Người Của Biển epubePub   PDF A4A4   PDF A5A5   PDF A6A6  
Chương 20
êm cuối năm, sương mù xuống nhanh và trời se se lạnh. Thị trấn Thương Long nhập nhoà dưới ánh sáng của hàng chục ngọn đèn măng sông treo trước các cửa hiệu, hàng quán. Những ngôi nhà hai tầng, một tầng đủ dạng kiểu, cái nhô ra, cái thụt vào, cái cao, cái thấp ken sát vào nhau. Nhìn qua cũng có thể biết nơi đây phồn thịnh lên chưa lâu. Tiếng nhạc nhoà nhợt tràn ra phố. Các quán nhậu đã vãn người. Thỉnh thoảng vài ba tên lính bá vai nhau, từ trong quán xiêu vẹo bước ra, ngất ngưởng đi về phía đồn Vạn Hải, bên mép biển. Trong chợ, mấy cô gái son phấn loè loẹt, áo thun ngắn mặc hở bụng, quần loe quét sát đất lởn vởn lượn qua lượn lại đón khách.
Sắp tới giờ giới nghiêm.
Một người vận đồ quân cảnh cưỡi hon đa 90, mở hết tốc độ tắt qua mé chợ đi ra con đường dẫn xuống mép biển. Ngồi sau người ấy có cô gái trạc hai hai, hai ba, mảnh dẻ khuôn mặt xinh xẻo, bận áo bà ba đen. Đó là Ba Huỳnh, người phụ trách việc đón hàng đêm nay và Sáu Thùy, chiến sĩ trong đội công tác của ông.
Chiếc hon đa rú ga ầm ào, nhảy chồm chồm trên con đường gồ ghề. Sáu Thùy bám chặt vào Ba Huỳnh, cả hai đều im lặng.
Ba Huỳnh chừng năm mươi tuổi, dáng cao, to, da mặt sạm đen. Người thô, khuôn mặt vuông, miệng rộng. Vậy mà trông ông hiền khô. Ông hoạt động ở vùng này đã khá lâu, lúc hợp pháp, lúc giấu mặt. Mọi người trong đội công tác thường trìu mến gọi ông là bố, bởi Ba Huỳnh có cậu con trai năm nay khoảng hai lăm, hai sáu tuổi, ông gửi theo người bạn đi tập kết ra Bắc từ năm 1954 và nghe nói hiện nay cũng làm cán bộ chỉ huy tàu. Đã bao lần nghe tiếng còi tàu từ biển dội tới, ông nôn nao. Lần này được cấp trên giao cho việc tổ chức bến chuẩn bị đón tàu từ Bắc chở vũ khí vào, ông vừa lo, vừa mừng lại vừa thấp thỏm. Cuộc đời có thể có những sự ngẫu nhiên bất ngờ: biết đâu thằng Xuyên, con trai ông chẳng đưa tàu vô? Chỉ nghĩ đến thế, ông đã thao thức không ngủ. Ông chỉ có mình nó, sau kháng chiến chín năm, đã ngờ rằng mình sẽ cùng vợ con tập kết ra ngoài đó. Mọi sự chuẩn bị đã xong, ai ngờ trên đường đi, bà vợ kẹt lại. Ông đành phải lộn về tìm. Mà cái cớ khiến bà kẹt lại mới vớ vẩn chớ? Chỉ vì nhảy xuống mua quà cho bố con ông, nên nhỡ xe. Khi lộn lại đưa được vợ tới Quy Nhơn thì thằng con ông đã xuống tàu cùng Năm Hớn, người bạn hoạt động với ông trên huyện, đi ra Bắc. Và ai lường đó lại là chuyến tàu cuối cùng chở những người tập kết. Ông an ủi, dỗ dành vợ và đưa bà về quê. Ít lâu sau ông lên cứ, tiếp tục hoạt động. Cuộc đời hoạt động cách mạng thật nhiều điều lý thú. Ông có ngờ đâu mình lại trôi giạt tới mạn này và được tổ chức phân công nắm tình hình vùng Hòn Hàng...
