộn xộn về tuyến ném bom trước trận Bologna và vụ phải hoãn nhiệm vụ phá hủy cây cầu ở Ferrara đến bảy ngày, mặc dù việc cuối cùng cũng phá được cây cầu ấy, gã vui sướng nhớ lại, đúng là một mốc son của gã, mặc dù việc mất đi một chiếc máy bay ở đó trong lần vòng lại thứ hai, gã chán ngán nhớ lại, là một vết đen, mặc dù gã đã giành thêm được một mốc son nữa nhờ việc thuyết phục được người ta trao huân chương cho chính tay phi công ném bom đã gây ra vết đen cho gã trước đó bằng quyết định quay lại đánh phá mục tiêu những hai lần. Tên của người phi công ném bom đó, gã bất chợt nhớ ra và ngẩn người vì sốc, cũng chính là Yosarian! Giờ thì có những ba! Cặp mắt tà ác của gã trợn lên vì kinh ngạc và gã cảnh giác quay phắt người lại xem sau lưng có gì đang diễn ra. Một thoáng trước đó không có Yossarian nào trong đời gã; còn giờ chúng đã nhân lên như yêu tinh. Gã cố tự trấn an. Yossarian không phải là một cái tên phổ thông; có lẽ không thực sự có tới ba Yossarian mà chỉ có hai Yossarian, hay thậm chí chỉ có một - nhưng như vậy thì có khác gì! Đại tá vẫn đang kề cận hiểm nguy nghiêm trọng. Trực giác cảnh báo rằng gã đang bị hút tới gần một cực điểm vĩ đại và bí hiểm của vũ trụ, và cả bộ khung cao lớn, xôi thịt của gã chợt ngứa râm ran từ đầu tới chân trước ý nghĩ rằng Yossarian, dù rốt cuộc có là ai đi nữa, cũng đã được số phận an bài là khắc tinh của gã.
Đại tá Cathcart không mê tín, nhưng gã thực lòng tin vào điềm báo, gã ngồi ngay xuống ghế ở sau bàn làm việc và lập tức viết một ghi chú khó hiểu vào sổ tay nhắc việc để nhớ phải điều tra toàn bộ câu chuyện đáng ngờ về Yossarian ngay và luôn. Gã viết để nhắc nhở bản thân bằng những đường bút đậm và dứt khoát, kiên quyết nhấn mạnh nó bằng một loạt những dấu cảm thán và gạch chân cả thông điệp này những hai lần, như sau:
Yossarian!!! (?)!
Xong xuôi đại tá bèn thả lỏng người lại, cực kỳ hài lòng với bản thân vì đã hành động chớp nhoáng để phản ứng lại cơn khủng hoảng tai ương này. Yossarian - chỉ nhìn cái tên này cũng đủ khiến gã rùng mình. Có quá nhiều từ “s” ở trong đó. Nó phải có nghĩa là lật đổ. Nó giống như bản thân chữ subversive(56). Nó cũng giống như seditious (nổi loạn), và insidious (quỷ quyệt), và giống socialist (chủ nghĩa xã hội), suspicious (đáng nghi), fascist (phát xít), và communist (cộng sản). Đó là một cái tên đáng ghét, xa lạ, vô vị, và chẳng gợi chút tin tưởng nào. Nó không giống chút nào với những cái tên sạch sẽ, mạnh mẽ, trung thực, đặc chất Mỹ như Cathcart, Peckem và Dreedle.
Đại tá Cathcart từ từ đứng dậy và lại bắt đầu thơ thẩn quanh phòng. Gần như vô thức, gã cầm một quả cà chua trong giạ lên và ngoạm lấy một miếng. Gã nhăn mặt ngay lập tức và ném phần còn lại của quả cà chua vào sọt rác. Đại tá đâu có thích cà chua mận, ngay cả khi chúng là của gã, mà những quả này còn không phải là của gã. Chúng đã được thu mua từ nhiều chợ trên khắp Pianosa bởi trung tá Korn dưới nhiều tên khác nhau, chuyển tới nông trại trên đồi của đại tá giữa đêm hôm khuya khoắt, rồi sáng hôm sau đưa tới trụ sở để bán cho Milo, kẻ trả tiền cho đại tá Cathcart và trung tá Korn rất hậu. Đại tá Cathcart thường băn khoăn không biết những gì họ đang làm với những quả cà chua mận này có hợp pháp không, nhưng trung tá Korn đã bảo là hợp pháp, nên gã cố không lo nghĩ về điều đó quá nhiều. Gã cũng không có cách nào để biết được liệu ngôi nhà trên đồi có hợp pháp, bởi vì trung tá Korn đã thu xếp mọi chuyện. Đại tá Cathcart không biết là liệu gã đang sở hữu ngôi nhà hay chỉ đang thuê nó, không biết chủ trước của nó là ai, và gã đã tốn bao nhiêu tiền hay là không mất một đồng nào cho nó. Trung tá Korn chính là luật sư, và nếu trung tá Korn đã đảm bảo với gã rằng lừa đảo, tống tiền, những thủ thuật moi tiền, tham ô, trốn thuế thu nhập và thủ đoạn đầu cơ chợ đen là hợp pháp, thì đại tá Cathcart cũng chẳng có lý nào lại không đồng ý với trung tá.
Tất cả những gì đại tá Cathcart biết về ngôi nhà trên đồi của gã là gã có một ngôi nhà như vậy và gã căm ghét nó. Gã chưa bao giờ chán tới mức như khi cứ cách tuần lại phải ở đó hai hoặc ba ngày để duy trì ảo tưởng rằng nông trại đá ẩm ướt và lạnh lẽo ở trên đồi ấy là một cung điện vàng của những niềm vui trần tục. Các câu lạc bộ sĩ quan ở khắp nơi luôn rộn ràng với những miêu tả bóng gió về những cuộc chè chén thác loạn và truy hoan trác táng được giữ kín, về những đêm bí hiểm, thân mật mê ly với những cô gái điếm hạng sang, diễn viên điện ảnh, người mẫu và những nữ bá tước người Ý xinh đẹp nhất, đong đưa nhất, khát tình nhất và dễ thỏa mãn nhất. Chẳng có đêm riêng tư khoái lạc, rượu chè bê tha và truy hoan trác táng nào như thế từng xảy ra. Chúng có thể xảy ra nếu như tướng Dreedle hoặc tướng Peckem tỏ ra, dù chỉ một lần, mong muốn được tham gia thác loạn cùng với gã, nhưng cả hai người này đều chưa từng làm vậy, và đại tá tất nhiên là sẽ không lãng phí thời gian và sức lực để làm tình với gái đẹp trừ phi điều đó đem lại chút lợi ích nào đó cho gã.