Cả vùng Hòn Hàng biết tiếng Ba Huỳnh và thêu dệt nhiều giai thoại về ông. Người ta đồn rằng ông là một tay xuất quỷ nhập thần, có tài biến hóa như Tôn Ngộ Không. Lại có thể bắn bách phát bách trúng, và ra vô đồn địch giữa ban ngày như đi chợ. Việc đồn đại ấy có cớ. Quả ông đã làm bọn địch đóng trong vùng phải kiềng mặt. Năm ngoái, đúng lúc giao thừa, trong bộ quần áo sĩ quan ngụy, ông đột nhập tiệm nhảy Hoa Long, nơi bọn tướng tá Mỹ, ngụy và bọn công chức vai vế trong vùng tập trung ăn nhậu, đàn đúm đón tết. Khi tên thị trưởng đang ba hoa, trộ dọa trước bọn đàn em và trước mấy ả ăn mặc nửa kín nửa hở thì Ba Huỳnh nhảy lên đứng ngay trên bàn tiệc. Bọn này chưa kịp ngạc nhiên thì ông giáng mạnh chai rượu vào giữa mặt tên thị trưởng rồi vọt ra cửa, tung tiếp mấy quả lựu đạn. Tiệm Hoa Long thất đảm. Bọn sĩ quan và đám gái Thiên Nga đạp lên nhau, la hét om sòm. Thị trấn Thương Long náo động. Lính đổ ra kín đặc vây suốt đêm giao thừa và cả ngày mồng Một tết. Hôm đó thật may, Ba Huỳnh chỉ bị một viên đạn xuyên qua bắp vế. Từ đó ông đi hơi lệch người.
... Chiếc hon đa vẫn lùi lũi lao đi. Tới ngã ba, xe giảm tốc độ, rẽ sang trái. Lộ nhỏ, nhưng mịn, toàn cát xe đi êm. Mặt biển mù sương hiện ra. Gió phả vào mặt Ba Huỳnh ẩm mặn, tanh tanh. Hương vị quen thuộc khiến ông nôn nao.
Tới bên ngọn đồi nhô ra biển, xe dừng lại.
- Chú Ba hả? - Có tiếng người đội phó hỏi - Sương mù xuống dày quá mà. Nhìn ra không thấy chi hết.
- Chuẩn bị xong cả rồi chớ, Quế?
- Tất cả đã sẵn sàng. Hai tiểu đoàn của quân khu ém sẵn bên kia ngọn đồi, chờ tàu vô là nhận vũ khí luôn. Tổ công tác đã triển khai theo đúng ké hoạch.
Ba Huỳnh nhìn chiếc đồng hồ dạ quang đeo ở tay:
- Ta ra mép nước! - Ông bảo.
Mặt biển đầy sương, mịt mù. Sương cồn lên, lấn vào trảng cát, phủ kín mọi người. Cách vài ba mét đã không nhìn rõ nhau. Trên những chiếc xuồng gối đầu lên bãi, tốp du kích lo lắng xì xầm bàn tán. Chốc chốc, ánh đèn pin lại rọi ra phía biển, chớp lên ba lần.
- Sương mù quá trời mà, chú ba - Một người lên tiếng khi Ba Huỳnh lại gần - làm sao tàu nhận ra tín hiệu mà vô?
Ba Huỳnh không trả lời, ông ngồi xuống cát, châm thuốc hút, mắt đảo về phía đồn Vạn Hải cách đó không xa. Đồn Vạn Hải cũng bị chìm trong sương mù, nếu không có ánh đèn pha cách vài ba phút lại lóe lên rà đi quét lại thì thật khó nhận.
- Việc cảnh giới sao rồi, Quế? - Ba Huỳnh hỏi.
- An tâm mà chú Ba. Động là biết liền.
Ba Huỳnh quay sang Sáu Thùy:
- Đo mức nước thử coi, Sáu!
Cô gái đẩy chiếc xuồng xuống nước, nhảy lẹ lên. Cô đưa cây sào đã khắc vạch làm thước, cắm xuống.
- Không mét bảy!
Mọi người im lặng chờ đợi. ánh đèn pin không ngừng phát tín hiệu.
- Không mét chín! - Tiếng Sáu Thùy đọc to.
Ba Huỳnh bập từng hơi thuốc, khuôn mặt bất động. Ông đã thật sự lo lắng. Sương mù này làm sao tàu lách qua núi Một, qua eo Lồng Cú? Làm sao nhận ra "bến" mà vô? Đến người rành luồng lạch trong vùng, trời trong, vô còn khó.
- Một mét chẵn!
Chẳng lẽ lần này lại đón hụt như lần trước? Hai tiểu đoàn của quân khu đang háo hức chờ vũ khí, ém sau đồi. Nếu sương mù cứ dày đặc mãi thế này thì tính sao? Hồi chiều, khi liên lạc của quân khu xuống cho biết tàu bắt đầu chuyển hướng vô bờ, Ba Huỳnh đã khấp khởi mừng. Thế là mọi việc coi ra suôn sẻ. Tình hình bến cũng êm.
Cơ sở cho biết có hai mươi bảy xe tăng địch về hồi sáng nhưng trên cân nhắc và cho rằng đó là hành động thường xuyên của chúng, không có gì đáng ngại, cứ điện báo lên để tàu vô.
- Một mét ba! Nước đang cường mạnh.
Vậy mà ông trời dở chứng dăng mù kín biển, thiệt tai ác!
- Sắp tới giờ thủy triều đứng đó chú Ba, quá giờ hẹn gần hai tiếng rồi. - Có tiếng ai đấy nói phía sau.
Ba Huỳnh đốt điếu thuốc nữa, bước ra mép nước.
Ông đứng lặng ngó vào sương mù hồi lâu. Xa xa, tiếng đi bác ầm ĩ vọng lại, nghe khá rõ. Và trên lộ Một, vẫn tiếng động cơ ôtô nhà binh.
Một cô gái từ trên bãi cát hớt hải chạy xuống mé biển.
- Chú Ba đâu, các anh? - Cô hỏi vội vã.
Ba Huỳnh quay lại:
- Chi đó, Mười?
- Dạ, báo cáo chú - Cô gái thở hổn hển - anh Hiến từ trong đồn ra báo cho biết mọi việc đều êm. Không có triệu chứng chi chứng tỏ bọn địch biết tàu vô và bộ đội mình về lấy hàng. Còn xe tăng chúng về là để mai mốt càn trên Chà Lá.
- Biểu thằng Hiến cứ tiếp tục nghe ngóng, có chuyện chi phải tìm cách ra báo liền, hí?
- Dạ!
Cô gái biến vào sương.
Sóng đã lặng. Nhưng dường như sương mù càng dày đặc thêm.
- Một mét tư năm phân. Nước bất đầu đứng! - Tiếng Sáu Thùy thất vọng cất lên.
Ba Huỳnh cảm thấy choáng váng. Ông căng mất nhìn ra, vẫn mịt mùng, vẫn không có tín hiệu nào chứng tỏ tàu vào. Trước mặt là một khối hơi nước khổng lồ trắng đục. Vài tiếng nữa nước xuống và kế hoạch bị phá vỡ hoàn toàn.
Mọi người cùng đứng nhìn ra biển. Im lặng.
- Anh Quế! - Chợt Ba Huỳnh gọi - Cho thực hiện phương án hai.
- Toàn đội thực hiện phương án hai! - Đội phó Quế nhắc lại, cố ghìm để tiếng nói của mình đừng quá to - Tổ một đi về hướng bắc, tổ hai toả ra hướng nam. Còn lại hướng về phía núi Một. Đã nhớ ám hiệu, mật hiệu cả chưa?
Những chiếc xuồng được đẩy nhanh xuống nước. Một lúc sau, tất cả đều tan biến trong sương mù.
Chiếc xuồng đi về hướng núi Một có hai người. Sáu Thùy ngồi phía trước, đội phó Quế ngồi chèo phía sau.
Cả hai đều cố giỏng tai nghe ngóng.
Chợt Sáu Thùy khẽ reo lên:
- Anh Quế, hình như có tiếng máy tàu!
- Hả? Hướng mô?
- Tay mặt! Phía bên tay mặt!
Quế lái mũi xuồng chếch sang phái, buông mạnh mái chèo. Trước mặt vẫn mịt mùng.
- Đúng có tiếng máy nổ, nghe rõ không anh Quế?
- Rồi!
- Em bấm đèn nghe?
- Đừng vội! Trúng tàu địch là đi đứt đó.
Chiếc xuồng lướt nhanh về phía có tiếng máy tàu.
- Đúng tàu anh em mình mà! Tàu địch thì nó trưng đèn, bật pha chớ đâu chịu mò mẫm ri?
- Bấm tín hiệu coi!
Chiếc đèn pin trong tay Thùy loé sáng ba lần. Từ phía trước, cũng có ba vệt sáng đùng đục đáp lại.