Đại tá khiếp hãi những đêm lạnh lẽo ẩm ướt cô đơn và những ngày buồn tẻ vô vị của gã ở ngôi nhà nông trại. Gã vui hơn nhiều khi ở trụ sở, ở đó gã có thể trợn mắt hăm dọa bất cứ ai mà gã không sợ. Tuy nhiên, như trung tá Korn liên tục nhắc nhở, sẽ chẳng vinh quang gì nếu sở hữu một nông trại mà lại chẳng ở đó bao giờ. Mỗi lần lái xe đi về nông trại là gã lại tự thương thân. Gã mang một khẩu súng săn theo xe Jeep và đến nông trại thì chỉ còn biết dành hàng giờ tẻ nhạt để bắn lũ chim và bắn những quả cà chua mận mọc lộn xộn không hàng lối và vì thế quá khó thu hoạch.
Trong số những sĩ quan cấp dưới mà đại tá Cathcart vẫn phải cẩn thận tỏ thái độ kính trọng có thiếu tá …de Coverley, mặc dù đại tá không muốn và không chắc là mình có phải làm vậy không. Thiếu tá …de Coverley là một bí ẩn lớn đối với gã, cũng như đối với thiếu tá Major hay với tất cả những người khác đã từng để ý tới ông ta. Đại tá Cathcart không biết sẽ phải tỏ thái độ kẻ cả hay nhún mình trước thiếu tá …de Coverley. Thiếu tá …de Coverley chỉ là một thiếu tá, mặc dù ông già hơn nhiều so với đại tá Cathcart; đồng thời, có rất nhiều người khác cũng cư xử với thiếu tá …de Coverley với vẻ tôn kính sâu sắc và sợ hãi tới mức đại tá Cathcart linh cảm rằng họ có thể biết một vài chuyện nào đó. Thiếu tá …de Coverley là một thực thể khó hiểu mang điềm gở luôn khiến cho đại tá sống trong áp lực và thậm chí đến cả trung tá Korn cũng e dè. Tất cả mọi người đều sợ ông, và không ai biết tại sao. Thậm chí chẳng có ai biết tên thiếu tá …de Coverley là gì, bởi vì không ai dám hỏi. Đại tá Cathcart biết rằng thiếu tá …de Coverley đang đi vắng và sự vắng mặt ấy khiến cho gã vui mừng cho tới khi trong đầu gã nảy ra ý nghĩ rằng rất có thể thiếu tá …de Coverley đi đâu đó để vạch kế hoạch chống lại gã, và rồi gã lại mong thiếu tá …de Coverley quay lại phi đoàn để gã có thể giám sát ông.
Một lúc sau đại tá Cathcart ê ẩm cả người vì đi tới đi lui quá nhiều. Gã lại ngồi xuống sau bàn làm việc và quyết tâm bắt đầu một quá trình đánh giá kỹ càng và có hệ thống về toàn bộ tình hình chiến sự. Với vẻ trịnh trọng của một kẻ biết cách giải quyết mọi việc, gã lấy ra một tập giấy trắng khổ lớn, kẻ một đường thẳng dọc ở giữa và gạch một đường nằm ngang ở phía trên để chia trang giấy thành hai cột trống rộng bằng nhau. Gã ngả người trầm ngâm suy nghĩ một lúc. Sau đó gã chồm người lên bàn, và ở đầu cột bên trái, với nét chữ gò bó, kiểu cách, gã viết, “Vết đen!!!” Ở đầu cột bên phải, gã viết “Mốc son!!!!!” Gã lại ngả người ra sau để ngắm nghía hình vẽ của mình đầy vẻ ngưỡng mộ từ một góc nhìn khách quan. Sau vài giây nghiêm trang cân nhắc, gã chậm rãi liếm đầu bút chì và viết vào cột “Vết đen!!!”, sau mỗi dòng đều có một khoảng thời gian suy ngẫm rất chăm chú:
Ferrara
Bologna (tuyến ném bom bị di chuyển trên bản đồ)
Trường bắn đĩa
Người đàn ông trần truồng đứng xếp hàng (sau trận Avignon)
Sau đó gã viết thêm:
Ngộ độc thực phẩm (trong trận Bologna)
Rền rĩ (bệnh dịch trong phòng tác chiến trận Avignon)
Rồi gã lại viết:
Cha tuyên úy (đêm nào cũng tụ tập ở câu lạc bộ sĩ quan)
Đại tá quyết định sẽ rộng lượng đối với cha tuyên úy mặc dù cũng không thích gã, và ở dưới cột “Mốc son!!!!!” đại tá viết:
Cha tuyên úy (đêm nào cũng tụ tập ở câu lạc bộ sĩ quan)
Như vậy hai mục về cha tuyên úy đã dung hòa lẫn nhau. Bên cạnh “Ferrara” và “Người đàn ông trần truồng đứng xếp hàng (sau trận Avignon)” gã viết:
Yossarian!
Bên cạnh “Bologna (tuyến ném bom bị di chuyển trên bản đồ)”, “Ngộ độc thực phẩm (trong trận Bologna)”, và “Rền rĩ (bệnh dịch trong phòng tác chiến trận Avignon)” gã viết rất đậm và sắc nét:
?
Những mục có dấu “?” là những vụ mà gã muốn điều tra ngay lập tức để xem liệu Yossarian có đóng vai trò gì trong đó hay không.
Bất chợt cánh tay gã run lên, và gã không thể viết thêm một chữ nào nữa. Gã kinh hoàng đứng dậy, cảm giác nhớp nháp và ụ ị, lao vội tới ô cửa sổ đang mở để hớp lấy từng ngụm không khí trong lành. Ánh mắt gã vô tình dừng lại ở trường bắn đĩa, và gã lảo đảo quay đi cùng một tiếng thét khổ đau, cặp mắt hoang dại và kích động của gã điên cuồng quét khắp các bức tường trong phòng như thể ở đó đang tràn ngập Yossarian.