- Đúng ám hiệu rồi! Đúng ám hiệu rồi!
Sáu Thùy cuống quít nhấp nhô trên xuồng. Rồi cố cúi rạp xuống, lấy tay khỏa nước.
Lát sau, trước mũi xuồng lờ mờ hiện ra một khối đen lẫn trong sương.
Sáu Thùy đứng dậy chụm tay làm loa gọi với:
- Trên tàu có mực tươi, cá khô đổi dừa không?
- Bao nhiêu một ký dừa? - Tiếng Tám Thạnh đáp lại - Đổi cá chứ?
- Cá gì?
- Chim, thu, nhu, đé, đổi bằng tiền.
- Trời ơi, anh em mình thiệt rồi! - Sáu Thùy mừng run cả người. Cô luống cuống vục tay xuống nước, đẩy xuồng đi, miệng giục - Xáp vô, xáp vô, lẹ lên anh Quế.
Chiếc xuồng trườn tới, áp sát mạn tàu. Sáu Thùy kêu to:
- Các anh ơi! Các đồng chí ơi, mạnh cả chứ? Trời ơi thiệt là tàu mình, mong các anh đỏ con mắt. Anh Quế ơi, thiệt rồi nè! - Và cô cười, hai giọt nước mắt từ từ lăn trên gò má. Một lát, Sáu Thùy ngước lên boong tàu, giọng run run:
- Các anh, có ai đó nói lên một tiếng coi. Sao vô chậm rứa?
- Trời mù quá mà, cô. Bến yên chứ? - Trên tàu có tiếng hỏi.
- Bây giờ các anh cho tàu rẽ tay phải nghe. Nước bắt đầu xuống đó.
- Có vào được không?
- Vô được! Chu cha, tàu của mình to quá, đẹp quá ha. Vô được đây các anh giỏi thiệt. Có ai tên Xuyên không đó?
- Người yêu đồng chí à? Không có đâu. Bây giờ đồng chí chèo xuồng đi trước, bấm đèn rọi về phía sau, chúng tôi sẽ theo.
- Dạ! - Cô đưa tay gạt nước mắt, quay lại bảo Quế - Ta vô thôi, anh!
Đội phó Quế như người chợt tỉnh, cho xuồng quay mũi, chèo mạnh. Sáu Thùy cũng vục nước cho thêm nhanh. Con tàu lì rì bám phía sau. Trên tàu, mọi người như trút được gánh nặng. Gặp "bến" ra đón, mừng hết chỗ nói. ông Tám Thạnh và tốp thủy thu đứng trên boong nhìn theo chiếc xuồng. Trong buồng lái chỉ còn Lượng, Lê và Xuân.
Lúc này Lê mới thấy thư thái. Từ lúc mù dăng khắp biển, anh đã sợ hãi nghĩ đến chuyện phải neo tàu lại. Nhưng ông Tám Thạnh không nghe. Ông quả quyết:
- Tới vùng này, mày để tao! Tao nói vô được là vô được!
Và ông thực là một hoa tiêu tài giỏi. Hình như ngoài giác quan của con người bình thường, ông còn có thêm một giác quan nào khác nữa. Sương chắn tầm nhìn mà ông vẫn bình tĩnh đưa tàu lách luồn qua những mỏm núi an toàn.
- Sang phải, vậy, phải nữa. Trước mắt là bãi cạn đó, quẹo hết lái sang phải.
Nhìn ông điều khiển cho tàu vào, Lê có cảm giác như ông nhìn thấu xung quanh.
Bây giờ thì mọi việc xem ra đã ổn. Từ đây tới vị trí thả hàng chắc không còn xa.
Chừng nửa tiếng sau, con tàu đang đi chợt rùng lên, chững lại.
- Mắc cạn!
Lê hốt hoảng hô, rồi nhoài ra khỏi buồng lái. Mọi người lo lắng đứng ngóng xuống mạn tàu. Nhưng phía dưới chỉ thấy sương và sương.
Con tàu loay hoay, tiến, lùi, xoay ngang, xoay dọc nhưng không sao ra khỏi cái bãi cái đã bồi, lên phục ở đấy
Chiếc xuồng của Quế và Sáu Thùy quay lại.
- Từ đây vào bờ còn xa không? - Lê hỏi.