Không ai yêu quý gã. Tướng Dreedle căm ghét gã, dù tướng Peckem thì thích, mặc dù gã không thể biết chắc được, bởi vì đại tá Cargill, dưới sự bảo trợ của tướng Peckem, hiển nhiên cũng có tham vọng riêng và có lẽ đang nói xấu gã với tướng Peckem mỗi dịp có thể. Sĩ quan cấp tá tử tế duy nhất, gã quyết định, ngoài gã ra, là một sĩ quan cấp tá đã chết. Sĩ quan cấp tá duy nhất mà gã tin tường là đại tá Moodus, và ngay cả gã ấy cũng có tay trong là ông bố vợ. Milo, tất nhiên, là một mốc son của gã, mặc dù việc cả liên đoàn của gã bị máy bay của Milo ném bom thực sự là một vết đen nghiêm trọng, dù Milo cuối cùng đã làm lắng chìm mọi phản đối bằng việc tiết lộ lợi nhuận ròng khổng lồ mà xanh đi ca đã thu được khi làm ăn với kẻ thù và thuyết phục tất cả mọi người rằng việc ném bom quân mình và máy bay của mình do đó thực sự rất đáng khen và rất có lợi xét về khía cạnh làm ăn tư nhân. Đại tá cảm thấy không yên tâm về Milo vì các viên đại tá khác cũng đang cố dụ tay này đi. Còn có thượng sĩ White Halfoat Khổng lồ khốn nạn nữa, kẻ mà tay đại úy Black lười biếng khốn nạn cứ tố là thủ phạm trong vụ di chuyển tuyến ném bom trong Trận Vây Thành Bologna Vĩ Đại. Đại tá Cathcart thích thượng sĩ White Halfoat Khổng lồ bởi vì thượng sĩ White Halfoat Khổng lồ luôn đấm vào mũi đại tá Moodus khốn nạn mỗi khi say rượu mà đại tá Moodus lại ở gần. Gã ước gì thượng sĩ White Halfoat Khổng lồ cũng đấm cả vào bản mặt phì nộn của trung tá Korn nữa. Trung tá Korn là một thằng cha khốn nạn lúc nào cũng tự cho mình là thông minh. Ai đó ở trụ sở quân đoàn Không lực Hai mươi bảy luôn đố kỵ và bày mưu hại gã, kẻ ấy đã gửi lại tất cả báo cáo mà gã viết với lời quở trách nghiêm khắc, và trung tá Korn đã đút lót một tay bưu tín viên ranh mãnh tên là Wintergreen để tìm xem kẻ đó là ai. Việc bị mất máy bay trên bầu trời Ferrara khi quay lại lần thứ hai thật là một chuyện không ra gì đối với gã, điều này thì gã phải thừa nhận, cũng như là việc có thêm một chiếc máy bay khác mất hút vào trong mây - gã thậm chí còn chưa viết chuyện này ra! Gã cố nhớ lại, đầy mong mỏi thiết tha, xem có phải Yossarian đã biến mất cùng chiếc máy bay đó không, và nhận ra rằng Yossarian không thể biến mất cùng chiếc máy bay đó nếu hiện giờ y vẫn còn lảng vảng quanh đây và đang làm toáng lên về vụ phải bay thêm có năm trận khốn nạn nữa.
Nếu Yossarian đã phản đối như thế thì có thể sáu mươi trận là hơi nhiều thật, đại tá Cathcart lý luận, nhưng rồi gã nhớ ra rằng việc ép buộc quân của mình bay nhiều trận hơn người khác là thành tựu hữu hình nhất mà gã có được. Như trung tá Korn thường nhận xét, chiến tranh đang lê đi chậm chạp khi các sĩ quan chỉ huy chỉ làm tròn nghĩa vụ của mình, và cần phải có một số biện pháp mạnh như bắt liên đoàn của mình bay nhiều trận hơn bất cứ liên đoàn nào khác để làm nổi bật phẩm chất lãnh đạo độc đáo của gã. Hiển nhiên là không có viên tướng nào phản đối việc gã đang làm, mặc dù như gã được biết thì việc đó cũng chẳng gây được ấn tượng với bất cứ ai, điều này lại khiến gã nghĩ rằng có lẽ sáu mươi trận là chưa đủ nhiều và rằng gã cần phải tăng số trận phải bay ngay lập tức lên con số bảy mươi, tám mươi, một trăm, hay thậm chí hai trăm, ba trăm, hoặc sáu nghìn!
Tất nhiên gã sẽ khá hơn nhiều nếu như được dưới quyền một người khéo léo như tướng Peckem chứ không phải dưới quyền một kẻ thô lỗ và thiếu tinh tế như tướng Dreedle, bởi vì tướng Peckem có khả năng nhận thức sâu sắc, trí tuệ, và xuất thân học hành từ Ivy League để trân trọng và quý mến gã đúng như giá trị của gã, mặc dù tướng Peckem chưa từng tỏ thái độ, dù là nhỏ nhất, rằng ông ta có trân trọng hay quý mến gã một chút nào. Đại tá Cathcart đủ mẫn cảm để nhận ra rằng những tín hiệu lồ lộ về việc công nhận năng lực của nhau chưa bao giờ là cần thiết giữa những người tinh tế và tự tin như bản thân gã và tướng Peckem, họ có thể làm ấm lòng nhau từ xa bằng khả năng hiểu nhau thiên bẩm. Họ cùng một giuộc, thế là đủ, và gã biết sẽ cần kín đáo chờ đợi cho đến lúc thời cơ chín muồi, mặc dù lòng tự trọng của đại tá Cathcart cứ dần mục ruỗng khi nhận thấy rằng tướng Peckem chưa bao giờ cố tình tìm gặp riêng gã và rằng ông cũng chẳng cố gây ấn tượng với gã bằng những câu nói trào phúng và học vấn uyên bác nhiều hơn một chút nào so với bất cứ ai khác xung quanh, thậm chí so với lính cũng không hơn. Hoặc là đại tá Cathcart không lọt mắt tướng Peckem hoặc là tướng Peckem không phải là người lỗi lạc, sáng suốt, trí thức và tân tiến như ông vờ tỏ ra, và tướng Dreedle mới là người nhạy cảm, hấp dẫn, thông minh và tinh tế, và là người mà gã sẽ khá hơn nhiều nếu được dưới quyền, và đột nhiên đại tá Cathcart mất sạch khái niệm về việc gã đang đứng về phía ai, và gã bắt đầu đấm mạnh vào chuông để gọi trung tá Korn chạy về phòng làm việc của gã để trấn an gã rằng tất cả mọi người điều yêu quý gã, rằng Yossarian chỉ là một điều tưởng tượng trong trí tưởng tượng của gã, và rằng gã đang có được những bước tiến tuyệt vời trong chiến dịch huy hoàng và quả cảm mà gã phát động để trở thành một vị tướng.