- Chừng cây số rưỡi! - Quế đáp.
- Cho tôi vào gặp ban chỉ huy bến!
- Anh cứ xuống xuồng!
Hội ý nhanh với Xuân và Lượng, Lê vội vã theo xuồng của Quế và Sáu Thùy vào bờ.
Quế và Sáu Thùy đưa Lê tới gặp Ba Huỳnh. Ban đầu Lê sững lại, chột dạ: trước mắt anh là một quân cảnh ngụy. Nhưng anh nhanh chóng hiểu ra và trấn tĩnh lại. Quế giới thiệu Lê, Ba Huỳnh liền nhào tới, dang đôi cánh tay to khỏe của mình ôm lấy anh:
- Trời đất, thiệt sung sướng. Như thể trong mơ, hí. Ngóng các anh vô hết nước hết cái... Vậy là có vũ khí thiệt rồi! Có vũ khí thiệt rồi! Các anh trên tàu mạnh cảchớ, chú? Mà chú tên chi?
- Dạ, Lê!
- Thằng con trai tui cũng trạc tuổi chú. Chà, thuyền trưởng mà trẻ quá ha!
Hai người ngồi bệt xuống cát.
- Trời sắp sáng, nước thủy triều xuống thấp, tàu bị cạn không thể vào tới nơi quy định được, phải neo cách bờ một hải lý - Lê lo lắng bảo - Ta lấy hàng sao đây?
- Sẽ chuyển hàng bằng thuyền, bằng xuồng. Bọn tui đã tính tới trường hợp đó. Vô tới bờ có lực lượng nhận, không lo. Bốc xong hàng ta sẽ hủy tàu, hí. Chà, sương mù làm lỡ cả kế hoạch.
- Hủy tàu à? - Lê ngần ngừ - Chuyện hủy tàu tính sau. Cần phải có đủ thuyền, đủ xuồng để nhận hàng thật nhanh. Thời gian không còn mấy. Việc đưa hàng xuống thuyền, anh em thủy thủ sẽ đảm nhận.
- Ta cho làm ngay chớ, thuyền trưởng!
Ba Huỳnh quay sang nói với Sáu Thùy:
- Anh em ngoài Bắc vô, đang mệt. Mi gọi thêm mấy đứa rồi nấu nồi cháo thiệt bự, có bao nhiêu thịt thà, gà qué của đội cho vô hết, rồi chở ra tàu. Còn Quế cho người tới báo với hai tiểu đoàn của quân khu ra nhận vũ khí gấp.
Công việc được triển khai nhanh chóng. Tất cả xuồng, thuyền đều tỏa xuống mặt nước. Lúc này sương mù lại trở thành đồng minh của những người vận chuyển. Thuyền, xuồng - xuồng, thuyền hối hả ra tàu, hối hả vào bờ. Mái chèo thi nhau khua động mặt nước.
Trên bờ, anh em bộ đội giải phóng thuyền, xuồng khẩn trương. Thuyền vừa cập bãi, súng đạn dược bốc lên ngay rồi chuyền nhau, đưa về sau ngọn đồi. Một người luống tuổi, vừa nhận hòm đạn từ tay Quế, chợt sững lại một lúc, rồi nghẹn ngào bật khóc:
- Vũ khí! Anh em ơi, chúng ta có súng. Có đạn thiệt rồi!
Và ông quỳ xuống, ôm hòm đạn vào lòng.
Ở ngoài tàu, không khí lấy hàng sôi nổi. Thủy thủ bỏ từng hòm đạn xuống. Du kích đứng trên thuyền đỡ lấy xếp vào thuyền. Thuyền nào đầy vội chèo đi liền. Người trên tàu không nhìn rõ người dưới thuyền, người dưới thuyền không rõ người trên tàu. Họ chỉ nghe tiếng nói của nhau. Vừa làm, mọi người vừa chuyện trò rôm rả.
Cô Mười ngước lên đỡ hòm đạn từ tay một thủy thủ, cất tiếng hỏi:
- Nè, anh thứ mấy?
- Tôi con một!
- Ủa, má đẻ ít vậy sao anh Hai? Em thứ chín trong nhà đó. Anh tên chi?
- Tôi tên là Cang. Tên xấu phải không? Còn cô tên gì?
- Đã biểu em thứ chín mà? Cang à? Bộ anh còn ít tuổi ha?