Thực ra thì đại tá Cathcart chẳng có chút cơ hội lên tướng chết tiệt nào. Trước hết là vì còn có cựu binh nhất Wintergreen, một người cũng muốn lên tướng và luôn bóp méo, phá hủy, từ chối hoặc chuyển sai địa chỉ bất cứ thư tín nào có dính dáng đến và có thể có lợi cho đại tá Cathcart. Một lý do khác là đã có một viên tướng rồi, chính là tướng Dreedle, ông này biết rằng tướng Peckem đang muốn chiếm chỗ ông nhưng không biết làm sao để ngăn chặn.
Tướng Dreedle, chỉ huy không đoàn, là một người đàn ông lỗ mãng, lùn mập, ngực vạm vỡ, tuổi ngoài năm mươi. Mũi ông to bè và đỏ au, mí mắt ông sưng mọng đùn lên bao quanh cặp mắt xám nhỏ xíu như một quầng mỡ hun khói. Ông có một cô y tá và một cậu con rể, và khi nào không nốc quá nhiều rượu thì ông dễ rơi vào những khoảng lặng kéo dài tẻ nhạt. Tướng Dreedle đã lãng phí quá nhiều thời gian trong quân đội để làm tốt công việc của mình, và giờ thì đã quá muộn. Những liên minh quyền lực mới đã cấu kết với nhau mà không có ông, và ông sẽ chỉ thua khi đấu lại với họ. Trong một vài khoảnh khắc vô ý, khuôn mặt cứng nhắc và ảm đạm của ông lại trượt vào vẻ ủ rũ, đăm chiêu của thất bại và vỡ mộng. Tướng Dreedle uống rất nhiều rượu. Tâm trạng của ông rất thất thường và khó lường. “Chiến tranh là địa ngục,” ông thường tuyên bố, dù đang say hay tỉnh, và ông thực có ý như vậy, mặc dù điều đó không ngăn ông kiếm chác từ nó và không ngăn được ông đem cậu con rể đi làm ăn cùng với mình, mặc dù hai người thường xuyên cãi lộn.
“Thằng khốn đó,” tướng Dreedle hay than phiền về gã con rể bằng cái giọng càu nhàu đầy khinh bỉ với bất cứ ai tình cờ đứng cạnh ông ở quầy bar câu lạc bộ sĩ quan. “Tất cả những gì nó có đều là nhờ tôi cả. Tôi đã tạo ra nó, thằng con hoang khốn nạn ấy! Nó không đủ trí óc để mà tự tiến thân.”
“Ông ấy lúc nào cũng tưởng mình biết tuốt,” đại tá Moodus trả đũa bằng giọng hờn dỗi khi nói với những khán giả của mình ở đầu kia quầy bar. Ông ấy không chịu nổi sự phê bình và ông ấy không chịu nghe ai khuyên.”
“Tất cả những gì nó có thể làm là đưa ra lời khuyên,” tướng Dreedle gay gắt khịt mũi nhận xét. “Nếu không có tôi thì giờ nó vẫn chỉ là một hạ sĩ quèn.”
Đi cùng tướng Dreedle luôn có đại tá Moodus và cô y tá riêng, một quả mông ngon lành đối với tất cả những ai từng để mắt tới. Cô y tá của tướng Dreedle mũm mĩm, thấp và tóc vàng. Cô có cặp má lúm phúng phính, đôi mắt xanh lơ vui vẻ, và mái tóc xoăn bới gọn. Cô mỉm cười với tất cả mọi người và không bao giờ lên tiếng trừ phi có người lên tiếng trước với cô. Ngực cô phì nhiêu và làn da cô sáng mịn. Cô hấp dẫn khôn cưỡng, và đám đàn ông luôn thận trọng khi đi qua cô. Cô chín mọng, ngọt ngào, dễ bảo và ngu ngốc, cô khiến cho tất cả phát cuồng ngoại trừ tướng Dreedle.
“Các anh nên nhìn lúc cô ấy trần truồng,” tướng Dreedle cười như nắc nẻ trong khi cô y tá đứng mỉm cười đầy tự hào ngay kề vai. “Hồi ở phòng làm việc tại không đoàn, cô ấy có một bộ quân phục lụa màu tím chật tới mức núm vú cứ nổi lên như những quả anh đào. Vải đó Milo kiếm cho tôi. Thậm chí còn không có chỗ cho quần và áo lót nữa. Tôi đã bắt cô ấy mặc bộ này mấy đêm có Moodus ở đó chỉ để cho nó phát điên lên.” Tướng Dreedle cười sằng sặc. “Các anh phải nhìn những gì ẩn dưới lớp áo bờ lu mỗi khi cô ấy cử động cơ. Cô ấy đã khiến cho nó mất trí. Nhưng nếu tôi mà phát hiện ra nó đặt tay lên người cô ấy hay bất cứ phụ nữ nào khác, tôi sẽ ngay lập tức giáng cấp thằng chết tiệt máu dê đó thành binh nhì và đẩy nó xuống làm ở nhà bếp một năm.”
“Ông ta giữ cô ấy lại chỉ để chọc tức tôi,” đại tá Moodus buồn phiền tố cáo ở đầu kia quầy bar. “Hồi ở trụ sở không đoàn, cô ấy có một bộ đồng phục lụa tím chật tới mức núm vú của cô ấy cứ nổi lên như những quả anh đào. Thậm chí còn không có chỗ cho quần và áo lót nữa. Các anh phải nghe thấy tiếng sột soạt mỗi khi cô ấy cử động cơ. Nhưng ngay khi tôi tán tỉnh gạ gẫm cô ấy hay bất cứ cô gái nào khác thì ông ta sẽ giáng cấp tôi xuống thành binh nhì và đẩy tôi xuống làm ở nhà bếp một năm. Cô ấy đã khiến tôi trở nên quẫn trí.”
“Nó vẫn chưa được lên giường với gái lần nào kể từ khi chúng tôi bị điều ra nước ngoài,” tướng Dreedle tiết lộ, cái đầu vuông bè hoa râm rung lên khi ông phá lên cười đầy ác ý với ý tưởng xảo quyệt này. “Đó là một trong những lý do tôi không bao giờ cho nó thoát khỏi tầm mắt mình, để nó không thể tiếp cận được gái. Các anh có thể tưởng tượng nổi những gì mà đồ con hoang đó phải trải qua không?”
“Tôi vẫn chưa được lên giường với gái lần nào kể từ khi chúng tôi bị điều ra nước ngoài,” đại tá Moodus rên rỉ trong nước mắt. “Các anh có thể tưởng tượng nổi những gì mà tôi đang phải trải qua không?”
Khi bực mình tướng Dreedle có thể trở nên không khoan nhượng với bất cứ ai, chẳng kém khi ông đối xử với đại tá Moodus. Ông không thích giả bộ hay tỏ vẻ tế nhị, và cương lĩnh của ông trong vai trò một quân nhân chuyên nghiệp luôn nhất quán và ngắn ngọn như sau: ông cho rằng đám lính cấp dưới cần phải sẵn lòng hy sinh mạng sống của mình vì lý tưởng, khát vọng và khí chất của cấp trên. Ông chỉ biết đến những sĩ quan và binh lính dưới quyền mình qua phẩm chất quân nhân của họ. Tất cả những gì ông yêu cầu là họ phải làm việc của mình; ngoài chuyện đó thì họ được tự do làm bất cứ cái gì họ muốn. Họ được tự do, như đại tá Cathcart, ép buộc lính dưới quyền phải bay sáu mươi trận nếu muốn, và họ được tự do, như Yossarian, trần truồng đứng xếp hàng nếu muốn, mặc dù quai hàm cứng như đá của tướng Dreedle cũng đã phải há hốc ra khi nhìn thấy cảnh đó và ông đã phải uy nghi sải bước tới tận nơi để kiểm chứng xem có thật đang có một người không mặc gì, chỉ có đôi giày mô ca đứng nghiêm xếp hàng đợi được nhận huân chương từ ông hay không. Tướng Dreedle không thốt nên lời. Đại tá Cathcart suýt ngất xỉu khi phát hiện ra Yossarian thì trung tá Korn tiến tới đằng sau và giữ chặt tay gã lại. Bầu không khí im lặng đến lố bịch. Một luồng gió nóng yên ả lùa từ phía biển vào, và trên đường chính một chiếc xe kéo cũ kỹ chất đầy rơm bẩn đang từ xa lọc xọc tiến lại, chiếc xe được kéo bởi một con lừa đen và được điều khiển bởi một nông phu đội mũ mềm mặc đồ lao động màu nâu đã sờn bạc không để ý gì đến buổi lễ trang trọng của quân đội đang diễn ra trên khoảng đất nhỏ bên tay phải anh ta.
Cuối cùng tướng Dreedle cũng nói. “Quay trở lại xe,” ông ngoái đầu ra lệnh cho cô y tá đang đi cùng ông xuống chỗ mọi người đứng xếp hàng. Cô y tá mỉm cười đủng đỉnh bước về phía chiếc xe công vụ màu nâu đang đỗ cách đó khoảng hai mươi thước ở rìa khu đất trống hình chữ nhật. Tướng Dreedle đợi trong sự lặng im khổ hạnh cho đến khi nghe thấy tiếng cửa xe sập lại và hỏi, “Đây là ai?”
Đại tá Moodus đọc bảng phân công. “Đây là Yossarian, thưa cha. Anh ta nhận huân chương Chữ Thập Bay Xuất Sắc.”
“Ồ, quỷ tha ma bắt tôi đi,” tướng Dreedle lầm bầm, và gương mặt đỏ như làm từ đá nguyên khối của ông dãn ra đầy vẻ trào phúng. “Tại sao anh lại không mặc quần áo, Yossarian?”
“Tôi không muốn.”
“Anh không muốn nghĩa là sao? Tại cái quái gì mà anh lại không muốn?”
“Tôi chỉ không muốn, thưa sếp.”
“Tại sao anh ta không mặc quần áo?” tướng Dreedle quay sang hỏi đại tá Cathcart.
“Ông ấy đang nói với anh kìa,” trung tá Korn thì thầm vào tai đại tá Cathcart từ phía sau, huých mạnh khuỷu tay vào lưng đại tá Cathcart.
“Tại sao anh ta không mặc quần áo?” đại tá Cathcart quay lại hỏi trung tá Korn với vẻ đau khổ tột cùng, rồi xoa nhẹ lên chỗ mà trung tá Korn vừa mới huých vào.
“Tại sao anh ta không mặc quần áo?” trung tá Korn quay sang hỏi đại úy Piltchard và đại úy Wren.
“Có một người đã thiệt mạng trong máy bay của anh ta trên bầu trời Avignon tuần trước và máu đã vấy lên khắp người anh ta,” đại úy Wren trả lời. “Anh ta thề sẽ không mặc quân phục nữa.”
“Có một người đã thiệt mạng trong máy bay của anh ta trên bầu trời Avignon tuần trước và máu đã vấy lên khắp người anh ta,” trung tá Korn báo cáo trực tiếp với tướng Dreedle. “Quân phục của anh ta vẫn chưa được giặt xong.”
“Thế những bộ quân phục khác của anh ta đâu?”
“Chúng cũng đang được giặt.”
“Thế còn quần áo lót?” tướng Dreedle hỏi.
“Tất cả quần áo lót của anh ta cũng đang được giặt,” trung tá Korn trả lời.
“Chuyện này nghe vớ vẩn thật,” tướng Dreedle tuyên bố.
“Đúng là rất vớ vẩn, thưa sếp,” Yossarian nói.
“Sếp không phải lo đâu ạ,” đại tá Cathcart hứa hẹn với tướng Dreedle và đưa mắt nhìn Yossarian đầy vẻ hăm dọa. “Cá nhân tôi xin hứa với sếp là sẽ trừng phạt tay này thật nặng.”
“Sao tôi lại phải quan tâm xem anh ta có bị trừng phạt hay không?” tướng Dreedle bực tức và ngạc nhiên đáp. “Anh ta vừa mới giành được một huân chương. Nếu anh ta muốn nhận nó mà không mặc quần áo thì cũng có liên quan quái gì tới anh?”
“Đó cũng chính là những cảm nghĩ của tôi, thưa sếp!” đại tá Cathcart nhại lại đầy nhiệt huyết và lau trán bằng một chiếc khăn mùi soa trắng ẩm. “Nhưng sếp chắc chắn là như vậy chứ, thưa sếp, ngay cả khi xét đến thông báo nội bộ gần đây của tướng Peckem về việc sử dụng quân phục đúng quy định trong vùng chiến sự?”
“Peckem?” gương mặt tướng Dreedle tối sầm lại.
“Vâng vâng thưa sếp,” đại tá Cathcart khúm núm nói. “Tướng Peckem thậm chí còn khuyến cáo rằng chúng ta cần phải đưa lính ra trận trong quân phục trang trọng nhất để họ có thể tạo được ấn tượng tốt với đối phương khi bị bắn hạ.”