- Ít tuổi? Sao cô biết?
- Nghe giọng còn con nít mà!
- Con nít lại biết làm thủy thủ? Cái cô này...
- Dễ chừng em hơn tuổi anh đó nghe. Tàu ra, anh cho em theo với.
- Làm sao đi?
- Bộ anh không thích gái khu Năm sao?
- Thích! Nhưng phải chờ thống nhất.
Có tiếng giục:
- Đi thôi Mười, thuyền đầy rồi!
Cô gái và con thuyền nhòa trong sương. Tiếng cô vọng lại:
- Chuyến sau anh lại vô nghe, anh Cang.
Ở mạn bên, nhiều tiếng trò chuyện lao xao:
- Chớ chú quê đâu ta?
- Cháu ở Bắc Ninh, nơi hay hát Quan họ đấy.
- Nè cháu, chợ Thương Long còn không?
- Dạ còn, chú biết chợ Thương Long?
- Dịp này vẫn sẵn cá chớ?
- Dạ, cũng không sẵn lắm. Có bao nhiêu, ôtô nhà binh vét đưa lên tỉnh ráo trọi.
- Cháu con nhà ai đó?
- Ủa, chú cũng quê Hòn Hàng sao, chú?
- Mấy cây dừa ở mé biển sát chợ còn chớ? Có một cây...
- Hồi trước trúng đạn chết hết rồi chú ơi!
- Cháu có biết bà Ba bán cá ở chợ. Con gái bà ấy... cái cô...mà bà chớ, bà Hai...
- Bà Ba à? Ở chợ có mấy bà Ba bán cá lận.
- Bà Ba cá hồng mà!
- Dạ, cháu không rõ...
- Ủa, sao ùn lại thế? Trời sắp sáng rồi, lẹ lên! Lẹ lên!
- Bao giờ các anh lại vô, anh Tư? Chốc nữa cho em cái gì để làm kỷ niệm miền Bắc nghe. Ở ngoài đó chúng ném bom dữ lắm hả?
- Tôi tên Hải, cô tên gì?
- Cha mẹ ơi, lần này toàn đạn B.40 đó. Tha hồ đánh xe tăng. Chu cha, các anh vô được đây giỏi thiệt, giỏi thiệt!
- Bà con mình ngoài đó sống ra sao, chú? No đủ chớ? Nghe nói vô hợp tác làm chung, hưởng chung, có không?
Ba Huỳnh nhắc:
- Anh chị em mình vừa nói chuyện vừa gắng lấy hàng thiệt nhanh. Mù tan, trời sáng là kẹt đó.
Ông đỡ một hòm đạn, chuyển cho người đằng mũi xếp vào thuyền, rồi cởi chiếc áo sĩ quan quân cảnh vất vào góc, cúi xuống cầm lấy mái chèo, đẩy thuyền đi. Tấm lưng trần to bè của Ba Huỳnh cúi rạp sát thuyền. Hai người chèo vội vã. Xung quanh, tuy không nhìn rõ, Ba Huỳnh cũng biết nhiều con thuyền đang hối hả ra, vô. Bỏ hết hàng, Ba Huỳnh và người du kích cho thuyền quay ra. Đi được một đoạn thì nghe tiếng nổ bạch bạch của chiếc thuyền gắn máy gần đó.
- Chú Ba, hình như tiếng lốp chà 1! - Người du kích ngồi phía sau kêu khẽ.
- Trời mù, chúng đi có việc chi hè!
- Tiếng máy nghe mỗi lúc mỗi rõ.
- Châm đèn đất lên và mang điều câu 2 ra? - Ba Huỳnh nói, rồi xoay người, đưa mái chèo đỡ nước cho thuyền dừng lại.
Hiểu ý, người du kích quẹt diêm châm đèn. Ánh sáng ngọn đèn đất bừng lên, xuyên qua sương mù, tỏa một vùng sáng đùng đục trên biển.
- Sáng nữa lên!
Ba Huỳnh nhắc và quăng điều câu xuống nước.
Tiếng máy nổ to dần. Có lẽ bọn địch tên lốp chà đã nhìn rõ ngọn đèn.
- Gần bờ, không được nổ súng nghe? - Ba Huỳnh dặn - Cứ ngồi câu, hí.
Chiếc thuyền máy giảm tốc độ, nhoài vào tầm sáng ngọn đèn.