“Peckem?” tướng Dreedle lặp lại, mắt nheo lại đầy vẻ khó hiểu. “Tướng Peckem thì liên quan quái gì ở đây?”
Trung tá Korn lại huých mạnh khuỷu tay vào lưng đại tá Cathcart.
“Hoàn toàn không liên quan gì hết, thưa sếp!” đại tá Cathcart đáp gọn ghẽ, nhăn nhó vì đau và rón rén xoa lên chỗ mà trung tá Korn vừa huých khuỷu tay vào. “Và đó cũng chính là lý do tại sao tôi đã quyết định sẽ không làm gì cả cho đến khi có cơ hội được bàn với sếp. Vậy chúng ta sẽ lờ vụ này hoàn toàn phải không sếp?”
Tướng Dreedle phớt lờ gã, khinh miệt quay đi rồi trao cho Yossarian chiếc huân chương đựng trong hộp.
“Hãy đưa cô gái của tôi từ xe trở lại đây,” ông cáu kỉnh ra lệnh cho đại tá Moodus, và đứng một chỗ đợi với vẻ mặt cau có cho đến khi gặp lại cô y tá.
“Hãy truyền lệnh hủy bỏ ngay lập tức quy định mà tôi vừa mới đưa ra rằng mọi người phải đeo cà vạt khi làm nhiệm vụ chiến đấu,” đại tá Cathcart khẩn cấp thì thầm với trung tá Korn qua khóe miệng.
“Tôi đã bảo anh đừng có làm thế rồi mà,” trung tá Korn cười hinh hích. “Nhưng anh cứ không chịu nghe lời tôi cơ.”
“Suỵt!” đại tá Cathcart cảnh cáo. “Chết tiệt thật, Korn, anh đã làm gì với cái lưng của tôi vậy?”
Trung tá Korn lại tiếp tục cười hinh hích.
Cô y tá của tướng Dreedle luôn đi theo tướng Dreedle khắp mọi nơi, thậm chí còn vào cả phòng tác chiến ngay trước trận Avignon, cô vào đó và đứng bên bục phát biểu với nụ cười ngốc nghếch và rực rỡ như một ốc đảo màu mỡ kề bên tướng Dreedle trong bộ đồng phục màu hồng và xanh lá cây. Yossarian nhìn cô và phải lòng cô, trong tuyệt vọng. Tâm trạng y chùng xuống, khiến y chết lặng và lòng y trống trải. Y ngồi đó đờ đẫn nhìn thèm thuồng ướt át vào đôi môi đỏ mọng và đôi má lúm đồng tiền trong lúc nghe thiếu tá Danby tả bằng giọng đều đều đơn điệu tẻ nhạt về hỏa lực phòng không hạng nặng đang chờ họ ở Avignon, và y rên lên trong nỗi tuyệt vọng thăm thẳm trước ý nghĩ rằng rất có thể y sẽ không bao giờ được gặp lại người phụ nữ dễ thương này, người y chưa từng nói chuyện, người mà giờ y đã khổ sở đem lòng yêu. Tim y đập dồn dập và quặn lên trong nỗi buồn đau, sợ hãi và khao khát khi y trân trối nhìn cô; cô quá xinh đẹp. Y tôn thờ cả chỗ đất mà cô đang đứng lên. Y thè cái lưỡi dấp dính ra mà liếm cặp môi khô nẻ và cháy khát của mình, đoạn y rên lên trong đau khổ, lần này đủ to khiến cho những người đang ngồi quanh y trên các hàng ghế gỗ không sơn trong quân phục màu sô cô la và đai dù chần chỉ trắng phải kinh ngạc và dáo dác đảo mắt tìm quanh.
Nately nhanh chóng quay sang y hoảng hốt. “Cái gì vậy?” cậu ta thì thầm. “Có chuyện gì vậy?”
Yossarian không nghe thấy. Y đang phát ốm lên vì thèm khát và mê man trong tiếc nuối. Cô y tá của tướng Dreedle chỉ hơi mũm mĩm một chút, và các giác quan của y đang tắc nghẹn trong ánh vàng rực rỡ của mái tóc cô và cảm giác trên da của những ngón tay ngắn mềm mại mà y chưa từng chạm, trong sự phì nhiêu tròn trịa của bộ ngực tuổi cập kê mà y chưa từng nếm, dưới chiếc áo quân phục màu hồng cổ mở rộng và trong ngã ba cuồn cuộn, chín mọng hình tam giác nằm giữa bụng và hai bắp đùi dưới chiếc quần sĩ quan xanh mướt vải gabadin bó sát. Y đắm đuối ngắm nhìn cô từ đầu cho tới những ngón chân sơn móng. Y không muốn mất cô. “Ôiiiiiiiiiiii,” y lại tiếp tục rên lên, và lần này cả phòng xôn xao khi nghe thấy tiếng kêu run rẩy, kéo dài ấy. Một làn sóng tá hỏa và bứt rứt ập tới trên đầu đám sĩ quan đứng trên bục, và thậm chí đến cả thiếu tá Danby, người đang đếm số giây để khớp giờ đồng hồ đeo tay cho mọi người, trong thoáng chốc cũng đã bị mất tập trung và suýt phải đếm lại từ đầu. Nately dõi mắt theo ánh nhìn đờ đẫn của Yossarian suốt khán phòng dài dựng khung cho đến khi thấy cô y tá của tướng Dreedle. Mặt cậu tái nhợt vì bối rối khi đoán ra được lý do khiến cho Yossarian trở nên như vậy.
“Thôi đi, được không?” Nately dữ dằn thì thầm cảnh báo.
“Ôiiiiiiiiiiii,” Yossarian rên lên lần thứ tư, lần này đủ to để cho tất cả mọi người nghe rõ.
“Anh điên à?” Nately rít lên kịch liệt. “Anh sẽ gặp rắc rối mất thôi.”
“Ôiiiiiiiiiiiii,” Dunbar đáp lời Yossarian từ đầu kia phòng.
Nately nhận ngay ra giọng của Dunbar. Tình huống giờ đã vượt ra ngoài tầm kiểm soát, và cậu quay mặt đi với một tiếng rên nhỏ. “Ôi.”
“Ôiiiiiiiiiiiii,” Dunbar rên lên đáp lời cậu.
“Ôiiiiiiiiiiiii,” Nately bực tức rên lên khi nhận ra rằng cậu cũng vừa mới rên.
“Ôiiiiiiiiiiiii,” Dunbar lại rên lên đáp lời cậu.