- Ê, thuyền đi mô? - Từ trên thuyền máy có tiếng xấc xược vọng xuống.
- Mấy ông đi tuần khuya vậy nè! Tụi tui lựa trời mù, ra câu kiếm ít mực xài mà.
Vừa nói, Ba Huỳnh vừa kín đáo ngó sang: chúng có hai tên
Mũi chiếc thuyền máy đụng vào con thuyền. Một thằng lính cầm AR15 xấn xổ nhảy sang:
- Giấy tờ? Đưa coi - Nó hoạnh.
Ba Huỳnh đưa mắt ra hiệu cho người du kích. Người này hiểu ý, cố đẩy chiếc thuyền sát vào chiếc lốp chà.
Ba Huỳnh lần túi quần và khi thấy chiếc thuyền cập sát chiếc lốp chà, ông đưa tờ căn cước cho tên lính. Tên này cúi xuống soi vào ngọn đèn.
Lúc đó có tiếng mái chèo cắt nước óc ách đưa tới. Ba Huỳnh nghiêng tai nghe. Nguy rồi! Những chiếc thuyền hở vũ khí đang đi vào. Tại sao họ không nhìn thấy đèn hiệu? Trời mù quá chăng? Tiếng động nước to dần. Và tiếng mái chèo chém xuống nước đã có thể nhận ra.
Tên lính bỗng ngẩng lên, quay lại. Khuôn mặt hắn thuỗn ra và đôi mắt ánh lên vẻ ngờ vực.
Phải hành động thôi! Ba Huỳnh hất hàm về phía người du kích rồi bất thần vung tay thụi mạnh vào bụng tên lính. Tên này "hự" một tiếng, lảo đảo. Ba Huỳnh bồi tiếp quả nữa và khi. Nó ôm bụng cúi xuống, ông chém mạnh sống tay vào gáy. Phía sau, người du kích đã kịp phang mạnh chiếc bơi chèo vào đầu tên lính thứ hai. Không để nó kịp trấn tĩnh, anh nhảy sang lốp chà, thúc mạnh đầu gối vào chỗ hiểm, tên này lập tức ngã nhào xuống nước, chìm nghỉm.
Ba Huỳnh giụi ngọn đèn, nhảy sang chiếc lốp chà, tắt máy, nắm lấy một đầu xích của nó, nhảy sang thuyền mình.
Những chiếc thuyền tiếp tục đưa hàng vào bờ.
- Có chi mà đỏ đèn vậy, chú Ba? - Người du kích ngồi trên chiếc thuyền đi sát thuyền Ba Huỳnh hỏi.
- Không có chi hết, biểu anh em cố lên. Trời sắp sáng rồi đó.
Mặt biển râm ran, sôi động.
Mấy tiếng sau, hàng chuyển hết lên bờ an toàn.
Chiếc thuyền cuối cùng chở Lê và Lượng vào tới nơi, trời đã gần sáng. Sương mù mỏng dần.
Đám du kích đang tất tả í ới phân công nhau cất thuyền, cất xuồng và chuẩn bị rút khỏi "bến".
Lê và Lượng bước theo Ba Huỳnh đi về phía chân ngọn đồi. Họ ngồi xuống dưới gốc cây cụt ngọn.
- Chừ ta tính chuyện hủy tàu, hí? - Ba Huỳnh vào chuyện, giọng ông toát ra một cái gì đấy rất vui - Việc đó hai anh có kinh nghiệm, mời hai anh nói trước. Ta bàn nhanh, làm nhanh, còn rút vô cứ cho kịp.
- Có nhất thiết phải hủy tàu không, đồng chí Ba? - Lê nói - Đành rằng trên cho phép và hoàn cảnh cũng cho phép.
- Ủa! - Ba Huỳnh ngạc nhiên - Chớ không hay sao? Còn tính mạng anh em mình? Với lại địch nó kéo vô Nha Trang triển lãm, bôi xấu mình đó. Đưa được vũ khí vào trót lọt như ri, thắng lợi quá trời rồi.
- Chúng ta chưa bị lộ - Lê nói tiếp - Điều căn bản là chỗ đó. Với nữa, nếu hủy tàu lúc này, ở tại đây, là ta đã đánh động cho địch rõ mọi chuyện, chúng sẽ tung quân lùng quét và số vũ khí vừa rồi có chuyển khỏi đây an toàn không? Bến lộ, ta cũng không thể đưa tàu vào lần thứ hai.
--------------------------------
Chú thích:
1. Lốp chà: loại thuyền con đã cải tiến, gắn máy, bọn địch thường đi tuần ven biển, dân trong vùng gọi là đi chà.
2. Điều câu: gồm dây, chì, phao, lưỡi câu dùng để câu cá, câu mực.
- Tôi nhất trí với ý kiến đồng chí Lê - Lượng lên tiếng - Không hẳn trường hợp nào cũng phải hủy tàu. Mất một con tàu, Đảng và Nhà nước mất hàng triệu bạc.
- Có lý! Vậy các anh có cách chi? - Ba Huỳnh hỏi. Vùng này nhiều tàu đánh cá của dân không, đồng chí Ba? - Lê hỏi.
- Nhiều. Phần đông là của gia đình bọn ngụy.
- Chúng có hay vào đỗ ở vùng này?
- San sát! Chúng cụm dưới đồn Vạn Hải kia nữa.
- Vậy là được rồi! Tôi đề nghị một phương án - Giọng Lê sôi nổi - Anh em thủy thủ sẽ rút cả lên bờ, chỉ để hai người dưới tàu. Coi như tàu ta là tàu đánh cá mắc cạn. Nếu lộ, người ở lại sẽ có trách nhiệm hủy tàu. Như vậy địch sẽ không lấy được tàu ta...
- Tính mạng anh em mình...
- Đành vậy thôi, đồng chí Ba!
- Tôi sẽ ở lại! - Lượng hưởng ứng.
- Chà, mạo hiểm quá ha! Đêm qua tôi đã tiêu của chúng chiếc lốp chà.
- Lúc nào, đồng chí Ba? - Lượng ngạc nhiên hỏi.
- Đụng nó khi đang chuyển vũ khí. Thỉnh thoảng tụi tôi vẫn phải xử trí như vậy.
- Tức là không phải biến cố đột xuất - Lê nói, vậy vẫn còn hy vọng. Thêm nữa, tàu của ta cũng là tàu đánh cá mà! Và nếu có phải hủy tàu, lúc đó anh em bộ đội mình đã đưa vũ khí đi xa, chúng biết, cũng bó tay...
Ba Huỳnh ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:
- Mấy anh làm tôi khó nghĩ quá! Thôi, các anh đã quyết thì ta thực hiện phương án đó.
Lê quay sang Lượng:
- Đề nghị anh cho tôi và chú Tám ở lại tàu. Hy vọng rằng đêm nay, anh em mình lại gặp nhau.
- Để mình ở lại, Lê...
- Tôi ở lại hợp lý hơn anh. Lúc thủy triều lên, tôi có thể đưa tàu ra khỏi chỗ cạn.
Lượng không nói gì thêm, chăm chắm nhìn bạn.
Ba Huỳnh đưa Lê và Lượng ra mép nước. Ông ôm lấy Lê hồi lâu, hôn lên má anh. Lê nhận ra những giọt nước mắt ấm nóng của người đội trưởng lan trên má mình.
Sau đó Sáu Thùy chèo thuyền đưa Lê trở lại tàu và đón anh em thủy thủ vào bờ. Lúc này, sương đã loãng dần.
- Anh Lê quê ở đâu? - Sáu Thùy bắt chuyện.
- Tôi ở Hải Phòng. Cô Sáu có nghe nói đến Hải Phòng bao giờ không? Ở đó có nhiều tàu nước ngoài vào ăn hàng, trả hàng. Ở đó có nhà máy xi măng, nhà máy đóng tàu.
- Con tàu này cũng đóng ở đó sao, anh Lê? Miền Bắc mình giỏi thiệt. Khi nào em được ra đó hè?
Con thuyền cặp mạn. Lê quay lại phía Sáu Thùy:
- Cô Sáu ở lại mạnh khỏe, đánh giặc giỏi nhé. Cho tôi chào hết thảy anh em trên bến.
- Anh Lê, đừng quên em nghe. Chuyến sau anh lại vô đó. Anh đi mạnh...
Hai người tần ngần trên thuyền một lát rồi Lê đu người lên boong. Anh vẫn còn nghe tiếng Sáu Thùy phía dưới:
- Đừng quên em nghe, anh Lê?
Người Của Biển Người Của Biển - Người Của Biển