“Ôiiiiiiiiiiiii,” một người lạ khác rên lên hòa cùng bọn họ từ một góc khác trong phòng, và Nately dựng hết cả tóc gáy.
Cả Yossarian và Dunbar cùng đáp lời trong khi Nately co rúm lại và cố tìm lấy một cái lỗ để chui vào trốn và kéo Yossarian theo. Lác đác có vài người đang cố nhịn cười. Chút bốc đồng xâm chiếm Nately và cậu đã cố tình rên lên khi xung quanh có vẻ yên tĩnh trở lại. Lại có thêm một tiếng rên mới vang lên đáp lời. Cảm giác bất tuân lệnh quả rất kích thích, và Nately lại cố tình rên lên lần nữa, hướng về phía bên cạnh. Lại có một tiếng rên mới đáp lời cậu. Cả phòng dần sôi lên thành một nhà thương điên không sao ngăn lại được. Một tập hợp huyên náo kỳ quái của đủ các kiểu giọng cất lên. Những bàn chân chen lấn, và đồ đạc bắt đầu rớt xuống từ những ngón tay của mọi người - những chiếc bút chì, máy tính, túi đựng bản đồ, mũ giáp sắt. Những người không rên lên thì đã công khai cười hinh hích, và không thể biết được cuộc nổi dậy bất ngờ của những tiếng rên này sẽ đi đến đâu nếu tướng Dreedle không đích thân đứng ra dẹp loạn, ông hùng dũng bước ra đứng giữa bục, ngay trước mặt thiếu tá Danby, tay này vẫn đang nghiêm túc cúi đầu xuống tập trung vào chiếc đồng hồ đeo tay và nói, “… hai mươi lăm giây… hai mươi… mười lăm…” Bộ mặt to bè, đỏ au và hống hách của tướng Dreedle méo xệch đi vì bối rối, đoạn sắt lại với vẻ quyết tâm ghê gớm.
“Vậy là đủ rồi đấy, các anh,” ông ra lệnh ngắn gọn, mắt ông lóe lên vẻ không bằng lòng, khuôn hàm vuông rắn đanh cương nghị, và thế là xong. “Tôi chỉ huy một đội chiến đấu,” ông lạnh lùng nói, khi cả phòng đã lặng yên tuyệt đối và toàn bộ những người ngồi trên ghế đã ngoan ngoãn co rúm người lại, “và sẽ không được có thêm một tiếng rên nào trong đội này khi tôi đang chỉ huy. Rõ chưa?”
Ai nấy đều đã rõ ngoại trừ thiếu tá Danby, kẻ vẫn đang tập trung nhìn vào chiếc đồng hồ đeo tay và đếm to theo từng giây một “… bốn… ba… hai… một… khớp!” thiếu tá Danby hét to lên, và ngước mắt nhìn lên đắc thắng chỉ để phát hiện ra không có ai lắng nghe gã và gã sẽ phải bắt đầu lại từ đầu. “Ôiii,” gã rên lên trong tuyệt vọng.
“Cái gì đó?” tướng Dreedle gầm lên kinh ngạc, và ào tới thiếu tá Danby trong cơn giận kinh hồn, thiếu tá vội lảo đảo lùi lại trong kinh hoàng bối rối và bắt đầu run sợ và toát mồ hôi hột. “Người này là ai?”
“Th… thiếu tá Danby, thưa sếp,” đại tá Cathcart lắp bắp. “Sĩ quan tác chiến ạ.”
“Đưa anh ta ra ngoài xử bắn luôn đi,” tướng Dreedle ra lệnh.
“G… gì cơ sếp?”
“Tôi nói là đưa anh ta ra ngoài xử bắn luôn đi. Anh không nghe thấy à?”
“Vâng thưa sếp!” đại tá Cathcart mau lẹ đáp lời, khó nhọc nuốt nước bọt, và quay phắt sang phía tài xế và chuyên gia khí tượng học của mình. “Đưa thiếu tá Danby ra ngoài xử bắn.”
“G… gì cơ sếp?” cả tài xế lẫn chuyên gia khí tượng học cùng lắp bắp.
“Tôi nói là đưa thiếu tá Danby ra ngoài xử bắn,” đại tá Cathcart ngắt lời. “Các anh không nghe thấy à?”
Hai viên trung úy trẻ trì nộn gật đầu đoạn há hốc mồm nhìn nhau trong choáng váng và miễn cưỡng ủy mị, người này chờ người kia khởi sự việc đưa thiếu tá Danby ra ngoài xử bắn. Chưa ai trong bọn họ từng đưa thiếu tá Danby ra ngoài mà bắn cả. Từ hai phía đối diện nhau họ ngờ vực dịch từng bước đến chỗ thiếu tá Danby. Thiếu tá Danby đã trắng bệch ra vì sợ. Chân gã đột nhiên khuỵu xuống chực ngã, hai trung úy trẻ kia vội nhảy bổ đến và chộp lấy hai cánh tay để đỡ gã khỏi đổ gục xuống sàn. Giờ khi họ đã tóm được thiếu tá Danby rồi, những việc còn lại có vẻ đơn giản, nhưng lại không có súng. Thiếu tá Danby bắt đầu khóc. Đại tá Cathcart muốn chạy đến bên vỗ về gã, nhưng lại không muốn tỏ vẻ đàn bà trước mặt tướng Dreedle. Đại tá nhớ ra có Appleby và Havermeyer luôn mang theo khẩu.45 tự động, và gã bắt đầu đưa mắt quét khắp các hàng ghế để tìm họ.
Ngay khi thiếu tá Danby bắt đầu khóc, đại tá Moodus, nãy giờ vẫn đang khổ sở do dự đứng ngoài cuộc, đã không thể kiềm chế được nữa mà rụt rè bước về phía tướng Dreedle với vẻ tang tóc của một kẻ sắp hy sinh bản thân. “Con nghĩ là cha nên khoan đã ạ,” gã ngập ngừng đề xuất. “Con không nghĩ là cha có thể bắn anh ta.”
Tướng Dreedle phẫn nộ khi bị thọc gậy bánh xe. “Kẻ quái nào dám bảo ta không thể thế?” ông hung hăng nạt nộ với giọng nói đủ to để làm rung chuyển cả tòa nhà. Đại tá Moodus, mặt đỏ ửng lên vì bối rối, bèn cúi xuống thì thầm vào tai ông. “Tại cái quái gì mà ta không thể làm như vậy?” tướng Dreedle lại rống lên. Đại tá lại thì thầm thêm một chút nữa. “Ý của anh là ta không thể bắn bất cứ ai ta muốn?” tướng Dreedle chất vấn trong căm phẫn không khoan nhượng. Ông lại dỏng tai lên chăm chú lắng nghe khi đại tá Moodus tiếp tục thì thầm. “Chuyện đó là thật đấy hả?” ông hỏi, cơn giận dữ đã bị sự tò mò kiềm chế.
“Vâng chưa cha, con e là đúng như vậy.”
“Ta đoán anh đang nghĩ rằng anh rất thông minh, có phải vậy không?” tướng Dreedle bất ngờ tấn công đại tá Moodus.
Đại tá Moodus lại đỏ mặt lên. “Không, thưa cha, không phải…”
“Thôi được, hãy tha cho gã chó đẻ bất tuân lệnh kia,” tướng Dreedle càu nhàu, cay cú quay mặt đi không thèm nhìn thằng con rể và cáu kỉnh quát cả gã tài xế lẫn chuyên gia khí tượng học của đại tá Cathcart. “Nhưng hãy đá gã ta ra khỏi tòa nhà này và không cho gã quay trở lại. Và hãy tiếp tục buổi tác chiến trời đánh thánh vật này đi trước khi cuộc chiến kết thúc. Tôi chưa từng thấy chỗ nào kém cỏi như ở đây.”
Đại tá Cathcart yếu ớt gật đầu với tướng Dreedle và ra hiệu cho người của mình nhanh chóng đẩy thiếu tá Danby ra ngoài tòa nhà. Ngay khi thiếu tá Danby bị đẩy ra ngoài, thì lại không có ai để tiếp tục buổi tác chiến. Ai nấy đều trố mắt nhìn nhau với vẻ ngạc nhiên ngớ ngẩn. Mặt tướng Dreedle tím lại vì giận dữ khi không có ai làm gì cả. Đại tá Cathcart không biết phải làm gì. Ngay khi gã chuẩn bị rên to lên thì trung tá Korn bước ra cứu vớt và nắm quyền kiểm soát tình hình. Đại tá Cathcart thở phào trong cảm giác nhẹ nhõm mênh mang đẫm nước mắt, gần như choáng váng vì biết ơn.
“Nào, các anh, chúng ta khớp đồng hồ thôi,” trung tá Korn nhanh chóng bắt đầu với tác phong chỉ huy sắc sảo, hấp háy mắt nhìn về phía tướng Dreedle. “Chúng ta sẽ khớp đồng hồ một lần và chỉ một lần duy nhất, và nếu sau một lần không làm được thì tướng Dreedle và tôi sẽ muốn biết lý do tại sao. Vậy đã rõ chưa?” Gã lại đảo mắt về phía tướng Dreedle một lần nữa để chắc chắn rằng cái bẫy đã sập. “Giờ thì vặn đồng hồ của các anh về chín giờ mười tám.”
Trung tá Korn thực hiện việc khớp đồng hồ một cách trơn tru rồi tiếp tục công việc đầy vẻ tự tin. Gã thông báo về tình hình chiến sự trong ngày và bình luận tình hình thời tiết với một vẻ hoạt bát hào nhoáng, cứ sau vài giây lại đánh mắt điệu đàng nhìn tướng Dreedle để rút thêm khích lệ từ ấn tượng xuất sắc mà gã nhận thấy mình đang tạo ra. Tỉa tót và làm dáng cho hình ảnh bản thân thêm bóng chói và dương dương tự đắc oai vệ bước trên bục khi đã lấy được đà, gã nói lại cho mọi người biết về tình hình trong ngày và nhanh chóng chuyển sang những lời cổ vũ đầy sôi nổi về tầm quan trọng của cây cầu ở Avignon đối với cuộc chiến và nghĩa vụ của mỗi người là phải đặt lòng yêu nước lên trên mạng sống. Khi bài diễn văn đầy cảm hứng kết thúc, gã lại tiếp tục cho mọi người biết về tình hình trong ngày thêm một lần nữa, nhấn mạnh về hướng tiếp cận và nói lại về thời tiết. Trung tá Korn có cảm giác đang ở đỉnh cao quyền lực. Gã ở tâm điểm của chú ý.
Đại tá Cathcart mãi mới lờ mờ hiểu ra; và khi đã hiểu thì gã chết lặng. Mặt gã chảy dài thuỗn khi gã đố kỵ quan sát sự bội bạc của trung tá Korn tiếp diễn, và gã gần như sợ hãi khi nghe tướng Dreedle tiến lên đứng cạnh gã, và thì thầm gặng hỏi gã bằng giọng đủ to để cả phòng nghe thấy, “Đó là ai vậy?”
Đại tá Cathcart tái mặt trả lời như có linh tính về điềm gở, rồi tướng Dreedle khum tay che miệng thì thầm một điều khiến cho gương mặt đại tá Cathcart bừng lên niềm hân hoan bất tận. Trung tá Korn nhìn thấy và run lên vì cảm giác sung sướng chực vỡ òa. Liệu có phải gã vừa được tướng Dreedle thăng lên chức đại tá ngay tại chiến trường? Gã không thể chịu đựng cảnh dằng dai này thêm nữa. Bằng một cử chỉ hoa mỹ điệu nghệ, gã tuyên bố kết thúc cuộc họp tác chiến và quay lại chờ đợi những lời chúc tụng nồng cháy của tướng Dreedle - kẻ chưa gì đã sải những bước dài ra khỏi tòa nhà mà không thèm liếc mắt nhìn lại, cô y tá và đại tá Moodus lẽo đẽo theo sau. Trung tá Korn sửng sốt trước cảnh tượng đáng thất vọng đó, nhưng chỉ trong chốc lát. Mắt trung tá tìm thấy đại tá Cathcart vẫn đang đứng nghiêm toét miệng cười trong mê đắm, và gã hồ hởi chạy ào tới kéo tay.
“Ông ta nói gì về tôi?” gã hồi hộp hỏi trong cuồn cuộn cảm giác tự hào và đợi chờ sung sướng. “Tướng Dreedle nói gì vậy?”
“Ông ấy muốn biết anh là ai.”
“Cái đó tôi biết. Tôi biết. Nhưng ông ấy đã nói gì về tôi? Ông ấy đã nói gì?”
“Anh làm cho ông ta ghê tởm.”
56. Ở đây ý muốn nói rằng tên Yossarian cũng có hai chữ “s” giống như từ subversive (lật đổ) và những chữ tiếng Anh được dùng ở câu sau.
Bẫy-22 Bẫy-22 - Joseph Heller Bẫy-22